Tôi nhớ ngày tôi tốt nghiệp đại học ra trường (1972), tôi có lần lượt 3 cái sự vụ lệnh của Bộ Giáo dục bổ dụng tôi dạy tại các trường: Nữ trung học Quy Nhơn, nữ trung học Pleime, nữ trung học Quảng Tín nhưng cái nào anh Hiền cũng bàn và khuyên tôi, thôi để từ từ anh xin chỗ dạy Đà Nẵng hoặc Quảng Nam cho gần nhà để ở cạnh anh. Và quả thật, sau đó, anh cầm hồ sơ của tôi nhờ Võ Văn Lượng, hiệu trưởng trường trung học Hòa Vang mang trực tiếp vào Bộ Giáo dục ký quyết định về dạy tại trường của anh Lượng.
Anh Hiền dạy triết học tại trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng kể từ năm 1964 cho đến tận năm 1975. Những giai đoạn trước năm 1975, anh dạy học hầu hết tại các trường Đà Nẵng. Lịch dạy của anh liên tục, kín giờ, kể cả ban đêm do các trường tư thục thời ấy như Phan Thanh Giản, Bán Công, Bồ Đề, Sao Mai, Thọ Nhơn, Phan Châu Trinh đêm vẫn đòi cho kỳ được GS Hiền dạy triết.
Anh nghiêm trang ít nói, tình cảm không để lộ ra ngoài, nhất là đối với tôi, đứa em út mất mẹ từ lúc quá sớm. Tôi nhớ những lần tôi nằm ở nhà chờ QĐ đi dạy, mặc dù bận dạy lu bù nhưng anh vẫn quan tâm tới tôi. Ngại tôi chờ việc, sốt ruột, anh chở tôi đi dạo quanh các con đường thành phố ĐN, dẫn tôi đi ăn, vào quán cà phê Dũng ở đường Độc Lập. Hai anh em ngôi đối diện nhau. Anh rất ít nói chỉ thỉnh thoảng nhìn tôi với ánh mắt thương yêu… Những sáng chủ nhật tôi cùng anh đứng ở góc đường Trần Hưng Đạo – Độc Lập tán gẫu với bạn bè hay vào nhà sách để mua sách, chọn sách, …
Một hôm, anh chở tôi đến nhà một người bạn của anh, không phải là GS nhưng chuyên chạy affaire, hôm ấy trời mưa lớn, chúng tôi đi qua một cái sân lội nước bì bõm. Đến đó tôi mới biết là anh đòi cái máy magnétéphone hiệu Sony về cho tôi nghe nhạc vì anh biết tôi rất thích khoản này.
Một lần anh cho tôi kinh nghiệm vấn đề dạy triết. Theo anh, dạy triết không chỉ và không nên nói nhiều về lý thuyết, bởi vì tài liệu đã có sẵn, mục đích là làm thế nào, qua những nhận định hay quan điểm, phải đưa vào những thí dụ thật cụ thể và rất đời thường chung quanh ta hay qua các câu cách ngôn, tục ngữ, các câu chuyện để dẫn chứng. Phương pháp này sẽ làm cho HS thích thú, bớt nhàm chán và dễ hiểu hơn.
Anh là một trong các GS thời ấy dùng tài liệu cho HS (tài liệu được quay bằng máy quay ronéo) sau khi đã dạy xong bài. HS chỉ nghe giảng bài chứ không phải thầy đọc cho HS chép. Mãi đến tận sau này (1973), nhà Xuất bản Trường Thi đã mời anh tham gia viết bộ sách Giáo khoa Triết cho các lớp 12 ABCD bao gồm Tâm lý học, Đạo đức học, Luận lý học, Siêu hình học. Và anh Hiền viết cuốn Luận lý học. Bộ sách Giáo khoa Triết lớp 12, tác giả không đứng tên riêng mà chỉ ghi là BAN GIÁO SƯ TRIẾT (trang 2 liệt kê danh sách các GS tham gia viết sách).
Đà Nẵng thời đó giáo sư dạy triết không thiếu, một số các thầy mà tôi biết như Thầy Hương, thầy Hóa, cô Gia Lai, thầy Triệu nhưng chỉ có anh Hiền mới thật là nổi trội. Hầu như các trường tư thục có lớp 12 thì nhất quyết mời cho được thầy Hiền giảng dạy môn Triết. Đầu niên khóa các pa nô quảng cáo danh sách các GS giảng dạy thì môn triết vẫn là tên Nguyễn Lương Hiền.
Anh được mọi người trong giáo giới kính trọng, HS cảm mến.
Sau năm 1975 anh được nhà nước cho nghỉ dạy.
Suốt một thời gian xấc bắc xang bang vì lo âu cho vấn đề sinh kế, vấn đề an ninh rồi cũng qua đi. Cuối cùng anh cũng tự tìm cho mình một công việc mới: Làm khung xe đạp.
Những năm từ 1976 cho đến 1985, đường phố Đà Nẵng hầu như chỉ còn xe đạp. Xe đạp trở thành phương tiện chính. Do đó nghề hàn khung xe đạp trở thành nghề trọng điểm của thành phố. Đâu đâu cũng làm khung xe đạp, các tiệm trên phố nhan nhãn đều bày bán khung xe, mặc dù trong thực tế, nghề hàn khung xe đạp bị cấm cũng như các tiệm bán khung xe đều được loan báo cấm ngặt. Thế nhưng nói vậy mà không phải vậy. Nghề hàn khung và bán khung xe đạp phổ biến đều khắp, không chỉ tại địa bàn Đà Nẵng mà hầu như trên toàn quốc.
Giai đoạn đó, với một ý chí và nghị lực phi thường, anh đã sắm tuần tự đồ nghề cho việc làm khung xe như bộ đồ hàn hơi. Bàn e tô, búa kềm, …Chỉ trong thời gian ngắn, đã có 3 người học trò xin học việc, ngày đến làm, đêm ra về nhưng cuối tháng anh vẫn trả tiền tính theo đầu khung. Trung bình mỗi ngày anh Sản xuất xong 10 khung xe đạp. Cách làm ăn như thế có thể gọi là quy mô so với giai đoạn ấy.
Năm 1980, tôi nghỉ dạy và trở về ngỏ ý xin được làm khung xe đạp. Anh chưng hững:
- Mi nghỉ việc là bậy rồi. Tau đã bị nghỉ dạy.Đúng ra mi nên đeo bám nghề GV với nhà nước, sẽ có lợi về chính trị hơn, mi có thể làm thêm cũng được. Bây giờ lỡ rồi. Thôi! tau sẽ sắm cho một bộ hàn hơi để mà làm!
Thế là kể từ đó, có tôi phụ thêm với anh trong việc làm khung xe đạp, và số khung sản xuất tăng thêm vài ba cái. Như vậy có ngày khung xe đạp sản xuất được trên 10 cái. Với số lượng khung xe xuất xưởng như thế thì việc cần thiết là cần thợ dũa khung hay còn gọi là thợ làm nguội khung. Anh giao cho một người ở trong Thanh Bồ lãnh, ông này giao lại cho đàn em và điều khiển họ phải làm cho xong trong ngày. Dạo đó có một số giáo sư bị nghỉ dạy lúc đầu cũng nhận vể để dũa khung như GS Nguyễn Châu Hóa (cùng dạy triết Phan Châu Trinh), GS Đỗ Nguyên (dạy Sử trường nữ Hồng Đức), GS Tâm dạy Phan Châu Trinh, …nhưng rồi dần dần một số thầy không chịu nỗi thao tác dũa khung, nên bỏ cuộc
Trong khâu phát hành, tiêu thụ khung xe đạp, thì GS Trần Gia Phụng là một đối tác rất đắc lực của anh tôi, anh Phụng, ở đường Hùng Vương, một địa điểm rất sôi động về việc giao dịch mua bán. Anh Phụng và anh Hiền lại là hai người bạn rất thân trong thời gian trước 75 cũng như sau này. Hàng ngày anh Phụng vẫn đến nhà anh Hiền để thanh lý các khoản khung đã bán được cũng như nhận thêm. Có khi khung không còn để bán, anh Phụng phải về đích thân mang lên. Ngoài chỗ anh Phụng, còn hai chỗ khác nhận khung của anh Hiền để bán như chỗ anh Bút, chỗ bà Nhuận. Thời kì đó ngoài những chỗ làm khung cá thể, còn có các Hợp tác xã làm khung rất nhiều, như Tổ hợp Hạnh phúc, tổ hợp Đoàn kết. Khi các Hợp tác xã nầy cần khung xe đạp để tặng khách thì họ lại phải về lấy khung của anh. Nói như vậy để thấy rằng chất lượng khung xe đạp của anh rất nổi tiếng.
Về đêm anh Hiền còn lo dạy các con học. Có những đêm 22, 23 giờ tôi vẫn nghe tiếng anh say sưa dạy các cháu học toán hay Vật lý. Phải nói rằng anh có một trí nhớ quá tuyệt hảo. Đã biết bao nhiêu năm rồi. Vậy mà anh vẫn dạy toán hình hay đại số lớp 11 cho các con mà vẫn không cần tham khảo thêm sách. Ngoài việc dạy dỗ con cái, anh còn một phương cách giáo dục con cái rất uyển chuyển, khi thì rất xuề xòa như bạn, nhưng khi nếu cần, ông rất nghiêm khắc.
Nếu linh hồn anh có linh hiển, tôi nghĩ anh sẽ vui biết bao khi chứng kiến được các con của mình. Ngày nay các cháu đã có một vị trí rất quan trọng trong cộng đồng xã hội, không phải là vai trò mang tính chính trị nhưng là dưới góc độ chuyên môn. Sự thành đạt của các con anh quả thật là một sự vinh quang hiếm có. Các cháu Nhất Châu, Nhị Châu, hai đứa sinh đôi đầu lòng của anh đã làm tôi rất hãnh diện vì công việc của hai cháu. Cháu Lương Nguyên và Linh Châu đều có vị trí xứng đáng trong cộng đồng xã hội.
Những năm cuối đời của anh, tôi nghĩ là anh rất vui vì công việc đã trôi chảy, nhuần nhuyễn. Sự thu hoạch về kinh tế không còn là mối lo của anh nữa. Nhưng qua sự đăm chiêu, qua vài câu chuyện, tôi nghĩ là anh đang có một tầm nhìn đi xa hơn nữa trong vấn đề làm ăn, bởi vì anh vẫn nghĩ rằng chuyện làm khung xe đạp, một lúc nào đó sẽ không còn hợp thời.
Anh rất vui khi có bạn bè đến chơi, các anh Phụng, Viên, Nguyên, vợ chồng anh Tâm, chị Lê, anh Mai, … Anh không uống rượu nhưng mỗi lần đi lên cửa hàng Mậu dịch quốc doanh là anh tìm mua rượu Vin Rhom (của Bulgarie), một loại rượu dưới dạng Cock tail ngọt nhưng nồng độ khá cao để dự trữ, khi bạn đến chơi anh chiêu đãi.
Về phần tôi, anh giao cho tôi hoàn toàn tự chủ trong vấn đề làm khung xe đạp. Tôi thích thì tôi nhận đồ rời để gia công làm. Nếu cần, tôi có thể đi chơi hay đi đâu đó, không bị lệ thuộc vào công viêc. Có những khi khung xe đạp cần cho thị trường, tôi lại bận việc gì đó, buộc phải xin nghỉ, anh phàn nàn tôi vô lo. Tôi nhớ mãi câu nhận xét của anh: “ban ngày chạy rong, đêm chong đèn ngồi hàn”. Nhất là những lần tôi gặp được bạn bè học đại học ngày nào, vào Đà Nẵng tìm thăm, tôi vui lắm.
Thế là cả mấy đứa uống say mèm. Sáng ngày mai, tôi dậy không nổi. Anh chỉ cằn nhằn: “Lại uống rượu, không dậy được!”.
Tôi rất nể sợ anh. Với tôi, anh không những là một người anh hết lòng lo cho em mà còn là người cha đáng kính. Nếu cha tôi là người bố có công nuôi tôi khôn lớn thì anh là người cha lo cho tôi về mọi mặt, nhất là vấn đề học hành của tôi ngày còn thơ và khi ra trường, đi dạy.
Dưới mắt anh, tôi vẫn là một đứa em út còn dại khờ, chưa đủ bản lĩnh để sống ngoài đời. Còn nhớ ngày tôi cầm quyết định về dạy trường trung học Hòa Vang, anh chở tôi đi trên xe Yamaha đàn ông, bây giờ cảm giác của tôi vẫn còn ghi đậm mùi những lá tre rớt đầy đường bị ung thúi, mùi phân trâu rãi rác trên bờ cỏ hai bên đường. Tôi vẫn nghĩ thầm con đường này, rồi đây ta vẫn đi dạy ngày hai buổi đây sao? Nhưng với anh thì Hòa Vang là một chỗ dạy lý tưởng cho những người mới ra trường như tôi. Và quả thật y như thế, sao này tôi tìm thấy ở ngôi trường trung học Hòa Vang Đà Nẵng một cảm giác ấm áp dịu dàng đầy thân tình của những người đồng nghiệp.
Các giờ triết học tại các trường tư thục Bồ Đê, Bán Công anh đều giao lại cho tôi dạy, sau khi đã cam kết với Hiệu trưởng là tôi đủ khả năng. Cours triết thì anh soạn sẵn, quay ronéo và phát cho học sinh. Các trường Bồ Đề, Bán Công là những trường rất kén chọn đội ngủ giáo sư, một người mới ra trường như tôi làm sao họ chịu nhận để tôi dạy triết học, một môn mà với học sinh, quá mới mẽ và rất khó hiểu. Thế nhưng bằng sự cố gắng, với tinh thần trách nhiệm , tôi đã dạy học sinh trong hai niên khóa mà không có một lời ta thán hay phàn nàn từ ban Giám hiệu nhà trường.
Cuối niên khóa 1974, anh nói với tôi:
- Mi là GS mới ra trường, còn quá trẻ, mà đã dạy được trong những lớp học trên 100 học sinh. Lớp không bị mất trật tự, học sinh im lặng ngồi nghe giảng bài. Vậy là mi đã thành công. Năm tới đây, tau sẽ giao lại các lớp triết tại trường trung học Phan Thanh Giản cho. Tau cần có thời gian để viết sách. Hãy cố lên!
Tôi biết anh nói là làm. Không ngờ xảy ra sự kiện 1975…
Do đó, khi tôi xin nghỉ dạy, về làm khung xe đạp cùng anh thì anh rất lo lắng cho công việc của tôi.
Tất cả các khâu từ vật liệu làm cho đến đồ nghề anh đều lo hết cho tôi. Tôi chỉ việc ngồi hàn, làm, hoàn thiện khung xe. Chỉ có công việc kiểm tra lại khung trước khi cho xuất xưởng là anh đảm nhận.
1981, tôi lập gia đình và anh là người lo cho tôi toàn bộ, từ A tới Z. Ngôi nhà hiện nay tôi đang ở, với biết bao ki niệm là do anh mua và giao tôi. Đây là nơi mà anh cùng các học trò trãi qua những tháng ngày làm khung xe đạp. Biết bao nhiêu kỉ niệm buồn vui chất chứa tại đó.
Khi đứa con trai đầu tiên chào đời, tôi đặt tên cho nó là Fourche để đánh dấu bước chuyển hướng trong nghề nghiệp cũng như trong nhận thức của tôi, 2 năm sau, tiếp tục đứa con gái thứ, tên là Guidon.
Fourche lớn lên, khuôn mặt khôi ngô, sáng sũa, thông minh. Hai bác cháu quyến luyến nhau không rời. Bác ở đâu, làm gì trong nhà, cháu Fourche đều bên cạnh quan sát bác làm. Chỉ tội cho bé Guidon, 2 năm sau chào đời, chưa được bác bế bao nhiêu, đã vội ra đi. Một hai lần bác bế guidon chưa nóng vòng tay, Fourche đã la lên, không chịu, khiến bác phải vội để Guidon xuống.
Một điều an ủi cho anh và cho tôi, từ bỏ nghề nhà giáo nhưng những người bạn, đồng nghiệp một thời với mình vẫn còn lui tới. Một số vì liên hệ đặt khung xe, một só vì tình bạn đến chơi, chuyện trò. Cũng qua anh, tôi biết được những thế hệ đàn anh của tôi, anh Trần Gia Phụng, anh Lê Long Viên, anh Đỗ Nguyên, anh Nguyễn Châu Hóa, vợ chồng anh Tâm, chị Lê, anh Lê Quang Mai, …trong đó kể cả Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Đại đức Thích Minh Đàm.
Thầy Minh Tuấn, Minh Đàm, sau 1975, trở thành những nhà buôn, chuyên cung cấp ống, rắc co, boite xe đạp cho những nơi làm khung xe đạp.
Những năm cuối đời của anh vẫn còn là những năm xã hội VN đang còn trong thời kì bao cấp, vẫn còn cả ngày sắp hàng để chờ giãi quyết tem phiếu. Mặc dù chợ vẫn còn đó, buôn bán nhỏ lẽ vẫn còn. Những người có tiền, có điều kiện vẫn có thể sống thoải mái. Và trong hoàn cảnh đó, anh tôi không đến nổi sống thiếu thốn và anh đã lo cho vợ con, các em, những người thân ngoài Huế đầy đủ.
Tôi nghĩ anh như cây đại thụ che bóng mát cho những người thân yêu. Anh làm việc không dành cho mình chút thời gian ngơi nghỉ. Đó là niềm vui của anh. Anh vui khi người khác vui.. Có thể vì vậy mà sức khỏe anh không cho phép. Tháng ba năm 1984, anh bị một cơn đau đầu dữ dội, thỉnh thoảng một vài lần ngất đi, không hay biết gì hết, sau đó lại hồi tỉnh. Và anh lại làm việc, coi thường. Chúng ta lưu ý điều kiện y tế giai đoạn 1984, thời kỳ bao cấp, Việt Nam hoàn toàn bị bế quan tõa cảng. Do đó cơn bệnh của anh vẫn không có điều kiện chăm sóc, mặc khác lại tính bướng bỉnh, coi thường bệnh tật của mình.
Thời gian tiếp theo sau đó, anh bị mê rồi lại tỉnh, giữa cơn mê và cơn tỉnh rất khó phân biệt. Các bác sĩ là bạn bè quen thân giai đoạn đó đều bó tay, chỉ biết chích Vitamine C nồng độ cao và uống Paracétamol. Những ngày sau cùng, anh nằm phòng cấp cứu hồi sức thế rồi anh đi luôn vào một chiều tháng tư âm lịch, sau lễ Phật đản. Năm ấy anh chỉ vừa được 50 tuổi.
Sống là gửi, thác là trở về. nhưng sự ra đi đường đột của anh đã để lại cho tôi những khoảng trống kinh khủng. Những năm tháng đầu tiên không anh, tôi như bị hụt hẩng, đi đâu và ở đâu tôi cũng cảm thấy thiếu vắng. Những con đường thân quen anh từng chở tôi đi qua mỗi ngày. Không gian, nơi chốn anh cùng tôi, ...Ngôi nhà quen thuộc, phòng làm việc, chỗ ngồi, ...
Tất cả, tất cả đều thiếu vắng anh.
Đã 30 năm qua rồi! …
Và hàng năm, những người thân vẫn lên thăm anh trên một độn cát trắng của làng Hiền Lương, thắp nén hương, tưởng nhớ những ngày xa xưa ấy,
Có anh…
Anh Hiền dạy triết học tại trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng kể từ năm 1964 cho đến tận năm 1975. Những giai đoạn trước năm 1975, anh dạy học hầu hết tại các trường Đà Nẵng. Lịch dạy của anh liên tục, kín giờ, kể cả ban đêm do các trường tư thục thời ấy như Phan Thanh Giản, Bán Công, Bồ Đề, Sao Mai, Thọ Nhơn, Phan Châu Trinh đêm vẫn đòi cho kỳ được GS Hiền dạy triết.
Anh nghiêm trang ít nói, tình cảm không để lộ ra ngoài, nhất là đối với tôi, đứa em út mất mẹ từ lúc quá sớm. Tôi nhớ những lần tôi nằm ở nhà chờ QĐ đi dạy, mặc dù bận dạy lu bù nhưng anh vẫn quan tâm tới tôi. Ngại tôi chờ việc, sốt ruột, anh chở tôi đi dạo quanh các con đường thành phố ĐN, dẫn tôi đi ăn, vào quán cà phê Dũng ở đường Độc Lập. Hai anh em ngôi đối diện nhau. Anh rất ít nói chỉ thỉnh thoảng nhìn tôi với ánh mắt thương yêu… Những sáng chủ nhật tôi cùng anh đứng ở góc đường Trần Hưng Đạo – Độc Lập tán gẫu với bạn bè hay vào nhà sách để mua sách, chọn sách, …
Một hôm, anh chở tôi đến nhà một người bạn của anh, không phải là GS nhưng chuyên chạy affaire, hôm ấy trời mưa lớn, chúng tôi đi qua một cái sân lội nước bì bõm. Đến đó tôi mới biết là anh đòi cái máy magnétéphone hiệu Sony về cho tôi nghe nhạc vì anh biết tôi rất thích khoản này.
Một lần anh cho tôi kinh nghiệm vấn đề dạy triết. Theo anh, dạy triết không chỉ và không nên nói nhiều về lý thuyết, bởi vì tài liệu đã có sẵn, mục đích là làm thế nào, qua những nhận định hay quan điểm, phải đưa vào những thí dụ thật cụ thể và rất đời thường chung quanh ta hay qua các câu cách ngôn, tục ngữ, các câu chuyện để dẫn chứng. Phương pháp này sẽ làm cho HS thích thú, bớt nhàm chán và dễ hiểu hơn.
Anh là một trong các GS thời ấy dùng tài liệu cho HS (tài liệu được quay bằng máy quay ronéo) sau khi đã dạy xong bài. HS chỉ nghe giảng bài chứ không phải thầy đọc cho HS chép. Mãi đến tận sau này (1973), nhà Xuất bản Trường Thi đã mời anh tham gia viết bộ sách Giáo khoa Triết cho các lớp 12 ABCD bao gồm Tâm lý học, Đạo đức học, Luận lý học, Siêu hình học. Và anh Hiền viết cuốn Luận lý học. Bộ sách Giáo khoa Triết lớp 12, tác giả không đứng tên riêng mà chỉ ghi là BAN GIÁO SƯ TRIẾT (trang 2 liệt kê danh sách các GS tham gia viết sách).
Đà Nẵng thời đó giáo sư dạy triết không thiếu, một số các thầy mà tôi biết như Thầy Hương, thầy Hóa, cô Gia Lai, thầy Triệu nhưng chỉ có anh Hiền mới thật là nổi trội. Hầu như các trường tư thục có lớp 12 thì nhất quyết mời cho được thầy Hiền giảng dạy môn Triết. Đầu niên khóa các pa nô quảng cáo danh sách các GS giảng dạy thì môn triết vẫn là tên Nguyễn Lương Hiền.
Anh được mọi người trong giáo giới kính trọng, HS cảm mến.
Sau năm 1975 anh được nhà nước cho nghỉ dạy.
Suốt một thời gian xấc bắc xang bang vì lo âu cho vấn đề sinh kế, vấn đề an ninh rồi cũng qua đi. Cuối cùng anh cũng tự tìm cho mình một công việc mới: Làm khung xe đạp.
Những năm từ 1976 cho đến 1985, đường phố Đà Nẵng hầu như chỉ còn xe đạp. Xe đạp trở thành phương tiện chính. Do đó nghề hàn khung xe đạp trở thành nghề trọng điểm của thành phố. Đâu đâu cũng làm khung xe đạp, các tiệm trên phố nhan nhãn đều bày bán khung xe, mặc dù trong thực tế, nghề hàn khung xe đạp bị cấm cũng như các tiệm bán khung xe đều được loan báo cấm ngặt. Thế nhưng nói vậy mà không phải vậy. Nghề hàn khung và bán khung xe đạp phổ biến đều khắp, không chỉ tại địa bàn Đà Nẵng mà hầu như trên toàn quốc.
Giai đoạn đó, với một ý chí và nghị lực phi thường, anh đã sắm tuần tự đồ nghề cho việc làm khung xe như bộ đồ hàn hơi. Bàn e tô, búa kềm, …Chỉ trong thời gian ngắn, đã có 3 người học trò xin học việc, ngày đến làm, đêm ra về nhưng cuối tháng anh vẫn trả tiền tính theo đầu khung. Trung bình mỗi ngày anh Sản xuất xong 10 khung xe đạp. Cách làm ăn như thế có thể gọi là quy mô so với giai đoạn ấy.
Năm 1980, tôi nghỉ dạy và trở về ngỏ ý xin được làm khung xe đạp. Anh chưng hững:
- Mi nghỉ việc là bậy rồi. Tau đã bị nghỉ dạy.Đúng ra mi nên đeo bám nghề GV với nhà nước, sẽ có lợi về chính trị hơn, mi có thể làm thêm cũng được. Bây giờ lỡ rồi. Thôi! tau sẽ sắm cho một bộ hàn hơi để mà làm!
Thế là kể từ đó, có tôi phụ thêm với anh trong việc làm khung xe đạp, và số khung sản xuất tăng thêm vài ba cái. Như vậy có ngày khung xe đạp sản xuất được trên 10 cái. Với số lượng khung xe xuất xưởng như thế thì việc cần thiết là cần thợ dũa khung hay còn gọi là thợ làm nguội khung. Anh giao cho một người ở trong Thanh Bồ lãnh, ông này giao lại cho đàn em và điều khiển họ phải làm cho xong trong ngày. Dạo đó có một số giáo sư bị nghỉ dạy lúc đầu cũng nhận vể để dũa khung như GS Nguyễn Châu Hóa (cùng dạy triết Phan Châu Trinh), GS Đỗ Nguyên (dạy Sử trường nữ Hồng Đức), GS Tâm dạy Phan Châu Trinh, …nhưng rồi dần dần một số thầy không chịu nỗi thao tác dũa khung, nên bỏ cuộc
Trong khâu phát hành, tiêu thụ khung xe đạp, thì GS Trần Gia Phụng là một đối tác rất đắc lực của anh tôi, anh Phụng, ở đường Hùng Vương, một địa điểm rất sôi động về việc giao dịch mua bán. Anh Phụng và anh Hiền lại là hai người bạn rất thân trong thời gian trước 75 cũng như sau này. Hàng ngày anh Phụng vẫn đến nhà anh Hiền để thanh lý các khoản khung đã bán được cũng như nhận thêm. Có khi khung không còn để bán, anh Phụng phải về đích thân mang lên. Ngoài chỗ anh Phụng, còn hai chỗ khác nhận khung của anh Hiền để bán như chỗ anh Bút, chỗ bà Nhuận. Thời kì đó ngoài những chỗ làm khung cá thể, còn có các Hợp tác xã làm khung rất nhiều, như Tổ hợp Hạnh phúc, tổ hợp Đoàn kết. Khi các Hợp tác xã nầy cần khung xe đạp để tặng khách thì họ lại phải về lấy khung của anh. Nói như vậy để thấy rằng chất lượng khung xe đạp của anh rất nổi tiếng.
Về đêm anh Hiền còn lo dạy các con học. Có những đêm 22, 23 giờ tôi vẫn nghe tiếng anh say sưa dạy các cháu học toán hay Vật lý. Phải nói rằng anh có một trí nhớ quá tuyệt hảo. Đã biết bao nhiêu năm rồi. Vậy mà anh vẫn dạy toán hình hay đại số lớp 11 cho các con mà vẫn không cần tham khảo thêm sách. Ngoài việc dạy dỗ con cái, anh còn một phương cách giáo dục con cái rất uyển chuyển, khi thì rất xuề xòa như bạn, nhưng khi nếu cần, ông rất nghiêm khắc.
Nếu linh hồn anh có linh hiển, tôi nghĩ anh sẽ vui biết bao khi chứng kiến được các con của mình. Ngày nay các cháu đã có một vị trí rất quan trọng trong cộng đồng xã hội, không phải là vai trò mang tính chính trị nhưng là dưới góc độ chuyên môn. Sự thành đạt của các con anh quả thật là một sự vinh quang hiếm có. Các cháu Nhất Châu, Nhị Châu, hai đứa sinh đôi đầu lòng của anh đã làm tôi rất hãnh diện vì công việc của hai cháu. Cháu Lương Nguyên và Linh Châu đều có vị trí xứng đáng trong cộng đồng xã hội.
Những năm cuối đời của anh, tôi nghĩ là anh rất vui vì công việc đã trôi chảy, nhuần nhuyễn. Sự thu hoạch về kinh tế không còn là mối lo của anh nữa. Nhưng qua sự đăm chiêu, qua vài câu chuyện, tôi nghĩ là anh đang có một tầm nhìn đi xa hơn nữa trong vấn đề làm ăn, bởi vì anh vẫn nghĩ rằng chuyện làm khung xe đạp, một lúc nào đó sẽ không còn hợp thời.
Anh rất vui khi có bạn bè đến chơi, các anh Phụng, Viên, Nguyên, vợ chồng anh Tâm, chị Lê, anh Mai, … Anh không uống rượu nhưng mỗi lần đi lên cửa hàng Mậu dịch quốc doanh là anh tìm mua rượu Vin Rhom (của Bulgarie), một loại rượu dưới dạng Cock tail ngọt nhưng nồng độ khá cao để dự trữ, khi bạn đến chơi anh chiêu đãi.
Về phần tôi, anh giao cho tôi hoàn toàn tự chủ trong vấn đề làm khung xe đạp. Tôi thích thì tôi nhận đồ rời để gia công làm. Nếu cần, tôi có thể đi chơi hay đi đâu đó, không bị lệ thuộc vào công viêc. Có những khi khung xe đạp cần cho thị trường, tôi lại bận việc gì đó, buộc phải xin nghỉ, anh phàn nàn tôi vô lo. Tôi nhớ mãi câu nhận xét của anh: “ban ngày chạy rong, đêm chong đèn ngồi hàn”. Nhất là những lần tôi gặp được bạn bè học đại học ngày nào, vào Đà Nẵng tìm thăm, tôi vui lắm.
Thế là cả mấy đứa uống say mèm. Sáng ngày mai, tôi dậy không nổi. Anh chỉ cằn nhằn: “Lại uống rượu, không dậy được!”.
Tôi rất nể sợ anh. Với tôi, anh không những là một người anh hết lòng lo cho em mà còn là người cha đáng kính. Nếu cha tôi là người bố có công nuôi tôi khôn lớn thì anh là người cha lo cho tôi về mọi mặt, nhất là vấn đề học hành của tôi ngày còn thơ và khi ra trường, đi dạy.
Dưới mắt anh, tôi vẫn là một đứa em út còn dại khờ, chưa đủ bản lĩnh để sống ngoài đời. Còn nhớ ngày tôi cầm quyết định về dạy trường trung học Hòa Vang, anh chở tôi đi trên xe Yamaha đàn ông, bây giờ cảm giác của tôi vẫn còn ghi đậm mùi những lá tre rớt đầy đường bị ung thúi, mùi phân trâu rãi rác trên bờ cỏ hai bên đường. Tôi vẫn nghĩ thầm con đường này, rồi đây ta vẫn đi dạy ngày hai buổi đây sao? Nhưng với anh thì Hòa Vang là một chỗ dạy lý tưởng cho những người mới ra trường như tôi. Và quả thật y như thế, sao này tôi tìm thấy ở ngôi trường trung học Hòa Vang Đà Nẵng một cảm giác ấm áp dịu dàng đầy thân tình của những người đồng nghiệp.
Các giờ triết học tại các trường tư thục Bồ Đê, Bán Công anh đều giao lại cho tôi dạy, sau khi đã cam kết với Hiệu trưởng là tôi đủ khả năng. Cours triết thì anh soạn sẵn, quay ronéo và phát cho học sinh. Các trường Bồ Đề, Bán Công là những trường rất kén chọn đội ngủ giáo sư, một người mới ra trường như tôi làm sao họ chịu nhận để tôi dạy triết học, một môn mà với học sinh, quá mới mẽ và rất khó hiểu. Thế nhưng bằng sự cố gắng, với tinh thần trách nhiệm , tôi đã dạy học sinh trong hai niên khóa mà không có một lời ta thán hay phàn nàn từ ban Giám hiệu nhà trường.
Cuối niên khóa 1974, anh nói với tôi:
- Mi là GS mới ra trường, còn quá trẻ, mà đã dạy được trong những lớp học trên 100 học sinh. Lớp không bị mất trật tự, học sinh im lặng ngồi nghe giảng bài. Vậy là mi đã thành công. Năm tới đây, tau sẽ giao lại các lớp triết tại trường trung học Phan Thanh Giản cho. Tau cần có thời gian để viết sách. Hãy cố lên!
Tôi biết anh nói là làm. Không ngờ xảy ra sự kiện 1975…
Do đó, khi tôi xin nghỉ dạy, về làm khung xe đạp cùng anh thì anh rất lo lắng cho công việc của tôi.
Tất cả các khâu từ vật liệu làm cho đến đồ nghề anh đều lo hết cho tôi. Tôi chỉ việc ngồi hàn, làm, hoàn thiện khung xe. Chỉ có công việc kiểm tra lại khung trước khi cho xuất xưởng là anh đảm nhận.
1981, tôi lập gia đình và anh là người lo cho tôi toàn bộ, từ A tới Z. Ngôi nhà hiện nay tôi đang ở, với biết bao ki niệm là do anh mua và giao tôi. Đây là nơi mà anh cùng các học trò trãi qua những tháng ngày làm khung xe đạp. Biết bao nhiêu kỉ niệm buồn vui chất chứa tại đó.
Khi đứa con trai đầu tiên chào đời, tôi đặt tên cho nó là Fourche để đánh dấu bước chuyển hướng trong nghề nghiệp cũng như trong nhận thức của tôi, 2 năm sau, tiếp tục đứa con gái thứ, tên là Guidon.
Fourche lớn lên, khuôn mặt khôi ngô, sáng sũa, thông minh. Hai bác cháu quyến luyến nhau không rời. Bác ở đâu, làm gì trong nhà, cháu Fourche đều bên cạnh quan sát bác làm. Chỉ tội cho bé Guidon, 2 năm sau chào đời, chưa được bác bế bao nhiêu, đã vội ra đi. Một hai lần bác bế guidon chưa nóng vòng tay, Fourche đã la lên, không chịu, khiến bác phải vội để Guidon xuống.
Một điều an ủi cho anh và cho tôi, từ bỏ nghề nhà giáo nhưng những người bạn, đồng nghiệp một thời với mình vẫn còn lui tới. Một số vì liên hệ đặt khung xe, một só vì tình bạn đến chơi, chuyện trò. Cũng qua anh, tôi biết được những thế hệ đàn anh của tôi, anh Trần Gia Phụng, anh Lê Long Viên, anh Đỗ Nguyên, anh Nguyễn Châu Hóa, vợ chồng anh Tâm, chị Lê, anh Lê Quang Mai, …trong đó kể cả Thượng tọa Thích Minh Tuấn, Đại đức Thích Minh Đàm.
Thầy Minh Tuấn, Minh Đàm, sau 1975, trở thành những nhà buôn, chuyên cung cấp ống, rắc co, boite xe đạp cho những nơi làm khung xe đạp.
Những năm cuối đời của anh vẫn còn là những năm xã hội VN đang còn trong thời kì bao cấp, vẫn còn cả ngày sắp hàng để chờ giãi quyết tem phiếu. Mặc dù chợ vẫn còn đó, buôn bán nhỏ lẽ vẫn còn. Những người có tiền, có điều kiện vẫn có thể sống thoải mái. Và trong hoàn cảnh đó, anh tôi không đến nổi sống thiếu thốn và anh đã lo cho vợ con, các em, những người thân ngoài Huế đầy đủ.
Tôi nghĩ anh như cây đại thụ che bóng mát cho những người thân yêu. Anh làm việc không dành cho mình chút thời gian ngơi nghỉ. Đó là niềm vui của anh. Anh vui khi người khác vui.. Có thể vì vậy mà sức khỏe anh không cho phép. Tháng ba năm 1984, anh bị một cơn đau đầu dữ dội, thỉnh thoảng một vài lần ngất đi, không hay biết gì hết, sau đó lại hồi tỉnh. Và anh lại làm việc, coi thường. Chúng ta lưu ý điều kiện y tế giai đoạn 1984, thời kỳ bao cấp, Việt Nam hoàn toàn bị bế quan tõa cảng. Do đó cơn bệnh của anh vẫn không có điều kiện chăm sóc, mặc khác lại tính bướng bỉnh, coi thường bệnh tật của mình.
Thời gian tiếp theo sau đó, anh bị mê rồi lại tỉnh, giữa cơn mê và cơn tỉnh rất khó phân biệt. Các bác sĩ là bạn bè quen thân giai đoạn đó đều bó tay, chỉ biết chích Vitamine C nồng độ cao và uống Paracétamol. Những ngày sau cùng, anh nằm phòng cấp cứu hồi sức thế rồi anh đi luôn vào một chiều tháng tư âm lịch, sau lễ Phật đản. Năm ấy anh chỉ vừa được 50 tuổi.
Sống là gửi, thác là trở về. nhưng sự ra đi đường đột của anh đã để lại cho tôi những khoảng trống kinh khủng. Những năm tháng đầu tiên không anh, tôi như bị hụt hẩng, đi đâu và ở đâu tôi cũng cảm thấy thiếu vắng. Những con đường thân quen anh từng chở tôi đi qua mỗi ngày. Không gian, nơi chốn anh cùng tôi, ...Ngôi nhà quen thuộc, phòng làm việc, chỗ ngồi, ...
Tất cả, tất cả đều thiếu vắng anh.
Đã 30 năm qua rồi! …
Và hàng năm, những người thân vẫn lên thăm anh trên một độn cát trắng của làng Hiền Lương, thắp nén hương, tưởng nhớ những ngày xa xưa ấy,
Có anh…