• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

NHÀ THƠ HOÀI KHANH

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • NHÀ THƠ HOÀI KHANH




    THƠ HOÀI KHANH

    Từ lục bát "nâu" đến lục bát "thiền"




    "...Tôi lớn lên ven bờ sông Cà Ty
    Với giữa hai triền núi Cú và Tà Zôn
    Lưu luyến nhìn biển cả gọi hồn đi tám hướng

    ... Cha tôi một nơi, mẹ tôi một ngã và súng nổ
    làm chúng tôi ôm nhau khóc hoài
    Giữa cánh đồng mà vài tấm tranh không làm sao che nổi
    Cơn gió bấc cũng như tôi lớn lên sau này không sao
    che nỗi buồn đau đớn trên gương mặt rầu rĩ của tôi..."


    Đó là những câu thơ tự sự, Hoài Khanh viết về quê hương và gia đình của ông trong một thời ly loạn.

    Nhà thơ Hoài Khanh tên thật là Võ Văn Quế, sinh ngày 13 tháng 06 năm 1933 tại Đức Nghĩa, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Có tài liệu ghi ngày sinh của Hoài Khanh là ngày 20/03/1934?).

    Từ năm 1957, Hoài Khanh đã hiện diện trên bầu trời thi ca Việt Nam với thi phẩm "Dâng rừng". Tính đến nay, Hoài Khanh đã xuất bản về thơ có: Thân phận (1962), Lục bát (1968), Gió bấc - trẻ nhỏ - đóa hồng và dế (1970), Hương sắc mong manh (2006). Về văn có: Trí nhớ hoang vu và khói (Tập truyện – 1970).

    Trước năm 1975, Hoài Khanh viết báo làm thơ. Ông là người chủ trương và điều hành nhà xuất bản Ca Dao, một trong những nhà xuất bản đầy uy tín, có nhiều ấn phẩm giá trị, thu hút được đông đảo người đọc. Hiện nay, Hoài Khanh thường trú tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

    Từ thưở đôi mươi, Hoài Khanh đã viết những câu thơ mà khi đọc xong nhiều người cảm nhận như có một cơn gió lạnh thổi qua tâm hồn của mình:

    "... Qua sông là một nhịp cầu
    Qua tôi là một kiếp sầu vô chung"

    Khi đọc hai câu trên trong tập thơ "Dâng rừng" của Hoài Khanh, Bùi Giáng, một nhà thơ, nhà giáo và là một nhà biên luận phải kinh ngạc thốt lên: "Anh chưa quá hai mươi tuổi, anh làm những vần thơ mà Nguyễn Du, Nguyễn Khắc Hiếu tái sinh nghe được phải lạnh mình trước cái vĩ đại, hồn nhiên của một tài hoa chưa ráo máu đầu. Cái vẻ ngây thơ thăm thẳm của lời thơ, chỉ những thiên tài xuất chúng mới có được".

    Quả thật vậy, qua thời gian, Hoài Khanh là một nhà thơ tài hoa. Nhưng, thơ của ông mang một nỗi u hoài. Phải chăng khi lớn lên, Hoài Khanh đã sớm chứng kiến những cảnh khổ đau của một thời đất nước chìm trong chiến tranh, loạn lạc nên trong thơ Hoài Khanh viết nhiều về nỗi buồn.

    Thơ lục bát của Hoài Khanh nhuần nhuyễn, mang đậm hồn dân tộc. Nhưng là những bài lục bát "nâu" – một màu nâu buồn mênh mông sâu thẳm. Chúng ta bắt gặp trong thơ Hoài Khanh nỗi đau thương của một kiếp người:

    "Cõi nào giọng khởi nguyên vang
    Nhánh khô trời muộn trôi tan mộng thầm
    Súng còn vọng mãi trời căm
    Rưng rưng mắt lệ nghìn tâm sự nào?

    Mộng đời nát ngọc chìm châu
    Bến mê vẫn rợn mấy màu trầm luân
    Mười lăm năm bấy nhiêu lần
    Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi trần gian kia?

    Ngược xuôi bao kẻ đi về
    Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
    Chuyện đời có có không không
    Phù vân một áng bụi hồng xa xa

    Cớ sao thiên hạ người ta
    Vẫn chưa tròn một quê nhà bao dung?
    Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng
    Trong cơn trường mộng vô cùng thời gian".

    ("Lục bát" – 1968)


    Và, còn bắt gặp nỗi buồn của thời gian, nỗi buồn mông mênh của dòng sông:

    "Nước xuôi lạnh một giòng sầu
    Biết về đâu hỡi mấy màu thời gian
    ...

    Con sông nào đã xa nguồn
    Thì con sông ấy sẽ buồn với tôi"


    Rất nhiều người yêu thơ mãi đến nay vẫn còn say mê bài thơ "Ngồi lại bên cầu" của Hoài Khanh. Có lẽ, với bài thơ này, Hoài Khanh đã để lại dấu ấn sâu đậm trong nền thi ca Việt Nam ở hậu bán thế kỷ 20:

    "Người em xưa trở về đây một bận
    Con đường câm bỗng ánh sáng diệu kỳ
    Tôi lẩn trốn vì thấy mình không thể
    Mây của trời rồi gió sẽ mang đi

    Em – thì vẫn nụ cười xanh mắt biếc
    Màu cô đơn trên suối tóc la đà
    Còn gì nữa với mây trời đang trắng
    Đã vô tình trôi mãi bến sông xa

    Thôi nước mắt đã ghi lời trên đá
    Và cô đơn đã ghi dấu trên tay
    Chân đã bước trên lối về hoang vắng
    Còn chăng em nghĩa sống ngực căng đầy

    Quá khứ đó dòng sông em sẽ ngủ
    Giấc chiêm bao nguyên vẹn có bao giờ
    Ta sẽ gặp trong ý tình vũ bão
    Con thuyền hồn trở lại bến hoang sơ

    Rồi em lại ra đi như đã đến
    Dòng sông kia vẫn cứ chảy xa mù
    Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
    Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu.

    ("Thân phận")


    Bước sang những năm đầu thế kỷ 21, chúng ta tiếp tục thưởng thức thơ của Hoài Khanh. Thơ của ông vẫn còn nguyên hấp dẫn như thuở ban đầu. Nhưng, ta bắt gặp Hoài Khanh với những ý thơ mới hơn, trong sáng hơn.

    Hoài Khanh ở giai đoạn này không còn là những bài lục bát "nâu" mang một nỗi buồn mênh mông sâu thẳm. Ý thơ của ông khác xa với thời kỳ trước. Trong thơ, Hoài Khanh hướng tới những điều tốt đẹp, ảnh hưởng "thiền" của Phật giáo một cách đậm nét:

    "Hiểu ngầm sen nở đầm xa
    Là nhân gian hỡi Thích Ca đã về
    Người về đánh thức cơn mê
    Ác gian, thù hận tràn trề khổ đau
    Người về với ánh nhiệm mầu
    Mấy ngàn năm đã qua cầu tử sinh
    Đạo vàng ôi sắc hiển linh
    Muôn đời vẫn vọng câu kinh độ trì
    Muôn đời ánh đạo từ bi
    Sẽ xua quỷ dữ, sân si, bạo tàn
    Sẽ đem trả lại nhân gian
    Cuộc sinh tồn ngát hoa vàng từ tâm".

    ("Điềm triệu của sắc vàng")


    Hoài Khanh đã viết những dòng lục bát, đọc xong, chúng ta tưởng chừng là tâm kinh:

    "Nhớ câu "vô sở tùng lai
    Diệt vô sở khứ" trần ai nhãn tiền
    Con từ sa cõi phân duyên
    Nếm mùi nghiệp chướng lụy phiền não nhân
    Tham sân như cát sông Hằng
    Đắm mê bóng sắc quên thân phận mình
    Một hôm sực nhớ câu kinh:
    "Không phải chỗ trụ mà sinh tâm mình...""

    ("Sám hối")


    Qua thơ Hoài Khanh, chúng ta nhận thấy cuộc đời rất an nhiên:

    "Cái gì hễ mất lại còn
    Hễ không là có, hễ tròn là lăn
    Ngày xưa có một dấu chân
    Bước qua bãi cát sông Hằng nhẹ tênh".

    ("Dấu chân từ phụ")


    Từ lục bát "nâu", Hoài Khanh chuyển sang lục bát "thiền". Phải chăng, qua những bão giông, khổ đau, cô đơn tận cùng trong cuộc đời, Hoài Khanh hướng đến. Và, đưa vào thơ của mình những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.

    Lê Ngọc Trác
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 08-11-2011, 03:14 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Thơ Hoài Khanh




    Sẽ là gì trong một kiếp xa xôi

    ta là gió của nghìn năm xưa cũ
    tiếc huy hoàng một thuở trở về đây
    ta là nhạc của luân hồi chín kiếp
    hồn trầm luân thấm máu những bàn tay

    thanh âm nào một chiều xưa run rẩy
    môi hôn nào rợn ngợp giữa trời mây
    và em ơi vì sao ta sẽ chết
    giữa vô tình ngày tháng rụng trên thây

    niềm thương đó bao nhiêu lần đã mỏi
    con đường kia mấy bận đã đi rồi
    và ta nữa, em ơi lòng phẫn nộ
    giữa lưu đày năm tháng lạnh lùng trôi

    còn gì chăng ở trong đôi mắt ấy
    còn gì chăng ở trong trái tim này
    nhưng vùng vẫy chỉ đau niềm tuyệt vọng
    suốt một đời ta không thể là mây

    tầm hạnh phúc đớn đau từng giấc ngủ
    đôi nụ cười vô lý xác xơ lòng
    nhưng buồn ư, thì kìa nhân thế đấy
    đã lâu rồi ngụp lặn giữa gai chông

    ta từng mơ một con đường dẫn độ
    kết tình thương giữa tất cả người người
    và hạnh phúc tuôn tràn như thác nước
    trên cuộc đời không ai thét : Cho tôi !

    và như thế tấm lòng ta em hiểu
    dòng tháng năm mãi mãi cứ lạnh lùng
    nhìn với ngắm mây trời đi bốn phía
    mang cuộc đời đi mãi lối gian truân

    ta sẽ chết và rồi em cũng sẽ...
    đành bỏ đi những luyến nhớ một thời
    sẽ buồn giận cùng tấm lòng ước vọng
    sẽ là gì trong một kiếp xa xôi?



    .
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 13-05-2010, 10:37 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Trông theo - Hoài Khanh



      Trông theo

      bến sông này, bến sông này
      trăng xưa lạnh xuống hàng cây gục đầu
      người xưa chừ biết là đâu
      này trăng gió cũ này câu giã từ
      lối đi vàng nhạt mùa thu
      nghe lau lách động niềm u uất buồn
      mắt người mang cả quê hương
      lòng ta mang cả đoạn trường tháng năm

      trăng chia niềm nhớ thì thầm
      lệ chia niềm nhớ ướt dầm núi sông
      lớn lên vì một tấm lòng
      để bao nhiêu hận buộc vòng sơ sinh
      bao nhiêu tuổi bấy nhiêu tình
      bao nhiêu nguyện ước giận mình bấy nhiêu
      nhưng thôi buồn đã ra nhiều
      trong ta là mấy vạn chiều rưng rưng
      trong ta là núi là rừng
      là trăm tiếng hát đã từng trên môi
      tiễn đưa thì tiễn đưa rồi
      nhớ thương thì nhớ thương rồi người ơi
      vòng tay không chặt luân hồi
      xa xưa nghe nặng bóng chiều luân lưu

      người đi mang cả mùa thu
      ta mang theo chút tạ từ héo hon
      bãi sông này gió trăng còn
      mênh mông vì cả nghe buồn lay bay
      tưởng chừng như chặt bàn tay
      ta ôm vũ trụ tròn đầy mà mơ
      nhưng khi dạ biết tình cờ
      thì hai thứ tóc đã mờ giấc xưa
      với trăng chia nhớ đôi bờ
      với sông bến nọ chia giờ ra đi
      người ơi còn lại những gì
      mai sau nếu chút tình si cũng tàn


      Hoài Khanh
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 08-11-2011, 02:46 AM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Thơ Hoài Khanh



        Dòng Sông Thuở Ấy Lênh Đênh Mất Rồi

        Thôi dòng sông đã xa rồi
        Vầng trăng đành cũng một đời âm u
        Với tay không vỗ sương mù
        Đời còn vây những ngục tù đó em
        Thôi về im lặng nghe đêm
        Sương trên thành phố đã tìm bóng trăng
        Cuộc đời chưa thoát căn phần
        Những ngày những tháng đến dần quạnh hiu
        Và đi trên những buổi chiều
        Dường nghe nước lũ dâng triều cô đơn
        Trên tay nghe bước chân chồn
        Bãi xa vọng lại một hồn đau thương
        Làm chi để dấu trên đường
        Bước chân ngày ấy đã cuồng gió lên
        Thôi em đời một lần quên
        Dòng sông thuở ấy lênh đênh mất rồi
        Đưa tay tìm bóng xa xôi
        Biết mình vẫn sống một đời khói sương

        (trích trong thi phẩm Thân Phận của Hoài Khanh, Ca Dao xuất bản)
        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        • #5

          Thơ Hoài Khanh




          Bóng Sương

          ngày sương thành phố dâng mùa
          bóng thu chìm tịnh cánh thưa khởi vàng
          tôi hoài trên bước lang thang
          yêu em vô lượng mà mang dại buồn
          tóc huyền đó lạnh như sương
          mắt huyền đó mộng bình thường không em
          mỗi đêm gió nhớ trăng tìm
          bãi sông triều dậy đi niềm chia phôi
          lòng anh chiếc bóng bên trời
          ôi con sông đó dài trôi lặng lờ
          tình anh cũng chỉ bơ vơ
          một dòng sông nhỏ mịt mờ bóng sương.


          .
          Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 02-07-2010, 08:12 AM.
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          • #6

            Thơ Hoài Khanh

            .


            Nước mắt

            đã chết mùa thu em biết chưa
            anh không khóc nữa để mong chờ
            buồn không chở nỗi bao nhiêu nhớ
            rưng rức đâu từ vạn cổ sơ

            ngàn năm rồi chỉ một quê hương
            một tấm lòng thơ ứa đoạn trường
            em có bao giờ quên nhắc lại
            cho lòng ta lạnh xuống phong sương

            nằm đây nắng đã vạn lần lên
            trong tiếng ve đau gió bập bềnh
            trong mắt những người tâm sự ấy
            mây ngàn năm cũ bay lênh đênh

            ta biết em buồn như chính ta
            cùng trong gai góc ước vòng hoa
            trái tim nhỏ quá đôi dòng máu
            hồn khép nghìn thu lệ vẫn nhòa

            hai đứa đi hoài đã nhớ thương
            đêm đêm thù ghét những canh trường
            em nhìn để lạnh trăng đầu núi
            ta khóc cho hồn rợn máu xương

            thành phố như không có một người
            ta lầm lũi tựa áng mây trôi
            chơi vơi trong tháng ngày hư ảo
            xiềng xích nào giam một kiếp người


            .

            ----------------------------

            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

            Comment

            • #7

              .

              Phương Trời Lưu Viễn

              biển mù mịt đó mưa đan
              tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa
              vi vu mầu gió đi mùa
              núi non đồng vọng cũng thừa xót thương
              đã nghe đất dậy môi trường
              cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm
              bơ vơ chiều dựng chuông trầm
              sông dài trôi quạnh hồi âm nỗi nào
              cuối trời nghe rụng vì sao
              đêm đi từng giọt sương vào hư vô
              là thôi ý những mong chờ
              sẽ còn luân lạc bên bờ suối xanh
              em còn mộng suốt hồn anh
              sẽ bay vào cõi cây cành héo khô
              sẽ đi một bóng xa mờ
              phương lưu viễn đó hẹn giờ phùng sinh.

              .
              Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 02-07-2010, 08:30 AM.
              ----------------------------

              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

              Comment

              • #8

                Hoài Khanh, Người thi sĩ đi tìm lại nguồn cội của một dòng sông



                Hoài Khanh, Người thi sĩ đi tìm lại nguồn cội của một dòng sông

                Thích Phước An


                Cách đây hơn một năm, nhân dịp vào Sài gòn, tôi nhờ một người thân, dù sanh ra và lớn lên sau 1975 nhưng lại rất say mê thơ Hòai Khanh ( thầy NM) chở tôi đi Biên Hòa để thăm Hòai Khanh. Mặc dù đã đọc thơ và quen biết từ nhữnng năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, nhưng tôi chưa có dịp nào đến Biên Hòa để thăm ông, dù những câu thơ của ông nói đến đất Biên Hòa thì tôi đã đọc từ lâu lắm rồi:

                Tôi về vun xới vườn hoa
                Cho em là gái Biên Hòa, Hàm Tân
                Cho tôi là kẻ cô thần
                Nằm đây gởi mộng dậy ngàn sương xanh
                (lục bát)

                Khi xe chở tôi đi qua cầu sông Đồng Nai trước khi rẽ vào nhà Hòai Khanh, tôi cứ thắc mắc không biết có phải cây cầu này, dòng sông này, mà Hòai Khanh thuở rất còn trẻ đã viết trong tập thơ Dâng Rừng (1957 ), có hai câu:

                Qua sông là một nhịp cầu
                Qua tôi là một kiếp sầu vô chung

                Hay không?

                Hai câu đã khiến cho Bùi Giáng phải kinh ngạc mà thốt lên rằng:

                “Anh chưa quá 20 tuổi, anh làm những vần thơ mà Nguyễn Du, Nguyễn Khắc Hiếu tái sinh nghe được phải lạnh mình trước cái vĩ đại hồn nhiên lẩm liệt của tài hoa chưa ráo máu đầu. Cái vẻ ngây thơ thăm thẳm của lời thơ, chỉ những thiên tài xuất chúng mới có được” (1).

                Theo tôi đó chỉ là một cách nói tuyệt đối của Bùi Giáng đối với cõi thơ của Hòai Khanh chứ không phải Bùi Giáng có ý đặt sự nghiệp thi ca của Hòai Khanh đứng ngang hàng cùng với các bậc tiền bối trên. Nhưng tôi cho rằng, có một sự đồng cảm lạ lùng giữ cõi thơ của Nguyễn Du, người của hậu bán thế kỷ 18 và Hòai Khanh, người của hậu bán thế kỷ 20, nghĩa là cách nhau đúng 2 thế kỷ.

                Sự đồng cảm này được thể hiện qua bài thơ Nhớ Nguyễn Du, được Hòai Khanh làm để đăng trong tạp chí Tư Tưởng, cơ quan luận thuyết của Viện Đại học Vạn Hạnh, số đặc biệt có chủ đề là Nguyễn Du với Phật giáo. Cùng cần nhắc lại là tạp chí này quy tụ hầu hết những nhà văn nhà thơ cùng những nhà biên khảo danh tiếng nhất của miền Nam trước 1975 được Phạm Công Thiện và sau đó là Tuệ Sĩ đứng ra điều hành.

                Trong số ấy. tôi còn nhớ có hai bài thơ viết để tưởng niệm Nguyễn Du được truyền tụng nhiều nhất là bài của Bùi Giáng và của Hòai Khanh . Nếu bài của Bùi Giáng với hai câu kết:

                Gửi trời một giọt mù sương
                Trao về cho đất vô thường cảo thơm

                Đã nói lên hết tất cả sự hoằng đại của thông điệp mà Nguyễn Du đã muốn gửi đến cho “ mặt đất trầm trọng và đau thương” này, thì bài của Hòai Khanh mới là bài nói lên hết tất cả nội dung của thông điệp ấy của Nguyễn Du.

                Bài ấy sau được Hòai Khanh cho in lại trong tập Lục Bát (1968), thi phẩm thứ ba của ông như thế này:

                Cõi nào giọng khởi nguyên vang?
                Nhánh khô trời muộn trôi tan mộng thầm
                Súng còn vọng mãi trời căm
                Rưng rưng mắt lệ nghìn tâm sự nào?

                Mộng đời nát ngọc chìm châu
                Bến mê vẫn rợn mấy màu trầm luân
                Mười lăm năm bấy nhiêu lần
                Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi trần gian kia?

                Ngược xuôi bao kẻ đi về
                Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
                Chuyện đời có có không không
                Phù vân một áng bụi hồng xa xa

                Cớ sao thiên hạ người ta
                Vẫn chưa chưa tròn một Quê-Nhà-Bao-Dung?
                Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng
                Trong cơn trường-mộng-vô-cùng-thời-gian

                Như vậy là, kể từ Nguyễn Du kêu lên một cách thống thiết ở cuối thế kỷ 18:

                Trải qua một cuộc bể dâu
                Những điều trông thấy mà đau đớn lòng

                Thì với Hòai Khanh tiếng kêu la thống thiết và hải hùng đó của Nguyễn Du cho đến hậu bán thế kỷ 20 vẫn còn tiếp tục:

                Súng còn vọng mãi trời căm
                Rưng rưng mắt lệ nghìn tâm sự nào

                Và cũng chính trong bài thơ này thi nhân đã phải nhắc nhở lại rằng, rốt cuộc thì chúng ta, những con người đang sống trên mặt đất này chẳng là gì cả mà chỉ là 1 sinh vật bé nhỏ tội nghiệp đã đến và dừng lại chỉ trong một khỏanh khoắc rồi lại tiếp tục cuộc hành trình mịt mù trong không gian vô cùng và thời gian vô tận của vũ trụ mênh mông này:

                Ngược xuôi bao kẻ đi về
                Tấm thân bé mọn bên lề tồn vong
                Chuyện đời có có không không
                Phù vân một áng bụi hồng xa xa.

                Thế nhưng, trong khoảnh khắc dừng lại ấy, còn người không lúc nào được yên thân, vẫn luôn luôn là nạn nhân cho những Sở Khanh, những Mã Giám Sinh, những Khuyển, Ưng, Tú Bà…v.v, tức là những cái tên tượng trưng cho biết bao điều xấu ác đã đang và sẽ tiếp tục hiện diện khắp nơi, chúng đeo nhiều mặt nạ, kể cả mặt nạ “thần thánh” để tiếp tục xô đẩy con người vào chổ tối tăm hãi hùng.

                Bởi thế cho nên, thi nhân cho rằng 15 năm đọa đày tủi nhục của Thúy Kiều chưa chấm dứt và 15 năm ấy vẫn cứ tiếp tục lập đi lập lại mãi đối với thân phận của mỗi người trên mặt đất này:

                Mười lăm năm bấy nhiêu lần
                Bấy nhiêu rồi nhỉ hỡi trần gian kia?

                Và nhiều lần thi nhân cũng đã thốt lên trong nổi tuyệt vọng :

                Cớ sao thiên hạ người ta
                Vẫn chưa tròn một quê- nhà- bao- dung
                Vẫn chưa tỉnh giấc hãi hùng
                Trong cơ trường -mộng -vô -cùng -thời -gian.

                Dù lúc ấy (hậu bán thế kỷ 18) Nguyễn Du chỉ chứng kiến nỗi điêu linh thống khổ của đất nước mình thôi và chắc chắn vẫn chưa biết gì đến thảm trạng của thế giới như chúng ta đang biết ngày nay nhờ sự tiến bộ vượt bực của Công Nghệ thông tin. Thế nhưng với “ tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” thi hào của chúng ta đã nhận ra rằng không có nơi nào trên mặt đất này là không có điêu linh thống khổ cả:

                Đại địa xứ xứ giai Mịch La

                Trên mặt đất này đâu đâu cùng là dòng sông Mịch La

                Và nếu như lúc sinh tiền Nguyễn Du cứ bân khuân tự hỏi trong cô độc:

                Bất tri tam bách dư niên hậu
                Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

                Thì thi hào của chúng ta không cần phải đợi đến 300 năm mà chỉ 200 thôi cùng đã có nhiều người nhỏ lệ khi độc ông, và không chỉ nhỏ lệ thôi mà còn tiếp tục con đường mà ông đã để lại bằng cách nói lên hết tất cả nỗi điêu linh thống khổ mà con người phải gánh chịu trên mặt đất đau thương này.

                Hòai Khanh tất nhiên là một trong số những người đó.

                Gần như trong toàn thể thi phẩm của ông đều tràn ngập sự đau khổ, nhưng không phải đau khổ vì hận thù mà đau khổ vì tình thương đối với con người, như trong một câu thơ ông đã tự khẳng định:

                Vai mang xiềng xích vẫn thương bạo tàn

                Trước tiên, ông nói đến quê hương mà quê hương thì gần như lúc nào cũng chìm ngập trong khói lửa chiến tranh:

                Quê hương tôi ở chốn nào
                Phải chăng Châu Á buồn đau ngút ngàn
                Mẹ hiền sớm chít khăn tan
                Màu hương khói lạnh đồng hoang, chiến trường

                Thế hệ của Hòai Khanh không phải chỉ chứng kiến có một cuộc chiến tranh mà cả hai cuộc chiến tranh. Hết chiến tranh chống Pháp xâm lược thì tiếp đến phải chứng kiến cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa hai miền Nam Bắc:

                Chiến tranh rồi chiến tranh
                Giãi đất nghèo nàn này quê hương tôi
                Mỏi mòn tháng ngày qua
                Những buổi chiều xám
                Những đêm tóc tang
                Tiếng súng vọng từng hồi uất nghẹn

                Bởi vậy, trong một lúc đau khổ và quá tuyêt vọng, Hòai Khanh gần như hòai nghi luôn cả cái mà xưa nay vẫn thường được ca tụng là “ giá trị của con người”

                Con ơi!
                Làm sao mày lại phải sinh ra
                Có phải để lớn lên vục đầu
                Trong niềm kiêu hãnh là người?

                Có lẽ với hầu hết chúng ta, dường như lúc nào chúng ta cũng muốn lẩn tránh sự đau khổ, để an tâm mà tiếp tục hưởng một chút hạnh phúc mà ta đang có được trong tay dù chúng ta vẫn thừa biết rằng những thứ hạnh phúc ấy vốn rất mong manh.

                Nhưng những nghệ sĩ chân chính thì ngược lại, dù họ có là tín đồ của đạo Phật hay không thì theo tôi, họ vẫn là những kẻ thể hiện đúng nhất tinh thần mà Đức Phật đã cành giác chúng ta trong kinh Pháp Hoa:

                Tam giới bất an do như hỏa trạch

                Ba cõi không yên, in như nhà lửa

                Hòai Khanh trong bài thơ có tên là Về Nguồn theo tôi, đã thể hiện trọn vẹn tinh thần ấy của Pháp Hoa kinh.

                Bài thơ ấy bắt đầu bằng một cuộc hành trình được tác giả tưởng tượng như thế này:

                Nếu em đã cùng tôi trưa hôm đó
                Chuyến xe Sài gòn-Phú Nhuận ra đi
                Tôi sẽ đưa em về miền cát bỏng
                Cỡi lạc đà đi suốt cõi Châu Phi

                Nơi ấy, dù mỗi ngày mặt trời vẫn mọc nhưng vẫn không xóa tan nổi màu đen giá buốt mà con người ở đó phải gánh chịu:

                Ôi Phi Châu! Kiếp người đầy tủi nhục
                Tự bao đời ai dựng cõi điêu linh
                Sương không trắng giữa màu đen giá buốt
                Mặt trời bừng chưa sáng nẻo quang linh

                Muốn đi, nhưng biết đi về đâu? Vì nơi nào trên mặt đất này mà chẳng phải là sông Mịch La? Là Châu Phi?

                Trưa hôm đó em đã cùng tôi chuyến búyt
                Mang niềm đau tôi tới tận phương nào
                Em có nhớ mỗi lần xe tách bến
                Bóng một người ngơ ngác đó về đâu?

                Nhưng rồi cũng giống như một kẻ tử tội cuối cùng hắn cũng bị lôi trở về lại cái nơi chốn mà hắn đã chạy trốn ấy:

                Hắn đã về giữa dòng sông nước chảy
                Của Á Châu nhược tiểu khổ đau này
                Hắn đã về giữa cát bừng sa mạc
                Của Phi Châu quằn quại suốt trời mây

                Nhưng nếu chúng ta cứ lăn vào những nơi đau khổ, đối mặt với đau khổ, thì nổi đau khổ mênh mông của kiếp người liệu có chấm dứt được không? Nếu không thì chúng ta lăn vào để làm gì?

                Để em biết nỗi buồn xa đất tổ
                Thương linh hồn bộ lạc thuở lang thang
                Và thương mình một tình yêu bé nhỏ
                Có nghĩa gì giữa đau khổ mơ hoang?

                Đó phải chăng là lời giải đáp gián tiếp của tác giả bài thơ Về Nguồn?

                Trong kinh Pháp Cú, Đức Phật cũng đã từng nhắc nhở chúng ta:

                Làm sao mà ta có thể vui được
                Có thể đắm chìm trong lạc thú được?
                Những ngọn lửa đốt cháy thiên thu
                Bóng tối đang vây phủ
                Ta không muốn tìm ánh sáng sao?

                Và chúng ta cũng đừng quên rằng, tất cả những con người được ca tụng là xuất chúng, là vĩ nhân đều là những con người đã đứng lên từ trong đau khổ, nghĩa là họ dám từ bỏ những lạc thú tầm thường, những niềm vui nhỏ nhen ích kỷ, để rồi cuối cùng họ mới vựợt lên chính họ được.

                Trong thi ca của Hòai Khanh ta thấy ông còn phải mang nổi thống khổ mà tác giả Đọan Trường Tân Thanh ở hậu bán thế kỷ 18 chưa phải gánh chịu.

                Trong bài Sầu Thế Kỷ Hòai Khanh viết lên nổi đau khổ đó:

                Vào đời một trái tim côi
                Bao phen rách nát giọng cười hỗn mang
                Ai đâu một tấm lòng vàng
                Hai mươi thế kỷ điêu tàn rồi chăng?
                Người ta đang thoát căn phần
                Văn minh cơ khí giết dần yêu thương

                Nhưng khi đối mặt với thế giới lạnh lùng và vô cảm ấy, Hòai Khanh không như Bùi Giáng đã bị bắt buộc phải nói lên lời phản kháng mạnh mẽ:

                Ầm cơ giới hận
                Thân tù chung thân

                Mà ông chỉ nói lên nổi bàng hoàng sững sốt của mình:

                Ôi! Con người của thế kỷ 20
                Chiếc hộp, cây đinh, con ốc, ngọn đèn
                Rồi sẽ bị bóp-đóng-vặn-bật-lên.

                Nhưng đứng trước những nổi khổ lớn lao do con người gây ra đó, thái độ của thi nhân như thế nào?

                Ông có bất mãn quay lưng lại với sự tàn nhẫn của con người như thế này không?

                Nhân loại! Tôi không chơi với các anh nữa
                Ván bài nào anh cũng ăn gian
                (Trần Dần)

                Chắc chắn là không, vì ta biết được rằng Hòai Khanh vốn rất say mê tác phẩm Âm Thanh Và Cuồng Nộ ( the sound and the furry) của William Faulkner, đặc biệt là nhân vật Caddy mà Hòai Khanh cứ nhắc đi nhắc lại hòai trong bài thơ có tên là Bài Tụng Từ:

                Vườn xưa chừ cũng hoang tàn
                Người xưa chừ cùng phụ phàng với xưa
                Caddy em hiểu gì chưa?
                Thiên tài khổ lụy, hoa thừa rụng rơi
                Ôi nhan sắc ấy rợn người
                Dẫu lầm cát bụi muôn đời vẫn ngân
                Caddy sao em trắng ngần?
                Sao em thổn thức như vầng trăng phai
                Sao em có mùi lá cây
                Sao ta sống trải những ngày điêu linh
                (Hương sắc mong manh)

                Nếu Caddy , một nhân vật trong tác phẩm của Faulkner dù sống trong đọa đày tủi nhục nhưng lúc nào cũng thoang thoảng thơm mùi lá cây, hay bà vú nuôi Dilsey dù làm việc quần quật suốt ngày nhưng lúc nào cũng nghe bên tai lời cầu kinh từ những ngôi giáo đường vọng về. Thì Hòai Khanh cũng thế, dù “vai mang thế kỷ buồn đau” nhưng lúc nào cũng nghe tiếng vọng bên tai:

                Một phương đã hiện Từ Bi
                Lửa bình tịnh đốt sân si hận cuồng
                (lục bát)

                Trong tập thơ mới nhất được in ở Hoa Kỳ, Hương Sắc Mong Manh (2006), thì ta thấy niềm hy vọng đó lại càng mãnh liệt hơn nữa:





                Hiểu ngầm sen nở đầm xa
                Là nhân gian hỡi Thích Ca đã về
                Người về đánh thức cơn mê
                Ác gian, thù hận tràn trề khổ đau
                Người về với ánh nhiệm mầu
                Mấy ngàn năm đã qua cầu tử sinh
                Đạo vàng ôi sắc hiển linh
                Muôn đời vẫn vọng câu kinh độ trì
                Muôn đời ánh đạo từ bi
                Sẽ xua quỷ dữ, sân si, bạo tàn
                Sẽ đem trả lại nhân gian
                Cuộc sinh tồn ngát hoa vàng từ tâm.
                (Điềm triệu của sắc vàng)

                Thì ra, sự đau khổ của thi nhân không phải vì từ chối hay ghét bỏ cuộc đời mà vì quá yêu thương cuộc đời nhưng đã bị cuộc đời từ chối tấm lòng ấy một cách phũ phàng. Bởi vậy, nhà thơ của chúng ta không còn cách nào hơn là:

                Van người xin hãy thương nhau
                Mai kia đất vẫn dâng màu lưu ly

                Và vẫn kiên trì hy vọng một ngày nào đó con người sẽ không còn hận thù và tình thương sẽ đơm bông kết trái:

                Rằng thiên niên kỷ mai sau
                Máu người ắt sẽ làm màu từ tâm
                (Bản tự khúc LEONORA)

                Nhưng tất cả những nỗi đau khổ trên đều là nỗi khổ đến từ bên ngòai.

                Có một nỗi khổ mà đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hòang không chỉ được Hòai Khanh thể hiện trong một, hai hay ba bài thơ mà gần như trong tòan thể sự nghiệp thi ca của ông. Đó chính là nỗi khổ về thời gian:

                Nước xuôi lạnh một giòng sầu
                Biết về đâu hỡi mấy mầu thời gian?

                Biết bao lần rồi thi nhân đã:

                Lang thang trong vạn hồn chiều
                Nghe mùa gãy đổ dưới nhiều bến sông

                Bởi thế cho nên, ta chẳng lấy gì làm lạ khi thi nhân gần như mang một niềm “ thù hận” đối với những buổi chiều:

                Tay tôi bóp những chiều tà
                Với cồn phố cũ với ga ven rừng

                Nhưng tại sao ông lại “thù hận” những buổi chiều đến như vậy?

                Hỡi em người của ta yêu
                Phấn son đâu khỏi bóng chiều quay quanh

                Không “thù hận” sao được trong khi cứ:

                Một lần quay mặt về chiều
                Thì tìm sao nổi mỹ miều dấu xưa
                Làm sao đợi làm sao chờ
                Làm sao còn mãi những giờ yêu em?

                Nỗi đau về thời gian đó ta thường thấy Hòai Khanh lấy dòng sông ra để gửi gấm tâm sự. Thực ra, không phải đợi đến Hòai Khanh mà cách đây hơn 10 thế kỷ Lý Bạch khi đứng nhìn sông Hòang Hà cũng đã thở than:

                Quân bất kiến Hòang Hà chi thủy
                Thiên thượng lai
                Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
                Quân bất kiến cao đường minh kính
                Bi bạch pháp
                Triêu như thanh ty mộ tuyết

                Người thấy chăng! Nước sông Hòang Hà
                từ trên trời xuống, một đi ra biển thì không
                bao giờ trở lại.
                Người thấy chăng! Nhà cao gương sáng
                nhưng quá buồn vì mái tóc đã bạc trắng cả rồi

                Hay như Appollinaire nhà thơ của nước Pháp đứng trên cầu Mirabeau nhìn sông Sein mà xót xa cho những mối tình trôi qua cầu đi theo dòng nước mà không bao giờ trở lại.




                Nhưng Lý Bạch cùng như Appoliniare chỉ có một bài nhắc đến dòng sông thôi. Với Hòai Khanh thì gần như từ Dâng Rừng đến Lục Bát hay Gió Bấc, Trẻ Nhỏ, Đóa Hồng và Dế đến Thân Phận đều có những con sông buồn thảm chảy qua.

                Chính vì thế, khi muốn chọn một bài tiêu biểu nhất về những dòng sông trong thơ ông, thì thật là khó vì gần như bài nào đọc vào ta cũng đều thấy không phải chỉ là nỗi buồn của riêng ông mà có lẽ còn là nỗi buồn “chết người” của mỗi người trong chúng ta nữa.

                Tuy vậy, có lẽ ngòai bài Ngồi Lại Bên Cầu trong Thân Phận, mà cách đây gần bốn thập niên những người yêu thơ không ai là không biết đến nhất là bốn câu cuối:

                Rồi em lại ra đi như đã đến
                Dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù
                Ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng
                Nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu

                Thì bài Trông Theo cũng trong Thân Phận cũng làm xúc động không biết bao nhiêu người:

                Bến sông này, bến sông nay
                Trăng xưa lạnh xuống hàng cây gục đầu
                Người xưa chừ biết là đâu
                Này trăng gió cũ này câu giã từ
                Lối đi vàng nhạt mùa thu
                Nghe lau lách động niềm u uất buồn
                Mắt người mang cả quê hương
                Lòng ta mang cả đọan trường tháng năm

                Nhưng cũng chính trong Thân Phận, tập thơ có nhiều con sông buồn bã nhất chảy qua thì Hòai Khanh lại viết:

                Con sông nào đã xa nguồn
                Thì con sông ấy sẽ buồn với tôi

                Như vậy, nếu như thi nhân lên đường tìm lại được nguồn cội của những dòng sông ấy thì thi nhân có còn mang nổi sầu vạn cổ ấy không?

                Trong Hương Sắc Mong Manh, thi phẩm mới nhất Hòai Khanh có bài nhan đề là Sám Hối Tâm Kinh như sau:

                Nhớ câu” vô sở tùng lai
                Diệc vô sở khứ” trần ai nhãn tiền
                Con từ sa cõi Phan Duyên
                Nếm mùi nghiệp chướng lụy phiền não nhân
                Tham sân như cát sông Hằng
                Đắm mê bóng sắc quên thân phận mình
                Một hôm sực nhớ câu kinh
                “không phải chỗ trụ mà sinh tâm mình”
                Nhân ngày Phật tổ đản sinh
                Con xin dâng tấm lòng thành ăn năn

                Nêu Hòai Khanh đã nhận ra “không phải chỗ trụ mà sanh tâm mình” trong kinh Kim Cang thì tất nhiên ông cũng phải nhận ra một điều tối quan trọng nữa mà Đức Phật đã thuyết giảng trong kinh Kinh Cang:

                Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc,
                vị lai tâm bất khả đắc

                Quá khứ không thể nắm bắt được thì hiện tại và vị lai
                cũng đều như vậy.

                Nếu đã biết thời gian là cái không thể nắm bắt được, thì tại sao ta phải đau khổ nhỉ?

                Kinh Kim Cang (Vajracchedika Sutra) phát xuất từ Ấn Độ, Ấn Độ có con sông Hằng (Gane) mà sử gia Will Durant nói là “ cứ rộng dần đến thánh địa Bénares (Ba La Nai) mỗi ngày tẩy uế cho mười triệu tín đồ, những chi nhánh của nó làm cho xứ Bengale và miền chung quanh CalCutta hóa phì nhiêu. Tiến về phiá Đông thì xứ Miến Điện với những chùa giát vàng ở Rangoon và con đường Mandalay chói chang ánh nắng “ (2).

                Trong một bài thơ Hòai Khanh đã nhắc đến dòng sông này:

                Từ nơi ẩn dụ sông Hằng
                Có trong tinh thể bội phần chiêm bao
                Có trong tinh thể gầy hao
                Là cơn trùng phục mai sau vĩnh tồn
                Niềm vô hữu của linh hồn
                Là niềm thao thức chấp chờn lắt lay
                Chính từ cõi thế gian này
                Con người bổng chốc đặt bày hư không

                Bài thơ có tên là Cõi Tuần Dưỡng, mà Hòai Khanh đã làm để tưởng nhớ ngày Bùi Giáng qua đời.

                Ta cũng cần nhắc lại ở đây là Bùi Giáng là một trong hai ba người đã dịch và chú giải Heidegger nhiều nhất tại Việt Nam hơn nữa thế kỷ qua.

                Tại sao một thi sĩ lang thang suốt đời như Bùi Giáng lại bận tâm nhiều đến Heidegger như vậy?

                Trong bản dịch tác phẩm Buông Xả Thanh Thản (Gelassenheit) của Heidegger trong phần phụ lục Hòai Khanh cho người đọc biết lý do tại sao?

                “ Cũng nên lập lại ở đây là tất cà tư tưởng của Heidegger chính yếu đều năm trong cuốn Tính Thể và Thời Tính(Sein und Zeit) , xuất bản lần đầu vào năm 1927, mà có người cho rằng tác phẩm triết học ấy đã trở thành “một lọai thánh kinh có hệ thống”. Tác phẩm này nhằm đặt lại vần đề Tính Thể hay Hữu Thể đã từng thống ngự tư tưởng triết lý Tây phương suốt hai nghìn năm qua trong một trận đại chiêm bao là Quên Lãng Tính Thể. Do đó, ma Heidegger đã “kiệt tận miên bạc bình sinh” ( chữ của Bùi Giáng) để trả lại cho Tính Thể (Sein) vai trò xứng đáng của nó hầu cứu vãn những gì đã mất mát. Sứ mạng của ông là “lập lại” vấn đề Tính Thể:

                Một sự hồi phục trong ý nghĩa làm lại triệt để, lần dò qua bao nhiêu ngõ ngách khác nhau để tìm lại cái quá khứ bị quên lãng ấy từng đối đầu với các tử tưởng gia Hy Lạp đầu tiên thuở bình mình của Triết học Tây phương” (3).

                Đó là lý do vì sao Hòai Khanh viết tưởng niệm Bùi Giáng lại có hai câu

                Chính từ cõi thế gian này
                Con người bỗng chốc đặt bày hư không

                Chính vì đặt bày hư không mà Tây phương thường gọi là chủ nghĩa hư vô (Nihilism), nên con người đã tự lưu đày chính mình ra khỏi mái nhà xưa chăng?

                Người ta nói rằng vào những năm cuối đời Heidegger đã lui trở về rặng núi Đen (Forêt noire) sống trong một túp lều tranh trên chiếc bàn ọp ẹp chỉ có vỏn vẹn tòan thể tác phẩm Holderlin.

                Heidegger làm gì trong túp lều tranh ở rặng núi Đen đó?

                Hòai Khanh cho ta biết trong một bài thơ có tên là Forêt noire:

                Về đây người lặng lẽ ngồi
                Để nghe tính thể lên lời nguyên ngôn
                Để nghe cay đắng linh hồn
                Lời xưa trót lạc bên cồn trăng phai
                Người xưa chừng luống u hòai
                Cội nguồi tư tưởng lạc loài về đâu?

                Và tất nhiên còn gánh lên đôi vai gầy yếu của mình nỗi khổ xa quê của con người hôm nay nữa:

                Từ khi tư tưởng lộn đường
                Con người chừng cũng ngỡ ngàng…Quê Xưa?

                Nhưng ta có quyền tin rằng, ông chỉ thất vọng chứ chưa tuyệt vọng vẫn hy vọng một cách mãnh liệt rằng, từ trong mê lộ con người sẽ phải tự tìm lại được con đường trở về của mình:

                Rồi con người cũng mở lòng
                Đón sơ nguyên lại trong vòng tay ôm
                Phương Nam lại trỗi ngọn nồm
                Cõi tuần dưỡng lại mở vòm vô biên

                Dường như càng về già thì Hòai Khanh càng sống trọn vẹn hơn với cái “Vòm vô biên” ấy, cái “trong tinh thể bội phần chiêm bao” ấy. Đặc biệt là “từ nơi ẩn dụ sông Hằng”, dòng sông mà khi còn tại thế ít nhất một lần Đức Phật đã dừng chân lại:

                “Rồi đức Thế Tôn đi đến con sông Hằng. Lúc bấy giờ, sông Hằng tràn ngập nước đến bờ đến nổi con quạ cũng có thể uống được. Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có người cột bè để qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn mau lẹ như người lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co cánh tay được duỗi ra, biến mất từ bờ bên nay và hiện ra trên bờ bên kia vớ chúng Tỳ Kheo.

                Đức Thế Tôn thấy những người kia, người đang tìm thuyền, người đang tìm phao, người đang cột bè để qua bờ bên kia. Đức Thế Tôn hiểu được ý nghĩa của cảnh này, lúc ấy bèn ứng khẩu cảm khái:

                “Những ai làm cầu vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sủng đầm ao, trong khi người phàm phu cột bè, những người ấy thật là những vị được giải thóat bởi trí tuệ”(4)

                Đọc đọan kinh trên tôi nhớ đến bài Dấu Chân Từ Phụ của Hòai Khanh:

                Cái gì hễ mất là còn
                Hễ không là có hễ tròn là lăn
                Ngày xưa có một dấu chân
                Bước qua bãi cát sông Hằng nhẹ tênh

                Hôm đến Biên Hòa thăm Hòai Khanh, khi ngồi nói chuyện trong phòng khách, nhìn lên vách tôi thấy ông có treo hình cùa Đức Phật, xa hơn chút nữa là hình của Martin Heidegger. Tôi nhìn hai tấm hình và tự nghĩ rằng, chắc bây giờ ông không còn buồn vì những “ dòng sông cứ vẫn cứ chảy xa mù” nũa đâu!

                Vì chẳng phải ông đã tìm lại được cội nguồn của một dòng sông rồi đó hay sao?

                Nha trang, mùa hạ (2008)

                Thích Phước An
                Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 07-07-2010, 12:19 AM.
                ----------------------------

                Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                Comment

                • #9

                  Ngồi Lại Bên Cầu - Hoài Khanh



                  Hoài Khanh
                  tên thật Võ Văn Quế
                  sinh ngày 13 tháng 6 năm 1934
                  tại phường Ðức Nghĩa, thành phố Phan Thiết
                  tỉnh Bình Thuận. Hiện cư ngụ tại 26/5 khóm 6
                  phường Thống Nhất thành phố Biên Hòa, Ðồng Nai.
                  cựu công chức. Từng chăm sóc tạp chí Giữ Thơm Quê Mẹ
                  và chủ trương nhà xuất bản Ca Dao


                  Tác phẩm đã in :


                  Dâng Rừng (thơ-1957)
                  Thân Phận (thơ- 1962)
                  Lục Bát (thơ-1968)
                  Trí Nhớ Hoang Vu Và Khói (thơ-1970)
                  và có bài trong nhiều tuyển tập Thi Ca Việt Nam

                  (Theo Luân Hoán)






                  Ngồi Lại Bên Cầu


                  người em xưa trở về đây một bận

                  con đường câm bỗng ánh sáng diệu kỳ

                  tôi lẫn trốn vì thấy mình không thể

                  mây của trời rồi gió sẽ mang đi


                  em - thì vẫn nụ cười xanh mắt biếc

                  màu cô đơn trên suối tóc la đà

                  còn gì nữa với mây trời đang trắng

                  đã vô tình trôi mãi bến sông xa


                  thôi nước mắt đã ghi lời trên đá

                  và cô đơn đã ghi dấu trên tay

                  chân đã bước trên lối về hoang vắng

                  còn chăng em nghĩa sống ngực căng đầy


                  quá khứ đó dòng sông em sẽ ngủ

                  giấc chiêm bao nguyên vẹn có bao giờ

                  ta sẽ gặp trong ý tình vũ bão

                  con thuyền hồn trở lại bến hoang sơ


                  rồi em lại ra đi như đã đến

                  dòng sông kia cứ vẫn chảy xa mù

                  ta ngồi lại bên cầu thương dĩ vãng

                  nghe giữa hồn cây cỏ mọc hoang vu

                  Hoài Khanh


                  (Thân Phận - Ca Dao xuất bản 1972)
                  ----------------------------

                  Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                  Comment

                  • #10

                    Xin chào Ðà Lạt - Hoài Khanh

                    Xin chào Ðà Lạt
                    (tặng Phạm Công Thiện)

                    em ở đó với bầu trời mây núi


                    mùa đông sương rờn trên má hoa đào

                    linh hồn ta mấy mươi mùa của suối

                    lạnh vô cùng không biết tự phương nao


                    chân ta bước trên con đường trở lại

                    một lần xưa vi vút gió đầu cành

                    sâu dưới đó lối mòn khe suối vắng

                    bóng của mùa khẽ động tiếng lanh canh


                    ôi đồi thông những chiều nghiêng nhớ nắng

                    lòng ta trôi chiều cũ dưới chân đèo

                    gió heo hút dường nghe niềm u hận

                    em đi rồi ta vẫn đứng nhìn theo


                    màu áo đó phất phơ màu vĩnh biệt

                    bay về đâu xin còn lại linh hồn

                    để ta giữ những chiều sương ám phủ

                    của một đời luân lạc kiếp tha hương


                    rồi thôi hết đất sẽ là vĩnh viễn

                    bông hoa kia nở trên xứ điêu tàn

                    tay yếu đuối ta sẽ còn nắm lại

                    những lời gì xưa đã hết âm vang


                    (Thân Phận - Ca Dao Xuất bản 1972)
                    ----------------------------

                    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                    Comment

                    • #11

                      Giọng Sầu - Hoài Khanh




                      Giọng Sầu

                      Tôi về đây nhớ chiều xanh

                      Con chim nào hót trên cành khô kia

                      Dòng sông mấy nhánh chia lìa

                      Đêm thành phố lại trầm mê giọng đồng

                      Hát đi em mấy mùa đông

                      Con chim cũng hót trong lồng nhân gian

                      Con chim nhớ mặt trời tàn

                      Nhớ sương đầu lá đêm vàng trăng rơi

                      Bây giờ tôi hát cho tôi

                      Và em sẽ hát cho người ta nghe

                      Để đêm nào bước chân về

                      Cô đơn đường phố lòng nghe rã rời

                      Giọng kia đã mất trong lời

                      Hồn kia đã lạc cõi đời điêu linh

                      Thôi em cứ hát cho mình

                      Đời quay trái đất vô tình tháng năm


                      Hoài Khanh


                      (Thời Nay số Xuân Quý Mão 1963)

                      ----------------------------

                      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                      Comment

                      Working...
                      X
                      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom