Cây lúa Việt Nam xưa
Bs Hồ Đắc Duy
Phần I
LIÊN QUAN ĐẾN CÂY LÚA TRONG THƯ TỊCH CŨ
Link/original48672_4b.jpg" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc gia.
Xã Tắc còn có nghĩa là quốc gia, Xã là đất chỉ thần đất, Tắc là lúa chỉ thần lúa, trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa như sau:
Thuở xưa dựng nước tất quí trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập Xã để tế thần Hậu Thổ; dân cần có lúa ăn nên lập Tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắc, nên xã tắc cũng có nghĩa là quốc gia.
Lúc tôi còn bé, mỗi khi ăn cơm xong thấy trong bát còn sót lại mấy hột cơm, mẹ tôi thường nói với anh em chúng tôi: “Hột gạo là hột ngọc trời cho, các con phải ăn cho hết không để chừa lại”.
Người Việt rất coi quí thóc gạo. Ngay từ thời lập quốc lúa gạo đã được nói đến. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 131 có nhắc đến năm Nhâm Tuất (2879 năm trước công nguyên): Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục con cháu họ Thần Nông; Thần Nông là người dạy cho dân biết cày bừa, trồng trọt thóc lúa…
Gạo nếp được đề cập trong truyện cổ tích Bánh Chưng Bánh Dầy thời Hùng Vương, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều màu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau.
Năm 111 trước Công Nguyên nước ta đã biết sản xuất lúa gạo, dùng làm quân lương. Sử xưa còn ghi lại: “Vào năm Hán Nguyên Đỉnh thứ 6: Mùa đông Dương Bộc nhà Hán đem 9 nghìn tinh binh vây hãm Tam Hiệp, phá Thạch Môn do Lữ Gia dựng lên trên sông và cướp đi thuyền thóc của ta…”
Các vua chúa nước ta thường hàng năm có làm lễ Tịch Điền, đó là môt lễ hội do nhà vua đích thân khai mạc.
Lễ Tịch Điền thường được tổ chức vào mùa xuân.
Trong bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ gồm có 262 quyển thì quyển số 81 dành viết riêng về cày ruộng tịch điền gồm có các chương: Điển lệ cày ruộng tịch điền, công việc cày ruộng tịch điền, lời chúc cho lúa tốt…
Nghi thức lễ Tịch Điền được ghi lại dưới thời nhà Nguyễn như sau: “Giao cho bộ Lễ phụ trách. Ruộng Tịch điền gồm 12 mẫu nằm ở trong Kinh thành, phía bắc Ngự Hà. Ở đây có đàn Thần Nông, có đài quan canh để nhà vua ngự xem cày, có hệ thống nhà làm việc, nhà kho”.
Trước lễ Tịch điền, quan Phủ doãn Thừa Thiên chịu trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ cày, bừa, thóc giống và lễ vật. Trước đó vài ngày, các quan mời vua ra tập cày trước. Sáng sớm ngày hành lễ, đám rước vua đi hành lễ đầy đủ nghi thức của hoàng đế xuất cung. Phường bát âm luôn cử khúc nghinh xuân, tiếp giá.
Mở đầu lễ Tịch điền là nghi thức quán tẩy (rửa tay). Tiếp theo là nghi thức tiến tửu (dâng rượu). Lễ tất, nhạc nổi lên. Quan bộ Lễ dẫn vua sang nhà cụ phục thay áo, đội khăn rồi ra ruộng cày. Vua cày xong ba luống thì trao cày cho quan Phủ doãn và quan Thượng thư bộ Hộ.
Sau đó, nhà vua ngự đến đài quan canh chứng kiến các quan chức, hoàng thân cày tiếp. Các hoàng thân, hoàng tử cày 10 luống, quan văn võ đại thần gồm 9 người, cày 18 luống. Phần còn lại dành cho các chức sắc, bô lão sở tại. Mọi người cày xong, vua lên kiệu về cung ban yến cho các quan. Mùa lúa chín, quan Phủ doãn Thừa Thiên trông coi việc gặt hái cùng với một quan thuộc Bộ Hộ. Lúa gặt về được lựa giống để gieo vào lễ Tịch điền mùa sau. Số còn lại được xử dụng cho tế lễ trong Đại Nội, tế giao, tế thần linh và lăng miếu.
Ý nghĩa của lễ Tịch điền được vua Thiệu Trị thể hiện trong bài “Thường Mậu quan canh”, nhân một lần lên đài quan canh xem các quan cày ruộng:
Chót vót lầu cao giữa khoảng không
Nhìn xa quang cảnh chốn nương đồng
Ba đường dẫn lối khuyên cày cấy
Năm tháng thương người trọng việc nông.
Trong lời chúc cho cây lúa tốt có đoạn :
Làm lễ xong, đi đến bên thửa ruộng lớn
Dây thừng đỏ, bánh xe sơn màu xanh, và cày, và đồ mặc, và dây cương ngựa
Cầm cái roi ở tay đem giơ lên
Người coi việc làm ruộng bưng thúng vàng đựng thóc đồng thóc lục…
(Lúa đồng (lúa Minh Xuân, lúa thơm, lúa sản (gạo De An Cựu) lúa móng chim… ) cấy trước mà chín sau (Lúa lục cấy sau mà chín trước, loại lúa giống 60 ngày như: loai lúa Tẻ chín sớm, lúa Tiên ở tình Thái Bình, lúa của Chiêm Thành..loại lúa 80, 90 hoặc 100 ngày như lúa Mạn, lúa Chiêm, lúa hẻo trắng, lúa lăng…)
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 224: Mùa xuân năm Đinh Hợi (987), vua Lê Đại Hành lần đầu tiên cày ruộng tịch điền ở núi Đọi hay còn gọi là Đội Sơn ở huyện Duy Tiên (Nam Hà), được một hũ nhỏ vàng nhỏ. Năm sau cày ở núi Bàn Hải được một hũ nhỏ bạc nên vua đặt là ruộng Kim Ngân.
Sách Việt sử lược cũng có chép sự kiện này. Vào thời Lý, Vua Lý Thái Tông đã nhiều lần tự mình xuống cày. Trang 255 có ghi: mùa Hạ tháng Tư ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Thân (1032), vua cày tịch điền ở Tín Hương - Đỗ Động Giang, có nhà nông dâng Vua một cây lúa Chiêm có 9 bông thóc, Vua xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên. Trang 259 ghi như sau: "Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần (1038), Vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Vua sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn vua thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: - Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: - Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo? Nói xong vua đẩy cày ba lần rồi thôi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lý Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng tịch điền để nêu gương cho thiên hạ, trên thì để cúng tôn miếu, dưới thì để nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến của giàu dân đông, nên thay!
Vua Minh Mạng ra chiếu dụ: ... Từ khi Trẫm lên ngôi, luôn luôn nghĩ đến an dân, nên quan tâm đến việc chính này (Cày ruộng tịch điền"... Vua định ngày lễ Tịch điền tháng 2... và phải xây tại ruộng Tịch điền các dinh thự là Quan Canh (nhìn cày), Cụ phục (mặc áo), đàn Tiên Nông, kho lúa dự trữ để cúng thờ (thần Thương)...
Giống lúa cấy trên ruộng tịch điền được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế thần nông và thần xã tắc.
Lễ cày tịch điền chấm dứt dưới thời vua Khải Định. Xem thêm : Link ... =tiengviet
Hiện nay Việt Nam đứng hàng thứ 5 toàn cầu về sản xuất gạo, cũng là một trong ba nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Đến năm 2008, Việt Nam lại đạt sản lượng lúa kỷ lục: vượt 38 triệu tấn, tăng khoảng 2,6 triệu tấn so với năm 2007, và tiếp tục đứng thứ 2 trong thị trường xuất khẩu gạo. Vụ đông xuân 2009 này vừa thu hoạch ở ĐBSCL lại đạt sản lượng cao hơn vụ đông xuân trước, đạt gần tới mốc 10 triệu tấn thóc, mặc dầu diện tích sản xuất có ít hơn, và khoảng 1,5 triệu ha ( Link ... ietnam.htm )
Hiện nay lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của nhân loại, cùng với bắp, lúa mì, sắn và khoai tây.
Theo sách Chu Lễ, nó đứng đầu trong cửu cốc là 9 thứ hột để ăn được gồm:
1/ Tắc: thứ lúa cao, cây dài đến hơn một trượng, là giống lúa chín sớm nhất
2/ Thuật: một thứ lúa nếp nhiều nhựa
3/ Thử: một loại nếp
4/ Đạo lúa dé: một thứ lúa ưa ruộng có nước, mỗi năm chín 2 mùa
5/ Ma là mè, có 2 loại trắng và đen
6/ Đại đậu: một thứ đậu hột to
7/ Tiểu đậu
8/ Đại mạch: một loại lúa mì, hột có lông dài
9/ Tiểu mạch
Trong sách của Lê Danh Phương (1726-1784), nó là một trong 5 hột Ngũ Cốc (Ma, thủ, tắc, mạch, đậu); cũng là 1 trong 3 hột (Tam cốc) trong sách Vật lý luận của Dương Tuyền đời Tấn gồm: Lương, Đạo, Thúc
Lương là tên chung của Tắc và Đạo. Thúc là đậu.
3 loại cốc (hột) này mỗi thứ có 20 giống.
Rau, trái cây có 40 giống.
3 loại cốc + chung với rau trái gọi là Bách Cốc
(không nên nhầm với 100 giống lúa).
Trong sách của Lê Danh Phương trích dẫn các sách như Tề dân yếu thuật, Bản thảo của Lý thời Trân, Uyên giám loại hàm, Thông giám của Tư Mã Quang… nói lên nhiều chi tiết về việc cày cấy, gieo trồng, tưới tiêu, luân canh, thời vụ, đồng thời ông mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa khác nhau kể cả việc so sánh giống lúa ở nước ta và vài vùng ở Trung quốc như Dương Châu, Kinh Châu, Sơn Đông, Giang Biểu…
Bs Hồ Đắc Duy
Phần I
LIÊN QUAN ĐẾN CÂY LÚA TRONG THƯ TỊCH CŨ
Link/original48672_4b.jpg" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Cổ nhân nói: Ngũ cốc là sinh mệnh của muôn dân, vật quí báu quan trọng của quốc gia.
Xã Tắc còn có nghĩa là quốc gia, Xã là đất chỉ thần đất, Tắc là lúa chỉ thần lúa, trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa như sau:
Thuở xưa dựng nước tất quí trọng nhân dân. Dân cần có đất ở nên lập Xã để tế thần Hậu Thổ; dân cần có lúa ăn nên lập Tắc để tế Thần Nông. Mất nước thì mất Xã Tắc, nên xã tắc cũng có nghĩa là quốc gia.
Lúc tôi còn bé, mỗi khi ăn cơm xong thấy trong bát còn sót lại mấy hột cơm, mẹ tôi thường nói với anh em chúng tôi: “Hột gạo là hột ngọc trời cho, các con phải ăn cho hết không để chừa lại”.
Người Việt rất coi quí thóc gạo. Ngay từ thời lập quốc lúa gạo đã được nói đến. Trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 131 có nhắc đến năm Nhâm Tuất (2879 năm trước công nguyên): Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục con cháu họ Thần Nông; Thần Nông là người dạy cho dân biết cày bừa, trồng trọt thóc lúa…
Gạo nếp được đề cập trong truyện cổ tích Bánh Chưng Bánh Dầy thời Hùng Vương, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều màu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau.
Năm 111 trước Công Nguyên nước ta đã biết sản xuất lúa gạo, dùng làm quân lương. Sử xưa còn ghi lại: “Vào năm Hán Nguyên Đỉnh thứ 6: Mùa đông Dương Bộc nhà Hán đem 9 nghìn tinh binh vây hãm Tam Hiệp, phá Thạch Môn do Lữ Gia dựng lên trên sông và cướp đi thuyền thóc của ta…”
Các vua chúa nước ta thường hàng năm có làm lễ Tịch Điền, đó là môt lễ hội do nhà vua đích thân khai mạc.
Lễ Tịch Điền thường được tổ chức vào mùa xuân.
Trong bộ Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ gồm có 262 quyển thì quyển số 81 dành viết riêng về cày ruộng tịch điền gồm có các chương: Điển lệ cày ruộng tịch điền, công việc cày ruộng tịch điền, lời chúc cho lúa tốt…
Nghi thức lễ Tịch Điền được ghi lại dưới thời nhà Nguyễn như sau: “Giao cho bộ Lễ phụ trách. Ruộng Tịch điền gồm 12 mẫu nằm ở trong Kinh thành, phía bắc Ngự Hà. Ở đây có đàn Thần Nông, có đài quan canh để nhà vua ngự xem cày, có hệ thống nhà làm việc, nhà kho”.
Trước lễ Tịch điền, quan Phủ doãn Thừa Thiên chịu trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ cày, bừa, thóc giống và lễ vật. Trước đó vài ngày, các quan mời vua ra tập cày trước. Sáng sớm ngày hành lễ, đám rước vua đi hành lễ đầy đủ nghi thức của hoàng đế xuất cung. Phường bát âm luôn cử khúc nghinh xuân, tiếp giá.
Mở đầu lễ Tịch điền là nghi thức quán tẩy (rửa tay). Tiếp theo là nghi thức tiến tửu (dâng rượu). Lễ tất, nhạc nổi lên. Quan bộ Lễ dẫn vua sang nhà cụ phục thay áo, đội khăn rồi ra ruộng cày. Vua cày xong ba luống thì trao cày cho quan Phủ doãn và quan Thượng thư bộ Hộ.
Sau đó, nhà vua ngự đến đài quan canh chứng kiến các quan chức, hoàng thân cày tiếp. Các hoàng thân, hoàng tử cày 10 luống, quan văn võ đại thần gồm 9 người, cày 18 luống. Phần còn lại dành cho các chức sắc, bô lão sở tại. Mọi người cày xong, vua lên kiệu về cung ban yến cho các quan. Mùa lúa chín, quan Phủ doãn Thừa Thiên trông coi việc gặt hái cùng với một quan thuộc Bộ Hộ. Lúa gặt về được lựa giống để gieo vào lễ Tịch điền mùa sau. Số còn lại được xử dụng cho tế lễ trong Đại Nội, tế giao, tế thần linh và lăng miếu.
Ý nghĩa của lễ Tịch điền được vua Thiệu Trị thể hiện trong bài “Thường Mậu quan canh”, nhân một lần lên đài quan canh xem các quan cày ruộng:
Chót vót lầu cao giữa khoảng không
Nhìn xa quang cảnh chốn nương đồng
Ba đường dẫn lối khuyên cày cấy
Năm tháng thương người trọng việc nông.
Trong lời chúc cho cây lúa tốt có đoạn :
Làm lễ xong, đi đến bên thửa ruộng lớn
Dây thừng đỏ, bánh xe sơn màu xanh, và cày, và đồ mặc, và dây cương ngựa
Cầm cái roi ở tay đem giơ lên
Người coi việc làm ruộng bưng thúng vàng đựng thóc đồng thóc lục…
(Lúa đồng (lúa Minh Xuân, lúa thơm, lúa sản (gạo De An Cựu) lúa móng chim… ) cấy trước mà chín sau (Lúa lục cấy sau mà chín trước, loại lúa giống 60 ngày như: loai lúa Tẻ chín sớm, lúa Tiên ở tình Thái Bình, lúa của Chiêm Thành..loại lúa 80, 90 hoặc 100 ngày như lúa Mạn, lúa Chiêm, lúa hẻo trắng, lúa lăng…)
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư trang 224: Mùa xuân năm Đinh Hợi (987), vua Lê Đại Hành lần đầu tiên cày ruộng tịch điền ở núi Đọi hay còn gọi là Đội Sơn ở huyện Duy Tiên (Nam Hà), được một hũ nhỏ vàng nhỏ. Năm sau cày ở núi Bàn Hải được một hũ nhỏ bạc nên vua đặt là ruộng Kim Ngân.
Sách Việt sử lược cũng có chép sự kiện này. Vào thời Lý, Vua Lý Thái Tông đã nhiều lần tự mình xuống cày. Trang 255 có ghi: mùa Hạ tháng Tư ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Thân (1032), vua cày tịch điền ở Tín Hương - Đỗ Động Giang, có nhà nông dâng Vua một cây lúa Chiêm có 9 bông thóc, Vua xuống chiếu đổi gọi ruộng ấy là ruộng Ứng Thiên. Trang 259 ghi như sau: "Mùa xuân tháng 2 năm Mậu Dần (1038), Vua ngự ra cửa Bố Hải cày ruộng tịch điền. Vua sai hữu ty dọn cỏ đắp đàn vua thân tế Thần Nông, tế xong, vua tự cầm cày để làm lễ tự cày. Các quan tả hữu có người can rằng: - Đó là việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế? Vua nói: - Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì cho thiên hạ noi theo? Nói xong vua đẩy cày ba lần rồi thôi.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Lý Thái Tông khôi phục lễ cổ, tự mình cày ruộng tịch điền để nêu gương cho thiên hạ, trên thì để cúng tôn miếu, dưới thì để nuôi muôn dân, công hiệu trị nước dẫn đến của giàu dân đông, nên thay!
Vua Minh Mạng ra chiếu dụ: ... Từ khi Trẫm lên ngôi, luôn luôn nghĩ đến an dân, nên quan tâm đến việc chính này (Cày ruộng tịch điền"... Vua định ngày lễ Tịch điền tháng 2... và phải xây tại ruộng Tịch điền các dinh thự là Quan Canh (nhìn cày), Cụ phục (mặc áo), đàn Tiên Nông, kho lúa dự trữ để cúng thờ (thần Thương)...
Giống lúa cấy trên ruộng tịch điền được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế thần nông và thần xã tắc.
Lễ cày tịch điền chấm dứt dưới thời vua Khải Định. Xem thêm : Link ... =tiengviet
Hiện nay Việt Nam đứng hàng thứ 5 toàn cầu về sản xuất gạo, cũng là một trong ba nhà xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.
Đến năm 2008, Việt Nam lại đạt sản lượng lúa kỷ lục: vượt 38 triệu tấn, tăng khoảng 2,6 triệu tấn so với năm 2007, và tiếp tục đứng thứ 2 trong thị trường xuất khẩu gạo. Vụ đông xuân 2009 này vừa thu hoạch ở ĐBSCL lại đạt sản lượng cao hơn vụ đông xuân trước, đạt gần tới mốc 10 triệu tấn thóc, mặc dầu diện tích sản xuất có ít hơn, và khoảng 1,5 triệu ha ( Link ... ietnam.htm )
Hiện nay lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của nhân loại, cùng với bắp, lúa mì, sắn và khoai tây.
Theo sách Chu Lễ, nó đứng đầu trong cửu cốc là 9 thứ hột để ăn được gồm:
1/ Tắc: thứ lúa cao, cây dài đến hơn một trượng, là giống lúa chín sớm nhất
2/ Thuật: một thứ lúa nếp nhiều nhựa
3/ Thử: một loại nếp
4/ Đạo lúa dé: một thứ lúa ưa ruộng có nước, mỗi năm chín 2 mùa
5/ Ma là mè, có 2 loại trắng và đen
6/ Đại đậu: một thứ đậu hột to
7/ Tiểu đậu
8/ Đại mạch: một loại lúa mì, hột có lông dài
9/ Tiểu mạch
Trong sách của Lê Danh Phương (1726-1784), nó là một trong 5 hột Ngũ Cốc (Ma, thủ, tắc, mạch, đậu); cũng là 1 trong 3 hột (Tam cốc) trong sách Vật lý luận của Dương Tuyền đời Tấn gồm: Lương, Đạo, Thúc
Lương là tên chung của Tắc và Đạo. Thúc là đậu.
3 loại cốc (hột) này mỗi thứ có 20 giống.
Rau, trái cây có 40 giống.
3 loại cốc + chung với rau trái gọi là Bách Cốc
(không nên nhầm với 100 giống lúa).
Trong sách của Lê Danh Phương trích dẫn các sách như Tề dân yếu thuật, Bản thảo của Lý thời Trân, Uyên giám loại hàm, Thông giám của Tư Mã Quang… nói lên nhiều chi tiết về việc cày cấy, gieo trồng, tưới tiêu, luân canh, thời vụ, đồng thời ông mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa khác nhau kể cả việc so sánh giống lúa ở nước ta và vài vùng ở Trung quốc như Dương Châu, Kinh Châu, Sơn Đông, Giang Biểu…
Comment