• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Cây Xuân Hoa & Hoàn Ngọc

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Cây Xuân Hoa & Hoàn Ngọc

    Cây Xuân Hoa & Hoàn Ngọc

    404 Not Found" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Cây Xuân hoa có tên khoa học là Pseuderanthemum palatiferum (Nees) Radlk, thuộc họ ôrô (Acanthaceae). Qua nghiên cứu cho thấy thành phần hoá học của cây có các chất sau (xếp theo thứ tự từ nhiều đến ít): Sterol, đường tự do, carotenoit, flavonoit, axít hữu cơ, vết saponin và vết chất béo. Thử nghiệm cho thấy cây Xuân hoa không độc và không thấy có biểu hiện khác thường nào đối với người dùng.

    - Theo tài liệu chuyền tay trong dân gian mà chúng tôi có được thì cây Xuân hoa có rất nhiều công dụng, chữa các bệnh từ thông thường đến nan y. Nhưng phải qua các thí nghiệm mới xác minh được các tác dụng lưu truyền đó. Trước hết cao đặc toàn phần và các phân đoạn chiết tách từ lá cây Xuân hoa (cả cây trồng và cây mọc hoang) đều có tác dụng kháng khuẩn đối với nấm mốc, nấm men, đặc biệt vi khuẩn Escherichia coli ở đường tiêu hoá. Điều này phù hợp với kinh nghiệm dân gian dùng lá cây Xuân hoa chữa đau bụng, tiêu chảy do nhiễm khuẩn, rối loạn tiêu hoá. Ngoài ra, cao đặc lá cây Xuân hoa còn có tác dụng ức chế quá trình peroxy hoá lipid màng tế bào, có xu hướng tác dụng bảo vệ tế bào gan.
    - Lá cây Xuân hoa không mùi vị, hơi nhớt. Thường dùng lá tươi rửa sạch, nhai với mấy hạt muối rồi chiêu nước, hoặc giã nát lấy nước uống, hay nấu canh. Cũng có thể dùng lá phơi khô. Về liều lượng còn phụ thuộc vào loại bệnh của từng người: Thông thường ăn 5-7 lá/lần (lá nhỏ có thể dùng 7-9 lá), ngày 1-2 lần. Thời gian điều trị tuỳ vào bệnh như rối loạn tiêu hoá, tiêu chảy, lỵ trực khuẩn chỉ dùng 2 ngày là khỏi; đái rắt, buốt, ra máu dùng 3-4 ngày; viêm đại tràng co thắt điều trị khoảng 2 tuần, kết hợp với lá Mơ lông. Lá cây Xuân hoa cũng được dùng cho gia súc, gia cầm như chó cảnh sau khi đẻ cho ăn vài lá, gà chọi khi thi đấu cho ăn 1-3 lá.

    - Theo tiến sĩ Võ Văn Chi (Từ điển cây thuốc Việt Nam. NXB Y học 1997) cho biết ở Trung Quốc người ta dùng rễ Xuân hoa chữa đòn ngã tổn thương.
    - Để tránh nhầm lẫn, xin nhắc lại các đặc điểm dễ nhận biết của cây Xuân hoa: Cây bụi, cao từ 1-3m, sống nhiều năm, thân non mềm màu xanh lục, phần già hoá gỗ màu nâu, phân nhiều cảnh mảnh. Lá mềm mọc đối, mép lá nguyên. Phiến lá hình mũi mác, hai đầu nhọn, dài khoảng 15cm, rộng 4cm, khi vò tươi thấy lá nhớt và hơi dính tay.

    Cuống lá dài khoảng 2cm, gốc phiến lá men xuống cuống lá. Cụm hoa dài 10-16cm ở kẽ lá hoặc đầu cành. Hoa lưỡng tính, không đều, dài khoảng 3cm, cánh hoa màu trắng, phần dưới hình ống hẹp, trên có 5 thuỳ hoa chia làm 2 môi, thuỳ dưới của môi dưới có các chấm màu tím. Bao phấn màu tím. Vòi nhụy dài khoảng 2,5cm. Tuy nhiên nhiều người nói trồng xuân hoa đã 3-4 năm nhưng chưa thấy ra hoa, do thời tiết , bị hái lá, chưa rõ nguyên nhân?!

    Cách dùng và liều lượng:
    - Người ta dùng lá tươi là chủ yếu, lá tươi ăn ngay hoặc lấy nước uống, nấu chín lá ăn như canh.
    - Do tác dụng chủ yếu là chất nước trong lá, nên vỏ cây hoặc vỏ rễ có thể ngâm bằng rượu hoặc nấu lấy nước. Lá tươi không có mùi vị, dễ ăn, liều lượng nhiều hay ít tùy thuộc vào từng người. Thông thường nên ăn từ 1- 7 lá và ăn nhiều lần. Mỗi lần không quá 10 lá. Uống quá liều có thể phản ứng nhẹ như người bị choáng váng nhưng chỉ sau 10 – 15 phút là khỏi.

    Các số liệu sau đây là phổ biến (trừ ngoại lệ):
    - Ðau dạ dầy do bị loét, viêm: ăn 2 lần/ngày. Mỗi lần không quá 7 lá. Khoảng 50 lá là khỏi.
    - Chảy máu đường ruột: Uống lá tươi hoặc lá đã nát, dùng 7–10 lá. Khoảng 1-2 lần là khỏi.
    - Viêm đại tràng co thắt: Ăn như trên, 100 lá, kết hợp ăn lá Mơ lông trong bữa ăn. Ăn từ 1 đến 2 tháng.
    - Viêm gan, xơ gan cổ trướng: Ngày ăn 2-3 lần, mỗi lần 7 lá, dùng khoảng 150 lá.
    - Ðau thận, viêm thận, đau thường xuyên: Dùng không quá 50 lá, chỉ khoảng 30 lá là dứt cơn đau, ngày 3 lần, mỗi lần 3-7 lá.
    - Tả lỏng, đi lỵ, rối loạn tiêu hóa: 7-15 lá, dùng 2 lần là khỏi.
    - Mệt mỏi toàn thân: 3-7 lá, ăn 2 lần.
    - Ðái rắt, đái buốt, đái đục, đái ra máu: Ăn từ 14-21 lá hoặc giã nát uống nước đặc.
    - Chữa bệnh cho gà dùng 1-3 lá, gà chọi sau khi chọi 1-3 lá. Chó cảnh đẻ ăn 1 lá sau 1 ngày đẻ là mạnh ngay. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, ứ máu trong mắt lấy 3 lá đắp vào mắt sau một đêm là khỏi.

    - Được biết ở vài nơi có người thực nghiệm chữa cai nghiện ma túy có kết quả tốt. Họ dùng một nửa lá khô và một nửa lá tươi sắc đặc uống trước khi lên cơn nghiện từ 60-90 phút. Ngày uống 2 lần, uống liên tục một tuần, sau đó ngửi thấy ma túy là kinh sợ nên cai nghiện rất triệt để. Tuy nhiên trong thực tế có bệnh nhân dùng thì thấy khỏi, có bệnh nhân thì không khỏi do nhiều nguyên nhân khác nhau.

    Lưu Ý:
    - Dùng lá tươi là chủ yếu. Nấu lá chín dùng như canh cũng được. Vỏ hay rễ cây có thể chiết xuất bằng rượu hoặc nấu lấy nước. Liều lượng nhiều hay ít thuộc vào từng bệnh, từng tạng người. Thông thường nên ăn 1-4 lá, không nên quá 7-9 lá. Nếu quá liều có thể gây phản ứng nhẹ như choáng váng, nhưng chỉ sau 15 phút là khỏi. Gián cách giữa hai đợt ăn từ 7 giờ trở lên. Thường dùng ngày hai lần, trước khi ăn cơm. Không phải kiêng cử.

    - Lá già thì đắng, có bột, lá non thì nhớt, không mùi, không có độc tố, vỏ và rễ có mùi như lá già, lá cây tươi có tác dụng kích thích thần kinh. Dùng nhiều có cảm giác say nhẹ trong thời gian ngắn. Nấu chín ăn như rau, không phản ứng gì, nếu dùng không đủ liều lượng thì không có tác dụng. Tăng giảm liều lượng tùy từng người.

    - Theo dõi kết quả hoặc phản ứng sau khi ăn và sau một đến hai ngày mà thay đổi liều lượng và số lần ăn trong ngày cho thích hợp. Ăn lá vào buổi sáng khi bụng đói khi chưa ăn gì, các bữa ăn cách nhau 60-90 phút. Chú ý sau khi ăn xong, nằm yên tĩnh 15 phút duỗi thẳng chân tay, mắt nhắm không lo lắng, nghĩ ngợi lung tung. Đó là thời gian tự điều chỉnh. Không thực hiện thời gian nghỉ này thì kém hiệu quả.

    ---------------------
    Cây Hoàn Ngọc
    -Cây Hoàn Ngọc thuộc họ Acanthaceae, còn có tên là cây Tu Lình, cây Nhật Nguyệt hay cây Con Khỉ, cây Xuân Hoa, cây Thần dưỡng sinh, cây Trắc Mã, cây Điền Tích, cây Lan Điều. Tên khoa học là Pseuderanthemum Palatiferum Radik (Nees).

    -Xuất xứ cây này được gọi là cây “con khỉ” vốn là vì khỉ ăn chữa khỏi bệnh thủng ruột, nhưng sau đổi thành “Hoàn Ngọc” vì đã trả lại cho chú bé có hòn dái bị biến mất do trò chơi nghịch đá vào bìu nhau.
    Cây thuốc rất đa năng. Từ hồi phục trạng thái của cơ thể khỏe mạnh đến các bệnh thông thường cũng như hiểm nghèo. Cây thuốc như cứu tinh trong nhiều trường hợp thúc bách, không rõ nguyên căn, nhưng sau khi ăn, diễn biến của bệnh tương tự như một hành động điều trị, điều chỉnh trạng thái cơ thể, chỗ nào yếu điều trị chỗ đó.

    . Khôi phục sức khỏe cho người ốm yếu, mệt mỏi, người già, suy nhược thần kinh, làm việc quá sức, khủng hoảng về tinh thần và thể lực.
    2. Cảm cúm nhiệt độ cao, rối loạn tiêu hóa.
    3. Chấn thương chảy máu, dập gãy cơ thể, dùng như nước uống và thuốc đắp. Ðặc biệt hiệu nghiệm với vết thương sọ não.
    4. Khi bị nhiều bịnh một lúc như: Bệnh đường ruột, cảm cúm, gan, thận . . .
    5. Ðau dạ dầy, chảy máu đường ruột, lở loét hành lá tràng, viêm loét đại tràng, trĩ nội.
    6. Ðau gan xơ gan cổ trướng.
    7. Viêm thận, viêm đường tiết niệu, đái ra máu, đái buốt, đái đục, đái rắt, bìu đau nhức. Sau khi uống hoặc ăn 150 lá đến 200 lá khỏi hẳn, tràn dịch màng phổi chữa đều tốt.
    8. Ðau bên trong không rõ nguyên nhân.
    9. Ðau mắt đỏ, mắt trắng, đau ứ máu.
    10. Phụ nữ đang cho con bú bị sa dạ con cũng ăn lá thuốc không ảnh hưởng gì đến sữa.
    11. Ðối với người có bệnh huyết áp cao hoặc thấp ăn lá thuốc đều có hiệu quả, ổn định được thần kinh, rối loạn thần kinh thực vật đều chữa khỏi.
    12. Có thể dùng cho chó Nhật, như đẻ một ngày cho ăn lá sạch ngay. Gà chọi sau khi chọi cho ăn lá nó khôi phục sức gấp 3 lần.

    Theo tôi dùng chữ “thần dược” với cây thuốc nầy cũng không quá, là một nhà nghiên cứu tôi muốn đặt câu hỏi tại sao để chúng ta bàn luận. Tại sao khi ăn thuốc có khả năng hiệu chỉnh làm cơ thể ổn định? Có lẽ nhờ phân tích hóa chất gì đó đã tạo nên những hiệu quả như vậy.

    Chúng ta tốn rất nhiều thời gian và phải có thí nghiệm tốt. Theo kinh nghiệm trong dân gian, ta hãy rút ra từ thực tế. Ví dụ: suy nhược thần kinh nặng, huyết áp cao, huyết áp thấp, đái ra máu, đái rắt đều chữa được rất nhanh chóng. Có những bệnh xem như đối lập nhau cho một loại thuốc nhưng ngược lại thuốc vẫn chữa được.

    Phải chăng theo quy luật bảo toàn, cơ thể con người có khả năng bảo tồn lấy sức khỏe nên đã tự động tăng sức đề kháng hoặc tự điều chỉnh, tự cân bằng tương đối để thắng bênh.

    Ở đây, khi ta dùng “Hoàn ngọc”, lá thuốc này có tác dụng chữa bệnh như châm cứu, tức là tự động điều chỉnh lại cơ thể nhưng hoàn toàn tự động hoá để khắc phục bệnh tật do tự tác dụng, tự cân bằng âm dương. Vì vậy cây còn có tên là “Nhật Nguyệt”.

    Chính vì thế mới có khả năng chữa nhiều bệnh cùng một lúc như vậy. Chính từ những suy nghĩ đó, chúng tôi đã vận dụng để chữa được rất nhiều bệnh và phục hồi sức khỏe. Tuy nhiên với từng người còn phải có liều lượng cho phù hợp do tính chất cân bằng âm dương và hàn nhiệt của từng người.

    Mô tả cây thuốc
    Ðây là loại cây lá dài nhọn, mặt sau hơi nhạt, không bền mà chỉ vàng một chút là rụng ngay.

    Cây có thể cao 1-2 m (nếu trồng trên đất vườn nhà), sống lâu năm. Thân cây xanh hoặc tím lục, khi già chuyển thành màu nâu, phân ra nhiều mảnh. Lá mọc đối xứng hình mũi mác, hoa mọc ở kẽ lá hoặc đầu cành, lưỡng tính. Quả nang 2 ổ, mỗi ổ chứa 2 hạt. Mùa hoa từ tháng 4 đến tháng 5 âm lịch. Tuy nhiên nhiều người nói trồng xuân hoa đã 3-4 năm nhưng chưa thấy ra hoa, do thời tiết hay do bị hái lá, chưa rõ nguyên nhân?!

    Cây rất dễ trồng, chỉ cần dùng một nhánh con giâm vào đất vườn nhà hoặc trồng trong chậu kiểng. Cây chịu đất xốp và có độ ẩm trung bình. Trồng khoảng trên 2 tháng là có thể dùng làm thuốc chữa bệnh.
    Lưu ý: theo lương y Đinh Công Bảy, Tổng thư ký Hội Dược liệu TP SG, còn có loại cây Hoàn ngọc lá dài, màu xanh đậm, thân bò, trên 1 m, không dùng chữa bệnh.

    (Theo: TS Trần Công Khánh, GS Phạm Khuê, Từ điển Bách khoa dược học (1997))
    Sống trên đời

    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom