Hum nay chúng ta nghiên cứu đến về tướng học nhé, bạn nào có hứng thú thì đọc cho vui, người làm ăn kinh doanh và dùng người thì không thể không biết dùng người, mà dùng người tốt xấu ra sao thì do bản lĩnh nhìn người của chúng ta, vấn đề này có thể học hỏi được do tích lũy, do học hỏi..., các sách về coi hình tướng con người thị trường nhiều, trong đây là 1 phần trích về tướng học cơ b ản, mình trích nhantrachoc.net.vn, góp vui với diễn đàn.
<DIV>Phần giới thiệu về nét tướng
I. Tướng khuôn mặt
Khuôn mặt được xem là vị trí trung tâm trong việc nghiên cứu, học và xem tướng. Chính vì sự quan trọng của nó, mà rất nhiều người khi nói đến xem tướng, thì chủ yếu xem tướng mặt. Tất nhiên, điều này không đầy đủ nên thiếu phần chính xác.
Khi nhìn vào một khuôn mặt, người ta trước hết xem xét toàn diện nó từ tóc cho đến cằm. Đặc biệt trong đó, người ta chú ý vào Tam đình, Ngũ nhạc, Lục Phủ, Tứ đậu, Ngũ Quan (sẽ được giải thích sau) và những bộ vị (cung). Xem Tam đình, Ngũ nhạc, Lục phủ giúp cho ta biết khái quát về khuôn mặt, để từ đó đưa ra những ý niệm ban đầu về đối tượng xem tướng.
Nếu muốn biết chi tiết (chỉ nói về phần tướng tĩnh), chúng ta cần nghiên cứu thêm Tứ đậu, Ngũ quan và 13 bộ vị quan trọng trên khuôn mặt. Mỗi bộ phận cho ta biết một số tính cách về nhân vật.
Đó là ý niệm về nét tướng trên khuôn mặt. Bây giờ chúng ta sẽ đi vào cụ thể từng bộ phận.</DIV>
<DIV>I.1. Tam Đình:
a. Vị trí của Tam Đình:
Tướng học Á Đông chia khuôn mặt thành 3 phần:
Thượng Đình: Từ dưới chân tóc đến ấn đường (giữa hai đuôi lông mày). Bộ vị quan trọng của phần này là trán.
Trung Đình: Từ ấn đường (giữa hai đuôi lông mày) đến dưới 2 cánh mũi. Những bộ vị quan trọng của phần này là Mắt, mũi, lưỡng quyền, lông mày và tai.
Hạ đình: Từ dưới hai cánh mũi đến cằm. Những bộ vị quan trọng của phần này là Nhân trung, miệng, và cằm. (ngoài ra còn có thể kể thêm là pháp lệnh và mang tai).
Vì khuôn mặt được phân chia thành Thượng, trung, hạ đình nên ba phần này gọi chung là Tam đình.
b. Ý nghĩa của Tam Đình:
b.1. Thượng đình: thể hiện cho giai đoạn đầu của cuộc đời, khoảng dưới 20 tuổi. Thượng đình con biểu hiện khả năng về trí lực của con người. Một số nhà tướng học còn áp dụng thuyết tam tài vào tướng học. Khi đó Thượng đình được tượng trưng cho thiên (Tam tài: Thiên - Địa - Nhân). Và khi đó những người này luận giải tính cách con người dựa vào ý niệm của thiên: Trời phải cao, sáng, tươi,... thì mới tốt.
Nói tóm lại, Thượng đình (đặc biệt là Trán) cần phải cao, sáng, tươi (sẽ xem xét ở phần tướng động), vuông vắn, nảy nở thì quý hiễn. Ngược lại, thượng đình xấu (nhỏ, tối, nhọn, hẹp, lồi lõm không cân xứng,...) thì hạ cách, khắc cha mẹ, bị tai nạn, hay cuộc đời khổ cực,...
b.2. Trung đình: Trung đình thể hiện giai đoạn trung niên (từ khoảng 20 đến khoảng 40 tuổi). Trung đình còn biểu hiện khí lực của con người, và đây là phần tượng trưng cho người của những nhà tướng học áp dụng thuyết tam tài. Phần Trung đình là phần rất quan trọng, chúng ta sẽ xét sau. Nhưng nhìn chung, trung đình cần phải ngay ngắn sáng sủa, tươi nhuận thì công danh, tiền tài,... mới tốt.
b.3. Hạ đình: Hạ đình biểu hiện hậu vận của đời người. Phần này cũng thể hiện hoạt lực (hoạt động) của con người, và cũng là phần địa trong thuyết tam tài.
Nhìn chung, hạ đình cần phải ngay ngắn, vuông vắn, sáng sủa thì hậu vận mới tốt. Còn nếu hạ đình cong, nhọn, tối,... thì là dấu hiệu báo trước một hậu vận khó khăn.
Một số nhà tướng học (Tô Lãng Thiên) còn cho rằng thượng đình chính là phần tiên thiên, nghĩa là phần được "trời phú", Trung đình là phần hậu thiên, thể hiện sự hoạt động của con người, và phần hạ đìnhcho ta biết về kết quả hoạt động của con người.
(Phần này được đề cập khá kỹ trong một số cuốn sách về tướng học, chẳng hạn như Nhân tướng học của Hy Trương, các bạn có thể tham khảo thêm).
Tóm lại, Tam đình cần phải ngay ngắn, sáng sủa, cân đối và tươi nhuận,.. thì mới tốt. Ngược lại, nếu tam đình cong, không cân xứng, không sáng,... thì sẽ báo trước một dấu hiệu khốn khổ của con người.
Để biết được chính xác, chúng ta cần phải nghiên cứu tiếp những bộ vị quan trọng khác của tướng học.</DIV>
<DIV>.2. Ngũ Nhạc
1. Nguồn gốc tên gọi
Khi nói đến Ngũ nhạc người ta thường liên hệ với địa lý học. Thực vậy, Ngũ Nhạc chính là tên của 5 ngọn núi trong những sách địa lý của Trung Hoa. Chính vì con người sống giữa thiên nhiên, nên những nhà khoa học cổ thường tự nhiên hoá qua hình thể con người. Hoàng Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn là 5 ngọn núi nổi tiếng của Trung Hoa, được địa lý hoá thành các bộ vị trên khuôn mặt con người.
(mở ngoặc ở đây: bạn đọc nào mới học về tướng pháp thì cũng có thể biết tên của những dãy núi này trong sách của Trung hoa, đặc biệt là các bộ truyện Kiếm hiệp).
Trong phần luận về Ngũ nhạc, các nhà tướng học cổ còn ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành trong việc luận đoán.
2. Vị trí của Ngũ nhạc
Ngũ nhạc bao gồm: Trán, mũi, 2 Lưỡng quyền, và cằm.
Trán: tượng trưng cho dãy núi phía Nam (Hoàng Sơn), nên cũng có tên gọi là Nam nhạc.
Cằm: tượng trưng cho dãy núi phía Bắc (Hằng Sơn) nên có tên gọi là Bắc Nhạc.
Mũi: tượng trưng cho dãy núi ở giữa (Tung Sơn) nên có tên là Trung Nhạc.
Lưỡng quyền trái: tượng trưng cho dãy núi phía Đông (Thái Sơn) nên cũng có tên gọi là Đông Nhạc.
Lưỡng quyền phải: tượng trưng cho dãy núi phía Tây (Hoa Sơn) nên cũng có tên gọi là Tây nhạc.
3. Điều kiện để Ngũ nhạc được gọi là tốt
Vì bị ảnh hưởng của Khoa Địa lý, Ngũ nhạc được xem là tốt khi chúng triều củng hay triều quy với nhau. Nghĩa là các dãy núi này phải tạo thành một sự liên hoàn để tụ về một điểm quan trọng nhất (điểm này có thể là điểm tưởng tượng cách xa trên khuôn mặt). Theo khoa Địa lý, khi các dãy núi này liên hoàn, triều quy với nhau thì Long mạch trở nên có thế. Cũng tương tự như vậy, khi 5 bộ phận này liên hoàn và triều quy với nhau thì con người có được ưu thế về tướng học.
Chú ý: bài học trước chúng ta đã biết là mũi có thể gọi là phần nhân của mô hình tam tài (mũi là bộ phận quan trong bậc nhất trong trung đình). Chính vì thế, ở đây, mũi cũng có thể được coi là long mạch chính của hệ thống 5 bộ phận này (5 dãy núi).
Nếu 5 nhạc tốt, người ta gọi là ngũ nhạc đắc cách.
4. Điều kiện xấu của ngũ nhạc:
Quần sơn vô chủ: Khi các dãy núi không được triều cũng với dãy núi trung ương, nghĩa là Trung nhạc quá nhỏ, thấp,... không tương ứng với 4 dãy núi còn lại.
Cô phong vô biên: Khi dãy núi ở giữa quá cao, quá lớn không tương ứng với các dãy núi còn lại. Nói cách khác các dãy núi khác quá thấp, nhỏ không tương ứng với Trung nhạc.
Hữu viện bất tiếp: Nghĩa là các dãy núi này ban đầu thì có vẻ như hỗ trợ cho nhau nhưng khi nhìn kỹ lại thì không. Nghĩa là có một vài dãy núi bị khuyến hãm làm cho tính tương ứng, hỗ trợ bị đổ vỡ.
Phần này khó nhận biết hơn các phần trên.
5. Điều kiện khuyết hãm của từng nhạc:
Phần trên, chúng ta đã nói điều kiện khuyết hãm (xấu) của hệ thống ngũ nhạc. Bây giờ chúng ta tập trung vào mỗi nhạc.
Nam nhạc (Trán): Trán bị coi là khuyết hãm khi mi tóc mọc quá thấp, tóc lỡm chỡm làm cho trán thấp, trán có văn bò lung tung như rắn bò, trán có vằn bất thường, trán có sát khí (sát khi có thể thấy rõ hơn ở ấn đường),...
Trung nhạc (Mũi): Mũi bị xem là khuyết hãm khi mũi bị gãy, cong, cao trơ xương, bị lệch, lỗ mũi lộ hướng lên,...
Đông và tây nhạc (Quyền trái và phải): Quyền bị xem là khuyết hãm khi bị lộ, trơ xương, bị lõm, quá thấp, quá cao, có tàn nhang,...
Bắc nhạc (Cằm): Cằm bị coi là khuyết hãm khi xương quai hàm hẹp, cằm quá dài, cằm mỏng, cằm phía dưới đưa cao hơn,...
6. Ứng dụng thuyết Âm Dương ngũ hành (hay yếu tố bù trừ)
Phần này giới thiệu sơ lược về ứng dụng thuyết ngũ hành vào ngũ nhạc. Như ta đã biết, Ngũ hành gồm 5 yếu tố: Thổ - Kim - Thủy - Mộc - Hoả. 5 yếu tố này tương tác với nhau theo luật sinh khắc: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ. Quá trình tương sinh theo đó mà phát triển. Quá trình tương khắc: Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Chính vì tương sinh tương khắc nên vạn vật mới bình hoà phát triển.
Theo phương vị, Thủy ở phương Bắc, Hoả ở phương Nam, Kim ở phương Tây, Mộc ở phương Đông, Thổ ở trung ương.
Phương Nam hoả vượng, nên người phương Nam lấy Trán (Nam nhạc) làm bộ phận trọng yếu. Tất nhiên cho dù ở phương nào đi nữa thì vẫn xét tính tương trợ của cả 5 bộ phận (ngũ nhạc), và Mũi hay Trung nhạc bao giờ cũng đóng vị trí trung tâm.
Phương Bắc Thuỷ vượng nên người phương Bắc lấy Cằm (Bắc nhạc) làm bộ phận quan trọng.
Ý này có nghĩa là người phương Nam, nếu trán tốt mà các bộ vị khác xấu một chút, hay người phương Bắc cằm xấu tốt mà các nhạc khác xấu một chút thì cũng có thể bù trừ một chút.
(Nguyên tắc tương sinh tương khắc trong thuyết Ngũ hành ứng dụng vào ngũ nhạc hơi khó nên không đề cập ở đây).
Tóm lại: 5 bộ vị này tốt khi chúng phối hợp với nhau cân đối, hài hoà, và triều cũng với nhau.
7. Ý nghĩa của ngũ nhạc:
</DIV>
<DIV>Phần giới thiệu về nét tướng
I. Tướng khuôn mặt
Khuôn mặt được xem là vị trí trung tâm trong việc nghiên cứu, học và xem tướng. Chính vì sự quan trọng của nó, mà rất nhiều người khi nói đến xem tướng, thì chủ yếu xem tướng mặt. Tất nhiên, điều này không đầy đủ nên thiếu phần chính xác.
Khi nhìn vào một khuôn mặt, người ta trước hết xem xét toàn diện nó từ tóc cho đến cằm. Đặc biệt trong đó, người ta chú ý vào Tam đình, Ngũ nhạc, Lục Phủ, Tứ đậu, Ngũ Quan (sẽ được giải thích sau) và những bộ vị (cung). Xem Tam đình, Ngũ nhạc, Lục phủ giúp cho ta biết khái quát về khuôn mặt, để từ đó đưa ra những ý niệm ban đầu về đối tượng xem tướng.
Nếu muốn biết chi tiết (chỉ nói về phần tướng tĩnh), chúng ta cần nghiên cứu thêm Tứ đậu, Ngũ quan và 13 bộ vị quan trọng trên khuôn mặt. Mỗi bộ phận cho ta biết một số tính cách về nhân vật.
Đó là ý niệm về nét tướng trên khuôn mặt. Bây giờ chúng ta sẽ đi vào cụ thể từng bộ phận.</DIV>
<DIV>I.1. Tam Đình:
a. Vị trí của Tam Đình:
Tướng học Á Đông chia khuôn mặt thành 3 phần:
Thượng Đình: Từ dưới chân tóc đến ấn đường (giữa hai đuôi lông mày). Bộ vị quan trọng của phần này là trán.
Trung Đình: Từ ấn đường (giữa hai đuôi lông mày) đến dưới 2 cánh mũi. Những bộ vị quan trọng của phần này là Mắt, mũi, lưỡng quyền, lông mày và tai.
Hạ đình: Từ dưới hai cánh mũi đến cằm. Những bộ vị quan trọng của phần này là Nhân trung, miệng, và cằm. (ngoài ra còn có thể kể thêm là pháp lệnh và mang tai).
Vì khuôn mặt được phân chia thành Thượng, trung, hạ đình nên ba phần này gọi chung là Tam đình.
b. Ý nghĩa của Tam Đình:
b.1. Thượng đình: thể hiện cho giai đoạn đầu của cuộc đời, khoảng dưới 20 tuổi. Thượng đình con biểu hiện khả năng về trí lực của con người. Một số nhà tướng học còn áp dụng thuyết tam tài vào tướng học. Khi đó Thượng đình được tượng trưng cho thiên (Tam tài: Thiên - Địa - Nhân). Và khi đó những người này luận giải tính cách con người dựa vào ý niệm của thiên: Trời phải cao, sáng, tươi,... thì mới tốt.
Nói tóm lại, Thượng đình (đặc biệt là Trán) cần phải cao, sáng, tươi (sẽ xem xét ở phần tướng động), vuông vắn, nảy nở thì quý hiễn. Ngược lại, thượng đình xấu (nhỏ, tối, nhọn, hẹp, lồi lõm không cân xứng,...) thì hạ cách, khắc cha mẹ, bị tai nạn, hay cuộc đời khổ cực,...
b.2. Trung đình: Trung đình thể hiện giai đoạn trung niên (từ khoảng 20 đến khoảng 40 tuổi). Trung đình còn biểu hiện khí lực của con người, và đây là phần tượng trưng cho người của những nhà tướng học áp dụng thuyết tam tài. Phần Trung đình là phần rất quan trọng, chúng ta sẽ xét sau. Nhưng nhìn chung, trung đình cần phải ngay ngắn sáng sủa, tươi nhuận thì công danh, tiền tài,... mới tốt.
b.3. Hạ đình: Hạ đình biểu hiện hậu vận của đời người. Phần này cũng thể hiện hoạt lực (hoạt động) của con người, và cũng là phần địa trong thuyết tam tài.
Nhìn chung, hạ đình cần phải ngay ngắn, vuông vắn, sáng sủa thì hậu vận mới tốt. Còn nếu hạ đình cong, nhọn, tối,... thì là dấu hiệu báo trước một hậu vận khó khăn.
Một số nhà tướng học (Tô Lãng Thiên) còn cho rằng thượng đình chính là phần tiên thiên, nghĩa là phần được "trời phú", Trung đình là phần hậu thiên, thể hiện sự hoạt động của con người, và phần hạ đìnhcho ta biết về kết quả hoạt động của con người.
(Phần này được đề cập khá kỹ trong một số cuốn sách về tướng học, chẳng hạn như Nhân tướng học của Hy Trương, các bạn có thể tham khảo thêm).
Tóm lại, Tam đình cần phải ngay ngắn, sáng sủa, cân đối và tươi nhuận,.. thì mới tốt. Ngược lại, nếu tam đình cong, không cân xứng, không sáng,... thì sẽ báo trước một dấu hiệu khốn khổ của con người.
Để biết được chính xác, chúng ta cần phải nghiên cứu tiếp những bộ vị quan trọng khác của tướng học.</DIV>
<DIV>.2. Ngũ Nhạc
1. Nguồn gốc tên gọi
Khi nói đến Ngũ nhạc người ta thường liên hệ với địa lý học. Thực vậy, Ngũ Nhạc chính là tên của 5 ngọn núi trong những sách địa lý của Trung Hoa. Chính vì con người sống giữa thiên nhiên, nên những nhà khoa học cổ thường tự nhiên hoá qua hình thể con người. Hoàng Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn, Hoa Sơn, Tung Sơn là 5 ngọn núi nổi tiếng của Trung Hoa, được địa lý hoá thành các bộ vị trên khuôn mặt con người.
(mở ngoặc ở đây: bạn đọc nào mới học về tướng pháp thì cũng có thể biết tên của những dãy núi này trong sách của Trung hoa, đặc biệt là các bộ truyện Kiếm hiệp).
Trong phần luận về Ngũ nhạc, các nhà tướng học cổ còn ứng dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành trong việc luận đoán.
2. Vị trí của Ngũ nhạc
Ngũ nhạc bao gồm: Trán, mũi, 2 Lưỡng quyền, và cằm.
Trán: tượng trưng cho dãy núi phía Nam (Hoàng Sơn), nên cũng có tên gọi là Nam nhạc.
Cằm: tượng trưng cho dãy núi phía Bắc (Hằng Sơn) nên có tên gọi là Bắc Nhạc.
Mũi: tượng trưng cho dãy núi ở giữa (Tung Sơn) nên có tên là Trung Nhạc.
Lưỡng quyền trái: tượng trưng cho dãy núi phía Đông (Thái Sơn) nên cũng có tên gọi là Đông Nhạc.
Lưỡng quyền phải: tượng trưng cho dãy núi phía Tây (Hoa Sơn) nên cũng có tên gọi là Tây nhạc.
3. Điều kiện để Ngũ nhạc được gọi là tốt
Vì bị ảnh hưởng của Khoa Địa lý, Ngũ nhạc được xem là tốt khi chúng triều củng hay triều quy với nhau. Nghĩa là các dãy núi này phải tạo thành một sự liên hoàn để tụ về một điểm quan trọng nhất (điểm này có thể là điểm tưởng tượng cách xa trên khuôn mặt). Theo khoa Địa lý, khi các dãy núi này liên hoàn, triều quy với nhau thì Long mạch trở nên có thế. Cũng tương tự như vậy, khi 5 bộ phận này liên hoàn và triều quy với nhau thì con người có được ưu thế về tướng học.
Chú ý: bài học trước chúng ta đã biết là mũi có thể gọi là phần nhân của mô hình tam tài (mũi là bộ phận quan trong bậc nhất trong trung đình). Chính vì thế, ở đây, mũi cũng có thể được coi là long mạch chính của hệ thống 5 bộ phận này (5 dãy núi).
Nếu 5 nhạc tốt, người ta gọi là ngũ nhạc đắc cách.
4. Điều kiện xấu của ngũ nhạc:
Quần sơn vô chủ: Khi các dãy núi không được triều cũng với dãy núi trung ương, nghĩa là Trung nhạc quá nhỏ, thấp,... không tương ứng với 4 dãy núi còn lại.
Cô phong vô biên: Khi dãy núi ở giữa quá cao, quá lớn không tương ứng với các dãy núi còn lại. Nói cách khác các dãy núi khác quá thấp, nhỏ không tương ứng với Trung nhạc.
Hữu viện bất tiếp: Nghĩa là các dãy núi này ban đầu thì có vẻ như hỗ trợ cho nhau nhưng khi nhìn kỹ lại thì không. Nghĩa là có một vài dãy núi bị khuyến hãm làm cho tính tương ứng, hỗ trợ bị đổ vỡ.
Phần này khó nhận biết hơn các phần trên.
5. Điều kiện khuyết hãm của từng nhạc:
Phần trên, chúng ta đã nói điều kiện khuyết hãm (xấu) của hệ thống ngũ nhạc. Bây giờ chúng ta tập trung vào mỗi nhạc.
Nam nhạc (Trán): Trán bị coi là khuyết hãm khi mi tóc mọc quá thấp, tóc lỡm chỡm làm cho trán thấp, trán có văn bò lung tung như rắn bò, trán có vằn bất thường, trán có sát khí (sát khi có thể thấy rõ hơn ở ấn đường),...
Trung nhạc (Mũi): Mũi bị xem là khuyết hãm khi mũi bị gãy, cong, cao trơ xương, bị lệch, lỗ mũi lộ hướng lên,...
Đông và tây nhạc (Quyền trái và phải): Quyền bị xem là khuyết hãm khi bị lộ, trơ xương, bị lõm, quá thấp, quá cao, có tàn nhang,...
Bắc nhạc (Cằm): Cằm bị coi là khuyết hãm khi xương quai hàm hẹp, cằm quá dài, cằm mỏng, cằm phía dưới đưa cao hơn,...
6. Ứng dụng thuyết Âm Dương ngũ hành (hay yếu tố bù trừ)
Phần này giới thiệu sơ lược về ứng dụng thuyết ngũ hành vào ngũ nhạc. Như ta đã biết, Ngũ hành gồm 5 yếu tố: Thổ - Kim - Thủy - Mộc - Hoả. 5 yếu tố này tương tác với nhau theo luật sinh khắc: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ. Quá trình tương sinh theo đó mà phát triển. Quá trình tương khắc: Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ. Chính vì tương sinh tương khắc nên vạn vật mới bình hoà phát triển.
Theo phương vị, Thủy ở phương Bắc, Hoả ở phương Nam, Kim ở phương Tây, Mộc ở phương Đông, Thổ ở trung ương.
Phương Nam hoả vượng, nên người phương Nam lấy Trán (Nam nhạc) làm bộ phận trọng yếu. Tất nhiên cho dù ở phương nào đi nữa thì vẫn xét tính tương trợ của cả 5 bộ phận (ngũ nhạc), và Mũi hay Trung nhạc bao giờ cũng đóng vị trí trung tâm.
Phương Bắc Thuỷ vượng nên người phương Bắc lấy Cằm (Bắc nhạc) làm bộ phận quan trọng.
Ý này có nghĩa là người phương Nam, nếu trán tốt mà các bộ vị khác xấu một chút, hay người phương Bắc cằm xấu tốt mà các nhạc khác xấu một chút thì cũng có thể bù trừ một chút.
(Nguyên tắc tương sinh tương khắc trong thuyết Ngũ hành ứng dụng vào ngũ nhạc hơi khó nên không đề cập ở đây).
Tóm lại: 5 bộ vị này tốt khi chúng phối hợp với nhau cân đối, hài hoà, và triều cũng với nhau.
7. Ý nghĩa của ngũ nhạc:
</DIV>
Comment