• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Lý Công Uẩn và Chiếu dời đô, áng văn bất hủ

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Lý Công Uẩn và Chiếu dời đô, áng văn bất hủ

    .
    Lý Công Uẩn và Chiếu dời đô, áng văn bất hủ

    Chiếu dời đô trên đất Hoa Lư

    1000 năm trước, trên mảnh đất Hoa Lư, vua Lý Thái Tổ đã đọc chiếu dời đô trước văn võ bá quan để dời kinh đô từ Hoa Lư về thành Đại La nằm ở trung tâm của nước Đại Cồ Việt:

    “…Thành Đại La nằm ở giữa trời đất đông tây nam bắc, có thể rồng cuốn hổ ngồi. Trên dưới đất rộng, bằng phẳng, cao ráo sáng sủa, muôn vật phong thịnh. Thật là nơi tụ họp của bốn phương, là đất kinh đô của muôn đời”.

    Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, chiếu dời đô vẫn là một áng văn bất hủ thể hiện tầm nhìn sáng suốt của một vị vua với vận mệnh dân tộc Việt.

    Kinh đô Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Sau khi dẹp loạn 12 sứ quân Đinh Bộ Lĩnh đã nên ngôi Hoàng đế và đóng đô ở Hoa Lư. Xét về bối cảnh lịch sử thời đó việc định đô ở quê hương là một quyết định hoàn toàn đúng đắn.

    Thứ nhất, sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, việc lập đô ở quê hương chắc chắn sẽ phát huy tốt nhất lợi thế nhân hòa, địa lợi của người lãnh đạo. Quê hương bao giờ cũng chính là hậu cứ vững chắc nhất, là nơi nuôi nấng những ước mơ, khát vọng để vị hoàng đế này lập nên những chiến công hiển hách.

    Tư tưởng này trong lịch sử Việt Nam xuất hiện khá nhiều như Hai Bà Trưng lập đô ở Mê Linh, Hồ Quý Ly dời đô về Thanh Hóa, Nguyễn Huệ lập Phượng Hoàng Trung Đô và ngay cả các triều vua định đô ở Thăng Long cũng đều xây dựng quê hương mình thành kinh đô thứ 2 làm hậu cứ như nhà Trần với phủ Thiên Trường, nhà Lý với phủ Thiên Đức, nhà Hậu Lê với điện Lam Kinh, nhà Mạc với thành Dương Kinh .v.v.

    Thứ hai, Kinh đô Hoa Lư có một thế phòng thủ cực kỳ vững chắc với đặc trưng: “Núi trong sông, sông trong núi, căn cứ thủy bộ rất thuận tiện. Sau lưng là rừng, trước mặt là đồng bằng, xa nữa là biển cả. Nơi đây non sông tráng lệ, phong thủy hài hòa xứng đáng chọn để lập đô được.” Thực tế đã chứng minh khi Cổ Loa là kinh đô, An Dương Vương từng bị quân giặc đuổi ra tận biển. Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha và các con tranh giành quyền lực cũng không giữ nổi ngai vàng để các thế lực khác tiến đánh kinh đô như chốn không người. Với Kinh đô Hoa Lư, không chỉ các thế lực thù trong mà giặc ngoài thời đó như Tống, Chiêm cũng không thể nào hàng phục được.

    Thứ ba, Việc xây dựng kinh đô Hoa Lư vua Đinh Tiên Hoàng đã tính đến yếu tố tiết kiệm sức người và của. Với tiềm lực kinh tế yếu của một dân tộc vừa trải qua 1000 năm bắc thuộc thật khó có đủ thế mạnh quân sự để chống đối với các thế lực phương bắc. Khi xây thành Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh đã tận dụng tối đa điều kiện của tự nhiên với các ngọn núi, sông ngòi sẵn có làm thành quách. Chúng chính là những bức tường thành tự nhiên sẵn có và làm giảm bớt sức lao động của thần dân bằng việc nối các khoảng giữa hai vách núi bằng tường thành nhân tạo.

    Trên nền tảng kinh đô ấy, Vua Lê Đại Hành đã mở mang, phát triển kinh tế và lập tiếp những trang sử vẻ vang trong lịch sử dân tộc là đại thắng quân Tống trên 2 tuyến bộ và thủy. Ông cũng là người dẹp tan họa Chiêm thành đem lại thái bình cho dân tộc.

    Năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê, Vua Lý Thái Tổ tiếp tục ở lại kinh đô Hoa Lư. Lúc này nền kinh tế nước nhà đã có một bước phát triển mới. Hoàn toàn có đủ khả năng và sức mạnh đối phó với nạn ngoại xâm. Nhà vua nhận ra vị trí của Hoa Lư không còn phù hợp với việc phát triển mở mang thành chốn phồn hoa đô hội. Ông đã nung nấu viết chiếu dời đô để xây dựng kinh đô mới tại Thăng Long.

    Trong lịch sử dân tộc đây là vị vua duy nhất khi dời bỏ kinh đô đã có quyết định ban chiếu trước văn võ bá quan. Chính vì kinh đô Hoa Lư có một vị thế đặc biệt quan trọng như vậy nên việc dời đô mới thực sự khó khăn và là một việc làm dũng cảm.

    Phải có tầm nhìn sáng suốt và thấu đáo suốt chiều dài lịch sử mới dám rời bỏ cả một kinh đô mà các tiền nhân đã bao công xây dựng. Chiếu dời đô đồng thời khẳng định đây là lo cho vận mệnh dân tộc sau này chứ không phải vì ý riêng mình.

    Sau khi dời đô về Thăng Long, vua Lý Thái Tổ đã cải Hoa Lư thành phủ Tràng An đồng thời mang các địa danh của Hoa Lư đặt tên cho Thăng Long mà còn đến hôm nay như: phố Cầu Đông, ô Cầu Dền, đường Tràng Tiền, chùa Một Cột .v.v. Lịch sử 1000 năm Thăng Long Hà Nội là trang sử hào hùng của dân tộc Việt mà không nơi nào có được. Năm 2010, đây sẽ là sự kiện trọng đại mang tầm vóc quốc gia.

    Hôm nay, đứng trên đất Cố đô Hoa Lư 1000 năm tuổi, trước nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ, ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây chiếu dời đô còn vang vọng. Đó là một áng văn bất hủ của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.


    "Thiên đô chiếu" được khắc tại Tiêu Sơn tự, tọa lạc trên núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (ảnh: Báo Thái Bình)



    遷都詔

    Thiên Đô Chiếu

    李公蘊


    Lý Công Uẩn


    昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。以其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上 謹天命。下因民志。苟有便輒改。故國祚延 長。風俗富阜。而丁黎二家。乃徇己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。百姓耗 損。万物失宜。朕甚痛之。不得不徙。

    况高王故都大羅城。宅天地區域之中。得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。便江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土 高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極繁阜之 丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四方輻輳之要会。爲万世帝王之上都。

    朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。

    Âm Hán Việt


    Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

    Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.

    Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?


    Nghĩa:

    Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô[1], nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô[2];, há phải các vua thời Tam Đại[3]; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.

    Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương[4], ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.

    Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?

    (Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)



    Chú Thích:

    1. Năm lần dời đô: Vua Thang (Thành Thang) đóng đô ở phía đông nam huyện Thương Khâu (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Trọng Đinh dời đô đến huyện Thành Cao (thuộc tỉnh Hà Nam). Hà Đản Giáp dời đô đến phủ Chương Đức (cũng thuộc tỉnh Hà Nam).Tổ Ất dời đô đến phủ Thuận Đức (tỉnh Hà Đông bây giờ). Bàn Canh dời đô đến huyện Yên Sư (hay Ân Sư thuộc tỉnh Hà Nam)

    2. Ba lần dời đô: Chu Văn Vương đóng đô ở phía đông tỉnh Thiểm Tây. Chu Vũ Vương dời đô đến huyện Tương Yên (tỉnh Thiểm Tây). Chu Thành Vương dời đô đến huyện Lạc Dương (tỉnh Hà Nam).

    3. Thời Tam Đại: Ba nhà Hạ, Thương, Chu trong lịch sử Trung Quốc.

    4. Cao Biền: Quan đô hộ Giao Châu của nhà Đường vào khoảng các năm 864-875. Cao Biền đắp thêm thành Đại La (Hà Nội ngày nay) vào khoảng năm 866.


    .
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 24-09-2010, 05:07 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    06:59 | 01/10/2010
    Chuyện khuôn 'Chiếu dời đô' vào phiến ngọc 40 tấn

    Chỉ ít bữa nữa tại khu Cấm thành Thăng Long vừa được UNESCO công nhận Di sản văn hóa nhân loại, trước sân Đoan Môn sẽ có một điểm nhấn bắt mắt khách tham quan. Đó là phiến ngọc lớn hội đủ sắc hồng cùng lam cao 5,4 m, rộng 4 m, nặng hơn 40 tấn, đựng trong lòng nó là 'Chiếu dời đô'.



    TS Nguyễn Công Việt (áo trắng) .

    Những vưu vật của tạo hóa thường có lộ trình bí ẩn mà bao giờ cũng lựa những thời khắc bất ngờ nhất mà phát lộ.
    Những giai đoạn công phu cho những công trình kỷ niệm ngàn năm Thăng Long đã đi vào hoàn tất. Thế mà khoảng tháng 6-2010, bỗng từ một tỉnh phía Nam có tin người ta tình cờ phát hiện ra một khối ngọc lam lẫn hồng nguyên khối. Quý và lạ hơn là khối đá ấy sẽ được hiến tặng cho dịp Đại lễ ngàn năm. Khối đá ấy nếu được đưa ra Thủ đô đã là chuyện kỳ khu. Quý nữa là nó sẽ được chế tác, không phải xẻ chẻ ra để sản xuất đồ mỹ nghệ mà là chi dùng cho một việc lớn khác: Trong lòng khối ngọc ấy sẽ khuôn nội dung bức Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ!

    Kỳ khu lộ trình
    Chúng tôi đang ngồi với ông Lê Xuân Phương chủ nhân của thứ vưu vật ấy. Đã đành phiến ngọc thạch nặng tới 40 tấn này được phát lộ tại một mỏ đá từ miền cao nguyên Lâm Đồng. Nhưng tại nơi cụ thể nào trong những rừng rú của cao nguyên mênh mông tỉnh Lâm Đồng? Đem cái thắc mắc ấy mà hỏi thì chỉ nhận được cái lắc đầu. Rồi cái tên Viện nghiên cứu Doanh nhân Đông Nam Á của ông Lê Xuân Phương cũng chả phải là nhiều người biết? Ngay cả con người ông Phương chừng như cũng toát lên vẻ bí ẩn nào đó? Mới ngoài 40, có lẽ thế, nhưng ông Phương có vẻ u ẩn... Rất kiệm lời. Đa phần là gióng một.

    Hỏi nguyên cớ của ý tưởng khuôn Chiếu dời đô vào lòng phiến ngọc, ông Phương chỉ cười mà rằng, quý vật như Chiếu dời đô phải gặp được quý vật khác như khối ngọc đây, để mà thể hiện. Trong câu chuyện lúc đứt lúc nối, chúng tôi nghe được rằng trong một chuyến công tác ở Nhật Bản, tại một vùng quê nọ, ông Phương đã tình cờ nhìn thấy một phiến đá sắc ngọc nuột nà. Trên mặt đá ghi tên những người từng có công trạng cũng như di tích của làng. Thật bất ngờ, ông Phương được biết phiến ngọc kia người ta không biết bằng cách nào đã chuyển từ Việt Nam sang? Có lẽ cái ý tưởng thể hiện bức chiếu đã được bắt đầu đã được vỡ vạc với ông Phương từ ngày ấy? Cũng chẳng biết nữa!

    Chúng tôi cũng biết ông Phương là một chuyên gia về khoa học xã hội. Ông còn là một đại gia? Phải là cỡ đó thì mới làm cái việc hằng tâm hằng sản cùng nhóm của mình hiến tặng cho đại lễ Thăng Long, mới tính sơ sơ thôi đã là vài chục tỷ đồng toàn bộ công trình này! Nhưng điều này không mơ hồ mà có thực trong thứ ánh sáng nhá nhem của khu vực sân Đoan Môn của Hoàng thành tốp thợ mấy chục người của ông Phương đang tất tả dòng những sợi cáp to từ hai chiếc xe cẩu bắt vào khối đá quý để dong nó vào vị trí đắc địa!



    Khẩn trương thi công.

    Kỳ công chế tác
    Bù lại vẻ kiệm lời của ông chủ Lê Xuân Phương, một yếu nhân khác trong nhóm trông cởi mở kiêm việc phụ trách công trình là anh Hoàng Anh Tuấn. Tuấn trông cứng hơn cái tuổi băm của mình. Có lẽ cũng bất ngờ, Tuấn chừng như khá thông thạo khoản ngọc? Tôi biết khối ngọc thạch được dùng để tạc bức Chiếu dời đô thuộc loại đá bán quý Ca-xe-don (Chalcedony).

    Ở Việt Nam đá Ca-xe-don thường có tại một số tỉnh thuộc Tây Nguyên. Đây là loại đá đa khoáng nên không trong suốt như đá đơn khoáng; có màu sắc hấp dẫn (nâu, vàng, lục, xám, trắng,...), lại có khả năng tán sáng màu cầu vồng khi có ánh sáng chiếu vào bề mặt. Đặc biệt, hơn hẳn các loại đá khác, loại đá Ca-xe-don có độ cứng khá cao. Bởi vậy, từ xưa, loại đá này đã được dùng để trang trí mặt dây chuyền, hay một số nữ trang khác; dùng làm đá cảnh và chạm khắc các tượng nhỏ, ly, bình đựng rượu lễ…

    Tôi quên không hỏi anh Tuấn là không biết khối ngọc thạch được dùng để thể hiện Chiếu dời đô có phải là khối đá Ca-xe-don lớn nhất được phát hiện khai thác ở Việt Nam? Lại được biết thêm, khối ngọc khi phát hiện tại mỏ chẳng ai có thể đặt lên bàn cân để xem trọng lượng nhưng không phải 40 tấn như bây giờ mà phải gấp đôi.

    Trong quá trình vận chuyển khối đá ra khỏi khu vực mỏ, một máy cẩu đã gãy ngay tay trục. Chuyển khối đá ra khỏi khu vực mỏ đã khó, đích đến của khối đá trên quãng đường hơn ngàn cây số với những địa hình khác nhau còn gian nan hơn. Một chiếc xe tải siêu trường siêu trọng đã được điều đến. Một chiếc xe lu được sử dụng hộ tống chiếc xe tải có nhiệm vụ khai quang mở lối những đoạn đường xấu.

    Cứ nhích đi với tốc độ rùa bò như thế...
    Hơn nửa tháng trời ròng rã cả ngày lẫn đêm rồi một chiều muộn, chiếc xe tải dài thượt lấm lem bụi đường chở khối ngọc thạch khổng lồ ấy đã lùi bánh vào sân Cột Cờ thuộc Hoàng thành Thăng Long. Hẳn ý tưởng độc đáo của Lê Xuân Phương đã thấu đến những người có trách nhiệm với đại lễ. Người ta nhận ra Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, Trưởng ban tổ chức Đại lễ Thăng Long có mặt trong lễ đón khối ngọc quý!

    Sau khi đến Hoàng thành, khối ngọc thạch được sơ lọc, những người thợ thi công vẫn cần tới sự giúp sức của hai trục cẩu để xoay vần. Anh Tuấn cho biết, lúc thợ đông nhất lên tới 13 người. Lúc đầu thi công, tất cả mọi người trong đội đều lên mặt khối ngọc thạch để làm. Đục khắc, loại bớt những phần thừa, hình hài Chiếu dời đô trên khối ngọc thạch đã hiển hiện dần. Và để có thể xoay vần, người ta vẫn cần tới sự trợ giúp của hai tay cẩu lớn kềnh càng với sức kéo hơn 70 tấn.

    Chuyện của Hoàng Anh Tuấn khá thú vị. Để có thể chạm khắc những con chữ, hoa văn lên phiến đá, đội thi công đã sử dụng hàng trăm mũi khoan, mũi cắt, phá. Anh Tuấn chỉ cười, chỉ tay vào đống mũi khoan, mũi mài, mũi phá chất ở một góc lán ước phải tính hàng mấy tạ. Loại đá Ca-xe-don quý giá có đặc tính rắn. Tất cả những mũi khoan, mũi phá… sử dụng tại công trình đều là những loại đặc biệt làm bằng hợp kim, bọc kim cương để thành loại siêu cứng.

    Ý tưởng là một việc nhưng thể hiện ý tưởng ấy là cả một câu chuyện dài. Chúng tôi gặp ở hiện trường Đoan Môn, ông tiến sĩ (TS) Nguyễn Công Việt, Viện phó Viện Hán Nôm. Cái nghề đưa Chiếu lên ngọc quả lắm công phu. Được biết TS Nguyễn Công Việt kỳ công chọn được bản Chiếu dời đô (bản gốc ký hiệu VHv2330 trong Toàn thư) là bản hội đủ về nguyên tắc và ý nghĩa của văn bản học để các cơ quan có trách nhiệm dùng trong dịp Đại lễ. Từ bản gốc ấy thể hiện bằng loại chữ gì (khải hay chân) trên ngọc đá cho đắc địa? TS Nguyễn Công Việt đã tìm được người có chữ tốt làm mẫu.

    Ngoài chữ ra, những họa tiết hoa văn được vờn được thể hiện trên đá phải thế nào? Tức là phải toát lên trên ngọc công trình Chiếu dời đô mang nét đặc trưng của nghệ thuật tạo hình thời Lý. Đôi rồng chầu nhật phía trên bức chiếu mang nét rồng thời Lý: hiền hòa, không vảy, chân có ba ngón…

    Còn phía dưới, bức Chiếu dời đô được nâng lên bởi đôi Tịnh long (rồng nước) vờn sóng dữ. Bức Chiếu dời đô có 214 chữ. Thể hiện các con chữ lên phiến ngọc thạch cứng, rắn, những người thợ phải công phu, tỉ mẩn lắm. Kể về việc khắc chữ, anh thợ Hoàng Tuân tiết lộ: “hôm nào suôn sẻ, cả tốp thợ còn khắc được vài chữ. Còn gặp đến chỗ đá cứng thì có hôm chẳng được chữ nào”.

    ...Rời sân Đoan Môn đã muộn. Những quầng sáng được bố trí khá khéo tạo hiệu ứng bắt mắt của một công trình vừa được UNESCO tôn vinh. Trên bức Chiếu dời đô bằng chất liệu Can-xe-don vưu vật của tạo hóa từng im lìm ngủ quên hàng triệu triệu năm, những chữ những rồng thời Lý sẽ sống động lấp lánh kỳ ảo trong ánh sáng nhân tạo lẫn thiên tạo trong dịp Thăng Long ngàn tuổi này!

    Cũng có nhiều ý kiến rằng bức Chiếu dời đô trên ngọc đặt ở vị trí trước Đoan Môn này chưa thật đắc địa lắm? Mà phải là chỗ tiếp giáp sân Đan Trì hoặc sân Rồng hoặc thành một thứ án một bức bình phong trước điện Kính Thiên? Tôi nghe vậy cũng chỉ biết vậy! Nhưng ở vị trí nào của Hoàng thành mà lại không ý nghĩa trong những ngày lịch sử này?

    Mai Xuân Tùng
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom