• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Tiếng Huế và Giọng Huế

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Tiếng Huế và Giọng Huế



    Tiếng Huế và Giọng Huế

    Đã bao giờ bạn đến Huế chưa? Ấn tượng của bạn về vùng đất cố đô này như thế nào? Đã có nhiều người khi đến Huế phải thốt lên rằng Huế thật đẹp với những con đường xanh ngắt, những ngôi nhà cổ kính, những di tích lịch sử lâu đời, những món ăn rất cay - rất Huế… Và một thứ "đặc sản" để lại ấn tượng trong lòng mỗi du khách chính là chất giọng trọ trẹ của miền Trung, là những "chi, mô, răng, rứa" khiến ai đi xa cũng nhớ mãi.
    "Hiểu được chết liền"...

    Khúc ruột miền Trung - vùng đất sóng biển vỗ bờ đá núi, với điệp trùng núi non ghềnh thác. Không bị trói buộc lề thói một cách quá chặt chẽ như quê cha cội nguồn Bắc kỳ, cũng không quá thoáng đạt như xứ sở sông nước phù sa Nam kỳ, chất trầm lắng, tính chịu thương, chịu khó dường như ăn sâu vào giọng nói. Nếu bạn không quen, chắc chắn sẽ rất khó khăn khi tiếp xúc với một người Huế. Đi trên đường, gặp cô bạn mặc áo dài xinh xắn, hỏi đường đến trường Quốc Học, rất dễ nghe được câu trả lời mang ý quan tâm đại loại như: "Anh cần đi mô?", "Răng anh không đi xe mà đi bộ rứa?". Đến khi cô bạn nhiệt tình lấy bản đồ ra chỉ vẻ bằng một tràng giọng Huế thì đúng là bó tay toàn tập.
    Khó nghe nhưng rất đặc trưng

    F.d.Saussure từng nói: "Dòng sông ngôn ngữ vẫn chảy không ngừng, còn như nó chảy lờ đờ hay cuồn cuộn thì đó là việc thứ yếu". Sự biến đổi dẫn đến sự khác biệt trong giọng nói của mỗi vùng. Người Việt Nam dù sinh sống ở Lạng Sơn, Minh Hải hay ở những hải đảo xa xôi vẫn có thể giao tiếp với nhau bình thường. Tuy nhiên nếu để ý, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự khác biệt trong tiếng nói mỗi vùng miền, thậm chí mỗi địa phương.
    Quả thật giọng Huế thật đăc trưng mà không có nơi nào có được. Nếu bạn nói giọng Bắc, mọi người chỉ biết bạn ở miền Bắc mà khó xác định chính xác ở đâu. Hay giọng Nam cũng thế. Nhưng khi giọng Huế thốt lên thì chắc chắn mọi người sẽ "à" ngay ra rằng bạn chính là người Huế. Điểm thú vị chính là ở đó.

    Một cô bạn tôi sau chuyến bay nhảy ở Huế về đã phán một câu xanh rờn "Giọng Huế như một…trái sầu riêng, ở ngoài sần sùi nhưng bên trong thật thơm và ngọt. Tuy không phải ai cũng ăn được sầu riêng hay nghe được giọng Huế, nhưng khi nghe được rùi chắc chắn sẽ kết toàn tập".
    Nghe có vẻ tâm hồn ăn uống phết nhưng cũng có lý đấy chứ. Tới Huế, đi thuyền trên sông Hương, nghe chính cô gái Huế ngân nga những khúc ca mượt mà sâu lắng "Sông Hương tấp nập, tìm răng được chừ. Em trao nón đợi và em hẹn hò" sẽ khiến không ít trái tim đập lỡ nhịp và yêu thương hơn một vùng đất bình yên của đất nước này.
    Giọng Huế vang xa
    Nếu giọng Bắc là giọng nói chuẩn, tiếng Nam là "trung độ" của Bắc bộ và Trung bộ thì người Huế hiền lành, hiếu khách và không thích ồn ào thế nên giọng nói nghe cũng thật nhỏ nhẹ, mượt mà. Với giọng nói của mình, người Huế đi đến đâu cũng thật tự hào rằng "Tôi là người Huế" với bạn bè khắp nơi.

    Ai đã từng nghe cô Tôn Nữ Thị Ninh trò chuyện, phát biểu, đàm phán …chắc chắn sẽ rất ấn tượng về con người và giọng nói ấy. Đi không biết bao nhiêu quốc gia, đến không biết bao nhiêu vùng đất mà cô vẫn giữ được giọng nói rất đặc trưng ấy, để tiếng Huế lại được sang sảng vang lên ở nhiều vùng trời, đại diện cho cả dân tộc trước cộng đồng quốc tế.
    Khó nghe nhưng không phải là không thể nghe
    Khi nghe giọng Huế, có thể nhiều bạn trẻ há miệng ngạc nhiên, nhại giọng rồi cười một cách sảng khoái. Tại sao bạn không nở một nụ cười, không mở rộng trái tim mình ra để tiếp nhận một sự khác biệt, đón nhận những tình cảm mà người Huế giành cho bạn?
    Lắng nghe và thấu hiểu được tiếng nói, tình cảm của bạn bè Huế, bạn sẽ cảm nhận được những nét đẹp rất riêng trong tâm hồn con người nơi đây, để tâm hồn Huế có thể đi sâu vào tâm hồn bạn, nhẹ nhàng mà tươi đẹp.

    ----- ST -----




    Giọng Huế trên đất Mỹ

    Ôi chao giọng Huế !! Mình người Huế mà đi nơi lạ , nghe được giọng Huế mô đó là rán ngước mắt , quay đầu tìm cho kỳ được chủ nhân của giọng nớ đang đứng ở mô , có quen chút mô không . Người Huế qua Mỹ hà rầm , mô phải ít . Cứ mỗi lần nghe giọng Huế thì quay đầu tìm , chẳng mấy lúc mà chóng mặt , nếu không gãy cổ . Nhưng mà lạ quá , hể nghe được thì tự nhiên trong lòng như có một chút dậy sóng , a , bên cạnh mình đang có một ai đó đang tha hương lạc bước từ xứ mình đây .

    Hôm kia đi ăn cưới , hai bên dâu rể đều là người Huế , ông MC cũng người Huế , ông ca sĩ chính cũng người Huế . Khi ông ca sĩ nói , một cô trong bàn phê bình : " Ông ni nói tiếng Huế chi lạ rứa , ông nói tiếng chi a " , còn ông xã thì nói : " Nói tiếng Huế gì nghe nặng wá , hổng hiểu gì cả ." K thì nghe hiểu tất .

    Vậy thì giọng Huế ra răng mới đúng tiêu chuẩn ? Cô bé phê bình giọng Huế của chàng ca sĩ thì vừa rời Huế năm năm , ông xã K là Huế lai căng , sinh ở cao nguyên và lớn lên ở miền Nam , họ có đôi tai khác hẳn K chăng ? K không phân biệt được âm sắc trong giọng nói chăng ?Hay là K vì lòng thương Huế , cái xứ mình bỏ mà đi từ xưa nên rộng rãi hơn với cái giọng thân thương nớ , nghe bằng trái tim hơn là bằng đôi tai?

    Giọng Huế khác với giọng Hà Nội , giọng Saigon ra răng mà ông Hà Huyền Chi đi giữa chợ Mỹ , chắc chắn là nghe rất nhiều người nói tiếng Việt , mà chỉ khi nghe giọng Huế mới chiêng trống dậy hồn đau , mới khơi nỗi sầu xa xứ chất ngất trong lòng , dù ông là dân Bắc chính cống ? Có phải chăng khi đã nghe một giọng Huế thỏ thẻ bên tai , không chỉ là lời đi vào hồn người , mà cái giọng đã đậu trong tim , đâm cành trẫy lá ?

    . ..Giọng Huế bỗng nghe từ chợ Mỹ
    Mà chiêng mà trống dậy hồn quê
    Hương cau màu trúc xanh thôn Vỹ
    Áo mới xênh xang giữa hội hè

    Tôi bước bên nàng không dám thở
    Không gian đầy Huế núi cùng sông
    Tóc ai thả gió hồn tôi mở
    Dấu kín trong tim những nụ hồng
    HHC

    Giọng Huế quý giá vô cùng làm cho Mạ đã lưu lạc bao nhiêu năm , mất mát đủ thứ mà khư khư ôm lấy giọng Huế ướt rượt, nhất định không đánh đổi , không pha trộn , dù đời sống Mạ như cuồng lưu tràn bờ biết bao lần . Lúc lắng xuống , giọng Mạ như giòng Hương sau những cơn cuồng nộ , lại lặng lờ xanh trong chảy xuôi ra biển , êm ái nghe giọng hò thoang thoảng xa đưa .

    ...Tuổi con gái Mạ từng uống nước sông
    Đến bây giờ giọng Huế nghe còn ướt
    Giọng Huế nghe còn một chút gí trong
    Bao đắng cay pha vào chưa đục được ...
    Đoàn Vị Thượng

    Giọng Huế ăn sâu trong tâm người con Huế , đi đến bờ bến nào cũng thương nhớ không nguôi . Chỉ cần nghe tiếng thỏ thẻ của một người bạn Huế là gợi nhớ đến một thời thơ ấu có tiếng Mạ ru hời bên tai , và cảm thấy gần gũi ngay , như gần gũi với thời gian đã qua , đã mất .

    ...Nếu lại được em ru bằng giọng Huế
    Được vỗ về như mạ hát ngày xưa
    Câu mái đẩy chứa chan lời dịu ngọt
    Chết cũng đành không hối tiếc chi mô
    Tô Kiều Ngân

    Giọng Huế của gái Huế dịu dàng , nhiều người công nhận . Nhưng giọng Huế con trai Huế thì đang còn được bàn cãi . Nhiều người cho rằng giọng trai Huế không hùng hồn , không kêu gọi được người khi làm chuyện lớn . Điều ấy thực chăng ? Không phải đâu . Chỉ tại người Nam và người Bắc không muốn sửa đổi đôi tai của họ để nghe một âm sắc trầm trầm bằng bằng . Không sửa được , họ không hiểu thì họ không nghe .Nên để được người nghe , người Huế đổi giọng . Người Nam , người Bắc không ai đổi giọng của họ , mà người Huế thì đi đến đâu pha giọng đến đó . Chính vì vậy mà người khác địa phương không cần phải lắng nghe , sửa tai mà nghe . Hai người Huế tha phương gặp nhau , phải một thời gian lâu mới biết là họ cùng người Huế cả vì họ nói giọng Bắc , giọng Nam . Khi biết ra , cả hai cùng hân hoan , tự hào nói : Rứa hả , em cũng Huế đây nì .

    Ngày K mới theo chồng từ Huế vào Saigon , K ở chung với chị chồng . Bà đi làm suốt ngày . Bà có một người giúp việc , bà Tư ,người Kiên Giang . Trong những ngày đầu sống trong căn gác xép xa lạ , chồng theo tàu lênh lênh , chung quanh không người thân quen , K chỉ có mỗi bà giúp việc ấy để chuyện trò cho đỡ nhớ nhà . Mà nói chuyện với Bà như nói chuyện với người điếc . Bà nói K còn nghe được chứ K nói thì bà hoàn toàn mù tịt , không hiểu K nói gì . Nhờ bà làm gì rồi thì cũng tự mình đi làm lấy vì bà ư hử mà không làm , chỉ vì bà không biết K muốn gì . Bà than : " Cô nói tiếng ngoại guấc , hông nói tiếng Yiệt " .
    Đối với người Nam , ai không nói giọng Nam là không nói tiếng Việt .

    Như vậy , giữa tiếng và giọng , có một sự sai biệt khá lớn . Chúng ta hay dùng lẫn lộn . Khi nói " nói tiếng Huế " hay " nói giọng Huế " , thì ai cũng hiểu ngay là người ấy đang dùng âm thanh trọ trẹ để phát ngôn . Nhưng khi nói theo ông Võ Hương An " Tiếng Huế , một ngoại ngữ " , thì rõ ràng tiếng không còn là giọng Huế nữa . Bạn có thể nói giọng Huế , nhưng giọng Huế nớ sẽ không là giọng Huế rặt nếu bạn không dùng mô tê răng rứa . Nghe một giọng Huế thỏ thẻ mà trong câu toàn là thế là thế nào ,thưa vâng , không sao đâu ạ thì nghe nó ... kỳ kỳ như ăn cơm hến với dưa muối , cà pháo. Huế không thưa vâng ạ . Huế chỉ dạ nhẹ nhàng . Cái tiếng dạ của mấy cô gái Huế làm chết biết bao chàng trai Huế cũng như không Huế . Huế không nói thế là thế nào , Huế nói : Dạ , rứa là răng ? Mấy chữ mô tê răng rứa ni phải đi với giọng Huế ,chứ còn đi với giọng Saigòn , với giọng Hà Nội thì dĩ nhiên chỉ là nói đùa cho vui , hoặc đang lấy lòng một người Huế nào đấy thôi , hoặc là một dấu vết cho thấy người nói đã một thời lăn lóc trên đất người , đã lậm tiếng người , đã mất gốc không nhiều thì ít . Như K đây . Đau lòng mà nhận ra như rứa .

    Người Huế không kêu " cô ", người Huế kêu " O ".
    Người Huế không kêu " Bà ", người Huế thưa " Mệ "
    Người Huế không "nói ", người Huế "noái "
    Người Huế không "mắc cỡ " , người Huế "dị òm",
    Người Huế không hỏi: "Sao vậy? ", người Huế hỏi "Răng rứa? "
    Người Huế không nói " Đẹp ghê " , người Huế nói " Đẹp dễ sợ "
    Người Huế cái chi cũng kêu lên "Dễ sợ !! " , dữ dễ sợ , hiền dễ sợ , buồn dễ sợ , vui dễ sợ , xấu dễ sợ , thương dễ sợ , ghét dễ sợ .

    K đang trở lại với Huế , đang nói lại cái giọng mà thuở xưa đã từng thỏ thẻ bên tai ai , đang tìm học lại tiếng Huế , một ngôn ngữ tuy đang dần dần bị mai một vì những đợt sóng người từ các nơi trôi dạt đến . Những người mới này mang theo họ cái giọng , cái tiếng từ quê cha đất tổ, hoà lẫn với tiếng và giọng Huế , tìm cách đồng hoá nó , như xưa kia người Việt đồng hoá người Chiêm .
    Những người ở các vùng khác có tha thiết nhớ và gìn giữ tiếng và giọng của họ không nhỉ ?
    Hồi còn đôi tám , đi nghỉ hè trọ ở nhà một người bạn gái tại Saigon . Nhà bạn có hai ông anh lớn hơn chừng ba bốn tuổi . Cả bọn họp thành một nhóm đi chơi với nhau vui vẻ . Một buổi trưa , sau khi đi chơi đâu đó về ,cả 4 nằm ngang trên chiếc giường lớn nói chuyện bâng quơ . Một trong hai anh nằm kề K , lấy mái tóc dài của K đắp ngang mặt mình , hỏi :
    " Tại sao người Huế khi nói gì cũng nói " dễ sợ " vậy K ? "
    " K không biết "
    " Vậy thì nếu nói ' Dễ thương dễ sợ ' có đúng không ? "
    " Không biết "

    ---------- ST --------
    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 30-12-2009, 11:21 AM.

    Similar Threads
  • #2



    TIẾNG HUẾ, MỘT NGOẠI NGỮ ?

    Người bạn đời gốc Bắc (nhà văn Thanh Nam) của nữ sĩ Túy Hồng có lần đã phát biểu cảm nghĩ về tiếng Huế như sau:

    “Người Huế nói chuyện với nhau bằng ngoại ngữ Huế, người Nam người Bắc đứng ở ngoài nghe , không làm sao chen vào được một câu” (Túy Hồng, Áo Rộng Khăn Vành, TSH 1990, p.14)

    Mới nghe qua tưởng như đùa, nhưng đem đối chiếu với kinh nghiệm thực tế qua giao tiếp thì quả ý kiến ấy không phải là không có lý, tuy hơi cường điệu một chút. Ai người Huế trên bước đường tha hương lại không hơn một lần gây bối rối cho người đồng hương khác xứ khi đối thoại với rặt giọng sông Hương ?

    Sau năm 1954, hơn một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam để tránh hiểm họa đỏ, đã sống rải rác khắp mọi miền dưới vĩ tuyến 17. Và dù ở đâu, dù mấy chục năm đã trôi qua, họ vẫn giữ nguyên giọng Bắc, chỉ thay đổi một vài thổ ngữ cho dễ chuyện trò thông cảm. Còn Huế mình, khi tha hương, đa số đều đổi giọng, hoặc Nam hoặc Bắc, nếu không được khéo léo rặt ròng như Nam, Bắc chính cống thì cũng lơ lớ cho người khác xứ dễ nghe, chứ không còn rặt Huế nữa, ngoại trừ khi nói chuyện trong gia đình hay với đồng hương cơm hến. Bà xã tôi có cô em bạn dì ruột, sinh đẻ ở Huế, sau mới vào theo gia đình vào Sàigòn sinh sống. Dì ấy lấy chồng gốc Bắc 54 . Khi vợ chồng tôi đến nhà thăm, cô nói chuyện bằng giọng Huế rặt, nhưng quay lại nói với chồng hay bà già chồng thì đổi ngay giọng Bắc, rất nhuần nhuyễn, rất tự nhiên.

    Việc không đổi giọng của đồng bào miền Bắc di cư và việc đổi giọng của người Huế tha hương, có người cho rằng đó là dấu hiệu của mặc cảm về giọng nói. Tôi không nghĩ như thế.
    Đồng bào miền Bắc tha hương vẫn giữ nguyên giọng nói , không phải do mặc cảm tự tôn rằng đó là một giọng nói hay, không việc gì phải đổi. Mặt khác, người Huế tha hương thường đổi giọng cũng không phải vì mặc cảm giọng nói của mình trọ trẹ khó nghe. Tất cả chỉ là sự đáp ứng thực tế của cuộc sống, sự thích nghi với hoàn cảnh.
    Thật vây, việc gì đồng bào miền Bắc phải đổi giọng khi giọng nói ấy không gây trở ngại nào trong đối thoại ? Tại sao mình cứ khăng khăng giữ nguyên giọng Huế trong giao tiếp khiến đồng bào khác xứ không hiểu gì cả, phải tốn công lặp đi lặp lại , giải thích này nọ, mất thì giờ. Như vậy làm sao dễ cảm thông với nhau cho được? Không đổi hay đổi , tất cả chỉ là thế. Không mặc cảm, không gượng gạo.

    “Thương nhau, thương cả đường đi. . “ Nhà văn Thanh Nam vốn quen với nhỉ, nhé, hộ, gì cơ, làm sao . . . nhưng vì yêu nữ sĩ Túy Hồng nên phải ráng nghe và hiểu hí, nghe, giúp, cái chi rứa, làm răng . . . Còn người dưng nước lã với nhau, lấy gì làm áp lực để buộc người nghe phải hiểu điều mình nói ? Nói mà người khác không hiểu hay khó hiểu là một nhược điểm nên tránh trong giao tiếp. Vì vậy, sự điều chỉnh cho hợp với nhu cầu thực tế là sự thích ứng hoàn cảnh một cách khôn ngoan. Người Tàu tới nơi nào cũng sống được và sống giàu sống mạnh là nhờ tinh thần hội nhập thực tế. Tuy vậy, không bao giờ đánh mất bản chất Trung Hoa của họ. Hòa mà không hùa là thế.
    Ai cũng biết Tổng thống Ngô Đình Diệm vốn quê Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, nhưng sinh trưởng ở Huế. Nói chuyện với người Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, ông nói tiếng Huế, nhưng khi nói trước công chúng , khi đọc diễn văn hay thông điệp, bao giờ ông cũng dùng giọng Nam. Ông mang mặc cảm trọ trẹ chăng? Hẳn nhiên là không. Trong nước lúc bấy giờ, ông là người có quyền lực nhất, nhưng không vì quyền lực đó mà buộc quôc dân phải nghe cho được giọng Huế khó nghe của ông. Ông hiểu rằng ông cần được hết thảy người dân của mọi miền đất nước nghe, hiểu và thông cảm. Đổi giọng, vì thế là một sự cần thiết để đáp ứng nhu cầu thực tế.

    Trong bài viết nói trên, Túy Hồng có một nhận xét rất đúng: “Giọng Huế không phải là giọng nói trước đám đông, mà có thể chỉ là một giọng nói trong phòng khách.” Đó cũng là một trong những lý do trong sự đổi giọng của Tổng thống Diệm, trong việc giả giọng Bắc của Hoàng Thi Thơ khi điều khiển các chương trình ca nhạc, của Như Hảo trên đài phát thanh và truyền hình v.v. Nói trước đám đông thì dở nhưng rỉ rả trong phòng khách lại rất dễ lọt lỗ tai. Có lẽ cũng vì cái ưu điểm “giọng nói trong phòng khách” đó nên nhiều chàng trai khác xứ đã lăn xả vào làm rể xứ Huế chăng ??
    Tôi không phải là một nhà ngữ học. Vì vậy những điều trình bày ở đây chỉ là những ý kiến rất thô thiển, có tính cách thường nghiệm của một kẻ bình thường. Đứng trước một thực tế là giọng Huế khó nghe, tiếng Huế khó hiểu (“ngoại ngữ Huế”) đối với đồng bào các miền khác, có nên chăng thử đặt câu hỏi tại sao? Để dễ thông cảm, ở đây xin tạm hiểu “giọng” là nói về thanh âm phát ra từ người nói, còn “tiếng” dùng để chỉ về ý nghĩa của chữ dùng. Đôi khi trong “tiếng” bao gồm cả “giọng”, chẳng hạn cái tiêu đề của bài này.

    Giọng Huế khó nghe đối với đồng bào khác xứ, phải chăng vì thanh âm do người Huế phát ra thuộc về một âm vực khó nhận ra? Tôi có cảm tưởng như khi phát âm, người Bắc thiên về giọng thấp, người Nam đi giọng cao, còn người Huế thì bình bình. Phải chăng cái đặc tính bình thanh này khiến nó trở thành khó nghe? Điều này xin để bàn tay chuyên môn của các nhà âm ngữ học can thiệp.

    Riêng tôi, nghĩ rằng nếu miền Bắc và miền Nam có được giọng nói dễ nghe thì họ lại rất khó giả giọng của miền khác; trái lại, nếu âm vực của giọng Huế thuộc loại bình bình, trung tính, khó nhận ra đối với người ngoài, thì cũng chính cái đặc điểm trung tính này đã giúp người Huế có thể giả giọng khắp mọi miền một cách không mấy khó khăn. Giọng Bắc, giọng Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sàigòn . . . người Huế đều giả được tuốt. Cũng tỉ như nước lả không màu; nước không màu chứa trong ly thủy tinh trong suốt khó thấy; muốn cho người ta dễ thấy thì pha màu và muốn pha màu gì cũng được. Nghĩ sao nói vậy, chứ tôi biết ý kiến này sẽ bị bà con khác xứ chỉnh ngay, vì đã hơn một lần anh bạn người Nam nói với tôi rằng “con gái Huế thì thanh tao, nhẹ nhàng, nhưng tiếng Huế của mấy ông nghe nặng lắm.”

    Người Huế phát âm không phân biệt dấu hỏi dấu ngã, không phân biệt có “g” với không “g”, “c” với “t”. Nếu từ Quảng Nam trở vào khó phân biệt âm “b” và “p”, đến nổi khi đánh vần thường hỏi nhau “bê bò hay bê phở”, ( ngay cả đến những bậc khoa bảng nói tiếng Tây như gió , cũng có lúc nói âm “bê phở” chưa chỉnh) thì ở Huế, tại vùng quê, và ngay đối với lớp người già sống tại thành phố, người ta không phân biệt sự khác nhau giữa các âm “gi”, “d” và “nh”. Người già và người nhà đều được nói giống nhau.

    Sau khi làm xong cái nhà, tôi nói chuyện với ông chú già rằng :”Mặc dầu cháu đã tính toán khá kỹ, vậy mà cuối cùng cũng phải mượn thêm của bạn bè mói đủ, vì số chi phí vượt quá mức dự trù.” Ông cụ thản nhiên đáp: “Cháu không nghe à? Ôn mệ mình từ xưa nay đã nói là làm già (làm nhà), chớ có nói làm non mô; mà đã làm già thì hụt tiền thôi.” Rõ ràng là ông cụ chơi chữ theo kiểu Huế, trộn lẫn âm thanh và ý nghĩa để biện luận theo ý mình. Các bạn miền khác hẳn khó mà thưởng thức lối đùa cơt chữ nghĩa theo kiểu đó.

    Tôi không biết khi một người ngoại quốc học tiếng Việt thì cái khó nhất đối với họ là gì? Cách phát âm với năm thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng, và không dấu) bằng trắc khác nhau, nghe như điệu hát chăng? Văn phạm chăng? . . . Riêng đối với người Việt, có lẽ việc đánh dấu hỏi ngã cho đúng đã là một vấn đề. Hồi còn học tiểu học (cấp 1), thầy dạy lớp Nhất (lớp 5) đã truyền cho lũ nhóc đệ tử chúng tôi một bí quyết để viết hỏi ngã cho đúng với câu thần chú “Anh Huyền ngã nặng, hỏi con dao có sắc không”. Ý thầy muốn cho chúng tôi phải nhớ rằng trong một từ kép, hễ chữ nào đi với chữ có dấu Huyền hay dấu Nặng thì phải đánh dấu Ngã; còn chữ nào đi với chữ có dấu Sắc hay Không dấu thì phải đánh dấu Hỏi, trừ một vài ngoại lệ phải học thuộc lòng. Chẳng hạn:

    - nghĩ ngợi thì nghĩ có dấu ngã, nhưng nghỉ ngơi thì nghỉ lại có dấu hỏi.
    - sừng sững và sững sốt cũng thế.

    Thần chú như thế kể cũng linh nghiệm thật, nhưng khi viết chính tả không khỏi tốn công suy nghĩ nên hơi ... mệt. Khi đi thi bằng Tiểu học, tới môn chính tả tôi vái trời được gặp một thầy giáo hay cô giáo người Bắc, vì tôi nghiệm ra rằng người Bắc phát âm dấu hỏi dấu ngã rất đúng. Ấy là nhờ gần gũi một ông Hà Nội đang tán bà chị tôi mà biết được điều đó.

    Cho đến bây giờ vẫn thế, bộ óc tôi ghi nhận rằng khi phát âm dấu ngã thì người Bắc nói nghe như dấu sắc (ví dụ: nghĩ ngợi -> nghí ngợi) và dấu hỏi nghe như dấu nặng (ví dụ: nghỉ ngơi -> nghị ngơi). Giả giọng Bắc mà không biết qui luật này sẽ đánh dấu hỏi ngã sai bét và lòi đuôi “giả cầy” ngay. Một ông nhạc sĩ nọ gốc Miền Trung, thường nói giọng Bắc trên TV, trước 75 đã có lần bị báo chí diễu là “người nói giọng Bắc hay nhất nước”, cũng chỉ vì không để ý điều đó.

    Cách đây non 30 năm, lần đầu tiên khi đọc một cuốn truyện (không nhớ tên) của một văn sĩ người Bắc (không nhớ bút hiệu) đến đoạn đối thoại của một nhân vật nữ người Huế, tôi vừa cười thích thú vừa giận . . . Thích thú vì tác giả viết rất có duyên. Còn giận là giận mấy ông thợ nhà in sắp chữ sai (tôi đinh ninh thế). Ai đời “Thôi em về hí” mà lại sắp thành “Thôi em về hỉ”. Chữ HÍ của người ta viết với dấu sắc, đem sửa lại thành HỈ với dấu hỏi, nghe lãng xẹt, vô duyên như ăn cơm hến thiếu ruốc. Trong lời nói thường nhật của người Huế, HÍ là một từ đệm, đóng vai trò như nhé, hay nhỉ trong tiến Bắc và nha trong tiếng Nam . . .

    Tôi cứ tự cằn nhằn và giải thích như thế với mấy ông ấn công vô danh, mãi sau mới có dịp biết rằng mình đã nghĩ oan cho họ. Hầu như trong các truyện có dính líu đến ngôn ngữ xứ Huế, chữ HÍ đệm ở cuối câu đều được nghe và viết thành chữ HỈ bởi vì khi người Huế phát âm những chữ có dấu sắc thì người Bắc và người Nam nghe thành dấu hỏi và dấu nặng. Đó là lý do hí biến thành hỉ. Điều đáng nói là sai lầm này cũng hiện diện trong những tác phẩm do chính người Huế viết ra. Lỗi ở ấn công chăng? Lỗi ở thầy cò chăng? Nếu không phải do hai người này thì đó là điều khó hiểu.

    Trong bài “Tôi không yêu tíếng Huế” (TSH 1990) tác giả Phàm Phu đã viết rất dí dỏm về những trở ngại do giọng Huế và tiếng Huế gây ra trên chốn giang hồ vì người xứ khác đã nghe khác dấu đi. Chẳng hạn một thiếu nữ Hà thành khi nghe một thanh niên Huế ngỏ lời “Cô cho tôi xin một cái bóng (cái ảnh) của cô để làm kỹ niệm . . “ đã ngơ ngác hỏi lại ”Thưa, anh bảo cái bọng gì cơ ạ ?” (p.45). Một ông người Huế khi vào hội tứ sắc đã hỏi làng “ Hôm nay tui biết tui hên nên muốn đánh lớn. Mấy bà có chịu hai cắc (một lệnh) không?” Câu nói này đã làm cho một bà người Nam giận dữ bỏ chơi, vì nghe lầm dấu sắc ra dấu nặng, tưởng ông kia ăn nói xí xọn (p.46).

    Thời gian ở tù trong trại lao cải, được sống gần gũi với anh em người Quảng Nam, tôi mới biết giọng Huế đã được nghe như thế nào. Buổi tối, khi tất cả đã vào chuồng, trong khi chờ tới giờ ngủ, anh em thường tụ tập chơi cờ, domino, hoặc kể chuyện vui cho đở buồn. Có lần một anh bảo tôi “Đố anh nói to và đúng câu ‘Đem vở vô buồng, học đủ rồi ra’ ” Dĩ nhiên tôi đáp ứng ngay, dõng dạc rõ ràng. Câu nói vừa dứt, lập tức tiếng vỗ tay và tiếng cười khoái trá nổi lên. Có cả tiếng hô “Hay, hay! Nói tiếp đi”. Tôi ngơ ngác không hiểu vì không tin rằng câu nói đơn giản đó lại có hiệu lực chọc cười đến thế. Ông bạn ăn chung mâm vừa cười vừa cắt nghĩa “Tụi tui nghe người Huế nói dấu hỏi thành dấu nặng, nên mới phịa ra câu đó để chọc anh đó.” À ra thế !

    Giọng Huế tuy khó nghe với người khác xứ nhưng rất dễ chỉnh. Trong lúc nói chuyện chỉ cần đổi ”ton” lớ lớ đi một chút là người nghe thoải mái ngay. Tiếng Huế mới là cả vấn đề, bởi vì khi nói đến giọng là chỉ mới đề cập tới hình thức, còn đi vào tiếng là đi vào nội dung, đi vào đời sống văn hóa.

    Ngôn ngữ chẳng qua là qui ước về âm thanh do con người phát ra. Vì vậy, cùng một âm thanh phát ra giống nhau nhưng do qui ước khác nhau nên mỗi dân tộc hiểu theo một nghĩa riêng. Tác giả Phàm Phu (TSH, 1990 đã dẫn) kể rằng trong một lần dạo chơi phố xá Bangkok, thấy cô người Thái cực kỳ xinh đẹp , bèn chụp ảnh để kỹ niệm. Vừa đưa máy ảnh lên ngắm, tác giả vừa hỏi ý kiến ông bạn đồng hương làm hướng đạo “Chụp hí?” (chụp nhé) thì mỹ nhân hoảng hốt bỏ chạy, còn tác giả thì bị bạn mắng như tát nước là đồ ăn nói thô tục đối với phụ nữ ngoại quốc. Lý do là trong tiếng Thái, “chụp” có nghĩa là hôn, còn “hí” là “cái ấy” của phụ nữ. Thấy không, hai tiếng Huế vô tội đã trở thành ngôn ngữ sàm sở ở Bangkok.

    Hồi còn ở tù tại trại lao cải Tiên Lãnh (Quảng Nam), tôi và một anh bạn đã làm cho mấy phụ nữ Kà-tu bỏ chạy trong cơn mưa. Số là sau một ngày vất vả đốn cây rồi đốt thành than, tổ chúng tôi bốn người quảy bốn gánh than đầy ắp về trại. Nửa đường, trời đổ mưa, bèn ghé vào trong một cái chòi trong rẫy lúa bỏ hoang để tránh cho than khỏi ướt. Một lát, thấy có bốn năm phụ nữ Thượng, người Kà-tu, từ phía suối chạy lúp xúp về chòi chúng tôi, ý hẳn cũng để tránh mưa. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm ... sợ mấy phụ nữ sẽ bị trượt té trên con đường dốc dẫn vào lều đã trở thành trơn trợt, anh bạn và tôi la lên “Coi chừng té, té!” Kỳ lạ, câu nói vừa dứt thì nghe mấy người đàn bà đó ré lên chí chóe gì đó và đổi hướng, không chạy vào lều nữa. Trong tổ, có anh bạn gốc Trà My (Quận miền núi của Quảng Nam) nhẩn nha giải thìch “Nói như mấy ông thì cho vàng tụi hắn cũng không vô núp mưa. “Té”, tiếng Kà-tu có nghĩa là đéo, biết chưa? Lần sau, gặp tụi đàn bà con gái ở đây nhớ đừng có nói bậy như vậy nữa, coi chừng có ngày ăn rựa.” Hú vía !

    Giữa các dân tộc, qui ước thanh âm khác nhau dẫn đên ngôn gnữ khác nhau đã đành, mà ngay trong cùng một nước, ngôn ngữ cũng thay đổi theo từng địa phương. Cùng một từ, mỗi miền có thể hiểu một nghĩa khác nhau. Cùng chỉ một vật, một việc, mỗi miền có một lối gọi khác nhau. Chẳng hạn chữ “đồ”. Trong khi miền Nam dùng chữ đồ một cách hồn nhiên để chỉ về đồ vật thì miền Bắc lại dùng nó để chỉ bộ phận sinh dục của phái nữ. Vì vậy, khi thấy ba ông bạn cùng chụp chung một tấm hình (chữ Hán gọi là đô), ông nào ngó cũng chễm chệ, phong lưu, Tú Xương đã ỡm ờ vịnh ngay:
    Ba bác chung nhau một cái đồ,

    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    Thôi đừng chê nhỏ lại cười to !
    Cùng chỉ một vật đựng thức ăn, ở Bắc gọi bát, Huế gọi là đọi, Nam gọi là tô. Cùng chỉ động tác rơi xuống đất vì bị mất thăng bằng, Bắc gọi là ngã, Huế gọi là bổ, Nam gọi là té. Chữ “địt” Bắc và Nam hiểu không giống nhau. Với người Bắc, “địt” có nghĩa là đéo, là làm tình; còn từ miền Trung trở vô, “địt” chỉ có nghĩ là xã hơi trong bụng ra bằng ngã hậu môn, chữ Hán gọi là trung tiện. Sự đa dạng trong ngôn ngữ của một dân tộc là điều tự nhiên. Bao giờ trong cái chung cũng có cái riêng và thấp thoáng trong cái riêng là hình ảnh cái chung.

    Hình như địa lý và lịch sử đã kết hợp với nhau để tạo nên cho Huế một môi trường dễ làm nảy sinh ra nhiều thổ âm và thổ ngữ hơn các miền khác, đến độ có người đã nói là có thể sưu tập thành một tiểu từ điển tiếng Huế. Trong Ngàn Năm Xứ Huế (San Jose: Thương Huế, 1993) Nguyễn Châu cũng đã sưu tập và giải thích một số nhưng vẫn chưa đủ. Trong TSH 1993, qua bài Thử nói về ảnh hưởng cung đình trong phong cách Huế, tôi đã có dịp khái quát về ảnh hưởng của cung đình trong ngôn ngữ Huế. Điều đáng nêu lên ở đây là: tại sao tiếng Bắc, tiếng Nam không gây trở ngại khi giao tiếp như tiếng Huế? Ngoài giọng Huế khó nghe, như đã nói ở trên, phải chăng vì tiếng Huế quá đặc thù? Phải chăng vì ngôn ngữ Huế ít được phổ biến? Hay vì tiếng Huế khúc mắc khó hiểu? Thiết nghĩ có lẽ do tất cả.

    Người khác xứ có thể dễ dàng quen thuộc với răng, ri, mô, tê, rứa, hè, hí vì tính cách phổ thông của chúng, nhưng quả tình khó mà thông cảm với những lối nói đặc thù khác. Tôi có anh bạn người Nam sống ở Huế khá lâu. Trong một buổi trà dư tửu hậu, anh tuyên bố “Bây giờ người Huế nói cách chi tui cũng hiểu”. Nghe vậy một anh bạn khác liền hỏi ngay:

    - Thiệt hả ? Rứa thì anh có biết vụ hai đứa con ông Bảy bựa qua ngầy lộn chắc rồi lôi giau từ trong chờn ra trữa cươi đập chắc, một đứa bễ mỏ, một đứa u trốt. Mạ hắn can không được, đứng trữa cươi la làng như " quạ quạ bẻ bắp "

    Anh bạn người Nam ngẩn tò te, chịu thua. Đây là chìa khóa mật mã:

    - bựa qua : hôm qua
    - lôi giau : lôi nhau
    - ngầy lộn : gây gổ
    - chắc : với nhau
    - chờn : cái giường
    - trữa cươi : giữa sân
    - bể mõ : vỡ mồm, giập miệng
    - u trốt : u đầu

    Mới chỉ có một câu nói ngắn như vậy mà cần phải giải thích đến tám chữ mới làm cho người ta hiểu được, và thực ra, đó mới chỉ là những chữ nặng về hình thức hơn ý nghĩa. Nếu đi vào ý nghĩa thì sự khúc mắc càng thể hiện rõ rệt hơn. Thành ngữ tào lao xịt bộp là một thành ngữ phổ thông của Huế - dùng để chỉ lời nói hay việc làm không đâu vào đâu, không có chủ đích, không có ý nghĩa, kiểu “nghe qua rồi bỏ”- nhưng lại là một thành ngữ khó hiểu vói xứ khác. Trong một cuộc tiếp kiến Toàn quyền Đông Dương, Đoan Huy Hoàng Thái Hậu (Đức Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại) đã làm cho một vị quan lỗi lạc lúng túng khi phải thông dịch câu nói rặt Huế của bà: “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp . . .” (Nguyễn Đặng, TSH 1993) chỉ vì ông không phải là người Huế. La ngầy hay ngầy nghĩa là la rầy, nhưng ngầy lộn lại có nghĩa là gây gổ nhau. Mụ nớ có nghĩa là người đàn bà kia (không có ý kính trọng) nhưng khi một người đàn ông được gọi là Mụ hay Mệ, có nghĩa ông ta là người trong hoàng tộc. Thật là rắc rối.

    Có một thực tế mà dường như ít ai để ý. Ấy là kể từ ngày chữ quốc ngữ trở thành phổ biến,trở thành văn tự chính thức thay thế cho chữ Hán thì lối viết theo ngôn ngữ miền Bắc là lối viết chính thức nước ta.

    Thực vậy, từ giấy tờ hành chánh cho đến tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học v.v. phổ biến qua hình thức văn tự, hầu như đều được viết theo giọng Bắc. Ngoại trừ một Hồ Biểu Chánh của hồi đầu thế kỷ và sau này có thêm Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, và hiện nay là Hồ Trường An, là viết văn rặt giọng Nam, còn hầu như tất cả, bất cứ người cầm bút thuộc lãnh vực nào, xuất thân từ địa phương nào, đều viết theo phong thái ngôn ngữ miền Bắc. Bình Nguyên Lộc viết tiểu thuyết theo giọng Nam nhưng khi viết Nguồn Gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt-Nam, một tác phẩm biên khảo, cũng dùng ngôn ngữ Bắc. Số học giả, thi sĩ, văn sĩ người Huế trong nền văn chương quốc ngữ đông biết mấy, thế nhưng không vì vậy mà “răng, ri, mô, tê, rứa, ni, nớ . . . “ được chính thức đi vào văn học như “sao, thế này, đâu, kia, vậy, này, ấy . . .” Đừng nói chi xa, ngay tập TSH bạn đang cầm trên tay là một bằng chứng cụ thể, và ngay bài viết này cũng thế.

    Ngôn ngữ miền Bắc hầu như đã trở thành lối nói và viết chính thức, có lẽ do truyền thống lập quốc và Nam tiến. Trong âm nhạc, ta cũng thấy hiện tượng tương tự. Khi hát tân nhạc, tất cả các ca sĩ đều hát theo giọng Bắc, bất kể người miền nào. Nhiều danh hề đã chọc cười khán giả một cách thành công khi hát tân nhạc theo giọng Nam. Ban AVT nhờ có Vân Sơn đệm giọng Huế mà trở thành hài hước có duyên. Từ thập niên 60, một số các nhà văn nữ gốc Huế quả có đưa tiếng Huế vào tác phẩm nhưng cũng chỉ có tính cách mắm muối thêm duyên – kiểu như Vân Sơn đệm giọng Huế trong ban AVT – chứ chưa tạo được sắc thái địa phương như Hồ Biểu Chánh hay Hồ Trường An.

    Giọng bắc giọng Nam dễ nghe, tiếng bắc là ngôn ngữ chính thức trong sinh hoạt văn hóa và xã hội, đó là lý do tại sao đồng bào miền Bắc không gặp trở ngại khi đối thoại với người khác xứ. Trái lại, bên cạnh giọng nói thuộc về một âm vực khó nghe, người Huế lại nói và viết không giống nhau. Thêm vào đó, Huế lại quá phong phú thổ âm thổ ngữ, cả về số lượng cũng như ý nghĩa. Tất cả những cái đó đã biến tiếng Huế thành ngoại ngữ. Muốn hiểu rành “ngoại ngữ” đó, chỉ có cách hãy sống với Huế. Ai không tin, thử hỏi mấy ông rễ Huế, biết ngay.

    Võ Hương-An
    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 30-12-2009, 11:30 AM.

    Comment

    • #3

      [ame="http://www.youtube.com/watch?v=spFJMt349Dg&feature=related"]YouTube- De thuong Giong Hue[/ame]
      Đã chỉnh sửa bởi Photo; 01-01-2010, 12:49 PM.

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom