• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Bút Máu - Vũ Hạnh

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Bút Máu - Vũ Hạnh

    Tập Truyện ngắn chọn lọc Bút máu là tập 12 truyện của nhà văn Vũ Hạnh - NXB Văn học ấn hành. Xin giới thiệu đến bạn đọc.






    Truyện ngắn Bút máu ra đời năm 1958 - được xem là tuyên ngôn nghệ thuật cho nghiệp cầm bút của nhà văn Vũ Hạnh.


    Bút Máu

    Lương Sinh người ở Mân Châu, con nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh dĩnh ngộ từ khi tóc để trái đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng" được tán thưởng nhất mấy câu:

    Trăng cũ phô đầu bạc
    Liễu tơ chuốt mi dài
    Trăng, liễu xa ngàn dặm
    Một tối hẹn vườn ai.

    Năm lên mười hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng, luôn luôn giật mình, nằm mơ thấy toàn máu lửa, sọ xương.
    May có người cậu đem về săn sóc đêm ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa Dương cho bài Hi - di Ninh - thần dùng toàn não tủy một giống Bạch hầu trong núi Nga Lâm, uống thuần với nước viễn trí nên được lành bệnh, tâm thái trở lại an tĩnh điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được người cậu gửi đến Lã Công, một quan Thủ hiệu bãi chức từ lâu ở nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho luyện tập. Giữa buổi Sinh đang múa kiếm, bỗng dừng phắt lại, đưa kiếm lên ngửi rồi cau mày kêu lên:

    - Máu người tanh quá!

    Đoạn đem thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.

    Đến nhà, lậy cậu thưa lên:

    - Võ nghệ không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ thể quý giá vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn ấy cháu không làm được.

    Người cậu giận lắm, bảo rằng:

    - Mày thực cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác quái cho người, lại càng có tội!

    Lương Sinh cúi thưa:

    - Ai cũng cho mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.

    Cậu nói:

    - Hoài nghi như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân biệt được giả, chân, thiện, ác, làm sao có thể tự tin mà sống trên đời? Xã hội chưa đâu có thể gọi là chốn thiên đường, bên cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi dao, không thể chỉ thấy một chiều chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn những mong cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày ta không nói nữa.

    Từ đấy, Lương Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan xa, lan rộng như sóng trên biển chiều gió thổi. Quan lệnh trấn mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn những thi tuyển của Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình thơ. Khi quan giao trả, Sinh thấy sau những bài đắc ý nhất của mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chữ uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nữ chuyển họa". Hỏi, biết Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều lần lảng vảng sau tư thất để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê đắm tâm thần hơn nữa. Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén Sinh làm giai tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà bay lên. Bấy lâu, ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.

    Trong lễ hôn phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gày, mũi nàng hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, xong nghĩ duyên số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là một điều an ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ xướng họa, nàng đều từ chối. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp:

    - Chàng kén thiếp làm vợ đâu phải để làm thơ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi.

    Đã thế, nhiều lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ những bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì khi giận dữ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba đêm liền không tiếp.

    Càng ngày Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên cằn cỗi y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị. Nhân tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du xuân thủy, tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần phong phú, siêu dật.

    Bước ra khỏi nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơi phới, quanh co theo một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ màng lá đào rơi rắc, mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình chứa chan ở trong cảnh sắc, mầu trời, như theo giác quan rào rạt thấm vào mạch tủy, khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ ở nhà, nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng những cơn giận dữ. Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn túi thơ chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều dân cư thưa thớt, Sinh chán nản định quay về, nhưng ruột đói lưỡi khô, bèn đi tìm một tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy một bóng người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống, tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày hội lớn, vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít bữa. Đang ngồi nhắm rượu lại nghe những tiếng hò hét rồi thấy đám người ở cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng mười lính hầu áo mầu lòe loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước quán thì bị nghẽn người, dừng lại, Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biết là Lý Duyên Hương con quan Tổng đốc vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình. Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến Sinh ngây ngất, tưởng như gặp tiên giáng trần, sửng sốt chiêm ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu chạm vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một trời tình, Sinh lảo đảo đứng lên, không phải say vì rượu, trả tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn, kiệu vào trong chùa, Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có vợ ở nhà.

    Trong chùa chật ních những người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nữa. Lương Sinh chen vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người ngọc. Thoạt nhìn lên một bục cao, hương trầm nghi ngút, sực nức mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa chẳng chịu thế phát quy y.

    Một lát, tiểu thơ quay vào bàn lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗng nảy ra một ý. Lại gần biệt phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:

    Lá gió đầu xuân, đưa đẩy duyên trời hẹn ước,
    Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
    Động biếc, thoáng cười tiên nữ
    Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần
    Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
    Bóng đêm hang thẳm long lanh một vẻ giai nhân.


    Rồi bẻ cành hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi người sợ hãi bật ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu thoáng thấy kêu lên:

    - Có người ám hại tiểu thơ.

    Lập tức hai ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy Lương Sinh. Những người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn xuống không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã toan mở lời khống chế, nhưng lính xông vào trói chàng.

    Đám đông có tiếng thì thào:

    - Anh ta chỉ ném có một cành hoa thôi đấy.

    - Bấy nhiêu cũng đủ héo cuộc đời rồi.

    - Qua dinh Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm tiểu thơ vàng ngọc!

    Lúc ấy Lương Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bí truyền của nhà họ Lã.

    Về đến nha môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam, rồi tâu trình lên tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Lương Sinh nghĩ cuộc đời bằng phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang vật là mảnh hoa tiên.

    Sinh cúi đầu thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói. Trước sự kinh hoàng của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh chối từ hai, ba lần không được. Quan nói:

    - Ta thường ước ao được gặp một người tài đức nay biết người là danh sĩ nên thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ xuất phạm điều vô lễ vừa rồi, ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây cùng ta hưởng mấy ngày xuân vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta khao khát lâu nay.

    Đoạn truyền đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc, hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều, mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời Sinh thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa, nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ ý làm thinh.

    Độ vài hôm sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo lập cho dân: kia là dòng suối quanh co quan khai thông để dân lấy nước cày cấy, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.

    Ngồi trên kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác mầu mà miệng không ngừng tán tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chứa chan nhiệt tình đối với những bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ khinh.

    Đến đâu quan cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng, Sinh phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu. Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán tổng kết công đức của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký để ghi tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt. Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa bạch, mấy nén vàng, nhưng Sinh một mực chối từ không nhận để giữ vẹn lòng thanh khiết.

    Giữa mùa xuân ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liền. Tuyết Hồng hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưng Sinh ngày đêm khắc khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được một câu nào, Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nữa. Ngoài nỗi bệnh tật giày vò, sinh còn bị nỗi băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấy ngủ chập chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm xuống, hơi thở nóng ran như lửa.

    Một sớm đang nằm, nghe tiếng chim hoàng oanh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua khe cửa chợt tàn. Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mấy nụ hoa thắm cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt từng giọt thắm hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngồi sững sờ, tâm thần thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn như vết huyết khô trên cát. Sinh vội buông bút, tưởng chừng bàn tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp. Quệt tay vào áo; đau nhói trong người. Sinh nằm vật xuống, mê man bất tỉnh.

    Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng khao khát cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại, Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư vừa cầm bút lại thấy lảng vảng sắc máu, không sao đủ can đảm vạch được nét bút nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu không sống thoát.

    Người cậu của Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa Dương ở với đạo sĩ họ Trình, một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau khi nghe Sinh thuật hết những điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ hồi lâu, rồi nói:

    - Ta từng bảo cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lưỡi gươm tuy ác nhưng mà trách nhiệm rõ ràng lỗi lầm tác hại cũng trong giới hạn. Mượn sự huyễn hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi. Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục mà quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa, hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại, đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên điều sâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm những điều vô đạo?

    Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng dồn thành ngàn dẫy Thiên Sơn? Thần tạng của cháu kinh động thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng? Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.

    Lương Sinh nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem như minh mẫn hơn nhiều. Cơn bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình đọc lại từng câu, dò lại từng chữ, thấy toàn là ý bướm tình hoa, phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ thấy những bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ trọi, những tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác sợ hãi, những đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống lại trước mắt. Những cảnh ấy thực đã trái ngược với những bài tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.

    Sinh đến chỗ cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn, Sinh bước vào trong một thôn trang vắng vẻ, thưa thớt những mái tranh nghèo, không một bóng người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa héo chợt thấy một người nông phu ủ rũ trước nấm mộ, mới liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi:

    - Bác khóc thương thân quyến nào vậy?

    Người kia ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch trên quần áo của Sinh, dịu đôi mắt xuống:

    - Người nằm dưới mộ không phải bà con quen thuộc của tôi.

    Sinh nghĩ: "Chẳng nhẽ người này cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi:

    - Ông từ đâu mà đến đây:

    - Tôi ở chốn xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.

    Người nông phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén, bật lên những tiếng căm hờn:

    - Nói hết cho muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Ví dù phải chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được sự thật uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới nanh vuốt của tên Thống trấn họ Lý, chính sự độc dữ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản trần tình, can đầu ngựa níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá cột đồng đầy lời hoa mỹ tán dương công đức Tổng trấn của thằng danh sĩ chết khốn nào đó nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã những người đã đầu đơn tố cáo nó. Bao người phải chế vì nỗi cực hình thảm khốc, vợ góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đấy đành để nuôi loài cỏ dại mà thôi.

    Sinh chết điếng cả người, giây lát mới gượng gạo hỏi:

    - Chẳng hay bác có biết... danh sĩ ấy tên gì không?

    Người nông phu trợn trừng cặp mắt, gào lên:

    - Làm gì mà biết! Mà biết làm gì? Những hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh cao, hạng ấy thì đâu chẳng có? Dân làng đây, ai cũng nguyền rủa hắn, mà hắn nào có biết đâu? Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người, mà bọn chúng chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máy ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn gượng nói: "Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần gũi với các người". Hơi thở gần tàn, cụ nói tiếp: "Tội ác là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho nó, đáng thương cho nó!".

    Người nông phu dừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp:

    - Nhưng bao người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia, nghĩ còn đáng thương đáng xót gấp trăm ngàn lần!

    Đoạn gục đầu xuống mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của người đã khuất hiện về chứng kiến cho những giọt lệ chảy ra từ một tấm lòng hối hận chân thành.

    Vũ Hạnh


    *************
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 06-09-2011, 11:34 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Tìm Ngựa - Vũ Hạnh

    Tìm Ngựa

    Vũ Hạnh

    Hồi đó, gần Tết Nhâm Ngọ, ông Thất Cừ ở kinh đô về cỡi con ngựa ô tuyệt đẹp. Một tối ông ghé nghỉ lại quán trọ bên đường, sáng dậy thì con ngựa ông biến mất. Dò theo các dấu chân ngựa, ông Thất tìm đến một ngôi nhà nhỏ ven rừng. Ngôi nhà xác xơ cô độc, khiến ông nghĩ tới sào huyệt bọn cướp. Lúc đó, trời đã đứng bóng, ông Thất bụng đã đói mèm. Ông tới sát vách, ghé tai nghiêng mắt nhìn vào bên trong. Gian nhà trống trải, chỉ chiếc giường tre ọp ẹp trên đó một người nằm ngủ say vùi, tiếng ngáy kêu ồn như tiếng cưa gỗ. Ông Thất gọi cửa. Hồi lâu, người kia mới bừng tỉnh giấc. Dụi mắt, vươn vai, anh ta lảo đảo bước ra, chống cửa mời ông Thất vào.

    Ông Thất vội nói:
    - Tôi đến đây làm phiền anh, là vì tôi mất con ngựa trong đêm vừa rồi.

    Chủ nhà, một người gầy ốm, với đôi mắt sáng và chiếc miệng nhỏ nhìn xéo ông Thất mà không nói một tiếng nào.

    Ông Thất lại tiếp:
    - Kẻ đã sơ suất bị trộm lấy mất đồ vật phải chịu thiệt thòi. Đáng lẽ thì tôi không được quyền hỏi đến anh, nếu tôi không nhìn thấy dấu chân ngựa của tôi đi vào nhà này.

    Người kia vẫn trầm ngâm một lúc lâu, rồi chậm chạp nói:
    - Kể ra đôi mắt của ông khá tinh, nhìn ra dấu ngựa trên nửa ngày đường bụi cát không phải là chuyện dễ dàng. Vậy xin hỏi thiệt: bây giờ ông muốn thế nào?

    Ông Thất đáp ngay:
    - Muốn chuộc lại con ngựa ấy.

    Người chủ nhà đáp:
    - Chậm quá. Ngựa đã bán rồi.

    - Bán ở nơi nào? Tôi sẽ tìm đến.

    Người chủ nhà nhíu mày bảo:
    - Ông có sẵn tiền nên mua ngựa khác mà dùng, chuộc làm gì thêm phiền phức.

    - Nhưng đó là con ngựa quý, tôi đã nuôi lâu. Vật đã quen người, không thể nhất đán xa lìa mà không tìm cách thâu hồi trở lại.

    - Chắc là ông chưa ăn trưa?

    - Thú thiệt là chưa. Quanh đây không tìm thấy quán xá nào.

    - Còn ít cơm nguội và mắm để dành buổi chiều. Ông có thể ăn đỡ đói.

    Chủ nhà lại xuống lúi húi dọn cơm. Ông Thất ngồi nhìn căn nhà vắng vẻ, trống trải, nghĩ ngợi lan man về người đã lấy trộm ngựa của mình. Nhưng quá đói lòng nên khi chủ nhà vừa bưng cơm lên, ông không đợi mời tới tiếng thứ hai, cầm đũa ăn liền. Bữa cơm quá mức thanh đạm nhưng chưa bao giờ ông Thất ăn ngon như vậy. Uống một bát nước chè tươi để thêm no bụng, ông ngả lưng ra trên giường, gối đầu trên chiếc gối gỗ, lim dim tìm giấc ngủ trưa.

    Thiếp được một giấc, và thấy đã bớt nhọc mệt của chuyến đi tìm vất vả từ sớm, ông bèn ngồi dậy. Chủ nhà ngồi im dưới đất, dựa lưng vào cột, phì phèo một điếu thuốc lớn. Ông Thất xẵng giọng:
    - Thế nào? Con ngựa tôi đâu?

    Chủ nhà nhìn ông, trả lời:
    - Đã nói bán rồi.

    Ông Thất hùng hổ đứng lên, nói lớn:
    - Tôi bảo cho tôi chuộc lại kia mà.

    Chủ nhà vẫn cứ ngồi yên không đáp. Ông Thất giận dữ la lên:
    - Hay thiệt! Ngươi đã ăn cắp ngựa quý của ta, đã chịu thú nhận như vậy, rồi khi ta thấy cảnh ngươi nghèo đói muốn bỏ tiền ta ra chuộc lại, ngươi vẫn làm thinh là nghĩa lý gì? Coi thường luật pháp như nhà ngươi đây là quá lắm rồi.

    Chủ nhà bỗng cười to lên, đáp lại:
    - Ông đừng nổi nóng, vô ích. Đáng lẽ ông phải hiểu rằng ta không thèm chối chuyện ăn cắp ngựa từ đầu, bởi ta không phải là hạng chuyên nghề ăn cắp. Nếu cần nói cho ra lẽ, thì dấu chân ngựa của ông vào đây chưa phải là lý do chắc để ông nhất quyết là ta ăn trộm. Ai cấm kẻ gian cỡi con ngựa quý của ông ghé vào xin nước, xin cơm, như ta sẵn sàng để thết đãi ông vừa rồi?

    - Nhưng ta bảo thật , ta cần tìm con ngựa, dù phải trả bằng giả nào.

    - Vậy thì ông cứ tự tiện tìm ngựa, nào ai có cản ngăn đâu?

    Ông Thất không nén được giận, nhảy đến toan nắm lấy cổ người kia kéo dậy thì gã gạt tay ông ra, chồm lên:
    - Được lắm . Ngươi thắng nổi ta, thì cho ngươi lại con ngựa.

    Hai người hăm hở xông tới, hươi quyền đánh nhau. Trong ngôi nhà chật, họ phải áp tới loạn đả và cả hai người ban đầu còn tỏ đôi chút dè dặt để dò sức nhau, dần dần chính sự va chạm mạnh mẽ ở trên cơ thể khiến họ được đốt nóng lên, quyết ăn thua đủ.

    Nhưng hai đối thủ thật là cân sức nên sự thắng bại khó quyết định được. Họ im lặng tấn công nhau, dùng các ngón nghề thành thạo để mà giành lấy ưu thế. Ông Thất tinh thông võ nghệ nhưng các đòn đánh không lanh, không chắc như người chủ nhà, ngược lại các thế đánh của chủ nhà đều bị ông Thất ngăn chận. Cuộc đấu kéo dài khá lâu, hai đối thủ đã mệt nhoài và đến một lúc họ dừng tay lại để thở.

    Người chủ nhà nói:
    - Vậy thì ông chưa thể lấy lại con ngựa quý.

    Ông Thất đáp lại:
    - Được lắm. Ta sẽ tiếp tục.

    Cả hai lại xông vào cuộc giao đấu. Bây giờ ông Thất quyết dùng các ngón độc hiểm để hạ tên trộm gan lỳ, nhưng tất cả ngón bí truyền của ông vẫn không thể nào quật ngã được hắn. Có lúc ông dùng song phi tới tấp theo kiểu liên hoàn tưởng quật ngã nhào được gã, nhưng lúc ông toan áp đến khóa chặt gã nằm dưới đất thì gã đã lanh hơn một con sóc trườn mình nhổm dậy hươi cả song quyền vào bụng của ông. Càng tiếp tục cuộc giao đấu, ông Thất nhận thấy gã ăn trộm ngựa là tay bản lĩnh cao cường và gã không dùng một ngón đòn nào thật là ác độc để triệt hạ ông.

    Họ đánh nhau đến chiều thì mệt rã rời. Hai người chỉ còn thủ thế nhìn nhau, chờ đợi đối thủ sơ hở để mà tấn công. Bên ngoài hoàng hôn xuống mau giữa chốn rừng cây vắng vẻ, và tiếng bìm bịp, chào mào kêu vang trong các bụi rậm, nhớn nhác chờ đón đêm về. Trong nhà, hai người không còn nhìn rõ nhau nữa. Đó là hai cái bóng đen vờn nhau, tiếng thở hào hển mỗi lúc mỗi vang to hơn. Cuối cùng, gã chủ nhà bảo:
    - Trời đã tối rồi, chúng ta hãy tạm nghỉ đã. Tôi còn phải lo cơm nước cho hai chúng ta.

    Ông Thất không mong đợi gì hơn cuộc hưu chiến. Ông buông tay, đến ngã người trên chiếc giường, kéo áo lau lớp mồ hôi dầm dề trên mặt. Người chủ nhà chậm chạp xuống bếp thổi lửa, đốt một bó đuốc dầu chai cắm giữa gian nhà. Đoạn, hì hục nấu cơm tối. Ông Thất thiếp đi một giấc mê mệt rồi nghe gọi dậy. Chủ nhà đã đặt mâm cơm dưới đất, cạnh ngọn đuốc sáng và mời ông lại. Trên chiếc mâm gỗ cũ kỹ chỉ có một chén mắm lớn, một ít rau rừng luộc chín, cạnh một nồi cơm.

    - Mời ông dùng tạm bữa cơm nghèo khó. Chắc ông đã quen với món cao lương, khó lòng dùng mãi các thứ đồ ăn thanh đạm thế này.

    Ông Thất cố giữ vẻ mặt tự nhiên, đáp lại:
    - Chủ nhà có lòng cho ăn là tốt lắm rồi.

    Và ông ngồi lại, ăn khá ngon lành. Vừa im lặng nhai cơm nóng với món rau rừng chấm mắm, ông tự hỏi thầm: "Quái, sao tên trộm sống nghèo khổ thế này? Món tiền bán ngựa vừa rồi hắn đã làm gì?".

    Hai người ngồi ăn, không ai nói chuyện với ai lời nào. Cơm nước xong rồi, ông Thất lại giường ngồi nghỉ. Chủ nhà đã vấn cho ông một điếu thuốc khá lớn đặt trên chiếc đĩa, để ở đầu giường. Đợi cho ông Thất hút tàn gần nửa điếu thuốc, gã nói:
    - Bây giờ đã tối, cơm nước đã xong, ông muốn chúng ta tiếp tục đấu nữa hay là chờ đợi ngày mai?

    Ông Thất yên lặng suy nghĩ, rồi móc túi bạc đặt ở trên giường. Ông nói:
    - Dù có đấu sức suốt cả đêm nay ta chắc cũng không làm sao phân được thắng bại với anh. Coi như là tài võ nghệ của ta không sao giúp ta đoạt được lại con ngựa quý. Vậy ta bằng lòng đem tiền để chuộc, anh cứ ra giá cho xong. Ngặt con ngựa ấy là vật kỷ niệm cha ta lưu lại, nếu không ta cũng sẵn sàng cho đứt luôn anh, chẳng phải mất tiền chuộc lại làm gì.

    Gã chủ nhà đáp:
    - Tôi không phải sống bằng nghề trộm đạo. Ông coi, một tên trộm cướp không phải cực khổ thế này. Một con ngựa quý của ông cũng đủ cung cấp rượu thịt cho tôi suốt mấy tháng trường, can chi lại ăn rau rừng với mắm cho khổ tấm thân. Nhưng nghề đốn gỗ của tôi không lấy gì làm thong thả.

    Ông Thất bèn hỏi:
    - Vậy ngựa tôi đâu?

    Gã chủ nhà đáp?
    - Được rồi, ông cứ ngủ lại. Ngày mai, ông sẽ có ngựa cỡi về.

    Ông Thất do dự giây lát, rồi hỏi:
    - Anh không phải là trộm cắp, sao lại có ngựa để giao cho ta?

    Gã chủ nhà có vẻ buồn, trả lời:
    - Chính tôi là kẻ cắp nhưng tôi không sống bằng cái nghề này.

    - Ta thực chưa hiểu ý anh thế nào...

    Gã chủ nhà đi tìm chiếu, trải dưới nền đất cạnh cây đuốc sáng và nằm dài ra phì phèo điếu thuốc. Ông Thất cũng nằm trên giường nghiêng nhìn phía gã, chờ đợi một câu trả lời.

    Lâu lắm không thấy gã nói tiếng nào ông bèn gợi hỏi:
    - Sao anh không chịu lấy món tiền chuộc của ta.

    Gã chủ nhà đáp:
    - Lấy để làm gì? Tôi mến tài năng và đức độ của ông, nên phải nói hết sự thật để cho ông nghe.

    Và gã bắt đầu kể chuyện...

    Gã có người bạn là một thợ rừng bị cây đè ngã ở trong hốc núi. Nhà nghèo, bệnh nặng, bạn gã không sao chạy nổi thuốc thang. Cảm thương cảnh ngộ của bạn, gã tìm mọi cách giúp đỡ nhưng không biết phải xoay xở thế nào. Biết tên Chánh Tổng trong vùng thích ngựa, gã nảy ý kiến ăn cắp một con ngựa tốt để bán cho y. Một tối, tìm đến quán trọ bên đường, gã bỗng gặp con ngựa ô của ông Thất Cừ. Nghĩ rằng người cỡi ngựa quý không phải là hạng nghèo nàn - lấy mất của nó, thì nó tìm mua ngựa khác - gã đã lẻn vào trong chuồng giữa lúc đêm khuya, mở dây, dắt ngựa ra đường, cỡi phóng như bay. Sáng đến, đem bán cho tên Chánh Tổng lấy đúng năm trăm quan tiền. Cả số tiền ấy, gã đã đem giúp người bạn nghèo khổ lâm nguy.

    Người chủ nhà tiếp:
    - Tối nay, tôi sẽ giở trò trộm đạo một lần thứ hai để mang ngựa về cho ông.

    Ông Thất bèn nói:
    - Rất tiếc là ta không còn đủ số năm trăm quan tiền. Túi bạc mà ta mang theo chưa đến nửa phần giá ấy. Nếu có, ta sẽ giao hết cho anh đem chuộc lại con ngựa kia cho khỏi ân hận trong lòng.

    Người chủ nhà ngồi dậy, nhìn ông Thất Cừ với một vẻ mặt xúc động rồi tiến đến gần bên ông chắp tay thưa rằng:
    - Xin cảm ơn ngài. Thực là ít có một người hào hiệp như ngài. Dù có đủ số tiền ấy, ngài giao tôi cũng chẳng dám nhận lãnh. Một là viên Chánh Tổng kia mua được ngựa quý, giá hời, lão đâu chịu cho chuộc lại? Của tốt vào được trong kho nhà giàu, dễ gì đã được buông ra mà không đem lại món lời gấp chục, gấp trăm. Hai là tôi không muốn người bạn tôi phải chịu ơn ngài. Anh ta nghèo khổ nhưng rất trong sạch, lại quá khí khái đâu muốn nhận số tiền của kẻ lạ mặt. Bởi ngài chuộc ngựa là coi như cho gia đình anh ta cả món tiền kia.

    Ông Thất Cừ nói:
    - Sao lại không thể coi đó là tiền mà ta cho mượn dài ngày?

    - Mượn mà biết không trả được, có khác gì là xin xỏ hay cướp giật đâu.
    Ngài đừng bận tâm. Khuya nay, tôi sẽ lẻn vào bắt lại con ngựa cho ngài. Viên Chánh Tổng kia giàu quá, lấy bớt năm trăm quan tiền cũng chẳng hề gì. Trong khi người ta lâm nạn chờ chết, đến van xin nó cũng chẳng có được đồng nào.

    - Nhưng viên Chánh Tổng có biết rõ mặt anh không?

    - Cũng ở trong vùng, biết nhau rõ lắm.

    - Vậy anh lấy lại ngựa rồi, hắn gặp phải nghi ngờ anh, đâu có sống yên đây được.

    - Từ tối, tôi có nghĩ đến điều này. Chắc tôi sẽ phải trốn đi nơi khác.

    Ông Thất đỡ gã chủ nhà cùng ngồi xuống giường với mình, thân mật nói rằng:
    - Một người tốt lòng với bạn như anh bao giờ cũng tốt với những bạn khác. Mong rằng tôi sẽ được anh coi như là bạn, kể từ đêm nay.

    - Xin cảm tạ ngài.

    - Đừng gọi bằng ngài. Chúng ta đã là anh em cứ gọi nhau bằng thứ bậc ở trong gia đình. Tôi là thứ năm. Còn anh thứ mấy?

    - Dạ, tôi thứ tám.

    - Chú Tám, nếu chú liệu không thể sống ở đây được nữa hãy về quê anh mà cùng nương tựa với nhau, đừng ái ngại gì.

    Ông Thất nói rõ quê quán chức vụ của mình cho người bạn mới hiểu rõ. Chủ nhà tỏ vẻ hết sức xúc động trước tấm lòng tốt của khách. Cả hai chuyện trò khá lâu, cho đến gần khuya thì ông Thất giục:
    - Chú hãy nằm nghỉ giây lát rồi chúng ta cùng lên đường.

    - Không, anh để tôi đi một mình.

    - Đâu được. Chú đã cho biết nhà viên Chánh Tổng hào sâu, thành dày, gia đình đông đảo, chú đi một mình có thể gặp sự cố khó khăn. Chúng ta đã là anh em, lẽ nào lại để chú đi vào nơi nguy hiểm một mình.

    Ông Tám cảm động trước những lời nói chí tình, đáp lại:
    - Đã làm phiền anh, còn nhọc đến anh làm gì. Em phải chịu phần trách nhiệm đem con ngựa về.

    Ông Thất nghiêm sắc mặt bảo:
    - Chú nói như vậy, anh không bằng lòng. Anh có bổn phận với chú, đừng nên thắc mắc bận tâm gì hết.

    Ông Tám đáp lời:
    - Vậy thì mời anh lên đường, vì còn xa lắm. Nghỉ ngơi e lại trễ mất.

    Cả hai cùng giắt vào mình một thanh đoản đao, uống thêm ngụm nước chè nguội rồi tắt lửa, mở cửa, đi vào đêm tối. Ông Thất im lặng theo sau người em kết nghĩa, nghĩ thấy mọi sự xảy ra là một run rủi kỳ lạ đã đưa đẩy ông, một người lương thiện có chút phẩm trật ở trong làng nước thành một kẻ trộm, và ăn trộm chính con vật của mình!

    Sang đầu canh ba hai người đi tới một vùng đất cao, cây cối rậm rạp. Ông Thất nhìn được trong bóng đêm dãy tòa nhà sừng sững trước mặt; chung quanh có thành lũy cao. Ông Tám ghé vào tai ông, bảo nhỏ:
    - Đây là nhà viên Chánh Tổng, dinh cơ của lão nằm trên sườn đồi, nhìn xuống phía trước là đồng ruộng lớn. Tất cả ruộng đất ở đây đều thuộc về lão.

    Ông Thất nghĩ thầm: "Làm Chánh Tổng như tên này có khác gì làm vua đâu. Hẳn là mồ hôi, xương máu của dân bị nó vơ vét cuốn hút đã quá nhiều đời nên mới có một sản nghiệp lớn lao như thế".

    Ông Tám bảo thêm:
    - Anh nên cẩn thận. Bây giờ phải lội qua một hào sâu mới đến chân thành. Leo được tường rồi, phải qua mấy dãy sân rộng mới đến khu vực nhà ở. Chó săn của lão nhiều lắm mà gia đình cũng đông đảo.

    - Thế chú biết rõ chuồng ngựa của lão nằm ở đâu không?

    - Dạ không. Mua bán vật gì chỉ đến gặp lão ở nơi tiền đường, không phải tâm phúc đâu có vào trong ấy được.

    - Chúng ta sẽ tìm, đừng ngại.

    Hai người lặng lẽ cởi đồ, đội lên đầu, rồi cùng men xuống bờ hào, nhẹ nhàng lội qua vùng nước lạnh buốt và sang được bờ bên kia. Mặc quần áo xong, cả hai men theo bờ tường đi về phía sau. Theo sự suy luận của ông Tám thì các cửa hậu bao giờ cũng kém kiên cố hơn là cửa tiền và chỉ có bằng lối ấy mới lọt vào được bên trong. Tới nơi, cả hai hợp sức dùng đao mới đẩy bật được cánh cửa. Hai người lách vào, bò rạp xuống đất men theo bờ tường bên trong để tìm chuồng ngựa. Cứ được một quãng, ông Tám lại ghé tai sát xuống đất nghe ngóng. Khi vừa đến sau một dãy nhà dài, có lẽ là dãy kho thóc, ông Tám vội ngồi thụp xuống và kéo ông Thất ngồi theo. Có tiếng người đi và tiếng chó hực, gầm gừ đánh hơi người lạ. Giây lâu, không thấy động tĩnh gì nữa, cả hai lại cùng nhổm dậy, lom khom bước tới. Đêm tối làm cho họ bước khá chậm. Cuối cùng ông Tám ghé sát ông Thất, bảo nhỏ:
    - Đến chuồng ngựa rồi.

    - Thật hả? Sao biết ?

    - Có tiếng ngựa hí, tiếng chân đạp trên nền đất.

    Ông Thất áp tai xuống đất nghe ngóng hồi lâu:
    - Quả chú tài thật.

    Hai người lần mò đi một quãng nữa, quanh co qua các dãy nhà. Mùi rơm cỏ, mùi phân, bao nhiêu là mùi ẩm mốc bốc nặng trong đêm giúp cho lỗ mũi hai ông thay thế được cặp mắt nhìn một cách khá rõ. Lát sau, họ đến chuồng ngựa. Nhẹ nhàng, ông Tám lấy dao nạy cửa. Nhiều tiếng ngựa hí vang lên trong đêm tối dày.

    Ông Thất kéo ông Tám lại:
    - Chú gác ngoài cửa, để tôi đi vào. Ngựa tôi quen chủ, tôi dễ tìm hơn.

    Ông Tám vâng lời. Đứng im một lát cho bầy ngựa bớt náo động và cặp mắt quen bóng tối đông đặc bên trong, ông Thất rón rén đi vào. Quả con ngựa ô đánh hơi được chủ, nện móng đì độp và hí vang rền. Ông Thất vỗ nhẹ trên lưng con vật:
    - Ta đây. Ta đến đưa con về lại với ta.

    Con ngựa vung đầu, đạp chân, ngoay ngoảy mình mẩy ra tuồng vui vẻ gặp được chủ cũ. Tháo vội dây cột, ông dắt nó đi ra ngoài. Bỗng trước mặt ông, một người xuất hiện. Ông hỏi:
    - Chú Tám đó hả?

    Một giọng ngái ngủ trả lời:
    - Tám, chín gì nào. Bây to gan thật, dám ăn trộm ngựa cụ Chánh...

    Ông Thất lợi dụng bóng tối, đánh ngay một quyền vào bụng dưới gã. Người kia kêu ối một tiếng, ôm ruột, gập người, ông Thất đã nhanh như cắt, nhảy tới ôm vật gã xuống, đè lên, dùng đùi chận lấy cổ họng, sờ soạng tìm khăn nhét vào họng gã.

    Người kia ú ớ:
    - Xin đừng giết tôi... Tôi là đầy tớ trong nhà.

    Im đi, ai muốn giết mày làm gì... Tao chỉ cần lấy ngựa thôi. Chiều nay thấy thằng Chánh Tổng mua được con ngựa đẹp quá, tao mượn cỡi chơi ít lâu, khi nào có dịp ghé lại tao sẽ trao trả.

    Ông nghĩ một chút, lại tiếp:
    - Nhưng cái đó còn tùy ở túi tiền mua rượu của tao. Hễ Thiên Vương này dư tiền uống rượu thì tao chẳng tiếc gì ngựa mà không trao trả...

    Khi ông Thất nới đầu gối của mình để nhét khăn vào cổ họng gã, gã run rẩy nói:
    - Xin ông...

    - Cái gì?

    Ông trói giúp tôi thật chặt và bỏ tôi vào góc chuồng...

    - Sao mày lại muốn trói chặt?

    - Ông có trói kỹ thì ông Chánh trừng phạt tôi nhẹ hơn. Không vậy, ông Chánh tưởng tôi thông đồng với cướp.

    - Tao không phải cướp!

    - Dạ, tôi không có ý nói thế. Xin ông...

    - Được rồi, nằm im, tao sẽ làm theo ý mày.

    Sau khi trói chặt, ôm gã bỏ vào một xó, ông Thất tháo khăn nhét vào họng gã, dắt ngựa ra ngoài.

    Rồi cả hai người vòng ra ngoài thành tìm đến cầu treo bắc qua hào nước hạ xuống. Dắt ngựa qua khỏi, ông Thất bảo ông Tám cùng leo lên và trên con ngựa thiếu yên cương, hai người phi gấp về nhà.

    Đến nhà, thì trời hửng sáng. Ông Tám nhảy vọt xuống ngựa, nói liền:
    - Gia đình của thằng Chánh Tổng không thiếu gì đứa trước kia là tay trộm đạo có tài. Nó sẽ dò theo dấu ngựa tìm đến nơi đây rất sớm. Để em thổi gấp cơm ăn rồi anh lên đường.

    Ông chạy xuống bếp lo cơm. Ông Thất theo xuống phụ lực, rồi hỏi:
    - Vậy chú làm sao ở yên nơi này?

    - Thưa anh, em sẽ liệu cách đối phó.

    - Không được. Chú nên theo về quê anh cùng sống cho vui. Đến dịp ra kinh, anh sẽ tìm cách để tiến cử chú.

    - Em xin cảm ơn lòng tốt của anh. Nhưng em còn người bạn cũ bị cây rừng đè vẫn chưa bình phục, không thể xa được. Khi nào em liệu khó sống nơi đây, em đến tìm anh.

    Mối duyên gặp gỡ giữa hai người ấy khởi sự là vậy. Trước khi lên ngựa ra về, ông Thất cầm tay người em kết nghĩa, bảo rằng:
    - Em ráng giữ mình, đừng nghi ngờ sự chân thật của anh. Chúng ta đã là anh em, còn hơn cả ruột thịt đó.

    Rồi ông tạm biệt, lên đường về quê.

    Khi ông Tám dọn chiếc giường ông thấy gói bạc ông Thất còn trên đầu nằm. Ông thật bối rối không biết làm sao đuổi theo cho kịp để trao lại cho ông Thất. Ông cũng không dám mở ra để xem, vì ông nghĩ rằng bạc ấy chẳng phải của mình, lại là của người mà ông kính mến, làm mất dấu vết không chỉ thương tổn đến ông mà còn xúc phạm đến anh mình nữa. Nhưng một cuống lá khá dài thò ra từ gói bạc ấy. Kéo chiếc lá lên, ông đọc thấy dòng chữ nhỏ, có lẽ viết bằng gai nhọn, như sau: "Muôn sự của chung". Ông Tám cúi đầu, hiểu ý người anh kết nghĩa của mình.

    Mấy năm về sau đến khi người bạn thợ rừng qua đời ông Tám mới dời đến ở cạnh làng ông Thất là miệt Bấu Nài. Ông vỡ đất hoang làm ruộng, không chịu ở nhờ ruộng đất của người anh mình những lúc rảnh rỗi dành nhiều thì giờ thăm viếng hầu hạ ông anh. Tuổi già càng làm cho đời sống họ thiên nhiều về mặt tinh thần, do đó tình anh em họ lại càng đậm đà nhiều hơn.
    Một đêm ông Thất Cừ nhận lời mời của người quen ở xã Long Hồ, đến dự tiệc rượu. Giữa lúc chén uống đang nồng thì có một người trong đám bỗng hỏi ông ta:

    - Xin vô lễ với ông Thất chẳng hay ông còn nhớ những chuyện cũ hay không?

    Ông Thất đáp lời:
    - Chuyên cũ có trăm ngàn thứ, có thứ đáng nhớ, có thứ nên quên. Chẳng hay ông muốn nói đến chuyện gì?

    Người kia đáp lại:
    - Chuyện này chắc hẳn là ông không thể quên được, trừ phi ông muốn quên đi.

    Ngừng lại một chút, người kia nói tiếp:
    - Ông còn nhớ Lý Văn Hổ hay không?

    Ông Thất nhíu trán, suy nghĩ cố lục lọi trong ký ức:
    - Lý Văn Hổ à. Là ai? Ta không nhớ rõ được con người ấy.

    Người kia lại nói:
    - Phải rồi, ông đã muốn quên.

    - Không, ta chẳng muốn quên. Ta không thể nhớ đó thôi.

    Người kia im tặng, nốc từng ngụm rượu khá lớn. Mâm tiệc trở thành khó chịu vì cái không khí mập mờ của sự khiêu khích bắt đầu. Ông Thất chăm chú nhìn kỹ người kia qua đôi mắt đã chấp chóa hơi men cố lục lọi trong ký ức vẫn không nhìn thấy được gì hơn nữa. Thời gian đã phủ một tấm màn lớn như lớp sương mù dày đặc ngăn che quay về dĩ vãng xa mờ.
    - Quả tình ta không nhớ được tên ấy là ai.

    Câu nói có vẻ ôn tồn của ông rơi giữa mâm rượu bỗng làm người kia ngẩng mái đầu lên quắc đôi mắt sáng, nhìn ông một cách hằn học:
    - Thật tình là ông đã quên Mười Hổ phải không?

    Ông Thất gật đầu?
    - Đã quên. Ta có sợ gì phải chối nhớ lại cái tên không buộc cho ta bận lòng. Mười Hổ là ai, anh cứ nói ra.

    Hơi rượu làm ông bốc nóng, ông tiếp:
    - Mười Hổ hay trăm ngàn hổ, cũng vậy mà thôi.

    Rồi cười ha hả:
    - Cũng đều là hổ, chứ có khác gì!

    Người kia đặt mạnh cốc rượu xuống chiếu, nói lớn:
    Ông đừng khinh mạn, xúc phạm cha ta!

    Ông Thất ngạc nhiên:
    - ủa! Tên của thân sinh anh à? Làm sao mà ta biết được điều ấy?

    Người kia vội rời chiếu rượu đứng xuống chống nạnh gườm nhìn ông Thất. Chủ nhà vội can:
    - Thôi, thôi, đây là tiệc vui. Xin đừng gây nên những chuyện đáng tiếc.

    Ông Thất để ý giọng nói của gã chủ nhà không có một chút nhiệt tình nào chừng như đó chỉ là câu chiếu lệ mà thôi. Bất giác trong một thoáng mau, ông Thất chợt nhớ ra là trong dĩ vãng họ có nhiều mối tị hiềm nhưng được thời gian làm cho phai mờ như những bãi sình đã được cát lấp và trên cát ấy người ta tưởng rằng có thể trồng được những loài hoa đẹp. Nhưng đó chỉ là loài hoa ảo tưởng.

    Người kia nghe chủ nhà nói, gằn giọng đáp lại:
    - Được rồi, ta sẽ ra khỏi nơi đây để mà hỏi tội tên già.

    Giọng nói mạnh mẽ của gã đối với chủ nhà cũng có vẻ gì giả tạo. Ông Thất nghĩ rằng có thể họ đã ăn ý cùng nhau trong một âm mưu hãm hại ông chăng? Nhưng chất men nồng bốc cháy hừng hực trên đầu mọi ý đề phòng nhường bước cho lòng phẫn nộ, ông thấy căm giận cực độ vì lời xúc phạm của kẻ gây chuyện, nên cũng bước ra khỏi chiếu, hét lên:
    - Mày đừng vô lễ. Ta muốn biết mày cố tình gây chuyện là vì lẽ gì? Cha mày với ta nào có quen biết gì với nhau đâu?

    Gã kia hằn học:
    - Mày đã đánh chết cha ta, rồi ném xác dưới bờ hào còn nhớ hay không?

    Ông Thất chợt thấy bàng hoàng. Trong cuộc đỡ huấn luyện ngựa cho vua. Ông ta đã làm chết một người. Đó là một tên ăn trộm ngựa quý của vua đem về bán lại cho các nhà giàu ở những miền xa hẻo lánh. Hành vi trộm đao của gã là một xúc phạm lớn lao đối với quyền uy thiên tử và cũng là một thách thức sỗ sàng đối với những người có phần trách nhiệm như ông Thất Cừ. Ông đã để tâm dò xét nhiều ngày và một đêm kia, ông đã bắt gặp thủ phạm. Hai người đấu sức quyết liệt và cuối cùng tên ăn trộm bị ông quật ngã. Trong lúc tuyệt vọng, gã đã tự vẫn để khỏi bị những cực hình giày vò và để gia đình khỏi bị liên lụy. Không ai biết gã là ai, quê quán nơi nào. Tên trộm đã chết đã được vứt xác ngoài thành, rồi được treo lên lơ lửng đôi hôm trước khi chôn lấp.

    Bây giờ, thì con trai hắn xuất hiện nơi đây, mang mối căm thù dồn chứa từ ba bốn mươi năm rồi. Chắc gã còn phải lớn lên, còn phải tầm sư học đạo, còn đợi và tìm cơ hội đến gần ông Thất. Căm thù đã lớn như cây cổ thụ và muốn đơm bông kết trái bây giờ.

    Cũng có đôi lần ông Thất áy náy về sự nặng tay của mình, nhưng lòng tự ái của một kẻ có quyền uy như ông đã sớm xua đuổi ra khỏi tâm hồn một điều thắc mắc kiểu đó. Ông gào to tên:
    - à, ra mày là con của tên ăn trộm ngày xưa. Mày muốn những gì?

    Gã kìa trợn mắt:
    - Mày phải đền tội!

    Ông Thất hét to:
    - Tội gì? Tao không đánh chết thằng cha của mày. Nhưng dù có đánh chết được một tên đạo tặc như vậy, tao cũng hả dạ.

    Vẻ mặt người kia tối sầm hẳn lại, có lẽ phẫn nộ của gã lên đến cực điểm. Gã đứng câm lặng như tuồng giận dữ làm cho lời nói nghẹn ngào. Giây lâu, gã mới cất tiếng phều phào:
    - Nếu ngươi có lòng sám hối, biết quỳ lại ta thì ta tha mạng. Bằng không, thì hãy đến bìa rừng này.

    Quỳ lạy một người còn trẻ hơn ông, và là con của một kẻ đạo tặc, làm sao có thể nghe những lời hỗn xược ấy mà không lồng lộn lên được. Kẻ kia đã để ông uống rượu say, rồi nung chín muồi tự ái của ông cho ông choáng váng mới hạ độc thủ đó chăng? Tự nhiên, ông Thất cũng cảm thấy nỗi lo sợ. Tuổi già đã đánh mất niềm tự tin khi phải đối đầu chướng ngại.

    Ông quay nhìn các người quanh mâm rượu. Hầu hết là những người quen, điểm vài khuôn mặt thân hữu và đôi mặt lạ. Ông chờ đợi họ một lời cản ngăn và tốt hơn nữa, một lời bênh vực. Nhưng họ thảy đều im lặng, một sự im lặng đồng lõa chứ không phải là kết quả của lòng sợ hãi.

    Ông Thất cảm thấy lạc loài, cô độc. Thế ra những người từng tỏ ra trọng vọng ông, những người từ trước đến nay từng khâm phục ông, nay lại chối bỏ đột ngột sự tín nhiệm ấy là vì lẽ nào? Cuộc đời có lẽ đã đổi thay rồi, và các giá trị mà ông khoác vào từ trước hẳn đã suy giảm rồi chăng? Nhưng gã đối thủ của ông như hiểu được nỗi bàng hoàng đang làm xáo động hồn ông, gã nói một cách khinh bỉ.

    - Ngươi đừng tưởng rằng giữ ngựa cho lũ vua quan là đáng kính nể hơn những người ăn trộm ngựa.

    Ông Thất quắc mắt:
    - Nhà ngươi không được xúc phạm...

    - Xúc phạm! Xúc phạm đến ai? Đến ngươi hay là đến lũ vua quan? Thôi đi, chuyện đó xưa rồi. Nhưng còn mối thù của ta thì không bao giờ cũ được. Hãy ra ngoài này, không thì ta sẽ kéo cổ ngươi ra tức khắc.

    Ông Thất lảo đảo ra ngoài bìa rừng. Đêm trăng, cỏ ướt đẫm sương lốm đốm điểm bạc. Ông nghe lạnh dưới đôi chân, lạnh khắp mặt mày. Lòng căm hờn của kẻ kia đã dựng ông thành đối thủ của nó. Đáng lẽ thì ông không chịu giao đấu, nhưng tự ái và danh dự đã tổn thương rồi, không thể im lặng, không thể từ chối, và điều chắc chắn đối thủ của ông không cho phép ông được quyền từ chối.

    Họ đã im lặng đánh nhau dưới ánh trăng soi vằng vặc. Những ngón quyền đánh trúng mặt làm cho ông Thất bừng tỉnh, và ông tìm lại phong độ đã mất ít nhiều trong những năm qua.

    Đối thủ của ông tuy còn trẻ hơn và mang căm hờn sôi sục nhưng tỏ ra bình tĩnh, gã đánh những đòn quyết liệt nhưng có tính toán. Chừng như gã biết là phải đối phó với một hạng người như thế nào rồi. Cả hai vờn nhau, sử dụng quyền cước và tất cả ngón bí truyền đã học tập được. Nhưng rồi ông Thất không chịu được nổi một tay đối thủ lợi hại như vậy. Khi ông bị đánh ngã qụy xuống đất, vừa toan lồm cồm trỗi dậy thì bàn chân gã đã đạp lên giữa mặt ông. Ông lại ngã ngửa người ra, chịu bàn chân ấy ấn mạnh đầu ông xuống cỏ rất lâu tưởng chừng nghẹt thở. Đất cát dẻo quánh hơi sương chà xát trên lớp da mặt nhăn nheo do bàn chân kia đem tới đã phủ một màng ô nhục lên con người ông. Nằm yên trong sự thảm bại đau đớn, ông chờ đợi một cái chết giáng xuống vội vàng.

    Nhưng ông đã đợi khá lâu mà không nghe động tĩnh gì. Ông Thất hé mắt và thấy đối thủ đứng im nhìn ông một cách lặng lẽ. Chắc hẳn bây giờ gã mới thấy kết quả của sự báo thù héo hắt, nhỏ nhoi không biết chừng nào.

    Rồi gã từ từ rời bàn chân ra khỏi cái đầu bạc, nói giọng chán nản:
    - Bây giờ ta có giết mày cũng được, nhưng cái mạng mày có nghĩa lý gì! Mày bảo trước kia đã không đánh chết cha ta, thì nay ta cũng không đánh chết mày.

    Rồi gã lặng lẽ quay lưng đi thẳng vào rừng. Hồi lâu ông Thất mới ngồi dậy nổi, bởi những đau đớn thể xác cùng với đau đớn tinh thần thật quá nặng nề.

    Khi ông loạng choạng đứng lên, ông thấy chung quanh vắng lạnh mênh mông như cõi nhà mồ rộng lớn.

    Ông về đến nhà thì trời gần sáng. Không rửa sạch vết cái bùn lấm đầy mặt mũi, ông gọi đứa cháu sang tìm ông Tám ở mạn Bầu Nai.

    Ông Tám đến ngay buổi sáng hôm ấy. Cầm lấy bàn tay gầy guộc của em, ông Thất nghẹn ngào kể lại sự việc, rồi tiếp:
    - Thằng Mười Hổ đó trước kia đã phải tự vẫn vì sợ cực hình. Anh đây không thể sống nổi, vì sợ một cực hình khác đau đớn hơn nhiều, đó là nỗi nhục trong chuỗi ngày tàn. Hãy nghe đây lời anh dặn: Em đừng tính chuyện phục thù, vô ích. Em đã già rồi, mà hắn còn trẻ, lại thêm tung tích của nó không biết về đâu. Dù sao cũng là câu chuyện có vay có trả, trên cuộc đời này.

    Rồi ông uống chén độc dược, lìa đời. Và cuộc sống đã làm xong một cuộc tính sổ, trong muôn ngàn chuyện đang được kết toán hằng ngày.

    Ông Tám chôn cất anh xong, thu xếp việc nhà của anh cho được mọi phần yên ổn, rồi lâm bệnh nặng. Ông không chịu dùng thuốc thang gì hết, mặc dù người nhà đã cố ép nài, lặng lẽ đi theo người anh kết nghĩa về cõi đời khác.



    Vũ Hạnh
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Vị Ngọt - Vũ Hạnh


      Vị Ngọt

      Khi thấy người anh ôm gói lễ vật nhàu nát hầm hầm từ cửa bước vào, Hoàng Sinh biết ngay là việc bất thành. Đặt mạnh lễ vật xuống bàn, thái úy Trần Chương nói lớn:

      - Rất tiếc là ta đã không đeo kiếm hôm nay!

      Dĩ nhiên, chẳng ai lại mang vũ khí để đến nhà người hỏi vợ cho em. Nhà người, lại là một vị thượng quan, đô tướng Vương Trình. Từ một quan võ bậc trung, ông được ân sủng nhà vua ba năm thăng lên ba cấp, bây giờ nghiễm nhiên là người thống lĩnh đội quân cấm vệ nội triều.

      Thân phụ Trần Chương trước kia là vị chủ soái của Vương đô đốc. Sau thời gian dài đem quân tiễu trừ phiến loạn ở vùng mạn ngược, trở về ông lâm trọng bệnh, nằm liệt suốt mấy tuần trăng rồi ông từ trần. Vốn sống thanh bạch, ông không có gì để lại cho con. Nhà vua, xét thấu cảnh tình, phong người con cả giữ chức thái úy. Còn người con thứ, là Trần Hoàng Sinh, đang còn miệt mài kinh sử, chờ đợi một tiếng "dạ" lớn ở chốn khoa trường.

      Đã ba năm rồi, Hoàng Sinh tha thiết yêu nàng Kiều Lệ, con gái duy nhất của Vương đô tướng. Ba năm, gia đình của nàng nghiễm nhiên đã ở vào hạng thượng đẳng trong triều, liệu nỗi mơ ước của chàng có thể trở thành vô vọng? Nhớ lại, trước đây được gặp gỡ nàng bên cầu Gia Bích hoặc trong vườn hoa Lan Chi, đôi chút tình cảm ban đầu như đã ẩn chứa một lời hò hẹn. Hơn nữa, cha chàng dẫu rằng khuất bóng nhưng cái uy danh một thuở của người hẳn còn vang vọng lâu dài. Bây giờ, quyền huynh thế phụ, thái úy Trần Chương vì nỗi si mê của em đã cậy mai mối đưa đến gõ cửa tư dinh đô tướng Vương Trình. Mặt lạnh như đồng, đô tướng nói lời miễn cưỡng:

      - Nhiều kẻ tài hoa ở đất kinh thành đã muốn trở thành giai tế của ta, song ái nữ ta vẫn chưa chọn được người nào. Ta muốn dành cho con ta quyền tự định đoạt tương lai của nó.

      Rồi ông ra lệnh:

      - Gia nhân! Hãy đem hồng thiếp vào trình tiểu thư xem nào.

      Khi người lão bộc biến sau tấm rèm trúc lệ, Trần Chương và vị lão quan mai mối khỏi đợi chờ lâu đã thấy tờ thiếp đặt giữa mâm đồng sáng ửng vừa được lễ mễ đem vào đã bị mang ra vò nát như một đọa đày.

      Đô tướng khinh bạc:

      - Ta còn điều gì để nói nữa chăng?



      Trần Chương hằn học:

      - Với bọn hãnh tiến, khinh người, cho dầu là lớp thượng quan ta cũng sẵn sàng cho biết độ bén của lưỡi gươm trường! Chỉ hận là ta đã không vũ khí nơi mình.

      Hoàng Sinh ôn tồn:

      - Ta phải thượng tôn pháp luật mà cũng không thể đùa với pháp luật. Chẳng lẽ hiền huynh đem mạng sống mình và cả thanh danh của dòng họ Trần đổi lấy một cách xử sự xấc láo của phường vô học?

      Trần Chương quắc mắt:

      - Thế là khoanh tay chịu nhục hay sao?

      Vẫn với giọng điệu ôn tồn. Hoàng Sinh tỏ bày:

      - Anh vì thương em mà chịu cái nhục ở trước một người, xin để cho em giải tỏa cái phần nhục đó. Làm sao để cho miệng thế khỏi điều dị nghị, rằng vì một chút sĩ diện bị người từ chối cầu hôn mà phải toan điều manh động.

      Nhìn em nén lại trong sự phẫn nộ và nỗi u buồn, người anh không thể nói thêm một lời nào nữa. Và thái úy Trần hiểu rằng, từng lời nói của em mình đều có sức nặng của một trầm tư đáng giá.

      Ba ngày cố thủ ở trong thư phòng, Hoàng Sinh ra đi vào lúc canh gà réo gọi mặt trời lại mọc. Nửa buổi, chàng đã đến làng Mộ Trạch, tìm đến nhà người cô họ sống nghề trồng dâu nuôi tằm ở một xóm thôn hẻo lánh. Chồng của người cô, họ Nguyễn, trước đây phục vụ nhiều năm dưới trướng Trần công, nay đã lìa đời. Gia đình này vốn mang nặng ơn sâu với dòng họ Trần, vì vậy tình nghĩa thân tộc rất là cố kết. Người cô sinh được hai con, một trai một gái, đều được theo đuổi bút nghiên, làu thông kinh sử, chỉ vì gia cảnh bần hàn phải sống nơi chốn thôn trang hẻo lánh khó nỗi tiến thân. Hai năm trước đây, ghé lại thăm cô, Hoàng Sinh vô cùng ngạc nhiên thấy người em gái là Nguyễn Hoài Thu mới tuổi mười lăm mà đã có những biểu hiện nhan sắc tuyệt vời.

      Lần này, thăm cô, Hoàng Sinh đã thấy cô gái ở tuổi mười bảy có đầy đủ vẻ duyên dáng và nết đoan trang của một con nhà nề nếp. Chỉ vì phải sống vất vả, cực nhọc, những gì là sự kiều diễm nơi người thiếu nữ đã bị nắng mưa làm cho phai mờ. Hoàng Sinh thưa với người cô:

      - Nên cho Hoài Thu lên chốn kinh kỳ học một nghề lành để sống, hơn là nhọc nhằn ở chốn ruộng lầy. Phận gái mà được theo đòi nghiên bút như em là điều rất hiếm, không nên để cho mai một những điều sở học.

      Người cô đáp lại:

      - Gia đình của cô chịu ơn Trần công đã nặng, nay còn phiền nhọc đến cháu, thật không yên lòng.

      Hoàng Sinh bèn nói:

      - Khả năng Hoài Thu đủ tự lo liệu cho mình mà khỏi quấy phiền kẻ khác. Nếu cô tin cậy, cháu sẽ vì cô, vì em giúp đỡ bước đầu.

      Người cô mừng lắm, bèn chọn ngày tốt để con lên chốn kinh kỳ.

      Hoàng Sinh đón cô em họ ân cần, rồi bảo:

      - Ta nghe Kiều Lệ, con gái của Vương đô đốc, cần người hầu hạ nên muốn buổi đầu khuyên em hãy cúi thấp mình làm hạng nô tỳ nơi chốn quyền môn. Có biết vâng lời mới biết điều khiển, có chịu khuất mình mới xác định mình. Rồi em sẽ hiểu thêm cảnh, thêm người, gầy dựng cho mình vốn liếng tương lai. Nhất nhất hãy nghe lời anh khuyên bảo thì sẽ có kế lập thân.

      Từ lâu Hoài Thu vốn đã mến mộ Hoàng Sinh vì cái tài học cũng như phẩm hạnh của chàng nên ngoan ngoãn bày tỏ lòng tuân phục. Hoàng Sinh nói tiếp:

      - Ta sẽ thay em viết một thỉnh cầu đến Vương tiểu thư để xin được hầu hạ nàng. Chỉ cần thêm ít nén bạc cho người hầu cận, cộng với lời lẽ tán tụng tôn xưng là em sẽ được dụng thu. Nên nhớ mấy điều thiết yếu như sau: một là đừng bao giờ để cho tiểu thư biết em ở trong hàng quyến thuộc của ta, hai là phải luôn ca ngợi tiểu thư hết lời nhưng cần theo đúng liều lượng mà ta khuyên bảo. Tiểu thư là người kiêu ngạo, hợm mình, do đó món ăn mà nàng luôn thấy thèm khát là lời xưng tụng, dầu những điều đó không đúng sự thực. Để khỏi nhàm chán người nghe, những câu xưng tụng phải được đổi thay từng ngày. Lời khen càng kín, tác dụng càng cao, lời khen càng tinh, tác dụng càng lớn. Ta sẽ dạy em ý khen, lời khen, cách khen, thời điểm để khen, những gì cần nên chú trọng, những gì phải biết lảng tránh, rồi theo thời gian với trí thông minh sẵn có em sẽ nắm vững kỹ thuật tôn xưng, và nâng lên thành nghệ thuật. Đại khái, đó là lời khen mà tưởng như chê, khen ít mà tác dụng nhiều, phản bác để gián tiếp ca ngợi người, phải biết cách khen bắt cầu qua một kẻ khác sẽ gây ý vị ra sao, khen như không hề dụng ý, đột ngột, thảng thốt, thành khẩn, say sưa, có lúc chỉ cần im lặng trong kiểu thán phục mà có giá trị hơn cả ngàn lời. Em nên nhớ rằng khi con người bị nhấc bổng lên khỏi mặt đất thực trạng, không phải bằng chính đôi cánh của mình, thì họ dễ dàng hụt hẫng, bay bổng chơi vơi lên chín tầng trời xanh thẳm. Bấy giờ họ không thể biết được mình là ai, ở đâu, làm gì, mà hành động như chập chờn giữa cõi chiêm bao. Từ đây đến ngày em được thu dụng ta sẽ dạy em những bước ban đầu. Rồi những ngày được nghỉ phép em sẽ về đây tiếp nhận những bài học mới. Và điều thiết yếu sau cùng, nhắc nhở với em, là đừng bao giờ băn khoăn về việc em làm. Nhưng hãy tin chắc rằng ta chỉ làm lợi nhất cho em.

      Từ đấy, Hoài Thu chăm chỉ lắng nghe những điều khuyên bảo của người anh họ. Sau nửa tuần trăng, có lệnh gọi vào dinh phủ họ Vương mặc áo nô tỳ. Buổi đến trình diện nàng Vương Kiều Lệ, như lời Hoàng Sinh nhắc nhở, Hoài Thu chỉ mải cúi đầu. Tiểu thư thắc mắc:

      - Sao ngươi không ngẩng đầu lên?

      Vẫn cúi mái đầu, Hoài Thu khép nép thưa lên:

      - Trước khi kẻ hèn hạ này được diễm phúc lớn vào hầu tiểu thư vẫn nghe ở ngoài dân gian ca ngợi tiểu thư là người nhan sắc khuynh thành. Nếu không được phép bề trên, làm sao kẻ hèn hạ này dám quyền chiêm ngưỡng...

      Tiểu thư nở nụ cười tươi:

      - Ta cho phép ngươi chiêm ngưỡng nhan sắc của ta.

      Hoài Thu chắp tay:

      - Đa tạ tiểu thư.

      Rồi nhẹ nhàng ngước nhìn lên. Hoài Thu lộ vẻ sững sờ, quì phục xuống dưới sàn hoa:

      - Quả lời truyền tụng không sai, không có giai nhân nào trong tranh vẽ có thể sánh bằng!

      Tiểu thư phán truyền:

      - Thôi, hãy đứng lên. Từ nay, cho phép ngươi được bên ta hầu hạ.

      Và người nữ tỳ đứng lên, không giấu được vẻ hân hoan:

      - Muôn vàn đội ơn tiểu thư.

      Hoài Thu biết mình đã nói hết hai câu khen qui định cho mỗi ngày đầu. Tháng đầu chỉ được mười câu, tháng hai nâng lên vài chục, tháng ba đạt tới cao điểm là ba mươi câu, rồi con số ấy lại được hạ thấp để sự xưng tụng khỏi thành nhàm chán, tầm thường.

      Kiều Lệ cưng dưỡng người nữ tỳ có phong cách đoan trang và biết mọi cách làm đẹp lòng nàng. Tiểu thư thấy mình càng ngày như xinh đẹp hơn và cao quý hơn, và người nữ tỳ họ Nguyễn giúp tiểu thư tự khám phá được mình. Không phải Hoài Thu đã bị lệ thuộc vào Vương tiểu thư, nhưng qua nhiều ngày Hoài Thu ngạc nhiên thấy chính tiểu thư lệ thuộc vào mình. Quả đúng như điều mà anh họ nàng là Trần Hoàng Sinh, trước đây, đã từng khẳng định với nàng.

      Hoài Thu hưởng đủ mọi điều ân sủng của nàng Kiều Lệ. Tiền bạc, lụa là đã được ban phát dồi dào mà đến những ngày nghỉ phép vốn dành cho lớp nô tỳ mỗi năm hai lượt thì Nguyễn Hoài Thu có quyền hưởng được mỗi quý một lần. Và những lần không có người nữ tỳ thân tín bên mình, Kiều Lệ buồn nhớ, hụt hẫng, thiếu hẳn tự tin, nhiều lúc cảm thấy bồn chồn âu lo.

      Mỗi dịp về phép, Hoài Thu ghé lại người anh tường trình cặn kẽ mọi việc và Trần Hoàng Sinh lắng nghe, không nói một lời. Sau đó, vẻ mặt của chàng đanh lại như đầy uất hận và chàng trao đổi với cô em họ những điều nhận xét tinh vi để đẩy xa hơn tác động của lời xưng tụng. Hoài Thu có đủ thông minh tinh tế để thực hiện các lời khen với nhiều sáng tạo, và càng ngày sự gắn bó của Vương tiểu thư với người nữ tỳ càng sâu đậm hơn, như chính Hoài Thu là sự tồn tại của mình.

      Chỉ một năm qua, Kiều Lệ đã biến đổi hẳn. Những gì kiêu kỳ bây giờ càng kiêu kỳ hơn, nếp sống xa hoa càng xa hoa hơn. Tiểu thư chi phí khá lớn cho sự tô điểm, phục trang vì hầu như không có gì là đủ cho nhan sắc nàng.Tất cả bạn bè của nàng đã bị lánh xa vì thấy không xứng với nàng. Và nhiều chàng trai con nhà thể giá ở chốn kinh thành đã cậy mối mai dạm ý đều bị từ chối lạnh lùng. Một thứ dung nhan như thế, và một trí tuệ như thế, có chăng phải được ngồi vào ngôi vị chánh cung, bởi nàng thấy mình vượt xa mọi mặt Hoàng hậu đương triều.

      Qua năm thứ hai, Kiều Lệ đã gần như là quái tượng ở đất kinh kỳ. Nàng nổi tiếng là con người kênh kiệu, khinh người thái quá, và từ cửa miệng ác độc của đám cầu hôn bị nàng từ chối phũ phàng, nàng đã hứng chịu mọi lời nguyền rủa và sự căm thù. Tất nhiên cha nàng cũng được chia phần phản ứng của người thiên hạ.

      Qua năm thứ ba thì những tai họa dồn dập kéo đến. Sự căm ghét người con gái tạo nhiều dư luận ác ý và qua thời gian được chồng chất thành những điều mưu hại. Tự ái con người là thứ thuốc nổ nguy khốn ngàn lần. Kiều Lệ đã đem tự ái bệnh hoạn của mình gây nên thương tổn cho nhiều tự ái cao sang. Cuối cùng, trong một âm mưu phản loạn ở triều, mặc dầu vô tội Vương đô đốc cũng bị người vu cáo, bị lột chức tước, tịch biên gia sản, và do chút lòng ưu ái của vua chỉ bị đuổi về làm một dân thường.

      Tất cả cao sang và phù hoa ấy tàn lịm rất mau như một giấc mơ, để rốt cuộc là ác mộng phũ phàng. Những người nữ tỳ ôm gói rời khỏi phủ đỉnh, riêng nàng Hoài Thu nhờ sự dành dụm tích lũy trong mấy năm qua đã thừa vốn liếng mở một cửa hàng tơ lụa ở giữa kinh kỳ, nghiễm nhiên là bà chủ lớn được nhiều ái mộ. Kiều Lệ mang chiếc khăn gói thất thểu theo cha về lại quê nhà, và không còn ai nhắc đến họ nữa.



      Nửa năm sau đó, thái uý Trần Chương từ biên địa về gặp lại em mình. Ông nói:

      - Thế là không cần phải rút kiếm đao, cuộc đời cũng đã trừng trị những phường cao ngạo, khinh người. Lẽ trời thật quá nhiệm mầu.

      Hoàng Sinh từ tốn đáp lại:

      - Thưa anh, trời không can dự vào trừng phạt này. Đây là dụng công của chính sức người. Những hạng kém đức, vô tài, xúc phạm danh dự con người đã phải trả giá tương xứng với tội lỗi chúng.

      Rồi chàng kể lại công việc của mình trong mấy năm qua. Trần Chương kêu lên:

      - Thế chính em là ông Tạo trong việc này sao? Nếu ngày hôm nào ta có thanh kiếm trong tay, ắt gây đổ máu và không chắc gì ta đã toàn thây. Nhưng em đã vì ta đây, vì gia đình này rửa nhục một cách an toàn, ta không ngờ em sâu sắc đến thế.

      Hoàng Sinh vẫn giọng từ tốn, đáp lời:

      - Em chỉ là kẻ nham hiểm, cực kỳ nham hiểm, do từ uất hận bị người lăng nhục mà đã nghĩ cách trả thù. Em biết luật pháp dầu có công minh đến mức độ nào cũng không lên án được sự êm ái, ngọt ngào. Và dầu luật pháp có tinh vi đến bao nhiêu cũng đành bất lực khi những nạn nhân đã tự đầu độc lấy mình. Em chỉ trao những vị ngọt, nhưng những cơ thể tham lam, thiếu nghĩ, đã tự chế biến ra thành độc dược. Các hành động đó thuộc về một tòa án khác, tòa án lương tâm.

      Rồi chàng thở dài. Trần Chương an ủi em mình:

      - Dù sao họ cũng đáng tội và phải đền tội.

      Hoàng Sinh lắc đầu:

      - Con người đã phải hành động độc ác chỉ vì xã hội không ngăn chặn được những thứ xúc phạm kể như bản nhiên của kẻ cường quyền. Dầu sao, nếu ta có cách làm cho người xấu được tốt vẫn đáng giá hơn là đẩy cái xấu cho thêm tồi tệ.

      Hôm sau, Hoàng Sinh lên đường, chàng tìm về nơi quê cũ của nhà Vương Trình. Tới bến đò làng, chàng nghe họ Vương đã chết đột ngột từ lâu khi bị đuổi về quê quán. Kiều Lệ sống đời trơ trọi, thiếu thốn và hóa điên khùng, lang thang rày đó mai đây...

      Hoàng Sinh mất một tháng trời mới tìm gặp người con gái ngày xưa đã vò nát tấm thiếp hồng mà chàng trao gởi. Một người con gái gầy gò, xấu xí, áo quần rách rưới, ngồi ở đầu chợ lảm nhảm những lời khó hiểu. Chàng tự giới thiệu với quan sở tại, xin nhờ giúp sức đưa người con gái vào một ngôi chùa gần đấy. Và chàng xin được trả công cho một cụ già phúc hậu nghèo nàn, chịu chăm sóc người mất trí cho đến mãn đời.

      Vũ Hạnh - 1980
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 16-02-2011, 12:45 AM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Dương đảo - Vũ Hạnh


        DƯƠNG ĐẢO


        Từ năm thứ ba của triều Mân Vương, xã hội kể như có sự lật ngược. Đó là đàn bà lấn sân, uy hiếp đàn ông một cách trầm trọng.

        Ngay trong cung cách sinh hoạt, các bà cũng chiếm đoạt dần những gì mà bọn đàn ông xưa nay lầm nghĩ là của riêng mình, và bắt đàn ông học đòi trở lại những gì chị em đã chán chê rồi. Chẳng hạn, từ thời cổ đại phụ nữ vốn để tóc dài, cột lại rồi thả lúc lắc theo kiểu đuôi ngựa, còn đàn ông thì độc quyền "húi cua", tức cắt tóc ngắn. Nhưng nay thì đã có sự đảo lộn: tóc của các bà hớt cao vổng lên trên ót, còn nhiều đực rựa lại để tóc dài và cũng cột chùm, thả đuôi leo ngheo, tỏ ra hí hửng như mới phát minh được cái mốt lạ. Dễ thấy hơn nữa, là cách ăn mặc. Ngày nào, các bà mặc phủ kín đùi, lỡ để lộ ra một chút da non là thấy xấu hổ sượng-sần cả mặt, và dành quần cụt - còn gọi là quần xà-lỏn- cho giới mày râu. Nay thì đàn ông bám chặt lấy thứ quần dài để cho các bà chiếm dụng quần cụt, thậm chí rất cụt đến nỗi không thể cụt hơn, lại đi nghênh ngang giữa chốn phố phường theo đúng kiểu cách chào hàng hiện đại. Còn về chuyện ngồi, thì xin miễn bàn. Các bà ngày nay không khép đôi chân, cũng không chịu khó tréo mảy cho nó yên ổn, lại dang cả hai chân ra, kể cả khi ngồi thu hết cặp cẳng lên trên ghế đá, giữa chốn công viên, có vẻ thách thức bàn dân thiên hạ.

        Nhưng điều đáng nói là chuyện trong nhà. Các bà luôn cho là mình có lý, có quyền, nói năng hơi lớn, lên lớp hơi nhiều, thường tuyên bố rằng đối với đàn ông chị em luôn phải đề cao cảnh giác để khỏi nếm lấy quả lừa. Vì vậy, những thứ đàn ông kiêu-hãnh, nghênh ngang, ra vẻ ta-đây, giờ kể như đã tuyệt chủng. Chỉ còn một hạng lấm lét, e-dè, luôn luôn ở trong tư thế đối phó mà mình cầm chắc lấy phần thất bại.

        Trong hoàn cảnh ấy, có một ngư dân tên là Trần Thân, hiền lành, nhẫn nhục, vì không chịu nổi vợ nhà nên đã nhiều phen có ý quyên sinh, song vào phút chót lại thấy tiếc rẻ cuộc sống còn nhiều cá mắm, bèn muốn tìm phương cách khác. Hối ấy, chưa có cánh cửa ly dị như một lối thoát an toàn, và thật gọn nhẹ, nên Trần Thân bèn nghĩ cách trốn khỏi tay vợ, theo như sách xưa đã dạy: "Ba mươi sáu kế chỉ có cách chạy là cách xịn nhất". Nhưng chạy đi đâu? Đó là vấn đề. Bởi khắp trên mặt đất liền, dầu anh trốn chui trốn nhủi nơi đâu thì bà xã cũng kịp thời phát hiện và lôi cổ về. Bấy giờ, nỗi khổ sẽ càng mười phần bi thảm.

        Cuối cùng, Trần Thân chợt nhớ một lần đánh cá ngoài khơi anh bị bão lớn, giạt vào một hòn đảo nhỏ. Hòn đảo xanh tươi, phong cảnh kỳ thú đặc biệt và rất hoang vu như chưa có ai từng đặt chân đến. Chỉ có ra được ngoài ấy, mới có cơ may thoát được vợ nhà.

        Thế là nửa đêm Trần Thân lén dậy, đặt một tờ giấy viết sẵn mấy chữ: "Vĩnh biệt từ đây" rồi nhẹ nhàng ra khỏi nhà, đến ngay bờ biển có giấu cất sẵn các thứ nhu dụng, lên chiếc ghe con, giong buồm ra đảo.

        Đặt chân lên đảo, Trần Thân thấy mình như lên được miền Cực Lạc. Thôi thì từ đây không còn bị ai làm tội, làm tình. Được sống, mà khỏi đối phó với người gần gũi, là thần tiên rồi. Anh ta chạy từ đầu đảo xuống dưới cuối đảo la hét huyên thiên, hết cười lại nói, hết nói lại chửi, vung tay múa chân, tuyên bố đủ điều kỳ lạ mà nếu có ai nghe thấy cũng nổi da gà. Nhưng ở nơi đây, chỉ mỗi mình anh, chẳng phải sợ gì. Cá, ốc có đầy quanh đảo, cây trái rậm rạp, trĩu cành, đất tốt trồng gì cũng dễ sinh sôi, và điều tuyệt vời là không còn nghe vợ tố, vợ tụng, ca-kệ, nhì-nhằng. Buổi sáng, Trần Thân ra một mỏm đá nói to tất cả những gì bấy lâu ẩn chứa trong lòng nhưng vì sợ vợ nên không dám nói. Buổi trưa, anh vào nằm trong hang đá lảm nhảm một mình bao nhiêu ý nghĩ của anh đối với vợ nhà. Buổi tối, bên ngọn lửa hồng, anh lại một mình thổ lộ tất cả ý nghĩ của anh về giới phụ nữ.

        Ba ngày sau đó, Trần Thân rơi vào trạng thái im lặng. Nói, là để cho người ta nghe, và anh đã nói cho chính anh nghe chán chê cả ba ngày rồi. Nay thì còn có ai đâu để mà nói nữa? Trần Thân bắt đầu cảm thấy một nỗi cô đơn. Và anh chợt hiểu: cô đơn lớn nhất của nhân loại này là không được nói.

        Thế thì phải làm sao đây? Gấp rút tìm người đồng điệu để mà chia xẻ tâm tình. Trần Thân lấy mấy chai mắm, chai dầu đã cạn, rửa sạch rồi viết tờ thư nhắn gởi đàn ông khắp xứ- những ai sợ vợ, giận vợ, chán vợ- hãy theo bản đồ chỉ dẫn mà đến đảo này. Xong, anh nhét nút kỹ, ném chai xuống biển, để nhờ sóng gió đưa đi.

        Và điều kỳ diệu xảy ra. Chỉ một thời gian rất ngắn, đã có vô số đàn ông tấp nập kéo tới. Con số lên đến gần một ngàn người. Không khéo đảo sẽ bị nạn nhân mãn đàn ông. Bây giờ có một tập thể đông đúc như vậy, cần phải tổ chức, sắp xếp đội ngũ không thì sẽ gây hỗn loạn, bởi lẽ nhiều anh bị vợ đàn áp lâu năm đã có triệu chứng tâm thần phân liệt, một số nửa khùng nửa điên cười khóc thất thường, một số bị trầm cảm nặng, suốt ngày chỉ ngồi im lặng như đá, cạy răng cũng không nói được một lời. Dĩ nhiên, về chuyện ăn uống thì vẫn còn nhiều nhiệt tình.

        Trần Thân được toàn thể bầu lên làm đảo trưởng. Anh chọn ba chục đảo phó để làm phụ tá, vì có nhiều phó thì cái người chánh xem như là có quyền hơn. Rồi chia đủ thứ ban bệ để khai thác đảo, phần lo săn bắt thủy sản, phần lo trồng trọt, phần lo chăn nuôi. Về mặt duy trì trật tự, trị an thì có đội ngũ đề phòng các tay điên khùng gây rối, mặt khác cũng phải canh chừng quanh đảo đề phòng phụ nữ tấn công. Dầu ở cách xa giữa chốn biển khơi, song kẻ sợ vợ vẫn không vì vậy mà hết sợ được.

        Đồng thời đảo cũng khuyến khích các môn giải trí để cho cơ thể cũng như tinh thần được sự giải tỏa, bởi sống xa vợ các anh đàn ông dễ bị ức chế gây ra manh động mà cứ tưởng lầm là cái bản lĩnh của kẻ yên-hùng. Hai môn được khuyến khích nhất là môn bóng đá và môn đô-vật mà giới đàn ông nhiều năm ngộ nhận là môn thể thao riêng của giới mình. Không có quả bóng đích thực, người ta lấy các giẻ rách quấn tròn và đá với nhau xem cũng ra trò. Đồng thời đảo cũng mở một cửa hàng để các dân nhậu có thể đến uống rượu đế thả cửa, miễn là có cá, có củi để mà trao đổi. Rượu này do một ban bệ gồm nhiều chuyên viên chế cất trong một hang đá, song dầu họ có nhiệm vụ chở rượu ra quán vẫn không mấy khi thực hiện đúng kỳ, bởi lẽ sau khi nấu xong họ thường nốc say bí tỉ và lăn ra ngủ như chết. Đó cũng là điều mà khi phải sống với vợ, họ thường bị chuyện cằn nhằn, tiến đến chửi rủa- từ sự chửi ngắn lấn sang chửi dài- dẫn đến chén bát bể sạch. Cùng sống trên đảo với những đồng loại toàn là đực rựa, người ta khám phá ra rằng áo quần cùng với các mốt thời trang chỉ là sản phẩm phát sinh do sự đối phó với người khác giới. Bởi thế, ở đây ăn mặc là chuyện không cần bàn đến. Có gì mặc nấy, và nếu không có cũng chẳng sao cả. Lại càng mát mẻ!



        Nói chung, ở một quần thể chỉ toàn nam giới, lại mang tâm lý sợ vợ, có biết bao nhiêu là chuyện quái đản, buồn cười không thể kể hết trong một truyện ngắn. Để củng cố sự ra đi của mình, mỗi tối thứ bảy thường có cuộc tập họp lớn để cùng nói xấu phụ nữ, cụ thể là nói xấu vợ, cho hả cơn tức bấy lâu. Nói riết, hết chuyện, người ta lại đặt điều ra, khiến ông đảo trưởng lấy làm kinh ngạc vì nhận thấy rằng đàn ông cũng có bộ óc hư-cấu hết sức dồi dào. Và khi cần phải nói xấu người khác, họ tỏ ra có năng lực phi thường.

        Sinh hoạt ở đảo cứ thế tiếp diễn, cho đến ngày nọ có một sự cố. Câu chuyện khá dài, song xin tóm lược như sau:

        Thời ấy, một trong những nghề hốt được bộn bạc, đó là buôn lậu, làm các hàng giả và ra làm quan. Điều này khiến cho khá nhiều kẻ sĩ hăm hở đi học, thậm chí đút lót quan trên để mua đề thi với một giá cao đặng có cơ may chiếm được bảng vàng. Trên tinh thần ấy có gã Mai Trầm, người huyện Thanh-Nê, mặc dù học dốt cũng xách khăn gói hăm hở ra chốn kinh kỳ. Đến bến Bạch Phố gã thuê chiếc thuyền để đi đường sông cho được thanh nhàn. Đi được năm ngày, chủ thuyền hết gạo, cạn nước, ghé lại gần chợ Liên Châu lên bờ mua đồ tiếp tế. Mai Trầm ngồi trong thuyền, nghe ở trên bến có tiếng người nữ hát rất não-nuột, giọng thánh thót, tiếng dịu ngọt đến mê lòng người. Khi chủ thuyền về, gã hỏi:

        - Người nào hát hay vậy kìa?

        - Xin thưa, đó là cô gái hát dạo, nghe đâu chồng bị giam trong ngục tối, nàng phải làm nghề xướng ca kiếm tiền độ nhật để đến kinh kỳ kêu oan cho chồng.

        - Hãy gọi nó đến cho ta.

        Chủ thuyền ra đi, chốc lát đã dẫn người ca nữ về. Mai Trầm thoạt nhìn, đã thấy mê mẩn. Thế ra ngoài cái giọng ca diễm lệ nàng có nhan sắc mặn mà khác thường. Gã bảo:

        - Hãy ngồi xuống đây, nói cho ta rõ sự tình.

        Cô gái cho biết tên là Từ-Ly, họ Đào, lấy chồng là một nông dân tên Bái, họ Vương. Vì thấy quan trên tham nhũng, lộng hành, chồng nàng đã cùng bè bạn lên tiếng chống đối, lập tức đã bị bắt giam vào ngục. Nàng đã tìm kiếm khắp nơi không gặp mặt chồng, nay lên kinh đô kêu oan. Ngặt vì đường xa, tiền ít, phải hát để kiếm đồng tiền độ nhật. Mai Trầm gật gù:

        - Cũng may cho nàng là ta đang trên con đường về chốn kinh kỳ ứng thí. Vậy cho nàng đi theo ta.

        Từ-Ly cúi đầu cảm tạ, lui về sau ghe.

        Đêm ấy, Mai Trầm cho gọi Từ-Ly và bắt nàng phải cùng gã vui vầy chăn gối. Từ-Ly cự tuyệt. Mai Trầm đưa một nén vàng. Từ-Ly lắc đầu. Y đưa hai nén, Từ-Ly nghiêm mặt:

        - Ông tưởng tôi có thể bán danh dự và thân xác tôi để lấy vàng sao? Cho dầu ngàn lượng vàng ròng cũng không mua được danh-tiết tôi đâu.

        Mai Trầm cả giận, đáp lại:

        - Ca nữ mà còn làm bộ chê tiền!

        Từ-Ly trả lời:

        - Dầu là ca nữ phải sống xó chợ đầu đường nhưng tôi, cũng được giáo dục tôn trọng đồng tiền chính đáng do công sức mình làm ra, chứ không đem bán thân mình. Chỉ bọn tham quan lại những, thấy tiền tối mắt, mới làm những chuyện ô-danh.

        Mai Trầm quát to:

        - Đừng có nhiều lời. Mai đây thi đỗ, làm quan ta có vô số tì thiếp xinh đẹp gấp mười, gấp trăm nhà ngươi. Sá gì một gái có chồng tha phương cầu thực!

        Qua ngày hôm sau, thấy ở đằng xa có một đảo nhỏ, gã hỏi chủ thuyền:

        - Hòn đảo gì vậy?

        - Thưa là đảo hoang. Xưa nay, trái đường ít ghe lui tới nên không đặt thành tên gọi. Gần đây nghe có một số đàn ông chán đời đến đó tu hành.

        - Vậy hãy ghé lại.

        Chủ thuyền tuân lời, cho thuyền cập vào một bờ đá hẹp. Mai Trầm đưa hai đồng tiền và cái chai nhỏ, bảo người chủ thuyền:

        - Hãy sai cái con mất dạy lên tìm mua rượu cho ta.

        Đợi Từ-Ly vừa đi khuất sau một lùm cây, Mai Trầm ra lệnh:

        - Cho thuyền đi thôi.

        - Nhưng còn cô gái...

        - Mặc kệ xác nó. Đó quả là đồ vô dụng, đem theo chỉ thêm gai mắt. Để nó sống chung với bọn tu hành trên đảo, thử có an-toàn danh tiết hay không.

        Chủ thuyền không nỡ bỏ rơi một người phụ nữ cô đơn ở giữa bể khơi, có vẻ chần chừ thì Mai Trầm quát:

        - Ta đã thuê trọn thuyền này thì ta là chủ, muốn cho ai đi là tùy ở ta. Hãy lên đường ngay!

        Và thuyền lướt sóng ra khơi.

        Từ-Ly lặng lẽ men theo triền đảo đi tìm quán rượu. Khi đến đầu dốc, quay lại, thấy thuyền chạy xa biết mình đã bị bỏ lại nơi đảo hoang này. Không còn cách nào khác hơn, nàng lại tiếp tục tìm vào bên trong, hy vọng gặp được nhà của ngư dân. Đang cúi đầu bước vừa nghĩ thân phận lưu lạc của mình, bỗng nghe một tiếng rú lên:

        - Trời ơi!

        Nàng dừng bước lại. Sau một mỏm đá có người đàn ông đang đứng nhìn nàng lom lom, mắt mở trừng trừng trong một dáng vẻ kinh ngạc tột cùng. Cuối cùng, anh ta lắp bắp:

        - Đàn... bà phải không?

        Từ-Ly gật đầu, thầm nghĩ: "Có lẽ đây là một gã điên khùng".

        Nhưng gã đã hốt hoảng bảo:

        - Ấy chết! Nàng đừng bước tới kẻo mà mang hoạ vào thân. Ở đây đã có nghiêm luật: hễ gặp phụ nữ thì phải quăng ngay xuống biển để tránh đại-nạn.

        Từ-Ly nói qua cảnh ngộ của mình, rồi than:

        - Thế tôi phải làm sao đây? Chẳng lẽ ở đâu tôi cũng phải gặp những bọn đàn ông ích kỷ, hồ đồ vậy sao? Ở trên mặt biển là phường dâm loạn ác-nhân, còn trên mặt đất là lớp cuồng điên tàn bạo. Nếu không vì cảnh chồng tôi tù tội hàm oan chưa được giải tỏ, thì tôi sẵn sàng làm mồi cho cá ở chốn biển khơi chứ nào thiết sống giữa chốn trần gian đầy ô-nhục này!

        Người đàn ông lộ vẻ xúc động, đáp lại:

        - Ta chưa gặp ai xinh đẹp lại có tấm lòng chung thủy kiên cường như nàng. Vậy để ta tìm cách gì giúp nàng thoát cảnh hiểm nguy. Bây giờ hãy nghe lời ta tạm núp vào trong hang đá trước mặt. Đến tối, ta sẽ mang quần áo đến để nàng cải trang mà về ẩn trú nơi cái hàng quán mà ta đã được phân công điều hành.

        Từ-Ly không cách nào khác là phải nghe theo. Đến gần nửa đêm, Lý Hải- tên người chủ quán- đem đến cho nàng quần áo đàn ông, một khăn vấn đầu và chút lọ nồi để mà bôi lên mặt mũi cho ra con người lam lũ. Họ cùng đi con đường tắt về quán. Tới đây, Lý Hải đưa nàng vào một buồng nhỏ phía sau và đem cơm nước cho nàng. Gã bảo:

        - Hãy cứ suốt ngày nằm yên trong đó, đừng có thấp thoáng ra ngoài.

        Gã còn cẩn thận đặt vào bên trong hai cái chậu nhỏ, để người đàn bà giải quyết đầu ra cho bản thân mình.

        Từ đó, mỗi ngày hai lần gã đem cơm nước vào cho Từ-Ly. Ban đầu nàng còn lo sợ nhưng sau thấy gã luôn tỏ thái độ nghiêm cẩn và kính trọng nàng nên mới yên lòng. Song phải giam cầm như thế cho đến bao giờ? Một hôm, Từ-Ly nói lên nguyện vọng của mình:

        - Kính thưa ân nhân, tôi được sống yên nơi đây là một điều may mắn lớn song cứ nghĩ đến nỗi oan chồng tôi chưa được giải tỏ thì không làm sao có thể an lòng. Mong ngài giúp tôi rời khỏi chốn đảo hoang này thì tôi xin nguyện suốt đời không quên ơn ngài.

        Lý Hải đáp lời:

        - Ta đã nghĩ đến điều này từ ngày đầu tiên gặp nàng. Từ lâu ta cứ nghĩ rằng đàn bà là kẻ nhà trời sai xuống để mà dằn vặt đàn ông, nay gặp được nàng thấy quả là mình lầm lớn. Xinh đẹp, lại không con cái, nàng rất có thể làm lại cuộc đời một cách an lành, đâu phải đem thân lặn lội chịu nhiều gió bụi, đọa đày để mà vì chồng giải nỗi hàm oan. Song nàng không ỷ tài, sắc của mình để làm hoen ố cái đức của người phụ nữ trung trinh, ta xin bái phục. Nay ta đang đóng chiếc bè để giúp đưa nàng về chốn đất liền, hãy gắng chờ đợi rồi sẽ ra đi. Và ta sẽ đi với nàng, giúp nàng tìm gặp được chồng.

        Từ-Ly ôn tồn:

        - Ngài quá lời khen, song tôi chỉ là một kẻ tầm thường cố gắng giữ trọn đạo người đó thôi. Nếu có chiếc bè, tôi liệu có thể một mình chèo chống, khỏi phiền lụy ngài rời đảo.

        Lý Hải bèn nói:

        - Gặp một phụ nữ như nàng, ta không thấy còn có lý do nào để ở lại đây. Chỉ mong giúp nàng đoàn tụ, là ta vui rồi. Ngoài ra cũng phải thú thật điều này: nếu lỡ chồng nàng không còn ở trên thế gian thì ta xin được chung sống với nàng.

        Từ-Ly đáp lại:

        - Đa tạ lòng ngài đã chiếu cố đến con người bèo bọt như tôi. Nếu rủi ro tôi trở thành góa phụ thì xin được ở ba năm phục tang cho chồng, mới dám nghĩ đến đền ơn cứu mạng của ngài.

        Lý Hải không giấu được sự cảm động:

        - Cho dầu đợi nàng năm năm, mười năm ta cũng vui lòng.

        Từ-Ly mỉm cười:

        - Ngài không sợ thiếp già sao?

        - Một người cao quí không bao giờ già.

        Từ-Ly im lặng, rồi nói:

        - Nhưng ngài đã phạm cái lỗi mà đa số kẻ đàn ông vẫn thường mắc vào.

        - Cái lỗi gì vậy?

        - Là trong những phút xúc động, hứng khởi, đàn ông thường quên mất vợ ở nhà. Ngài nên nghĩ đến người đang chờ đợi mỏi mòn ngày ngài về lại quê xưa.

        Lý Hải im lặng, cảm thấy bối rối, thẹn thùng. Lát sau, mới nói:

        - Cái chính là ta phải giúp đỡ nàng. Mọi việc, về sau, xin để cuộc đời sắp xếp.

        Hôm sau, một bạn thân của Lý Hải là Trọng Thìn nhân ra vườn sau hái mấy cọng ngò vào thêm gia vị cho bữa ăn nhậu, lại đi tắt qua ngôi buồng phía sau. Bỗng gã khịt mũi, kêu lên:

        - Lạ kìa! Có mùi đàn bà!

        Lý Hải kịp nghe, chạy đến:

        - Thôi đừng nói nhảm! Làm gì mà có đàn bà ở đây?

        Trọng Thìn vẫn cứ khìn khịt, rồi bảo:

        - Ta đã sống với phụ nữ trên mấy mươi năm, đâu có lầm được? Phàm trong tạo vật cái gì cũng có mùi riêng của nó, không thể lẫn lộn vào đâu. Hễ gừng thì có mùi gừng, mà quế thì có mùi quế, con cọp có mùi khác với con trâu, đàn ông có mùi khác với đàn bà. Chỉ những lỗ mũi điếc đặc mới không nhận thấy cái hương vị riêng của từng loại một.

        Rồi gã la lên:

        - Rõ ràng gần đây hẳn có đàn bà! Có thể chị em đã lén đột nhập vào đây để mà ám hại chúng ta cũng chưa biết chừng! Để ta lục soát trong căn buồng này xem sao.

        Lý Hải hoảng quá, bấm gã kéo ra phía sau, thú thật mọi điều. Trọng Thìn đòi được gặp mặt Từ-Ly mới chịu nín thinh. Khi thấy mặt nàng gã bỗng sững sờ, chỉ nói:

        - Tội nghiệp cho nàng!

        Rồi gã bước ra. Lý Hải khẩn khoản:

        - Mong bạn thương tình, đừng có tiết lộ cho ai biết rõ điều này.

        Trọng Thìn gật đầu một cách khẳng khái, ra về trong nỗi xúc động khó tả. Nhưng suốt đêm ấy, gã không ngủ được. Gần sáng, gã bèn gọi người bạn thân tên là Huỳnh Tâm kể lại sự việc hôm qua, với lời dặn dò khẩn thiết là đừng tiết lộ cho ai biết được việc này.

        Một sự bí mật đã có đến ba con người nắm giữ, cũng giống như một con chim nhốt trong chiếc lồng có ba cửa mở. Do vậy, một thời gian ngắn, gần nửa dân đảo đã biết là có một người phụ nữ được giấu trong chiếc buồng nhỏ của quán Lý Hải. Ban đầu mọi người xem đó như là chuyện lạ, sau thấy ngờ vực, rồi sinh ghen tị. Bởi anh đàn ông nào cũng nghĩ rằng chỉ mình mới là con người lý tưởng của các cô gái xinh đẹp, còn những đực rựa nào khác đều là bất xứng. Do đó, một thời gian sau toàn đảo đều biết sự bí mật này.

        Đảo trưởng giận lắm, coi đây là biến cố lớn vì đã vi phạm kỷ luật hàng đầu của đảo, cho năm chục người cầm đủ gươm dáo đến vây nhà quán vào lúc sập tối, bắt cả Từ-Ly cùng với Lý Hải dẫn về nhà-việc của đảo có một sân rộng đốt đống lửa lớn, chung quanh dân đảo đã được tập họp đông đủ.

        Mở đầu, đảo trưởng tuyên bố lý do, kết tội Lý Hải đáng bị bắt giam nhịn đói mười ngày dưới một hầm đất sau khi chịu đánh đúng ba trăm gậy vì tội đồng lõa với kẻ gieo họa, còn nàng Từ-Ly thì phải bị trói và ném xuống biển. Trước khi thi hành bản án, để cho có vẻ dân chủ đảo trưởng cho cả hai người được tự biện hộ. Lý Hải cho rằng cô gái không phải là vợ của bất cứ ai trên đảo, nên không thể xem cô như kẻ thù, hơn nữa cô là nạn nhân của một đàn ông, nên cô đáng thương hơn là đáng tội. Ngoài ra Lý Hải cũng đã đóng bè để cô ra khỏi nơi này- hiện bè vừa mới đóng xong- là cốt để giữ vững sự bình yên của đảo. Nếu Lý Hải bị xử phạt, thì hầu hết người trên đảo cũng phải xử phạt như vậy, vì họ đều cùng giữ chung sự bí mật này trước khi bị một vài kẻ tiết lộ.

        Những lời nói của Lý Hải khiến cho mọi người bối rối và cùng ngồi im, không biết phải nên phản ứng thế nào. Lý Hải nói tiếp:

        - Hơn nữa, xin mời quí vị nghe người đàn bà nói rõ về mình. Quí vị sẽ thấy người đó đáng thương, hay là đáng tội.

        Đảo trưởng ra lệnh cho nàng Từ-Ly trình bày sự tình. Nàng tỏ thái độ cung kính và rất điềm nhiên ra giữa đám đông, cúi đầu chắp tay thi lễ trước các chức sắc của đảo, rồi với một giọng dịu dàng, truyền cảm, kể lại sự việc của mình. Chồng bị bắt oan khi đã đứng lên bênh vực lẽ phải, sai nha nhũng lạm vét sạch bạc tiền khiến cha mẹ chồng buồn khổ nên lâm bệnh nặng, qua đời, nàng bồng con nhỏ đi gõ cửa quan, ngày tháng dãi dầu sương nắng, đứa con đã bị tử-thần cướp đi. Lang thang đây đó, nàng phải hát dạo kiếm tiền để ra kinh đô kêu oan cho chồng. Vì không chiều theo thú tính của một kẻ sĩ ác-ôn, nàng bị bỏ rơi trên đảo...

        Khi nàng Từ-Ly dứt lời, tất cả đều chìm trong sự yên lặng kỳ lạ. Có vài tiếng khóc sụt sùi đâu đó vẳng lên. Họ không ngờ được gặp gỡ một người đàn bà chẳng những xinh đẹp ở phần hình thức mà còn cao đẹp về mặt tinh thần. Đồng thời họ nhận thấy rằng, hóa ra tất cả nỗi khổ đa dạng mà người đàn bà chịu đựng đều do chính bọn đàn ông gây ra. Một tay diễn viên sân khấu vì quá sợ vợ mà chạy ra đây, nghe Từ-Ly nói đã phải làm nghề hát xướng kiếm ăn qua ngày bèn tìm cách để phá tan không khí bi thương và trầm uất ấy, nên đã phát biểu:

        - Để chứng thực cho lời nàng vừa kể, nàng hãy hát lại một đoạn nào đó cho chúng ta nghe xem nào!

        Từ-Ly cúi đầu, tỏ ý tuân lệnh, rồi cất tiếng hát rất là não nuột:

        Vượt trăm ngàn ngục nhân gian

        Tìm đâu cho thấy mặt chàng thì thôi

        Con thơ như ngọc tan rồi

        Mẹ cha khuất bóng, còn đôi đứa mình

        Đưa tay vuốt tóc còn xanh

        Bạc đầu riêng vẫn để dành cho nhau.

        Nàng vừa dứt lời, tiếng khóc bỗng nổi vang lên ở trong đám người chung quanh. Đảo trưởng cố nén mình lại để giữ thể diện, cuối cùng bật khóc to hơn mọi người. Phần vì thương cảm cho cảnh ngộ nàng, phần vì từ lâu vốn bị ức chế do sống xa vợ nên đây là dịp để cho các đấng mày râu giải tỏa nỗi lòng.

        Cuối cùng, đảo trưởng phán rằng:

        - Cảnh ngộ người đàn bà này thật là đáng thương, thay vì trừng trị phạt theo luật ta cho hưởng sự khoan hồng. Ngay trong đêm nay, phải rời khỏi đảo. Chỉ cần một người áp tải đi về đất liền.

        Lố nhố hàng chục, rồi đến hàng trăm và gần như khắp người ngồi chung quanh đều đưa tay lên xin đi với người đàn bà. Đảo trưởng lại phán:

        - Kẻ nào nhìn thấy người đàn bà trước, kẻ ấy phải có nhiệm vụ dẫn độ.

        Như thế, Lý Hải được chọn vào nhiệm vụ này. Anh ta bước ra, xin nói vài lời:

        - Để cho đảo được an lành, tôi sẽ đưa ngay Từ-Ly vượt biển sau khi quí vị ra về. Song tôi thưa thiệt đôi điều: chính sự gặp gỡ người đàn bà này giúp tôi suy nghĩ để nhận thấy rằng xưa nay đàn ông đã gây quá nhiều nỗi khổ cho giới đàn bà. Nếu họ có phản ứng lại, cũng vì chúng ta quá quắt, chứ không phải họ có một ác tâm. Nay người đàn bà như nàng Từ-Ly bị chính bao nhiêu đàn ông gây hại, thế mà đàn ông chúng ta lại đi tìm chỗ lẩn tránh, thật là quá đỗi phũ phàng. Nghĩ cho tận cùng thì dốc toàn lực ra để bênh vực, chăm sóc chị em đến trọn cuộc đời chúng ta, vẫn chưa là đủ. Chính vì lẽ ấy, tôi xin được phép vĩnh viễn ra đi khỏi đảo để trở về với đất liền, trở về với những trách nhiệm đang réo gọi mình.

        Lý Hải nhìn thấy mọi người gục đầu có vẻ như đang suy nghĩ. Đảo trưởng cũng không nói một lời nào. Lý Hải đến dắt Từ-Ly rời khỏi đám đông, vội quay về quán gom góp một ít vật dụng cần thiết, rồi cùng xuống bè, chèo gấp ra khơi vì sợ các vị trên đảo bất thần đổi ý.

        Câu chuyện về sau thế nào thì không được nghe kể lại một cách rõ ràng. Chỉ biết, vài ngày sau đó, trên đảo người ta dần dần biến mất, còn ông đảo trưởng là kẻ ở lại cuối cùng. Nhưng rồi ông cũng ra đi vì cả dân đảo cùng ba chục vị đảo phó đã không còn nữa.

        Các sách ghi lại chuyện này, căn cứ vào các đàn ông tập trung ở đảo, nên gọi tên là Dương-Đảo, bởi dương là tiếng dành riêng cho lớp đực rựa, song trong dân gian người ta vẫn hiểu dương còn có nghĩa là dê, nên quen gọi là đảo-dê.

        1990
        Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 18-02-2011, 06:36 AM.
        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        • #5

          Chung Giọt Mồ Hôi - Vũ Hạnh



          CHUNG GIỌT MỒ HÔI

          Vua chúa không thể nào có người yêu. Điều này dễ hiểu như cây cột nhà không thể nở hoa. Và câu chuyện này phải nên kể lại từ đầu để không có vẻ bày đặt.

          Vào một năm u ám nhất, khi Trần Nghệ Tông còn ở trên ngôi, một người con gái họ Dương vốn là đào hát vào làm phi tần đã giúp em mình là Dương Nhật Lệ, cũng là kép hát chuyên đóng các vai thiên tử, lên chiếm ngôi vua. Hễ quen làm chuyện giả mạo lâu ngày người ta dễ biến nó thành sự thực.

          Trong lúc hỗn loạn, vua Trần Nghệ Tông cùng với gia đình chạy thoát ra khỏi kinh thành vào lúc nửa đêm. Nửa đêm trời tối, người ta rất dễ nhầm lẫn. Vì vậy nhà vua để lạc mất một người con, là thái tử Kiên.

          Thái Tử lúc ấy nắm tay một người lính già chạy về vùng quê hẻo lánh, cách xa kinh thành một tháng đường dài. Người lính đã cho thái tử mặc đồ thường dân, và giấu thái tử trong một thôn xóm nghèo nàn ở cạnh núi rừng. Buổi sáng, những khi thức giấc, thái tử có thể nghe nhiều tiếng chim ca hát rộn ràng và suốt bốn mùa nhìn thấy hoa đẹp đổi màu thay sắc trên những vòm cây xanh ngắt mênh mông.

          Để ngăn ngừa sự thóc mách của dân làng, người lính phải xem thái tử như đứa con nuôi. Sáng chiều đứa con giúp cha nuôi mình cày trên mảnh đất sỏi cằn, múc nước dưới suối tưới những luống rau, kiếm tìm sự sống một cách vất vả.

          Rồi đến một hôm, người cha nuôi ấy mệt mỏi nghe lòng đất sâu kêu gọi trở về, thái tử trở thành cô độc. Cô độc làm cho cuộc sống trở thành hoang vắng, nặng nề.

          Vào một buổi trưa, vừa dưới suối lên, thái tử thấy một cô gái ngồi trong bóng cây ven đường cạnh một giỏ dâu đầy ắp. Thái tử nhìn người thiếu nữ, rồi bỗng bối rối đưa cánh tay lên gạt lớp mồ hôi vã trên trán mình. Đôi má thiếu nữ đỏ bừng, vì ánh mặt trời gay gắt và vì e thẹn. Rồi người con gái quay nhìn nơi khác, cầm lấy chiếc nón phe phẩy vừa như rủ rê một chút mát mẻ tìm đến với mình, vừa như xua đuổi một đôi ý nghĩ khiến lòng bận rộn.

          Thái tử không muốn quay về, và cũng không dám đến gần cô gái, chọn một gốc cây bên suối để ngồi. Một lát, cô gái tiến về phía suối loay hoay dùng chiếc nón lá vục xuống dưới dòng tươi mát. Nhưng bờ suối cao và cánh tay nàng không đủ chiều dài. Thái tử vội leo xuống suối, xin được giúp đỡ cho nàng. Lúc ấy đất trời im lặng, chỉ có mỗi tiếng suối reo róc rách thì thầm. Người con gái hơi ngần ngại, rồi đưa chiếc nón cho người con trai.

          Chàng lội nhẹ ra giữa dòng, gạn lấy cho nàng một nón suối nước trong veo, thận trọng đem đến bên bờ suối vắng. Người con gái chợt thấy những giọt mồ hôi trên trán của chàng rơi vào suối nón như ngọc long lanh, vội đưa hai tay thành khẩn đón lấy món quà thiên nhiên, và trao đôi mắt nhìn chàng thay lời cảm tạ. Khi nàng cúi xuống đặt môi vào làn nước mát, nàng chợt nhận thấy những giọt mồ hôi của mình cũng xuống hòa theo.

          Sau đó cô gái vội chào, đeo giỏ dâu nặng trên vai quày quả bước đi. Có những trường hợp người ta đi trốn kẻ khác, nhưng thật là tự trốn mình.

          Thái tử đứng yên giữa nắng trưa hè, nhìn theo bóng người con gái nhưng nàng không quay nhìn lại lần nào. Thái tử tìm đến bóng cây, ngồi lại chỗ nàng đã ngồi, cảm thấy trong lòng sung sướng. Có lẽ sung sướng hơn ngồi trên một ngai vàng.

          Nhiều ngày, sau những buổi làm mệt nhọc, thái tử lại tìm đến ngồi chỗ cũ của nàng. Bao lần những muốn tìm xem nàng ở nơi nào, nhưng rồi xóa bỏ một cái ý định có vẻ táo bạo phiêu lưu.

          Một buổi trưa khác, cô nàng hái dâu lại gặp người trai hôm nào ngồi dưới gốc cây. Thấy nàng từ xa, chàng nghe tim mình dồn dập, tưởng suýt ngất đi. Lúc nàng đến gần, chàng cúi mặt xuống, bỗng nghe sợ hãi trong lòng. (Đàn ông vẫn thường sợ hãi đàn bà, đàn bà có biết hay chăng?).

          Nhưng khi nghe bước chân nàng sắp vượt qua khỏi chỗ mình, hốt hoảng chàng ngước nhìn lên. Cặp mắt của chàng bày tỏ một lời níu kéo, khiến người con gái bỗng chùn bước lại. Hai người nhìn nhau và chàng luống cuống chào nàng. Nàng chào trở lại, rồi nàng đi qua. Hôm ấy, mây trời che nắng, không ai ngồi dưới gốc cây. Chỉ có những kẻ thương yêu đợi chờ lạc lõng bên đường để y hẹn với lòng mình.

          Nhưng trời đang còn mưa nắng và lứa tằm nàng đang lúc ăn lên. Nhiều buổi trưa khác, họ lại gặp nhau, và lời chào hỏi đã thành quen thuộc. Từ đó người con trai biết cô gái sẽ đi vào những hôm nào, và người con gái biết chàng trai sẽ làm lụng nơi đâu.

          Nhiều ngày trôi qua, cô gái thấy rằng chàng trai chăm chỉ, hiền lành, đượm vẻ chân thật, biết tôn trọng nàng. Chàng trai thấy người con gái tươi sáng, siêng năng, trong sự đoan chính có nhiều thùy mị. Rồi đến mùa cấy trong thửa ruộng nhỏ mà người lính già để lại, người trai bừa nước trong khi cô gái cắm xuống bùn đen những tép mạ non. Ở trong đất ruộng mồ hôi hai người lại được trộn lẫn vào nhau để cho ngày mai lúa sẽ chín vàng. Những chuyến hái dâu, người trai đi với cô gái vào những vườn xa trong núi, chuyền trên cành cao, chung hái cho nhau những giỏ dâu đầy. Trên con đường về chàng mang giỏ nặng cho nàng và mồ hôi hai người nhỏ giọt xuống quãng đường dài khấp khểnh. Biết nàng còn có mẹ già, em dại, chàng thường lui tới viếng thăm. Biết chàng cô độc, những ngày rảnh rỗi, nàng đến giúp chàng chăm sóc ruộng vườn. Mỗi đêm, chàng đến chỉ vẽ cho nàng học tập, bên một ngọn đèn leo lét nhưng thừa ánh sáng cho đôi cõi lòng rực tỏa thương yêu. Trên con đường về, dưới ánh trăng khuya chàng không nhìn thấy bóng mình cô độc, hoặc trong đêm tối, sao mờ, không bao giờ thấy lẻ loi. Dĩ vãng vàng son, thềm hoa điện ngọc, trở nên xa lạ với chàng. Họ hẹn cùng nhau ngày nào gặt xong những lượm lúa vàng, quay xong những guồng tơ thắm, sẽ sống bên nhau. Tình yêu thao thức cùng với việc làm của họ hàng ngày, và họ làm việc với niềm tin tưởng chứa chan.

          Rồi vua Nghệ Tông kéo quân chiếm lại kinh thành. Kép hát họ Dương, chưa xong một tuồng son phấn, đã phải nộp đầu chuộc tội. Nhà vua phán bảo trăm họ tìm đưa thái tử về triều. Lệnh trên truyền xuống xóm thôn, đi vào ngõ ngách rừng hoang núi thẳm. Và người thái tử lạc loài bỗng nghe kinh thành réo gọi tưng bừng.

          Chàng đến tìm nàng giữa lúc nàng đang quây thóc giữa nền sân đất, mồ hôi điểm sáng khuôn mặt hồng hào. Chàng kéo vạt áo lau mặt cho nàng, hớn hở bảo nàng:

          - Từ nay, em không phải vất vả nữa, không bao giờ em còn phải nhỏ giọt mồ hôi.

          Nàng ngơ ngác nhìn, không hiểu. Chàng bảo:

          - Ta là thái tử đây em. Ngày mai ta sẽ về triều, rồi sẽ làm vua. Và em sẽ là hoàng hậu.

          Người con gái tưởng người yêu của mình điên loạn. Nhưng không, vẻ mặt rạng rỡ và những tiếng nói bỗng nhiên trang trọng của chàng có một vẻ gì quả quyết khiến nàng tự thấy phân vân. Chàng kéo người yêu vào nhà, kể hết sự tình lưu lạc. Nàng khóc nghẹn ngào, vừa xót thương cho cuộc đời của chàng đã qua, vừa kiêu hãnh cho cuộc đời của mình sắp đến. Ngày mai, nàng sẽ được là hoàng hậu, trong vai chúa tể muôn người. Nhưng phút xúc cảm hân hoan tột độ qua rồi, nàng thấy lo âu. Nàng hỏi:

          - Ở trên ngôi vị cao sang, liệu chàng có còn thương em như lúc này chăng?

          Giọng chàng ôn tồn:

          - Chúng ta sẽ yêu nhau nhiều hơn nữa, bởi vì chúng ta có thừa phương tiện cũng như uy quyền. Hãy chờ đợi ta trong một thời gian ngắn ngủi, ta sẽ cho người đến rước em về.

          Ngày mai, dân làng nô nức đưa vị thái tử về triều. Chàng ngồi trên ngựa, giữa một đoàn người tề chỉnh, vâng dạ cúi đầu, trông chàng trở thành cao lớn, uy nghi. Nàng cảm thấy có chút gì xa cách với chàng, nhưng chàng vẫn mải đưa mắt tìm nàng ở giữa đám đông nô nức vây quanh. Khi đã thấy nàng, chàng mỉm nụ cười tự mãn, và lúc chia tay chàng còn giục ngựa từ từ, vẫy tay liên tiếp chào nàng. Nàng chỉ biết quay vào một thân cây bên đường để khóc nức nở.

          Bây giờ nàng mới thấm thía được nỗi đau khổ của một tình yêu xa cách. Nhưng trong màu đen thương nhớ tình yêu kết tụ thành chất kim cương sáng ngời.

          Và một tháng sau, quan quân rộn rịp kéo đến nhà nàng. Ngôi nhà tranh nhỏ lụp sụp sau cụm tre già trở thành quan trọng như một dinh cơ. Người ta vội vàng dựng cây, che rạp, mở thêm chỗ rộng tiếp rước tưng bừng. Nhiều vị đại thần, triều phục long lanh, cúi gập đầu xuống chào nàng. Mẹ nàng, em nàng không bao giờ dám nghĩ đến một cảnh trọng vọng lạ thường như thế. Áo hoa mũ ngọc khiến cô gái quê lúng túng giữa nhiều nghi lễ khó khăn. Một đoàn thể nữ vội vàng tiến đến phục dịch, và qua ngày sau nàng đã phấn son, xiêm áo, ngồi giữa kiệu vàng rực rỡ, cùng với quân đưa lên đường. Lúc giã từ mẹ và em, tâm hồn rối loạn, nàng không nói được lời nào. Như loài hoa mọc giữa đồng bị đem cắm vào chậu kiểng, nàng thấy lạc hướng chơi vơi và niềm kiêu hãnh không sao lấn át được sự bàng hoàng.

          Trên con đường đi, qua những địa phương tiếp đón, người thôn nữ phải nơm nớp lo âu về những lễ nghi phiền phức chờ mình. Nàng ăn không ngon, ngủ giấc chập chờn, mệt mỏi vì những kiểu cách nói năng đi đứng giữa chốn đông người, và lớp triều thần không ngớt căn dặn để nàng giữ gìn thể giá triều môn.

          Khi đến kinh đô nàng được đưa vào một dinh cơ lộng lẫy, mênh mông, với những thị tì khép nép. Nàng thấy xa lạ, bơ vơ, và nhớ mẹ già, em dại, vườn tre, mái lá của nàng. Suốt đêm, nằm trên nệm hoa, nàng khóc sụt sùi. Nàng mơ ước gặp người yêu, nhưng không làm sao thấy được mặt chàng.

          Ngày mai, nàng được lệnh phải chuẩn bị để vào trình diện nhà vua, hoàng hậu và gặp thái tử. Người ta chỉ vẽ cho nàng lề lối phục sức, kiểu cách quỳ lạy, bảo nàng học thuộc những lời chúc tụng, những cách đứng ngồi. Nàng phải tập tành như vậy suốt ba ngày liền mới được coi như thuần thục. Đến ngày bệ kiến, nàng không còn nhìn thấy ai, không còn cảm nghĩ được gì. Tâm trí bị thu hút trong cách điệu giữ mình để khỏi phạm điều thất lễ, nàng chỉ cúi đầu, vâng dạ, và một thoáng nào tưởng nhìn thấy được nét mặt nghiêm trang, lạnh lùng của vua và hoàng hậu. Khi gặp thái tử, nàng phải cúi đầu nói những câu ngắn thuộc lòng, và thái tử cũng đáp lễ với nàng như thế. Còn đâu tiếng cười ríu rít ở trong ruộng lúa, nương dâu, những lời trò chuyện thân mật trong ánh đèn mờ leo lét? Khi quay trở ra, nàng phải đi lùi từng bước, và đành phá bỏ nghi lễ ngước lên nhìn mặt người yêu. Vẻ mặt của chàng rực rỡ trong những món đồ phục sức chói chang, vẫn còn giữ được đôi mắt dịu hiền và những vành môi hòa nhã ngày nào, nhưng có vẻ gì nghiêm khắc lạnh lùng của kẻ cố gắng thấy mình quan trọng, cao sang.



          Người thôn nữ về cung, lòng u ám buồn, lo ngại bâng khuâng cho số phận mình. Một tháng sau đó, một vị triều thần cho biết Thái tử đã chọn ngày lành làm lễ hôn phối với nàng. Nàng cảm thấy nỗi vui mừng xen lẫn lo âu. Rồi những ngày dài liên tiếp tập tành quỳ lạy, tiến lui, ăn mặc nhiều loại áo quần loè loẹt lớp lớp trùm lên da thịt nóng bức làm sao. Còn đâu manh áo vải tơ phơ phất gió chiều cùng với bước chân thong thả trên những đường quê tươi mát quen thân! Bụi tre, bờ suối, ruộng lúa, vườn dâu, và những câu hò tình tứ, tiếng cười trong trẻo của những tâm hồn mộc mạc bây giờ chỉ còn thấp thoáng chập chờn ở trong giấc mộng xa vời.

          Đêm gặp Thái tử, nàng không cảm thấy rõ rệt được một niềm vui. Cuộc sống lễ nghi chặt chẽ với những phong thái tôn nghiêm giết chết những niềm xúc cảm hồn nhiên của nàng. Thái tử có vẻ bằng lòng trong vẻ tự tôn, tự quý về uy quyền mình. Không còn chút gì khiến nàng gợi tưởng đến người con trai bên suối ngày nào. Đây là con người xa lạ, trong một cõi đời xa lạ. Thấy nàng có vẻ ủ ê, Thái tử bèn hỏi:

          - Tại sao nàng buồn? Được như thế này mà nàng không thấy vui sao?

          Nàng úp mặt xuống chiếc gối và khóc nức nở. Thái tử cau mày:

          - Ta muốn nàng phải trả lời câu hỏi của ta. Việc gì nàng khóc?

          Nàng đáp nghẹn ngào:

          - Thiếp không còn biết là vì lẽ gì, hẳn là thiếp thấy nhớ mẹ, nhớ em, nhớ quê làng cũ.

          - Làng quê xơ xác, nghèo nàn, sao đẹp bằng chốn triều môn rực rỡ? Nhớ tiếc làm gì những bọn quê mùa cả đời không ra khỏi được lũy tre! Còn mẹ, em nàng, rồi ta sẽ cho người đón về đây một buổi để nàng gặp mặt. Có gì mà phải lo buồn!

          Giọng nói đầy vẻ quyền hành xa lạ, nhưng ở bên trong chừng như còn thoáng ân tình. Nàng tìm lại được bình tĩnh để mà thưa lời:

          - Thiếp mải lo sợ không được thương yêu như những ngày nào.

          - Ngày xưa ta chỉ là ta, nàng chỉ là nàng, mỗi người chỉ có cuộc sống nguyên vẹn của mình mà thôi. Ngày nay, ta sẽ thay trời trị nước, chăn dân, nàng sẽ là bậc mẫu nghi thiên hạ, sao lại muốn điều so sánh buồn cười như thế? Ngại rằng ngày nay không được như xưa, khác nào lo sợ quả núi không thể lớn bằng giọt nước.

          Rồi Thái tử nghiêm nét mặt bảo nàng:

          - Đáng lẽ rước nàng về đây thật sớm, nhưng phụ vương và mẫu hậu của ta không muốn có một nàng dâu ở hàng dân dã tầm thường. Người đã tuyển chọn cho ta biết bao mỹ nữ phi tần để ta quên nàng, nhưng ta không thể phụ lời ước cũ. Ta đã quyết lòng để giữ lấy nàng dù phải hy sinh ngôi báu. Triều đình đang cần ta để lên ngôi nên buộc lòng chiều theo ý của ta.

          Giọng nói thái tử sôi nổi chút lòng tự ái và ý thương yêu, tuy vẻ hồn nhiên, đậm đà đã mất, nhưng giây phút ấy người con gái nghe sống lại niềm tin và những xúc động ân tình.

          Rồi Thái tử bước lên ngôi, và nàng trở thành hoàng hậu.



          Từ đấy, mỗi tháng hai lần, nàng gặp nhà vua, theo sự chọn lựa ngày giờ của vị thái giám trong cung. Những phút gặp gỡ ngắn ngủi không làm nguôi được những ngày khắc khoải đợi chờ. Nhà vua còn phải quan tâm nhiều việc trong buổi ban đầu bận rộn giữ lấy ngai vàng, không thể ở lại với nàng cho được lâu hơn, và nàng cứ phải nằm dài trong sự lười biếng chán chường, tự thấy như mình chỉ còn có thể sử dụng được mỗi một việc phục tùng thể xác nhà vua. Những ý nghĩ ấy đôi lúc khiến nàng tủi hổ âm thầm.

          Nhà vua càng ngày được đám triều thần chiều chuộng tung hô, càng thấy bệ vệ nặng nề hơn nữa. Ăn toàn cao lương, mặc toàn nhung gấm, ở trong bóng mát lầu son, đi bằng kiệu vàng, võng tía, lúc nào cũng có rượu ngọt, hát hay, nhà vua chỉ thích được người sùng bái và xưng tụng mình.

          Một hôm quá chén rượu nồng, giữa tiệc nhà vua muốn đến gặp nàng không đúng vào ngày đã định. Viên thái giám tâu:

          - Hôm nay hoàng hậu không sao thừa tiếp long nhan vì là ngày kiêng của lệnh bà.

          Ngày kiêng là ở vào kỳ kinh nguyệt. Nhà vua cau mày. Nhưng quan thừa tướng đã tâu:

          - Bệ hạ chớ khá buồn lòng. Hạ thần có người trưởng nữ cá lặn chim sa, xin được đem vào hầu hạ.

          Và quan đô đốc tiến lên:

          - Ái nữ hạ thần là kẻ toàn tài toàn sắc, đợi chờ thọ ý long nhan.

          Rồi quan thị lang khép tâu trình:

          - Bệ hạ như ánh mặt trời soi khắp bốn phương, chiếu sáng muôn loài hoa cỏ. Em gái hạ thần hơn người tài sắc, được vừng thái dương soi đến là cái vinh dự ngàn đời.

          Nhưng vua chỉ chọn một người, con gái của quan thừa tướng.

          Con quan thừa tướng mày ngài, mắt phượng, da trắng như tuyết, mình thon như ong, thướt tha như liễu ven hồ, từ nhỏ bọc trong nhung lụa, tiếng nói thủ thỉ như ngọn gió xuân đùa trong khóm lá trúc mềm. Mười ngón tay thon như mười đũa ngọc nâng chén rượu quỳnh long lanh, ửng soi đôi mắt đa tình ướt sáng như sao. Gần nàng nhà vua ngơ ngẩn cả người, bất chợt nghĩ đến đôi tay thô vụng của người thôn nữ, đôi chân quê kệch của nàng.Vua nhớ màu da sạm nắng, thân vóc mạnh mẽ của người đàn bà mình đã có lúc thương yêu và thấy ngơ ngác vì mình. Con quan thừa tướng biết chiều ý vua và những cách điệu của nàng làm vua hết sức đẹp lòng. Gần nàng, nhà vua chợt thấy như mình sống lại một cuộc đời khác, không có lo âu, khắc khoải về nàng. Nhà vua không muốn nhìn thấy quá khứ của ai gần gũi với mình. Quá khứ hay là tương lai đều gây ám ảnh và đòi lo nghĩ. Trong một tuần trăng đắm đuối nhà vua như quên hẳn bà hoàng hậu đăm chiêu. Sau tuần trăng ấy, con gái của quan Thừa tướng cũng thành lạt lẽo. Vua cho nàng vào cung cấm, tặng thưởng cho nàng bảo vật, ban cho tước vị, thế là đã quá nhiều rồi.

          Và người trưởng nữ của quan đô đốc được chọn vào cung. Nàng có vẻ đẹp sắc sảo hơn con của quan thừa tướng. Nhìn thấy vua đã ngây ngất vì nàng. Nàng lại có tài bắn cung, cưỡi ngựa, múa gươm, và vua bảo nàng biểu diễn để mà ngự lãm. Sau đấy, vua ban cho nàng chén ngọc, ly vàng và thấy vui vẻ lạ lùng trong sự gần gũi vơí nàng, nhưng cũng từ đấy không bao giờ nàng có thể cưỡi ngựa, bắn cung, vì tài năng ấy, vua không cần đến. Sau nửa tuần trăng, vua không còn muốn nhìn nàng. Cung cấm mở hai cánh cửa vàng son để tiếp đón người con gái. Vua bảo một người hầu cận:

          - Ban cho gia đình của nó tước vị và đôi bảo vật.

          Rồi đến em gái của quan thị lang. Thấy nàng quì mọp dưới thềm trong buổi bệ kiến, nhà vua cúi xuống đỡ dậy, đôi mắt mệt mỏi nhìn sát vào khuôn mặt nàng. Nhưng vua cau mày:

          - Tưởng nàng nhan sắc có hơn hai người đến trước, hóa ra lại kém thua xa! Thôi được, cho vào hầu hạ.

          Người con gái sợ xanh người, run rẩy ở trong vòng tay áo rộng. Vua hỏi:

          - Có tài gì chăng?

          Nàng cúi đáp trong hơi thở:

          - Thần thiếp biết nghề dệt áo, trồng hoa, biết làm nem lân, chả phượng.

          Vua lại cau mày:

          - Biết những thứ ấy làm gì! Không có sở trường nào khác hay sao?

          - Muôn tâu bệ hạ, còn biết ca hát, làm thơ.

          - Thế thì được lắm.

          Đưa nàng vào cung, nhà vua bảo nàng làm thơ để ca ngợi mình. Nàng đem những tiếng đẹp đẽ tuyệt vời để tán tụng vua. Vua rất bằng lòng, cho nàng chuỗi ngọc, và ngủ vơi nàng. Hôm sau vua bảo nàng hát cho nghe. Giữa những tiếng trầm, tiếng bổng mê ly của một giọng vàng thánh thót, vua bảo dừng lời và ngủ với mình. Qua ngày hôm sau, khi nàng được lệnh làm thơ dâng lên, vua thấy lời thơ lạt lẽo, khi nàng được lệnh cất lên tiếng hát, vua nghe giọng hát vô duyên. Vua bảo:

          - Cho ta nghe một giọng khác đi nào!

          Nhưng nàng chi có mỗi một giọng hát mà thôi. Vua cho cô gái thêm một đêm xuân để hầu hạ mình. Ngày mai, đã có cung cấm chờ nàng. Vua truyền ban thưởng cho quan thị lang tước vị, nhưng không cho đồ bảo vật.

          Suốt thời gian ấy, đôi lúc vua có nghĩ tới hoàng hậu" Người con gái ấy được thế đã là may mắn nhiều rồi. Có kẻ quê mùa nào được lên ngôi hoàng hậu dễ dàng như vậy?" Vua tự nhủ thầm, và thấy rõ mình là bậc minh quân.

          Một số triều thần quá sợ nhà vua buồn nản, vội vàng xin cho tuyển chọn trong đám phi tần có sẵn những ai có thể hầu hạ mình rồng. Trên ba trăm người chứa trong lục viện, nhà vua chọn lấy mười người. Nhưng gần người nào vua cũng vồ vập, rồi cũng chán nản. Vua càng mệt mỏi, lại càng ham muốn. Lệnh truyền tuyển lựa trong hàng con cháu nhà quan, rồi đến nhà dân, những người đẹp nhất. Mỗi ngày vua chậm chạp hơn và nặng nề hơn. Cặp mắt của vua lờ đờ chỉ chực quắc lên, đôi môi của vua trễ xuống sẵn sàng quát tháo, bụng vua béo phệ, dập dồn hơi thở khó khăn.

          Một hôm, viên quan ngự y tâu báo hoàng hậu đang cơn bệnh nặng. Nhà vua định đến thăm nàng, nhưng vua hẹn lại một ngày. Hôm sau, vua nhớ đến điều tự hẹn, nhưng vẫn nằm yên trên chiếc long sàng. Ngày hôm sau nữa, rồi lại hôm sau, vua mới thân hành đi xuống thăm nàng.

          Đến nơi, vua thấy khó chịu vì nàng không ngồi dậy được để mà chào lạy, tuy vẫn biết nàng đau ốm liệt giường. Lại gần, nhìn thấy gương mặt xanh xao, hốc hác của nàng, vua quay mắt nhìn nơi khác. Người đàn bà giương đôi mắt yếu đuối nhìn vua, hơi thở mệt nhọc. Vua muốn đưa tay sờ lên trán nàng, nhưng tay của vua không buồn cử động.

          Vua bảo ngự y chăm sóc cho nàng, rồi lui về triều. Suốt thời gian dài, vua không còn nghĩ tới hoàng hậu nữa, vì mải bận tâm với những người đẹp từ bốn phương trời đưa lại. Một nàng ca kỹ lừng danh cuối cùng chiếm trọn được lòng sủng ái của vua, vì nàng biết rõ những gì nhà vua ham muốn cũng như chán ghét.

          Người ca nữ ấy chỉ có một điều ao ước: được làm hoàng hậu. Nhà vua ngoan ngoãn nghe theo ý muốn của nàng. Lấy cớ bà hoàng luôn luôn ốm đau và không có con nối dõi ngai vàng, vua cho truất bỏ tước vị của người thôn nữ ngày nào, giáng nàng xuống bậc phi tần. Chỗ ở cùa nàng từ đấy, được dời vào trong lục viện, chung với bao nhiêu đàn bà đã bị lãng quên.

          Một hôm, bà hoàng mới được tấn phong thỏ thẻ hỏi vua:

          - Bệ hạ đã có một thời cực khổ như kẻ dân dã đó sao?

          Nhà vua trợn mắt:

          - Làm gì có chuyện lạ lùng như thế? Kẻ nào khinh mạn dám đem những lời bày đặt nói với ái khanh?

          Bà hoàng làm cái dáng điệu khiếp sợ rồi khép nép tâu:

          - Thần thiếp thực là muôn vàn có lỗi đã làm phật ý long nhan. Nhưng vì không thể làm ngơ trước lời vụng trộm của đám phi tần...

          Nhà vua cả giận, truyền đem hạch tội kẻ phi tần nào dám bảo nhà vua đã có lần sống như một thường dân. Và người thôn nữ ngày xưa được cho gọi đến thềm vàng.

          Nhìn thấy mặt nàng, nhà vua cảm thấy khó chịu, ngỡ ngàng. Người đàn bà ấy là hiện thân của chuỗi ngày cơ cực khi vua còn sống như kẻ chân lấm tay bùn. Người đàn bà ấy nhắc nhở những ngày vua còn thương yêu và chiều chuộng nàng, những ngày vua đã khổ sở vì nàng. Nhưng bậc đế vương, cao vời hơn cả thánh nhân không thể có một quá khứ tầm thường như vậy. Muốn xóa sạch hết quá khứ, nhà vua quắc lên đôi mắt nhọc mệt, bảo nàng:

          - Nhà ngươi là kẻ không biết phận mình. Bao nhiêu ngọc ngà gấm vóc ban cho như thế, chưa làm thỏa nguyện hay sao?

          Cung nữ ngước đôi mắt lên, nhìn vào khuôn mặt nhà vua nay đã trở thành xa lạ. Rồi nàng cúi xuống, thấy mình bơ vơ lạc loài.

          - Ta truyền cho ngươi phải giữ lấy sự im lặng mà sống những ngày còn lại nơi đây. Mỗi một lời nói xúc phạm đến ta, sẽ bị nghiêm trị.

          Từ đấy, cung nữ bị sống biệt lập ở nơi khuất vắng trong chỗ cuối cùng lục viện. Không được mở miệng nói lời tâm sự, nàng nhờ những kẻ phi tần khôn khéo dạy nàng dệt lụa, vẽ tranh, lấy sự làm việc âm thầm quên chuỗi ngày tàn lạnh lẽo.

          Đến lúc lụa tơ được dệt thành một tấm dài, cung nữ cầm lấy cây bút đã được luyện tập qua nhiều ngày tháng, nhúng trong màu mực hí hoáy vẽ tranh theo điều tâm tưởng của nàng. Nét bút vẫn còn thô vụng cố gắng hình dung những cảnh chàng trai khỏe mạnh cúi trên thửa ruộng, leo lên cành dâu, chăm chỉ nghiêng mình trên sách dưới ánh đèn lợt lạt. Dĩ vãng vẽ bằng màu xanh của mực, tươi mát, hiền lành, thâu hút cả tâm tư nàng, giúp nàng quên đi những ngày buồn thảm. Mỗi sáng cung nữ treo tấm lụa dài trên vách để hồi niệm lại những ngày đã héo tàn rồi. Mỗi tối nàng xếp tấm lụa ôm vào lòng mình, siết chặt dĩ vãng trong hai cánh tay gầy yếu để tự ru ngủ giữa niềm thương nhớ miên man.

          Nhưng một ngày kia, nàng được nhà vua gọi đến bệ rồng cùng với tấm lụa như là tang vật. Mặt vua đỏ bừng sắc giận, tiếng vua chém xuống như những nhát gươm:

          - Thị giám cho ta biết rằng nhà ngươi đã thành cuồng trí đến nỗi vẽ hình ma quái phụng thờ, không biết đó là một điều xúc phạm đến chốn tôn nghiêm, tội thật đáng chết.

          Cung nữ lạnh lùng tâu lên:

          - Thưa ngài, đây không phải là ma quái, đây là hình người.

          Và nàng dâng tấm lụa lên.

          Nhà vua trải dài tấm lụa, thấy nét mực xanh chằng chịt và những hình người thấp thoáng gợi lại bóng dáng những ngày xa vời. Vua quắc mắt hỏi:

          - Vẽ những tranh này để mà trù ếm ta sao?

          Cung nữ trả lời:

          - Đã hết quyền năng đối với hiện tại cũng như tương lai, thiếp phải giữ lấy những gì đã mất. Cái gì đã mất không thể làm hại được người.

          Vua quát:

          - Đừng có lộng ngôn! Hãy xem tất cả hình ảnh của ta trên tấm lụa này đều có vẽ đầy những chấm li ti khiến cho nét mặt trở thành kỳ quái, là nghĩa làm sao?

          Cung nữ trả lời:

          - Muôn tâu, đó là những giọt mồ hôi...

          Nàng muốn nói tiếp: "Những giọt mồ hôi đổ xuống để mà duy trì sự sống, bảo vệ tình yêu, những giọt mồ hôi mầu nhiệm của nỗi âu lo, của niềm chia xẻ, trong một gắn bó lứa đôi bền vững đời đời... Không mồ hôi ấy, tình yêu khó tồn tại được trên cõi trần này".

          Nhưng nàng sực nhớ đã lâu lắm rồi nhà vua không còn tìm thấy mồ hôi, nhà vua không cần cố gắng, không biết gian nan. Những kẻ yên ổn ngồi trong thụ hưởng không muốn biết đến cỗi nguồn sự vật. Và nàng dừng lại, nghẹn ngào, chỉ biết im lặng cúi đầu.

          Nhà vua quát lên:

          - Đã truyền nghiêm lệnh cho ngươi không được nhắc lại những gì cần phải quên đi. Khinh mạn trái lời, tức là có tội. Quân đâu! Hãy đem thiêu hủy món đồ ma quái và giam kẻ này vào trong ngục thất cho ta.

          Rồi vua giận dữ ném lụa xuống dưới thềm vàng. Cung nữ cúi xuống, hai tay nâng tấm lụa lên ôm vào lòng mình. Nàng ngước nhìn vua, rồi bỗng òa lên tiếng khóc, tiếng khóc vang lên như lời kêu thét hãi hùng.

          Nhưng nàng bỗng nhiên nén lại, giữ lấy lặng im, phóng đôi mắt sáng lạnh lùng còn hoen máu lệ vào mặt nhà vua. Trong một thoáng chốc nhà vua cảm thấy cái nhìn tựa hồ lưỡi dao đâm suốt tim mình, và vua đứng dậy, hốt hoảng bước ra khỏi điện.

          Lúc ấy, quân lính mang đồ vật dụng hỏa thiêu đặt ở sân ngoài. Cung nữ bảo họ:

          - Các ngươi hãy để tự ta thiêu hủy vật này. Chỉ ta mới có được quyền định đoạt dĩ vãng của ta.

          Giọng nàng trở nên nghiêm nghị, và đầy quyền uy của kẻ biết mình có thể quyết định những gì.

          Rồi nàng khoan thai bước xuống khỏi thềm, tiến đến giữa vườn ngự uyển. Nàng treo tấm lụa lên cành bích đào, thả cho phất phơ trước gió. Quân lính tuân theo ý nàng đem củi chất dưới bức tranh.

          Đoạn nàng cầm lấy bình dầu tưới vào trong củi, và tưới một vòng rộng lớn quay quanh chỗ đứng của nàng. Nàng đón mồi lửa trên tay quân hầu, châm cho vòng lưả quanh nàng bừng cháy rực lên. Rồi ném lửa vào đống củi, nàng rướn mình lên, dùng dây lụa dài là bức tranh kia buộc lấy cổ mình.

          Quân lính hốt hoảng toan vào cứu cấp, nhưng ngọn lửa cao ngăn cản bốn bề, ngùn ngụt xoắn lấy người nàng.

          1972


          .
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          Working...
          X
          Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom