• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Hoa Cúc Trong Thi Ca

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Hoa Cúc Trong Thi Ca


    Cô Gái và Hoa Cúc Vàng - tranh Dương Bích Liên


    Hoa Cúc Trong Thi Ca


    Hoa là ngôn ngữ chân thành nhất của tình yêu, hoa vô tư bộc lộ những nỗi niềm thầm kín,thăm thẳm từ đáy con tim chân chính, khi ngôn từ đã không diễn tả được nỗi lòng tha thiết thì hoa sẽ thốt thành lời (When words escape, flowers speak- Bruce W. Currie ), hoa sẽ nói hộ những gì mà tình nhân khó nói ... Đời người như một bông hoa mà tình yêu như mật ngọt nhựa sống tuôn tràn (Life is the flower for which love is the honey-Victor Hugo). Hoa là những biểu tượng đặc trưng của thiên nhiên ban cho con người, đó là tình yêu của tạo hóa dành cho chúng ta trong đời sống (Flowers are the beautiful hieroglyphics of nature by which she indicates how much she loves us-Johann Von Goerthe). Hoa là đại sứ của tình yêu, hoa đã đem lại những thông điệp làm tươi mát tâm hồn.

    Ngôn ngữ các loài hoa đã có từ ngàn xưa, được diễn đạt trong nhiều nền văn hóa khác nhau trên thế giới . Mỗi loài hoa như muốn biểu tượng một ý tình, một nỗi niềm riêng mang ... khi nhịp đập con tim biết ngân vang ngàn cung điệu .

    Mỗi một con người có niềm vui, sở thích riêng về một loài hoa nào đó . Người xưa có Lâm Bô với hoa mai, Khuất Nguyên với hoa lan, Thôi Hộ với hoa đào, và Đào Tiềm với hoa cúc như người bạn tâm giao tri kỷ . Một Cao Bá Quát thì "Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" (cả đời chỉ cúi mình trước hoa mai), hoặc một thi sĩ tây phương nào đó chỉ xin được làm hoa cúc trắng "I'd choose to be a daisy" :


    I'd choose to be a daisy

    If I might be a flower
    Closing my petals softly
    At twilight's quiet hour
    And waking in the morning
    When fall the early dew
    To welcome Heaven's bright sunshine
    And Heaven's bright tear-drops too.
    Anonymous Author


    Xin được làm cúc trắng
    Nếu tôi hóa kiếp đời hoa
    Xin làm cúc trắng thướt tha dịu mềm
    Trầm tư cảnh vắng chiều êm
    Dịu dàng khép cánh màn đêm thẫn thờ
    Vầng dương chợt động cơn mơ
    Ánh mai hé mở như chờ đợi hoa
    Lung linh những hạt sương sa
    Cùng tia nắng mới chan hòa niềm vui
    Bỗng dưng xao xuyến ngậm ngùi
    Hồn hoa thổn thức khung trời lệ rơi...
    (Hải Đà phỏng dịch)




    Hoa Cúc trắng là loài hoa nhận được nhiều sự chiêm ngưỡng của các nhà thơ. Theo truyền thuyết, bông hoa nhỏ bé này có nguồn gốc từ Belides, một trong các nữ thần chăm sóc các khu rừng. Một hôm, khi Belides đang nhảy múa với người yêu của mình là Ephigeus, cô đã lọt vào sự chú ý của Vertumrus, nam thần cai quản các vườn cây. Để bảo vệ cô khỏi sự săn đuổi này, chúa của loài hoa là Flora đã biến cô thành một đóa Cúc trắng. Có một nguồn gốc khác mang nhiều vẻ thần thoại hơn: Hoa Cúc trắng đã được gieo trồng lần đầu tiên trên ngôi mộ một hài nhi bởi những đôi tay mềm mại của các thiên thần nhỏ bé. Tên tiếng Anh của loài hoa này có nguồn gốc từ ngữ Saxon, có nghĩa là "con mắt ban ngày" (day's eye), có lẽ vì hoa nở vào lúc sáng sớm và khép lại vào lúc chiều tà. (Sưu Tầm)

    Khi mùa hạ đã đi qua, lá thôi xanh, hoa hết thắm, mùa thu đến chơi vơi, lá tàn khô héo rụng, cành cây trơ trụi, khu vườn ảm đạm thê lương, chợt như bừng sức sống, khi những cụm hoa cúc vàng, nữ chúa của mùa thu (The autumn's queen Chrysanthemum) bắt đầu hé nhụy khai hoa "cúc hoa xoè cánh nở bung" …để tô điểm cho khung trời thu hiu hắt buồn :

    As we watch the summer days depart
    And the painted leaves in silence fall,
    And the vines are dead upon the wall;
    A dreamy sadness fills each heart,
    Our garden seems a dreary place,
    No brilliant flowers its borders grace,
    Save in a sheltered nook apart,
    Where gay beneath the autumn sun
    Blooms our own Chrysanthemum.
    Chrysanthemum (Hattie L. Knapp)

    Lặng nhìn mùa hạ qua mau
    Không gian quạnh vắng lá sầu nhẹ rơi
    Cành nho héo rũ tường vôi
    Trái tim mơ mộng chơi vơi nỗi buồn
    Màu thê lương phủ kín vườn
    Hoa thôi sắc thắm bờ mương hàng rào
    Xa nơi xó xỉnh đồi cao
    Trời thu rực rỡ vui chào ánh dương
    Cúc hoa xoè cánh nở bung …
    Hải Đà phỏng dịch

    Yosa Buson, một thi sĩ Nhật Bản trong bài thơ HaiKu, đã phải thốt lên rằng:

    Trước nhành hoa cúc trắng
    Ngỡ ngàng cái kéo ngập ngừng thôi
    Trong phút giây bất chợt
    (vì không nỡ phải phủ phàng cắt rời hoa, bắt hoa phải lìa cành mãi mãi)

    Before the white chrysanthemum
    the scissors hesitate
    a moment.
    (by Yosa Buson)



    Hoa cúc nở giữa vườn thu đã gợi muôn niềm thi hứng cho tao nhân mặc khách muôn phương trên thế giới . Thi sĩ Dora Read Goodale trong một ngày thu ấm, khi diễn tả loài hoa cúc có tên là "Asters", mà người ta thường gọi là hoa Cúc tây, hay là hoa sao, có tên gọi bắt nguồn từ chữ Hy Lạp "Aster", có nghĩa là ngôi sao. Người ta nói nó là tượng trưng cho sự "chín chắn" vì nó nở hoa vào đầu mùa thu khi mà đa số các loài hoa khác đã tàn. Cúc Tây được đem từ Trung Quốc vào châu Âu năm 1730 bởi một nhà truyền giáo người Pháp, và qua nhiều kỹ thuật cấy ghép khoa học tài tình, nên ngày nay loài hoa trắng như tuyết này đã rất phong phú và đa dạng chủng loại, nên Cúc tây mang thêm ý nghĩa cho "tình yêu muôn sắc muôn màu".

    The Autumn wood the aster knows,
    The empty nest, the wind that grieves,
    The sunlight breaking thro' the shade,
    The squirrel chattering overhead,
    The timid rabbits lighter tread
    Among the rustling leaves.
    Asters in the Cofrin Arboretum (Dora Read Goodale)

    Cúc hoa cảm cảnh rừng thu
    Quạnh hiu tổ trống, vi vu gió sầu
    Ánh dương thơ thới ửng màu
    Tung tăng sóc nhảy trên đầu líu lo
    Rụt rè thỏ bước nhởn nhơ
    Dẫm chân khua tiếng lá khô xạc xào
    Hải Đà phỏng dịch



    Hoa cúc là một thứ hoa gần gũi với người phương Đông. Người Việt Nam chúng ta, cũng như người Trung Quốc phần đông đều thích trồng hoa cúc. Nhắc đến hoa cúc trong Đường Thi là người ta nhớ đến thi sĩ Đào Tiềm đời Tấn "Tam kính tựu hoang, Tùng cúc do tồn" (Đường ra lối nhỏ vườn hoang , Chen nhau tùng cúc xếp hàng đợi đây - HĐ)...Hoa Cúc biểu tượng cho tinh thần thanh cao của kẻ sĩ muốn lánh xa vòng tục lụy . Một loài hoa "diệp bất ly thân" (lá không rời khỏi cành dù tàn khô héo rũ). "Cúc ngạo hàn sương", cúc vẫn hiên ngang ngạo nghễ đâm hoa kết nhánh mặc cho sương tuyết lạnh giá bao trùm, mặc cho khí thời khắc nghiệt vây quanh, cúc vẫn mang nét điềm đạm ung dung, cúc vẫn vương mình đứng thẳng giữa phong trần, thách thức với bao nỗi đoạn trường gian truân của thế sự nhân tình: "Tiếu ngạo hàn sương phô cốt cách, Khai nhan diệu sắc kháng thu thâm" - Hải Đà (Sương gió dãi dầu hoa ngạo nghễ, Thu già thách thức sắc phô trương - HĐ)

    "Theo tài liệu sưu tầm, có khoảng 130 loại hoa cúc. Cúc còn mang tên ra Tiết Hoa hay là Nữ Tiết. Cúc chờ lạnh đến mới nở, vùng nào lạnh sớm hoa sẽ nở sớm, lạnh muộn thì hoa nở muộn. Giống cúc vàng thích khí lạnh hơn hết. Ở những xứ ấm trời, hoa cỏ nở một cách tạo tác vô thời, chỉ riêng hoa Cúc là biết kỷ luật.
    Hoa Cúc có mấy màu chính là vàng (hoàng), trắng (bạch), tím (tử) và hồng (cũng được gọi là hồng).Lại còn có những thứ tạp sắc, cánh trước một màu, đằng sau mang một màu khác hay là nửa bên trái và nửa bên phải khác nhau (Uyên Ương Cúc). Hoàng Cúc tức Cúc Vàng có đến 34 loại, vài giống quý có nhiều tên đẹp như: Kim Trân, Dạ Quang Châu, Lạc Hà Hoàng. Ngự Bào Hoàng, Trầm Hương Quản , Hoàng Kim Tháp, Hoàng Yến, Vạn Thọ, Kim Tiền v.v.." Mỗi loại hoa cúc khác nhau đã tự mang cho mình một ý nghĩa đặc trưng riêng của ngôn ngữ tình yêu, như


    Hoa cúc trắng: ngây thơ và duyên dáng.
    Hoa cúc tây: chín chắn, tình yêu muôn màu
    Hoa cúc đại đoá: lạc quan trong nghịch cảnh
    Hoa cúc tím (thạch thảo): nỗi lưu luyến khi chia tay.
    Hoa cúc vàng: lòng kính yêu quý mến, nỗi hân hoan.
    Hoa cúc vạn thọ: sự đau buồn, nỗi thất vọng
    Hoa Cúc zinnia: nhớ đến bạn bè xa vắng
    (Sưu Tầm)



    Trồng hoa cúc là một thú vui tao nhã của các cụ ngày xưa. Nói đến hoa cúc là người ta thường nghĩ đến mùa Thu, hoa cúc và mùa thu có một một sự giao tình kỳ lạ. Thu vốn mang một ấn tượng buồn, chùng lắng tâm cảm của người, cúc đua nở trong mùa thu đã đem lại một sự vui tươi đổi mới cho cảnh tình .

    Thi sĩ Nguyễn Khuyến đặc biệt có tâm hồn mẫn cảm với mùa thu, như qua ba bài thơ Thu Vịnh, Thu Ẩm, Thu Điếu .Đặc biệt trong bài Thu vịnh, thi sĩ Nguyễn Khuyến cũng đã một lần nhắc nhở đến thi sĩ Đào Tiềm của Đường Thi, một người bạn tri kỷ của hoa cúc vàng "Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào! " :


    Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
    Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.
    Nước biếc trông chừng như khói phủ,
    Song thưa để mặc bóng trăng vào.
    Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
    Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
    Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
    Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào!
    Thu Vịnh (Nguyễn Khuyến)



    Trước cảnh sắc muôn chiều của mùa thu với lá vàng bay, với nước ao trong veo, với cảnh thanh tịnh, Nguyễn Khuyến cũng đã thường nhắc nhở đến loài hoa cúc. Cúc biêu lộ sự khoan dung, khoáng đạt, sự chung tình da diết. Cúc héo tàn nhưng chẳng lià thân, diễn đạt một tư tưởng thanh tao, một ý niệm trung trinh của tâm hồn chẳng bao giờ quên gốc gác cội nguồn. Thơ Nguyễn Khuyến đã thể hiện cái nhàn nhã, sự khắng khít với thiên nhiên, tâm hồn nhẹ nhõm, xem đời tựa như áng mây trôi, nhưng cũng đã bộc lộ nên cái nhân cách trí thức của nhà nho "Tháng rét một mình, thưa bóng bạn, Nhị thơm chẳng rữa, chạnh lòng ai " :


    Xuân qua tới tấp mận cùng đào,
    Lá mốc cành rêu lẩn chốn nào?
    Giữ tiết dường như yên phận khó,
    Dành hương cốt để đợi thu cao.
    Thương thầm vườn cổ nên như vậy,
    Đứng giữa hơi may mới biết nhau!
    Trong sạch tấm lòng đâu dễ kiếm,
    Đào Tiềm chỉ gặp lúc về hưu!

    Trăm hoa đua nở, vắng ngươi hoài!
    Trăm hoa tàn rồi mới thấy ngươi
    Tháng rét một mình, thưa bóng bạn
    Nhị thơm chẳng rữa, chạnh lòng ai
    Nhấp nhô lưng giậu xanh chồi trúc
    Óng ả đầu hiên mướt ngọn mai
    Cất chén mỉm cười, vừa ý tớ
    Bõ công vun xới đã lâu ngày
    Vịnh Hoa Cúc (Nguyễn Khuyến)


    Nguyễn Trãi là một nhà trí thức lớn của thời đại, ông là người ưu thời mẫn thế, thương dân yêu nước, nhưng không màng phẩm chức danh lợi. Ông là người đa tài, ngoài tài chính trị, kinh tế v.v.. ông còn có lòng đam mê văn chương thi ca, thơ của ông phong phú đa dạng, đặc biệt trong những bài thơ diễn tả tình yêu thiên nhiên, đã nói lên cái tư cách thanh cao, phóng khoáng của kẻ sĩ, nhà nho, và ông cũng đã hơn nhiều lần nhắc nhở đến hoa cúc, như một triết lý nhân sinh trong cuộc sống lắm nỗi đa đoan, quán triệt mọi lẽ biến đổi của thế thái nhân tình, sự đổi dời của đất nước non sông, sự thăng trầm suy thịnh của xã hội, kiếp đời, như muốn gửi gắm tâm tình sâu xa, bộc lộ ý chí của người thơ không nệ hà gian khổ, chỉ muốn quên thân mình, để hy sinh cho đại nghĩa quốc gia dân tộc. Trong "Quốc Âm Thi Tập" của Nguyễn Trãi có mấy bài thơ ca ngợi hoa Cúc:

    Nào hoa chẳng bén khí đầm hâm
    Có mấy bầu sương nhị mới đâm
    Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn
    Cho hay thu muộn tiết càng thơm.
    (Thuật hứng - bài 15 )

    Người đua nhan sắc thủa xuân dương,
    Nghỉ, chờ thu: cực lạ nhường!
    Hoa nhan rằng đeo danh "ẩn dật",
    Thức còn phô, bạn khách văn chương.
    Tính tình nào đoái bề ong bướm,
    Tiết muộn chẳng nài thủa tuyết sương.
    Dầu thấy xuân lan cùng lọn được,
    Ai ai đều có mỗ mùi hương.
    Cúc (Nguyễn Trãi)

    Cõi đông còn thức xạ cho hương
    Tạo hoá sinh thành khác đẳng thường
    Chuốt lòng son, chăng bén tục
    Bề tiết ngọc, kể chi sương
    Danh thơm thượng uyển còn phen kịp
    Bạn cũ đông ly ắt khá nhường
    Miễn được chúa tiên yêu tụng đến
    Ngày nào khá, ấy trùng dương.
    Hồng Cúc (Nguyễn Trãi)

    Lặng nhìn mùa hạ qua mau
    Không gian quạnh vắng lá sầu nhẹ rơi
    Cành nho héo rũ tường vôi
    Trái tim mơ mộng chơi vơi nỗi buồn
    Màu thê lương phủ kín vườn
    Hoa thôi sắc thắm bờ mương hàng rào
    Xa nơi xó xỉnh đồi cao
    Trời thu rực rỡ vui chào ánh dương
    Cúc hoa xoè cánh nở bung …
    Hải Đà phỏng dịch
    (Chrysanthemum -Hattie L. Knapp)



    Mỗi tiết thời thường đi đôi với một loại hoa riêng, mùa xuân thì có hoa lan, hoa đào, mùa hạ có hoa sen, có lựu, mùa thu có hoa cúc như là một biểu tượng đặc trưng:

    Thành Tây có cảnh Bích Câu,
    Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!
    Đua chen Thu Cúc, Xuân Đào,
    Lựu phun lửa hạ, Mai chào gió đông.
    Bích Câu Kỳ Ngộ (Khuyết danh.)

    Trong những tác phẩm lớn của văn học Việt Nam, như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, có những câu thơ cũng dùng hình ảnh của cúc hoa để so sánh với người con gái đẹp, mang nét mặt buồn man mác, vẻ u sầu thầm lặng của muà thu, nên các thi nhân thường dùng chữ "nét buồn như cúc" .

    May thay giải cấu tương phùng,
    Gặp tuần đố lá thoả lòng tìm hoa.
    Bóng hồng nhác thấy nẻo xa,
    Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai.
    Người quốc sắc, kẻ thiên tài...
    (Nguyễn Du)

    Ngại ngùng giợn gió e sương,
    Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
    Mối càng vén tóc bắt tay,
    Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
    (Nguyễn Du)

    Nói về hoa Cúc và mùa thu, có một giai thoại: tương truyền thời trai trẻ, cụ Nguyễn Du ưa hát phường vải. Có hoa khôi tên là Cúc đàn hay, hát ngọt, nhưng muộn chồng, cậu Chiêu Bảy (Nguyễn Du) đã ngâm hai câu thơ ghẹo người đẹp:

    "Trăm hoa đua nở mùa xuân
    Cớ sao Cúc lại muộn màng về Thu?".

    Nàng Cúc biết cậu Chiêu tài hoa có ý ghẹo mình bèn đáp:
    "Vì chưng tham chút nhụy vàng
    Cho nên Cúc phải muộn màng về Thu".

    Cúc nở về thu là đang độ mãn khai đâu có muộn màng? Và ngầm nhắn gửi thi nhân "Dù có muộn màng vì ai kia" cũng là vì chờ đợi bảng vàng, bia đá mà thôi! Không rõ về sau khi "bảng hổ" đề tên chàng và nàng có nên duyên cầm sắt?
    (Sưu Tầm)



    Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc tác giả đã dùng hình ảnh buồn vời vợi của mùa thu với hoa cúc vàng (hoàng hoa) để diễn tả cảnh chia ly não nuột, bịn rịn ngỡ ngàng của kẻ ở người đi ...

    Xót người lần lữa ải xa
    Xót người nương chốn hoàng hoa dậm dài
    (Đặng Trần Côn)

    Thi sĩ Đinh Hùng đã dựa vào màu sắc đậm đà của hoa cúc, bộc lộ sự thổn thức dâng tràn tâm tư, từ trong tiềm thức bật dậy và rung động những dòng giao cảm phơi trải lòng mình, gần gũi và xa xôi, chân thật và huyền hồ :

    Ý chiều ngây ngất màu hoàng cúc,
    Sao mắt thu buồn dáng hạ xa
    Ta nhớ mà thương người sử nử,
    Áo mùa thu đọng sắc kiều hoa.
    Liên Tưởng (Đinh Hùng)

    Thi sĩ Nguyễn Bính cũng đã dùng hình ảnh của hoa cúc, liên hợp với mùa thu để nói sự trôi dạt nổi trôi của thân phận kiếp người giữa cái mênh mông bát ngát của biển đời. "Nét buồn như cúc", thu sầu với lá vàng rơi, đã đem lại nhiều gợi cảm, xúc động cho sự đổi thay, vật đổi sao dời ...làm thổn thức tuôn trào những dòng dư lệ, khi phải chứng kiến cảnh: "Thiên nhiên mãi xoay vòng muôn nghịch lý ,Trong Xuân sinh là Thu sát điêu tàn, Sau Hạ trưởng là Đông sầu xơ xác , vĩnh phúc nào là chốn hẹn nhân gian ?" (Vô Đề-Hải Đà)

    Thu sang, rồi lại thu sang,
    Cúc bao lần nở, lá vàng bao rơi?
    Bao nhiêu vật đổi sao dời?
    Đường bao dặm thẳm? hỡi người bốn phương?
    Giòng Dư Lệ (Nguyễn Bính)

    Cái vắng lặng, trống không, âm thầm, mênh mông của mùa thu xa, tạo nên một chút gì mong manh, dìu dịu, mơ hồ trong tâm hồn của người thơ . Một cái buồn chất chứa, lắng đọng, trong một cảnh thu tĩnh mịch lạ lùng, tưởng như sẽ đi vào quên lãng, nhưng bỗng dưng một ngọn gió thu lay lắt cánh "hoa cúc vàng lưng giậu", tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ, đủ để thức tỉnh hồn thơ qua màu sắc tươi rói của nhánh hoàng hoa, tượng trưng cho "Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên" . Cái đẹp tinh tế của hoa đã tìm thấy trong lòng người tri kỷ .

    Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa
    Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà
    Buồn ở sông xanh nghe đã lại
    Mơ hồ trong một tiếng chim qua.
    Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm
    Hây hây thục nữ mắt như thuyền.
    Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu
    Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.
    Thu (Xuân Diệu)

    "Sen mùa hạ, cúc mùa thu" hai hình ảnh tiêu biểu của hai mùa trong trời đất, của thời tiết khác nhau, được người thơ lấy làm hình ảnh ẩn dụ cho hoàn cảnh éo le, sự chia ly cách xa của hai người, nói lên cái tâm trạng đau buồn, oán trách bắt nguồn từ cảnh cô đơn đợi chờ .. "có bao giờ cùng trở lại vườn xưa ?" thật nặng lòng với tình nghĩa thâm sâu:

    Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
    Như mặt trăng mặt trời cách trở
    Như sao hôm sao mai không cùng ở
    Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa ?
    Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
    Như tháng mười hồng tháng năm nhãn
    Em theo chim đi về tháng tám
    Anh theo chim cùng với tháng ba qua
    Vườn Xưa (Tế Hanh)

    Hoa cúc, với màu hoa, hương hoa, men hoa, sắc hoa .. đã đem lại sự tình tứ, khêu gợi qua những dòng thơ lãng mạn, với những hình ảnh chập chờn mộng ảo, man mác âm điệu thần linh, mê hoặc qua lối diễn tả độc đáo, gợi cảm :"Mươi bông cúc nõn chờ tay với ... Một trời thu ngủ men hoàng cúc ... Thu nhập hồn men cựa đó chăng" ... mang những âm hưởng nồng nàn và bí ẩn:

    Gợn trắng ngàn mai thoảng dáng xuân
    Màu trinh e lệ gió ân cần
    Mươi bông cúc nõn chờt tay với
    Một chút hoa đào vương gót chân
    Dịu Nhẹ (Vũ Hoàng Chương)

    Ngõ nhớ hoa vàng gác nhớ trăng
    Chiêm bao giợn tuyết gối ngờ băng
    Sương vây bể xám lòng hoang đảo
    Nằm hấng thơ mưa độc vận bằng
    Phới gót mùa say về ẩn hiện
    Giữa đôi hàng chữ sách Khiêu Đăng
    Xôn xao vò nậm bừng hương cúc
    Thu nhập hồn men cựa đó chăng
    Xem Truyện Quỷ (Vũ Hoàng Chương)

    Hà Nội đèn treo đỏ phố phường
    Sóng hồ trăng giãi bập bềnh sương
    Một trời thu ngủ men hoàng cúc
    Đôi bạn tình say mộng viễn phương
    Kìa ý đàn trao mười nẻo gió
    Đây lòng hoa mở bốn mùa hương
    Ôi thôi, khoảnh khắc dâu thành bể
    Gươm báu rùa thiêng cũng đoạn trường
    Nhớ Cố Nhân (Vũ Hoàng Chương)

    Thi sĩ Bích Khê đã dùng những ngôn từ tình sâu ý đẹp, với nhiều hình tượng dạt dào, mênh mông, trong chuỗi âm thanh huyền diệu để diễn tả sự trữ tình của loài hoa vàng một cách khéo léo, gợi cảm, đa tình, vẽ nên những hình ảnh linh diệu, bồi hồi, xao xuyến, thể hiện sự sôi nổi triền miên của khát vọng tình yêu, như một âm điệu nhạc ngân vang trong cái huyền diệu của vũ trụ mênh mông:

    Lam nhung ô ! màu lưng chừng trời;
    Xanh nhung ô ! Màu phơi nơi nơi.
    Vàng phai nằm im ôm non gầy;
    Chim yên neo mình ôm xương cây.
    Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:
    Đông nam mây đùn nơi thành xa...
    Oanh già theo quyên quên tin chàng !
    Đào theo phù dung: thư không sang !
    Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
    Làn trăng theo chàng qua muôn nơi;
    Theo chàng ta làm con chim uyên;
    Làn mây theo chàng bên nhung yên.
    Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
    -- Hồn ta ? hay là hồn tình lang ?
    Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
    Thâm khuê oan gì giam xuân sâu ?
    -- Ai xây bờ xanh trên xương người ?!
    Ai xây mồ hoa chôn đời tươi ?!
    Hoàng Hoa (Bích Khê)

    Thơ Lưu Trọng Lư truyền đạt cái cảm giác lạ lẫm, man mác bâng khuâng, chập chờn giao động, người thơ đã chìm đắm trong cơn mộng huyễn, hay đang thao thức chiêm nghiệm cái chân thật của vóc dáng một loài hoa- đóa cúc vàng ẩn hiện dưới làn sương thu mờ ảo:

    Ta mơ trong đời hay trong mộng
    Vùng cúc bên ngoài đọng dưới sương
    (Lưu trọng Lư)

    Màu sắc của cúc nhiều loại: vàng, trắng, tím v.v.. nhưng màu vàng của cúc vẫn luôn là biểu tượng nhiều nhất, được nói nhiều trong thơ văn Việt Nam như tình thư học trò "Tuổi Mười Ba" của Nguyên Sa:

    Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc
    Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường.
    Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu đương
    Tôi thay mực cho vừa màu áo tím....
    Tuổi Mười Ba (Nguyên Sa)

    Sự đa dạng của cảm xúc, cái sâu xa của tình cảm, đã là những chất liệu để nghệ thuật thành hình, đem lại cho thơ một vẻ đẹp duyên dáng, lặng lẽ len thấm vào tâm tư người đọc, đôi khi man mác cổ tích thần tiên, vô cùng lãng mạn cho "Một anh chàng làm thơ, mà suốt đời say rượu cúc" một cách rạo rực, đam mê:

    Em sẽ về, phải không em
    Có gì đâu mà khó khăn, trắc trở
    Chúng mình lại đi
    Trên con đường chạy dài hoa cỏ
    Là những đồn phòng ngự của tình yêu
    Mỗi ngón tay em
    Anh vẫn gọi là một cửa đào nguyên
    Và anh: sẽ trở lại nguyên hình
    Một anh chàng làm thơ
    Mà suốt đời say rượu cúc
    Có Phải Em Về Đêm Nay (Nguyên Sa)

    Thi sĩ Phạm Thiên Thư đã pha màu rất hài hòa cho màu hoa cúc tạo nên một hình dáng rất tạo hình của loài hoa vàng. Bài thơ như một bức tranh thủy mặc đầy mộng mơ chất ngất, quyện lẫn với thanh âm nhạc tính làm giao động lòng người:...

    con đường hoàng hoa
    em mang hài lục
    con đường bạch cúc
    em mang hài hồng
    con đường sầu đông
    em đi guốc tía
    anh ngồi thấm thía
    cội sầu trổ bông
    Guốc Tía (Phạm Thiên Thư)

    "Cõi Thơ" của Phạm Thiên Thư đầy những kỷ niệm ngọt ngào, những hương vị đậm đà, có mẹ nua già, có lều thơ nhỏ, có giàn hoa lý, và đặc biệt là có dậu cúc vàng, đem lại những hoài niệm khó phai nhòa trong ký ức tâm tưởng của người thơ:

    em hỏi nơi ta
    xin kiếm tàng hoa
    điệp vàng trải ngõ
    có mẹ nua già
    chăm từng ngọn cỏ
    có áng giang hà
    trên lều thơ nhỏ
    có vườn hồng đỏ
    có dậu cúc vàng
    có giàn hoa lý
    có vồng rau lang
    em vào cõi đó
    xin bước dịu dàng
    vì lòng ta trải
    cả bông hoa vàng
    Cõi Thơ (Phạm Thiên Thư)

    Động Hoa Vàng của thi sĩ Phạm Thiên Thư cũng đã trải qua bốn mùa thơ mộng của đất trời mênh mông, và mùa thu là của hoàng cúc khai hoa nở nhụy:

    Ðất Nam có lão trồng hoa
    Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
    Lại đem bầu ngọc ra trồng
    Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân
    Động Hoa Vàng (Phạm Thiên Thư)

    Một nữ sĩ đã đem lại những màu sắc tươi sáng của bụi cúc vàng, của con bướm trắng, thể hiện những ước mong, khao khát bình dị khi đứng bên thềm ngong ngóng chờ thu đến, hồn chất ngất men say của "hoàng hoa tửu", cùng một tâm hồn đồng điệu với những thi nhân thời xưa uống rượu cúc ngắm hoa chào mừng ngày hội Trùng Dương:


    Có bụi cúc vàng bên hàng dậu
    Có con bướm trắng ngập ngừng bay
    Em đứng bên thềm chờ thu tới
    Rượu hoàng hoa chưa uống đã say.
    Hoàng Hoa (Trần Mộng Tú)


    Màu vàng của hoa cúc đã đem lại sự xao xuyến bồi hồi, màu hoa hình như cũng cảm thông với nỗi đa tình, thầm yêu trộm nhớ . Khi một người thơ thấy "áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc" và thiết tha hơn nữa khi yêu nàng, chàng về nâng niu trồng hoa cúc, như một hình dáng quen thuộc thân thương lúc nào cũng gần gũi đợi chờ:


    Liệu chàng còn yêu em
    Như ngày xưa mới gặp
    Chưa dám gọi tên nhau
    Đã nghe lòng say đắm
    Liệu chàng còn yêu em
    Như ngày xưa thơ dại
    Mùa thu áo em vàng
    Chàng về trồng hoa cúc
    Liệu Chàng Còn Yêu Em (Trần Mộng Tú)


    Hẹn hò, nhớ nhung, ước mơ, xao xuyến, rồi chia ly, ngăn cách như mùa thu vời vợi đã cất bước ra đi, để nhà thơ nhìn bông hoa cúc với những cánh mỏng rụng rơi, mà thầm thương tiếc, nhưng vẫn mong mỏi đợi chờ như một giấc mơ xa:


    ...mùa thu đã đi rồi
    Còn sót lại trên bàn bông cúc tím
    Bốn cánh tàn ba cánh sắp sửa rơi....
    (Hoàng Nhuận Cầm)


    Cúc đã đem lại một số cảm xúc lạ lẫm cho thi nhân, âm hưởng của hoa vẫn để lại một chút gì thương nhớ, còn in sâu trong tâm khảm, hay có thể chỉ là cơn gió đến rồi bay đi, cuốn đi trong cơn lốc lãng quên . Từ trong sâu thẳm của linh hồn, tình yêu "Cúc" (có thể là một bông hoa, hay là tên của cố nhân) "quanh năm mặc áo vàng hoa cúc , hoàng hậu yêu thương của mọi người" trở thành ấn tượng tuyệt vời vẫn vô tình lai láng chảy về một chân trời vô định . Cúc trong sáng, đẹp đẻ, tươi mát, đã đưa tình yêu lên ngôi thần tượng, thầm lặng tỏa hương ngan ngát làm xao động tâm hồn lãng mạn của thi nhân:


    Em yêu tất cả loài hoa tím
    tất cả loài hoa rưng rức buồn
    ai ướp lòng em hương thảo mộc
    em đi thơm ngát những con đường
    Có phải em từ một kiếp thu
    mắt xanh lấp lánh ngấn sương mù
    quanh năm mặc áo vàng hoa cúc
    hoàng hậu yêu thương của mọi người
    Em chứa trong tim triệu áng thơ
    từng lời nói mở những ước mơ
    tiếng em khoan nhặt nguồn âm nhạc
    thao thức lòng ai những đợi chờ
    Em hỡi em yêu...hỡi tiểu thư
    lòng tôi coi bộ đã hình như
    ánh trăng lấp ló bên song cửa
    ngắm mái tóc nằm trên áng thư
    Em hỡi em yêu...hỡi nữ hoàng
    áo em vàng chở nắng thu sang
    bàn tay mướt rượt nhành hoa tím
    tôi lạc thơ từ em liếc ngang
    Áo Vàng Hoa Tím (Lê Hân)


    Em ra đi như cánh chim trời bay vút giữa ngàn khơi, để lại ai với khoảng trống bao la, nhưng rồi "Hoa cúc trái mùa vàng đến quắt quay" bất chợt đem lại niềm an ủi, hy vọng, trong lời gọi thầm khe khẽ "hãy trở về nghe em" vì có lẽ hoa cúc bao dung, hoa cúc độ lượng vẫn luôn đem lại niềm tin yêu lay động hồn thơ:


    Biết giấu vào đâu hai tay đầy nhớ
    Những kẽ tay trơn vắng những ngón tay
    Hãy trở về, nghe em! chiều độ lượng
    Hoa cúc trái mùa vàng đến quắt quay
    Chim sẻ lạc bầy giọng chấp chới bay
    Cơn giông đã qua - chiều bơ vơ lại
    Em sẽ về dẫu rồi đi xa mãi
    Ta cũng bằng lòng như hoa cúc bao dung
    Viết Trên Những Chiều Buồn (Hoàng Anh Tú)


    Cúc đã đem lại sinh động tươi mát cho tình yêu, để cho người thơ phải đi tìm Cúc để đòi, và "yêu Cúc quá ... đến quên già" , tình yêu Cúc trong lòng thi sĩ , mang hạnh phúc muôn màu, ngồn ngộn sức sống, khó mà nhạt phai . Hoa và người đã đem lại mối quan hệ đẹp nghĩa tình, đắng cay, ngọt bùi và thấm thía:


    Cúc đã mùa chưa em, Cúc ơi
    Anh đi tìm Cúc đấy - để đòi
    Câu thơ tình đã vàng Thu lấy
    Lá ngại đền anh một... chiếc rơi
    Đừng hỏi tình anh sao nông nổi
    Anh yêu Cúc quá... đến quên già
    Lúc anh kịp nhớ mình bao tuổi
    Cúc với mùa Thu đã mãi xa
    Thơ gửi Cúc (Trương Nam Hương)


    Cúc đã đem lại cho mùa thu biết bao vẻ đẹp . Cúc tha thiết gắn bó với mùa thu , cúc hòa điệu giao cảm với mùa thu , đem lại bâng khuâng xao xuyến rạo rực cho thi nhân, người thơ đã chân thành bộc lộ trước hình ảnh trong sáng đẹp tươi của một loài hoa "thi khách trầm tư mơ dáng ngọc"


    Giữa nụ Cúc vàng Thu bưóc ra
    Bừng tươi lưng giậu , sáng sân nhà
    Thanh thanh vạt áo đan hương sớm
    Biêng biếc vành khăn cuộn nắng tà
    Thi khách trầm tư mơ dáng ngọc
    Người thơ ngơ ngẫn nhớ môi hoa
    Nầy Em... cổ khúc ngàn năm trước
    Xưa hẹn gieo vần.. có nhớ Ta ???
    Huyền Thoại (Vàng Anh)


    Xuân Quỳnh là một nhà thơ lãng mạn đã diễn tả tình yêu như một khát vọng chân tình, bồi hồi và tha thiết khôn nguôi . Cúc hoa là một hình ảnh duyên dáng, một nguồn cảm hứng trong thơ Xuân Quỳnh, hay là nhân dáng của chính người thơ, như sự bộc lộ chân tình của Lưu Quang Vũ, người bạn đời của Xuân Quỳnh: "Cảm ơn em, em từ miền cát gió, Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng" (LQV) . Hoa Cúc chính là biểu tượng đích thực của cái đẹp tinh tế, hồn nhiên trong vườn đời, đủ để Xuân Quỳnh phải tha thiết, vương vấn một cách rạo rực:


    Có thay đổi gì không cái màu hoa ấy
    Mùa hạ qua rồi lại đến mùa thu
    Thời gian đi màu hoa cũ về đâu
    Nay trở lại vẫn còn như mới mẻ
    Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế
    Chỉ em là đã khác với em xưa
    Nắng nhạt vàng, ngày đã quá trưa
    Nào đâu những biển chờ nơi cuối đất
    Bao ngày tháng đi về trên mái tóc
    Chỉ em là đã khác với em thôi
    Nhưng màu hoa đâu dễ quên nguôi
    Thành phố ngợp ngày nao chiều gió dậy
    Gương mặt ấy lời yêu thuở ấy
    Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em.
    Hoa cúc-1980 (Xuân Quỳnh)


    "Màu hoa vàng vẫn cháy ở trong em" tạo nên ngọn lửa tình yêu tha thiết nồng nàn, hứa hẹn khát khao trong trái tim yêu triền miên bát ngát như trùng dương, tưởng chừng như chỉ có biển bao la mới hiểu được lòng thuyền (Thuyền và Biển). Đó là tiếng gọi của sức mạnh tình yêu và chỉ có người thơ mới cảm thông với tình vô biên của cúc, để mà thao thức, suy tư " trăn trở nhiều đêm cùng hoa cúc " giữa màn sương khói chập chùng của khung trời thu bao la bát ngát.


    Vẫn con đường, vạt cỏ tuổi mười lăm
    Mặt hồ rộng, gió đùa qua ké lá
    Lời tình tự trăm lần trên ghế đá
    Biết lời nào giả dối với lời yêu...
    Tôi đã qua biết mấy buổi chiều
    Bao hồi hộp, lo âu và hạnh phúc
    Tôi trăn trở nhiều đêm cùng hoa cúc
    Đợi tiếng gà đánh thức sự bình yên
    Thơ Tình Cho Bạn Trẻ (Xuân Quỳnh)


    Trằn trọc thâu đêm, cũng vì hình ảnh đáng yêu của bông cúc vàng, với trí tưởng bay bổng, tự hỏi trong giấc mơ của người tình phương xa, có gắn bó, thầm thương trộm nhớ loài hoa này, như nghĩa tình quyến luyến khôn vơi "anh mơ anh có thấy em"...để suốt đời người thơ vẫn mãi đi tìm kiếm, dù chỉ là giấc mơ xa, một chút sắc nắng vàng nhè nhẹ trải dọc trước bờ hiên, đem lại hình ảnh sống động tượng trưng của loài hoa cúc “Người đã ra đi khi mùa chưa hoa cúc, và ta mơ hoang một sắc nắng vàng


    Anh mơ anh có thấy em
    Thấy bông cúc nhỏ nơi triền đất quê
    Chiếc mo rơi ở bờ tre
    Con sông thăm biển đã về rừng xưa
    Đám mây về với cơn mưa
    Con đường đi tới miền chưa có đường.
    Hát Ru (Xuân Quỳnh)


    Cúc lấp lánh vàng , đó là một sự pha màu hài hòa, đem lại sự sinh động tươi mát cho khung trời thu vốn ảm đạm, buồn hiu hắt . Sắc hoa cứ vàng tươi, hương hoa ngan ngát đong đưa "lùa trong áo" người tình tạo nên một mùa thu kỳ diệu, một mùa thu mẫn cảm của hương trời nhụy đất ngất ngây....Cái diệu ảo của hương, cái thanh tân của lá, sự quyến rũ của màu, trong cảnh lạ của trời thu, tất cả đều để lại dấu ấn khó nhoà phai trong cõi lòng sâu thẳm của thi nhân:


    Thu đến rồi sao, vàng lá múa
    Vàng bay lấp lánh mấy thu xưa
    Em đi hương cúc lùa trong áo
    Tay khoác lưng chiều thơm nắng mưa
    Mùa Lá Chín (Hà Huyền Chi)


    Tâm hồn thơ đầy hoài niệm để suốt đời ray rứt nhung nhớ, thương yêu, và hình ảnh của hoa cúc vàng vẫn gắn bó thủy chung "Hoa cúc và em quấn quýt tim người". Trời Thu Paris của thi sĩ Hà Huyền Chi đã mang một màu sắc gợi cảm, "lãng đãng men say" , để người thơ phải lạc bước chơi vơi giữa những liên tưởng dạt dào bay bổng. Những kỉ niệm nhẹ nhàng trôi theo nhịp điệu êm ái, cứ mãi xôn xao đong đầy nỗi nhớ mênh mang , ấm áp lòng người..


    Anh sẽ mãi nhớ vuông cửa sổ này
    Trời thu Paris lạnh ngắt mầu mây
    Mùa thu qua em lá vàng sắc bướm
    Khói thuốc như lòng lãng đãng men say
    Giọt cà phê xanh nhỏ vào tiếng hát
    Anh nhắp men thu thơm những ngày sương
    Mượn đỡ bờ vai ru đời tan tác
    Mái tóc hoan cười nụ biếc phong hương
    Vạt áo em bay thu vàng lối gió
    Hoa cúc và em quấn quýt tim người
    Mãi nhớ bờ vai, nhớ vuông cửa sổ
    Paris và thu cùng rớt xuống đời
    Paris Và Em (Hà Huyền Chi)


    "Đầu thu giọng bé vàng hoa cúc ,Ta ước ngây say đến cuối đời" ..... Hoa cúc vàng hay là hình ảnh cô bé ngây thơ là nguồn cảm xúc vô tận, mà tươi mát, nồng nàn cho thơ phải bật thốt thành lời, cho thi nhân ngây ngất trong từng khoảng đời, cho lời tự tình dội vang từng nhịp điệu trong không gian, thời gian vô tận, cho dù ẩn dấu ở nơi chốn nào trong dĩ vãng, hiện tại hay tương lai, của những ngày đầu đời hay đến cuối đời, để người thơ dựa vào đó và cảm thấy vơi đi "nỗi sầu xa xứ", và niềm vui bất chợt reo lên vì đã tìm thấy một tâm hồn đồng điệu "Ta uống từng lời ngọt ý môi, Nửa đời lận đận bỗng vèo trôi..." ...


    Bé nói cho đầy những tuổi xa
    Những lời tinh mật những lời hoa
    Những hơi thở ấm như men rượu
    Những tiếng cười chim lảnh lót ca
    Bé nói cho trời xuống thấp hơn
    Cho mây lang bạt tạm nguôi hờn
    Cho ta với nỗi sầu xa xứ
    Cơm áo phong trần bớt héo hon
    Bé nói cho ngày thâu ngắn đêm
    Cho ta với máy dịu dàng điên
    Dặm dài dốc mỏi chân cao thấp
    Nương chút ân tình để lãng quên
    Giọng bé đưa ta vào dĩ vãng
    Sông từng nhánh biếc chảy vào thơ
    Đong đưa nhịp võng ru ngày hạ
    Thoang thoảng chùm ngâu dỗ giấc trưa
    Ta uống từng lời ngọt ý môi
    Nửa đời lận đận bỗng vèo trôi
    Đầu thu giọng bé vàng hoa cúc
    Ta ước ngây say đến cuối đời
    Vàng Hoa Cúc (Hà Huyền Chi)


    Mùa thu với hoa cúc vàng là như thế, một thoáng hương linh diệu, nồng đượm từ đất sâu, tha thiết từ lòng cây, thăm thẳm trong hồn thi nhân, và bất chợt những nhánh thơ đâm chồi, nẩy lộc, đơm bông, thể hiện những ao ước trữ tình, những mộng mơ thầm kín, những kỷ niệm khó mờ phai trong tâm hồn của người đã một lần cất bước tình trăm năm, như một lời tâm sự gửi gắm từ buổi ban sơ, thẹn thùng và duyên dáng:


    Áo vàng hoa cúc phơi lưng dậu
    Sân gió hương lùa thơm ý thu .
    Ngày mai chị sẽ sang nhà khác
    Năm tháng mình em gói đợi chờ ...
    Em vẫn làm thơ chưa yêu đương
    Mùa thu tựa cửa chưa vội vàng
    Ngày mai chị sẽ sang nhà khác
    Em mặc áo vàng tiễn chị sang
    Em, một mình em tóc xõa sầu
    Mùa thu áo mỏng dệt hoa ngâu
    Môi chợt hồng lên và má ửng
    Thẹn thùng, vấn vương chuyện mai sau ..
    Chị ơi sao chị chẳng về thăm
    Em chị, hôm nay đã biết buồn
    Hồn nhiên năm cũ còn đâu nữa
    Mùa thu xa rồi hết ước mong ...
    Bài Thơ Mùa Thu -1960 (thơ Bích Huyền, nhạc Phạm Anh Dũng)


    Không ai có thể dửng dưng với mùa thu, khi nhìn thấy đóa cúc vàng, những màu hoa, sắc hoa, dáng hoa của những ngày xưa ngóng đợi ..như cất lên những lời đồng cảm với người thơ, những hoài niệm trong trí tưởng chừng như bật sáng ngời, mời mọc người thơ, bồi hồi không yên, thêm một lần dấn thân về vùng đất cũ, tìm lại chút hương xưa trong nỗi nhớ vô cùng ..


    Giữ gì tình ơi ? đôi mắt đưa
    Lạc thơ lạc cả hồn ngủ trưa
    Trở về đi giòng sông ngày cũ
    Có nhánh cúc vàng đợi hiên xưa .
    Vàng Phai (Ấu Tím)


    Về hiên xưa để tìm lại ... "cúc nở trong vườn em ...cúc nở xinh thật xinh, như vui mãi một mình, dù tình xưa mờ nhạt ..." Hình ảnh của "cúc nở xinh thật xinh" .. vẫn mãi là hình ảnh lung linh sống động, làm tươi mát cả khung trời tuổi thơ yêu dấu, dòng sông kỷ niệm ngọt ngào gợi nhớ, thiết tha bao ý tình. Hồi ức chứa chan tìm về vườn xưa, nơi đó là cả một khung trời yêu bỗng xao động, ngỡ ngàng, thổn thức trong âm điệu bâng khuâng, man mác buồn theo nỗi "nhớ nhung nào cho vừa, khung nhạc trầm run rẩy ..." :


    Cúc nở trong vườn em
    Giơ tay ! xin chớ hái
    Em sợ hoa cúc tàn
    Mùa Thu chùng tê tái
    Cúc nở xinh thật xinh
    Như vui mãi một mình
    Dù tình xưa mờ nhạt
    Cúc vẫn xinh thật xinh
    Cúc nở riêng một mình
    Cả khối tình rực rỡ
    Ánh nắng vàng lung linh
    Thinh không ngây bỡ ngỡ .
    Cúc nở bên rào thưa
    Nhớ nhung nào cho vừa
    Khung nhạc trầm run rẩy
    Cúc lặng thầm gió đưa...
    Hoàng Cúc (Ấu Tím)


    Trong sương lạnh của ban mai vào đầu thu, chút nắng sớm dịu dàng bám trên đọt cây kẽ lá của chậu cúc vàng, càng làm tăng thêm vẽ đẹp lộng lẫy của "nữ hoàng" .. đang thầm lặng tỏa hương ..


    Phải qua vườn trái cây
    Mà bỗng dưng thơm lạ
    Mùi hương nào khó quên
    Vương vất sau vòm lá
    Ôi! Bé dễ thương quá
    Trái cóc - hoa cúc vàng
    Bé đem theo trong giỏ
    Mùi hương bay lang thang
    Tôi lạc bước giữa đường
    Bởi mùi hương... con gái
    Thu qua là đông tới
    Nao nao cùng heo may...
    Bé Như Là Hoa Cúc (Trần Thị Khánh Hội)


    Dù bốn mùa có tuần tự đổi thay, nhưng lòng người vẫn thủy chung bất biến, vẫn ôm ấp hình ảnh của bông cúc vàng ăm ắp những nỗi nhớ khó nhòa phai của mùa thu hoài niệm "Tim anh đã niệm từ vàng cúc xưa"


    Mùa hè mọc cỏ may hồng
    Rằng em trời nắng phải lòng trời Thu
    mùa thu cúc trổ vàng như
    Tim hướng dương đã nở từ lòng anh
    Cuối thu người mộng áo xanh
    Em làm chim nhỏ bay quanh mắt chàng
    Ban ngày chim hót mây tan
    Ban đêm chim mộng ru ngàn lời thơ
    Ban ngày anh tỉnh giấc mơ
    Thấy ra rừng trúc tàn chờ Đông sang
    Mùa đông mưa có bạt ngàn ?
    Tim anh đã niệm từ vàng cúc xưa
    Trên trời lệ đổ giòng mưa
    Sông Ngân tháng bảy bây giờ là đâu ???
    thơ B.C.D.


    Những hoa cúc vàng như muốn đùa cợt với chút nắng vàng phơn phớt, không phải chỉ tô điểm cho hàng dậu, bờ rào, hiên nhà, con đường cỏ hoa ai đi ... nhưng hoa cúc còn là sắc màu trang điểm cho tà áo em bay, làm cho trái tim yêu phải rung lên ngàn cung bậc ..


    Hoa cúc vàng trước ngõ
    Ong thu về lượn quanh
    Ánh bình minh mời ngỏ
    Ngọn cỏ vẫn còn xanh
    Gió thu về man mát
    Thì thầm như gọi em
    Hương thu thơm ngan ngát
    Yên nằm giọt sương đêm
    Hoa cúc vàng đẹp lạ
    Ưỡn mình như ngóng ai
    Ong bướm bay muôn ngã
    Ngắm hoa vàng trang đài
    Gió heo may lành lạnh
    Thương mùa thu vừa qua
    Riu riu thổi nhè nhẹ
    Ánh nắng mai hiền hoà
    Thương Mãi Mùa Thu (Nguyên Đỗ)


    Cúc vẫn luôn đem lại những âm điệu triền miên, những cảm giác hòa nhịp với tâm tư thầm lắng, cái xôn xao khó tả của lòng người khi trời đã bắt đầu vào thu:


    Lại bắt đầu mùa thu
    Không lẽ gió cũng thở dài như thế
    Hoa cúc nở vào say mê cũ
    Những chấm lặng rực rỡ dở dang
    Đâu chỉ có mùa thu mới nhắc mình buồn
    Anh vẫn đâu đây trên thế gian nhưng không còn thuộc về em nữa
    Như heo may dẫu nồng nàn đến thế
    Mà biết đâu cúc vẫn nở trái mùa
    Hoa Cúc-1996 (Đường Hải Yến)


    Thu và hoa cúc đem lại sự nao nức cho lòng người, lay động hồn thơ, tạo những âm thanh lưu luyến, những cảm xúc bộc phát, tuôn tràn, có thể là những giọt lệ xót thương, tủi hờn cho riêng một thế giới có thể là thất vọng chia xa, nuối tiếc ngày xưa, hay hoài vọng mong ước gặp gỡ trong niềm hy vọng ngày mai chợt sáng. Thu và Cúc đã đem thơ đến những miền xa xăm và sâu thẳm của tâm hồn, tạo nên những tiếng nói kỳ diệu của con tim nhạy cảm:


    Có một loài Hoa trổ nụ vàng
    khi trời trở lạnh gió mùa sang
    e ấp ôm tình hương thu lạnh
    trao cả tình anh đón Cúc vàng ...
    Tình Hoa (Tuấn Đăng)

    Thu Sắp về rồi đó Cúc ơi !
    Hoa Vàng áo đẹp dáng em cười
    đêm nay trăng về treo đèn mộng
    nguyện ước ngàn sao sáng giữa trời
    Thôi em ! đừng để lệ anh rơi
    thương nhớ bao lâu đã đủ rồi
    thức dậy cùng anh so cung phím
    anh hát ru em mãi suốt đời ...
    Thu Vàng (Tuấn Đăng)



    Thế là hương ổi đi chơi
    Sông co mình lại, núi ngồi gầnh ơn
    Sẻ đồng tụ nóc cây rơm
    Ve ngưng hát, dế hãy còn rỉ rê
    Góc vườn hoa cúc vàng hoe
    Như từng đốm nắng mùa hè chưa tan...
    Sang Thu (Mai Văn Hai)


    Chân dung của tình nhân qua hình ảnh của hoa cúc vàng như một bức họa thân quen, tiềm ẩn trong tiềm thức của người thơ, xuất hiện đột ngột, bất ngờ đem lại nhiều thi vị ngạc nhiên, lạ lùng, trong trí tưởng của người thơ:


    bèo dạt mây trôi...
    em ơi anh vẫn đợi...
    Chẳng là em phía bên kia bếp lửa
    Tách trà thơm không ấm nổi gian phòng
    Cánh hoa cúc rũ buồn rơi rất nhẹ
    Tiếng chim nào kêu lạc giữa tầng không
    Vắng em rồi phía bên kia bếp lửa
    Tiếng bập bùng tí tách cũng thôi vui
    Bên Kia Bếp Lửa (Phan Vinh Nguyen)

    Nhìn lá vàng anh ngỡ là hoa cúc
    Thu đã về anh cứ tưởng Xuân sang
    Vì nuối tiếc ngày xanh qua vội quá
    Soi hồ Thu ánh mắt thấy ngỡ ngàng
    Thu Cảm (Tân Văn)

    Vài đoá Cúc vàng nở sớm mai
    Long lanh nhành lá hạt sương cài
    Đất trời cảnh sắc như vàng dát
    Một thoáng thu về, chợt nhớ ai
    Thu Sớm (Thái Bình Nam)


    Cúc tần là loại hoa hình ống màu tím, thường mọc ở đồng cỏ, bờ đê, hàng rào. Màu tím dịu dàng của dậu cúc tần đã đem lại những cảm giác bâng khuâng ngỡ ngàng vì hoa có thể là hình ảnh, bóng dáng của một giai nhân nào đó đã ngự trị trong tâm hồn thi nhân, phải chăng "người là hoa của đất" (tục ngữ), nhìn hoa nhớ người, yêu người, để rồi một mai kia gặp cảnh bẽ bàng, người đã sang ngang ..."Em giờ ... là của người ta, Của riêng tôi ... một giậu hoa cúc tần" để mà nhớ mà thương mãi một bóng hình xa xôi ngàn trùng ...


    Ngày xuân bên giậu cúc tần
    Chiều mưa em đứng bần thần đợi tôi
    Thế rồi năm tháng cứ trôi
    Giậu xanh ngày ấy, khoảng trời thu sang .
    Ngày tôi tạm biệt xóm làng
    Em tròn mười tám nhẹ nhàng bước chân
    Chia tay bên giậu cúc tần
    Em rằng năng đến đỡ đần mẹ tôi
    Thế rồi cách trở xa xôi
    Bờ cây ngày ấy ai người đợi ai
    Bây giờ trúc đã quên mai
    Mẹ tôi già yếu nào ai đỡ đần ?
    Và ... cho đến một ngày xuân
    Có người thiếu phụ dừng chân cổng nhà .
    Em giờ ... là của người ta
    Của riêng tôi ... một giậu hoa cúc tần
    Của riêng tôi: phút tần ngần ...
    Bên Giậu Cúc Tần (Nguyễn Ðại Nghĩa)





    I'd choose to be a daisy

    I'd choose to be a daisy
    If I might be a flower
    Closing my petals softly
    At twilight's quiet hour
    And waking in the morning
    When fall the early dew
    To welcome Heaven's bright sunshine
    And Heaven's bright tear-drops too.
    Anonymous Author


    Xin được làm cúc trắng

    Nếu tôi hóa kiếp đời hoa
    Xin làm cúc trắng thướt tha dịu mềm
    Trầm tư cảnh vắng chiều êm
    Dịu dàng khép cánh màn đêm thẫn thờ
    Vầng dương chợt động cơn mơ
    Ánh mai hé mở như chờ đợi hoa
    Lung linh những hạt sương sa
    Cùng tia nắng mới chan hòa niềm vui
    Bỗng dưng xao xuyến ngậm ngùi
    Hồn hoa thổn thức khung trời lệ rơi...
    Hải Đà




    Cúc và Hàn Mạc Tử

    Thi sĩ Hàn Mạc Tử có nhiều bài thơ trữ tình đậm đà tha thiết với một bóng hình của một giai nhân có tên là Hoàng Cúc. Đây là chuyện tình có thật, dù là song phương hay một chiều, nhưng hình ảnh của kiều nữ có tên là Hoàng Thị Kim Cúc đã là động cơ đưa đến sự xúc cảm cho hồn thơ Hàn Mạc Tử tuôn trào thành những giai điệu lãng mạn ngợi ca một bông hoa biết nói có tên là Hoàng Cúc. Bài thơ Hồn cúc đã nói lên mối tình tha thiết của chàng: "


    Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường
    Không dám sờ tay sợ lấm hương
    Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá
    Muốn ôm hồn cúc ở trong sương.
    Hồn Cúc (Hàn Mặc Tử)


    ... Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn chay trường, trở thành cư sĩ, sống cuộc đời lặng lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn Mặc Tử in tập Gái quê, là tập thơ mới đầu tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ Đường luật. Mặc Tử mang theo một số tập ra Huế, và gặp lại Hoàng Cúc trong dịp hội chợ nhưng không dám tặng. Mặc Tử cũng tìm đến Vỹ Dạ - nơi ở của Hoàng Cúc - nhưng chỉ đứng ngoài cổng một lúc rồi bỏ đi. Nhiều năm sau đó, hai người không còn liên lạc gì với nhau. Một hôm, Hoàng Cúc nghe tin Mặc Tử bị bệnh phong, liền gửi thư thăm hỏi. Quá cảm động, Mặc Tử đã sáng tác bài Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng nàng. Chuyện tình Hoàng Cúc - Hàn Mặc Tử cũng có những điều gây tranh cãi như trường hợp Mộng Cầm. ...." (tài liệu của Phan Tâm) .

    Người và hoa, hoa và người, có những gắn bó mật thiết, là những hòa hợp giữa hình ảnh, âm thanh, hương vị và màu sắc, đã là chất liệu xúc tác mạnh mẽ cho những bài thơ của Hàn Mạc Tử ngợi ca cái vẽ đẹp thanh tao, duyên dáng, đậm đà và nồng nàn cho loài hoa mang tên người yêu:


    Thích trồng hoa cúc để xem chơi
    Cúc ngó đơn sơ, lắm mặn mòi.
    Đêm vắng gần kề say chén nguyệt
    Vườn thu vắng vẻ đủ mua vui
    Trồng hoa cúc (Hàn Mạc Tử)


    Trong Đường Thi cổ xưa, thi sĩ Đào Tiềm đã tìm đến hoàng cúc như một người bạn tâm giao tri kỷ, thì thì sĩ Hàn Mạc Tử cũng tha thiết ôm bóng hình của Hoàng Cúc, như một người tình trong mộng, chập chờn ẩn hiện trong những dòng thơ cổ điển man mác, đến nao lòng.. "trong đời tri kỷ chỉ riêng ta" ..


    Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa
    Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha
    Vẻ mặt khác chi người quốc sắc
    Trong đời tri kỷ chỉ riêng ta
    Vịnh hoa cúc (Hàn Mặc Tử)


    Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mạc Tử đã được khởi nguyên từ mối tình của thi nhân với Hoàng Cúc, với vẻ đẹp huyền ảo, như thơ như mộng .Theo tài liệu của nhà văn Trần Thanh Địch, bạn thân của thi sĩ Hàn Mạc Tử :"mối tình của nhà thơ với Cô Hoàng Thị Kim Cúc hồi ở Qui Nhơn những năm 1932-1933. Ông thân sinh cô Cúc là viên chức Sở Đạc Điền và Hàn Mạc Tử cũng làm việc ở đó rồi bỏ đi làm báo vài năm ở Sài Gòn, khi Hàn Mạc Tử trở ra Qui Nhơn thì cô Kim Cúc đã về Huế ở thôn Vĩ Dạ . Ít lâu sau, biết Hàn Mạc Tử bị bệnh nan y, có người em họ gợi ý, Cô Cúc gửi cho Hàn Mạc Tử một tấm bưu thiếp thăm hỏi sức khỏe, và Hàn Mạc Tử gửi bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ đáp lại với lời cám ơn"


    Mơ khách đường xa, khách đường xa
    Áo em trắng quá nhìn không ra...
    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà?


    Diễm lệ tình em tạo dáng nhung
    Bừng lên khai điệu khúc thu trùng
    Trầm tư một thuở rừng thay lá
    Hương sắc hoàng hoa thấm mộng trung
    E ấp đồi mơ sương hé nụ
    Môi thơm hoàng phái ngát triều cung
    Lung linh ánh nguyệt đêm sầu tận
    Thổn thức đàn hoa tiếng thủy chung ..
    Hải Đà



    Hoa cúc tiềm ẩn một sức sống bền bĩ, một vóc dáng thanh tao, ung dung và điềm đạm . Cúc đem lại những màu sắc tưoi mát, rực rỡ tô điểm cho mùa thu vốn thê lương ảm đạm. Cúc như muốn phà hơi thở hồi sinh, mầm sống cho tiết trời, gieo niềm hoan lạc cho đời sống và con người trong mọi nghịch cảnh, làm ấm áp lòng người. Cúc khi tàn, các cánh lại càng gắn bó khăng khít bền chặt với nhau, tượng trưng cho tình chung thủy, luôn tha thiết mặn nồng, dẫu cho đời dâu bể thăng trầm. Con đường cúc hoa trải thảm đường thi, ngan ngát hương thu, man man xao xuyến, đủ để giao động hồn thơ . Cúc không riêng là tri kỉ của người muôn năm trước, cúc vẫn luôn là tri âm của mọi người khi trời se se lạnh, bắt đầu vào thu ... Hình ảnh cao quí của cúc luôn đằm thắm, gần gũi trong lòng thi nhân, ẩn hiện trong những giấc mơ lãng mạn qua những áng thơ ca trữ tình diễm tuyệt ..


    Có phải em là nữ chúa Thu ?
    Khai nhan lộng lẫy chốn sa mù
    Muôn loài hoa khác tiêu điều dáng
    Chỉ một mình em nét đặc thù
    Ngạo nghễ dưới trời sương tuyết phủ
    Kiêu sa trước cuộc sống phù du
    Đào Tiềm một thuở tìm tri kỷ
    Chỉ có hoàng hoa sánh trượng phu
    Hoàng Hoa (Hải Đà)



    Thu sầu dạo khúc thê lương
    Nỗi buồn từ thuở ly hương lưu đày
    Mơ quê xa lắc đường dài
    Hoa vàng chợt thấy gửi ai đôi lời
    Gió sương ngạo nghễ hoa cười
    Mặc thu tàn úa, vẫn tươi thắm ngàn
    Cha xưa yêu đóa cúc vàng
    Lòng con ly xứ muôn vàn nhớ Cha
    Hải Đà



    Hải Đà-Vương Ngọc Long

    (Ghi chú: Những bài thơ trích dẫn trong bài viết này nếu có gì lầm lẫn hoặc thiếu sót, xin tác giả hoặc độc giả vui lòng email về : vuonghaida@yahoo.com This e-mail address is being protected from spam bots, you need JavaScript enabled to view it , chúng tôi sẽ xin sửa sai lại. Trân trọng cám ơn. Hải Đà)
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 05-12-2010, 06:59 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Sầu Thu: ý Cúc tình Thơ

    Sầu Thu: ý Cúc tình Thơ


    Hải Đà - Vương Ngọc Long



    Hoa Cúc Trong Đường Thi



    Hoa muôn màu muôn sắc là món quà Thượng Đế ban cho con người để tô điểm cuộc sống, làm đẹp cho bức tranh thiên nhiên bốn mùa, qua những đường nét gợi cảm, những màu sắc tinh tế, vóc dáng đa tình, hương thơm ngào ngạt, thêm những biểu tượng độc đáo của từng loài hoa, như muốn thổ lộ tâm tình, nỗi niềm riêng tư nào đó…"ước gì nổi gió hây hây, để cho hoa đấy lòng đây thơm cùng" ..(bài ca dân gian Trăm Hoa) .

    Nói đến những loài hoa quí, được nhân gian ưa chuộng nhiều, người ta thường nói đến bộ "tứ bình" (bức tranh treo ở bốn phía quanh nhà) , gồm có bốn loại hoa: Mai, Lan, Trúc, Cúc . Hoặc nói về "tứ quí" người ta muốn ám chỉ đến bốn loại cây cảnh : Tùng, Cúc, Trúc, Mai . Người xưa yêu hoa Cúc vì đó là loài hoa biểu lộ đặc tính : "diệp bất ly chi, hoa vô lạc địa" , lá không rụng khỏi cành, hoa cũng chẳng lìa thân, dù héo rũ tàn khô, vẫn luôn bám lấy cành như người quân tử đầy chí khí suốt đời theo đuổi lý tưởng chân chính của mình.


    Hoa Cúc biểu tượng cho tinh thần thanh cao của những kẻ sĩ muốn lánh xa vòng tục lụy . "Cúc ngạo hàn sương", cúc vẫn hiên ngang ngạo nghễ đâm hoa kết nhánh mặc cho sương tuyết lạnh giá bao trùm, mặc cho khí thời khắc nghiệt vây quanh, cúc vẫn mang nét điềm đạm ung dung, cúc vẫn vương mình đứng thẳng giữa phong trần, thách thức với bao nỗi đoạn trường gian truân của thế sự nhân tình:


    Tiếu ngạo hàn sương phô cốt cách
    Khai nhan diệu sắc kháng thu thâm
    Cúc Đảm Ngạo Hàn Sương (Hải Đà)


    (Hoa cười kiêu ngạo giữa sương lạnh, luôn giữ phong cách cao thượng
    Mở mặt vui tươi màu sắc lộng lẫy như muốn thách thức thu già)



    Cúc trong Đường Thi Trung Quốc

    Bàn về hoa cúc trong đường thi, các tao nhân mặc khách thường nhắc nhở đến thi sĩ Đào Tiềm. Đào Tiềm là nhà thơ đời Tấn, tự Uyên Minh, tính tình cao thượng, phóng khoáng, không cầu cạnh lợi danh, ông được đề cử nhậm chức quan ở Bành Trạch (người đương thời thường gọi ông là Đào Bành Trạch), nhân cuối năm có một viên đốc bưu về kiểm tra công việc, và nha lại khuyên ông ăn mặc chỉnh tề ra đón. Ông than "ta há vì năm đấu gạo mà cong lưng vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi xóm sao ?", bèn treo ấn từ quan, và ông đã làm bài "Quy khứ lai từ" để bày tỏ ý chí của mình, trong đó có hai câu:

    Tam kính tựu hoang,
    Tùng cúc do tồn
    (Đường ra lối nhỏ vườn hoang
    Chen nhau tùng cúc xếp hàng đợi đây)

    Đào Tiềm thành ẩn sĩ , cuộc đời đối với ông chỉ là "vân vô tâm nhi xuất tụ" (mây hờ hững bay ra khỏi hốc núi), tâm hồn ông không còn bị xáo trộn, chi phối bởi ngoại cảnh, nhân tình thế sự, ông chỉ thích làm bạn với thiên nhiên, vui thú điền viên, trong cảnh nghèo, và đặc biệt là ông rất thích trồng cúc, làm bạn với hoa cúc, và thường bắc ghế trúc ngồi bên dậu đàm đạo với hoa hàng giờ, như muốn trang trải gửi gắm tâm hồn cùng tri âm . Trước sân nhà ông trồng năm cây liễu, nên người ta cũng thường gọi Đào Tiềm là "Ngũ Liễu Tiên Sinh" . Cứ đến ngày Trùng Dương (ngày lễ hoa cúc 9-9), ông cùng bạn bè bầy rượu bên mấy dậu cúc để thưởng hoa, ngâm vịnh, ca hát … “hái cúc dưới giậu đông, thơ thới nhìn núi nam” (Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn)

    Kết lư tại nhân cảnh,
    Nhi vô xa mã huyên.
    Vấn quân hà năng nhĩ ?
    Tâm viễn địa tự thiên.
    Thái cúc đông ly hạ,
    Du nhiên kiến nam sơn.
    Sơn khí nhật tịch giai,
    Phi điểu tương dữ hoàn.
    Thử trung hữu chân ý,
    Dục biện dĩ vong ngôn.
    (Ẩm Tửu Thi - Đào Uyên Minh)

    Cảnh phồn hoa dựng túp lều
    Màng chi thế sự dập dìu ngựa xe
    Cớ sao ta được vậy hề
    Bởi lòng thanh thản nghĩ về trời xa
    Dậu đông hái cúc vàng hoa
    Núi nam thơ thới lòng ta cảm hoài
    Sườn non khí lạnh chiều rơi
    Chập chờn thấy bóng chim trời bay cao
    Ý thành từ cảnh thanh tao
    Sao không nói được lời nào riêng mang
    (Hải Đà cảm dịch)

    "Hoa cúc trác việt siêu phàm. Đào Tiềm, thi nhân đời Tấn, từng thốt rằng: "Thu cúc hữu giai sắc, ấp lộ chuyết kỳ anh, phiếm thử vong ưu vật, viễn ngã di thế tình" -Hoa cúc mùa thu có sắc đẹp, phơi lộ nét anh tú, khiến ta quên tình buồn, lánh xa tình đời" (Tứ Quân Tử Trong Hội Họa Trung Quốc-Lê Anh Minh)

    Nhớ tích xưa Đào Tiềm trồng hoa cúc và yêu hoa nhất mực, thậm chí luyến thương lá cúc khô mà vẫn bám cành "diệp bất ly thân" không chịu rụng! Tất cả nói lên sự thủy chung, tình nghĩa gắn bó suốt đời của mỗi cá nhân với nguồn cội sinh thành, đất mẹ vườn cha của tình máu mủ ruột thịt.

    Hoa cúc đã được các thi sĩ thời Đường, Tống Trung Hoa đưa vào thơ văn như Vi Ứng Vật với những bài thơ điềm đạm trầm mặc, thuần thục giản dị, ít lời nhiều ý, thường diễn tả tâm tình nhàn hạ, như bài thơ "Hiệu Đào Bành Trạch" (bắt chước Ông Đào Bành Trạch):

    Sương lạc tụy bách thảo
    Thì cúc độc nghiên hoa
    Vật tính hiểu như thử
    Hàn thử kỷ nại hà !
    Xuyết anh phiếm trọc giao
    Nhật nhập hội điền gia
    Tận túy mao thiềm hạ
    Nhất sinh khởi tại đa ?
    Hiệu Đào Bành Trạch (Vi Ứng Vật)

    Sương rơi cỏ xác xơ tàn
    Chỉ mình cúc nở hoa vàng thắm tươi
    Trên đời muôn vật thế thôi
    Mặc cho nóng lạnh tiết thời đổi thay
    Ngắt hoa ngâm với rượu này
    Cùng chung bạn hữu đêm nay xum vầy
    Thềm tranh cụng chén mà say
    Sá chi thế sự đời nay chẳng màng !
    (Hải Đà phỏng dịch)

    Hoàng Sào (?-884), người Sơn Đông, năm Càn Phủ Đường, Hy Tông thứ 2 (875) cùng Vương Tiên Chi lãnh đạo nông dân khởi nghĩa, trước sau trên mười năm, có lần đánh phá kinh đô Trường An . Là một lãnh tụ nông dân nổi tiếng thời cổ đại Trung Quốc, thi hỏng mà có chí lớn, ông thường dùng hoa cúc để tự ví mình, ý nói tính can trường bất khuất, giống như hoa cúc ngạo nghễ dưới trời sương tuyết phủ, trong khi bao loài hoa khác đều tàn úa, ngầm nói lên ý chí quyết tâm của ông muốn lật đổ triều Đường :

    Táp táp tây phong mãn viện tài
    Nhị hàn hương lãnh điệp nan lai
    Tha niên ngã nhược vi Thanh đế
    Báo dữ đào hoa nhất xứ khai
    Đề cúc hoa (Hoàng Sào)

    Vườn hoa gió thổi bời bời
    Hương tàn nhụy rũ bướm thời khó qua
    Chúa Xuân nếu được là ta
    Sang năm ta bảo đào hoa nở cùng
    (Hải Đà phỏng dịch)

    Hoàng Sào có lần đã dẫn 60 vạn đại quân, đánh hạ ải Đồng Quan. Vương triều Đường sợ hãi lúng túng, Đường Hi Tông mang phi tần chạy trốn đến Thành Đô, Các quan lại triều Đường không kịp chạy trốn toàn bộ phải ra thành đầu hàng. Chiều hôm ấy, Hoàng Sào ngồi kiệu vàng, được các tướng sĩ vây chung quanh tiến vào thành Trường An. Trăm họ dân chúng trong thành giắt già bồng trẻ, đứng chật hai bên đường chào đón. Hoàng Sào lên ngôi hoàng đế, quốc hiệu gọi là Đại Tề. Quân khởi nghĩa trải qua bảy năm đấu tranh cũng dành được thắng lợi, nhưng cuộc khởi nghĩa cuối cùng bị thất bại, do nội bộ chia rẽ, và Hoàng Sào bị bộ hạ giết. Ít nhất Hoàng Sào đã thực hiện được giấc mộng trong thơ :" từng đợt hương ngút trời thấu suốt Trường An, khắp thành đều mặc áo giáp vàng (trích giai thoại Giấc mơ Hoa Cúc- tác giả Hoài Anh)

    Đãi đắc thu lai cửu nguyệt bát
    Ngã hoa khai thời bách hoa sát
    Xung thiên hương trận thấu Trường An
    Mãn thành đái tận hoàng kim giáp
    Cúc Hoa (Hoàng Sào)

    Chờ thu tháng chín về nơi
    Hoa ta nở rộ hoa người tàn phai
    Trường An hương ngút ngập trời
    Người mang áo giáp vàng chơi khắp thành
    (Hải Đà phỏng dịch)

    Đỗ Phủ là một nhà thơ lớn, một đại thụ sừng sững trên thi đàn Trung Quốc. Ông đã trải nghiệm qua bao thăng trầm trôi nổi trong cuộc sống, nên thơ của ông phong phú đa dạng, thanh điệu nhẹ nhàng, hiện thực trữ tình, phát xuất từ đời sống khốn khổ cơ hàn của chính bản thân ông và của tha nhân bằng chính mắt thấy tai nghe hàng ngày. Ngôn ngữ thơ ông bộc phát sự chân thành tha thiết, lòng nhân đạo trắc ẩn, nên dễ gây sự xúc động nơi người đọc.
    Nói đến hoa cúc là nói về mùa thu, cúc và thu như hình với bóng, nhà thơ Đỗ Phủ nhìn thấy chòm cúc nở dưới trời thu lạnh mà lệ thầm tức tưởi buông rơi nhớ quê nhà "tùng cúc lưỡng khai: tha nhật lệ" .... Ông đã sáng tác 8 bài Thu Hứng nổi tiếng, trong những năm cùng cực gần cuối đời, mà còn phải gối đất nằm sương , một mình ngâm nga "mao ốc vi thu phong sở phá ca" (bài hát gió thu thổi tốc mái nhà tranh" trong nghẹn ngào tức tưởi ..

    Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
    Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
    Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
    Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
    Tùng cúc lưỡng khai: tha nhật lệ,
    Cô chu nhất hệ: cố viên tâm.
    Hàn y xứ xứ thôi đai xích,
    Bạch đế thành cao cấp mộ châm.
    Thu Hứng (Đỗ Phủ)

    Sương ngọc điêu tàn cây lá phong
    Âm u Vu Giáp lạnh như đồng
    Đất trời tiếp tiếp non cùng nước
    Mây gió ùn ùn núi với sông
    Tùng cúc hai lần rơi lệ uất
    Đò đơn một độ khóc quê ròng
    Thấu xương cơn rét cần may áo
    Bạch Đế chày buông tiếng chập chùng
    Hải Đà phỏng dịch

    Trong một bài thơ thu khác nói về ngày hội "trùng dương" , ngày lễ của hoa cúc thay vì cùng bạn bè uống rượu, thưởng hoa, đàm đạo thi ca, nhà thơ Đỗ Phủ lại "độc chước bôi trung tửu", lời lẽ chân thành tha thiết bộc lộ tâm sự xót xa, vất vả đắng cay của bản thân, cảnh buồn theo lòng người quay quắt: " lá trúc cùng người than phận lỡ, cúc vàng thuở đó chẳng đơm hoa..."

    Trùng dương độc chước bôi trung tửu
    Bảo bệnh khởi đăng giang thượng đài
    Trúc diệp vu nhân kí vô phận
    Cúc hoa tòng thử bất tu khai
    Thù phương nhật lạc huyền viên khốc
    Cố quốc sương tiền bạch nhạn lai
    Đệ muội tiêu điều các hà tại
    Can qua suy tạ lưỡng tương thôi
    Cửu Nhật Ngũ Thủ, Tuyển Nhứt (Đỗ Phủ)

    Trùng dương, rượu trút, một mình ta
    Khổ bệnh, sông dài, dấn bước qua
    Lá trúc cùng người than phận lỡ
    Cúc vàng thuở đó chẳng đơm hoa
    Tha phương vượn khóc tà dương xế
    Quê cũ nhạn về sương sớm sa
    Em gái phương nào thân tá túc ?
    Bệnh căn, loạn lạc, nhiễu phiền t
    Ngày Chín, Năm Bài Lựa Một (Hải Đà phỏng dịch )


    Những bài thơ tả cảnh của Đỗ Phủ rất sinh động tự nhiên, không đẽo gọt tỉ mĩ, mà lại thanh thoát, nhẹ nhàng lưu loát, ý tứ dạt dào xen lẫn hình ảnh đẹp thi vị, ngân vang âm điệu tràn đầy ..."thềm sân móc trắng sương rơi, phủ đầy hoa cúc giữa trời mênh mang.."

    Quang tế huyền sơ thướng
    Ảnh tà luân vị an
    Vi thăng cổ tái ngoại
    Dĩ ẩn mộ vân đoan
    Hà Hán bất cải sắc
    Quan sơn không tự hàn
    Đình tiền hữu bạch lộ
    Ám mãn cúc hoa đoàn
    Sơ nguyệt (Đỗ Phủ)

    Ánh mờ trăng mới nhú lên
    Nghiêng nghiêng bóng đổ chênh vênh ráng trời
    Dần lên cửa ải chơi vơi
    Mây chiều núp bóng nửa vời xa xa
    Nguyên màu một dãi ngân hà
    Quan san giá lạnh buốt da khí thời
    Thềm sân móc trắng sương rơi
    Phủ đầy hoa cúc giữa trời mênh mang
    Trăng Non (Hải Đà phỏng dịch)

    Vương Duy là một bậc tài hoa của Trung Hoạ, ông vẽ rất đẹp, trong tranh của ông là một bài thơ, và trong thơ là một bức tranh.Ông còn tinh thông âm nhạc, giỏi đàn tì bà . Vương Duy rất sùng mộ đạo Phật, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngôn ngữ, tư tưởng, và phong cách thơ của ông .Bài thơ "Tảo Thu Sơn Phong Các" ông viết để an ủi người bạn thân thiết là Bùi Dịch, làm quan bị dèm pha nên vua cách chức, nên phải bỏ vào rừng sâu ẩn dật. Ông đã dùng hình ảnh của Đào Lịch (tức là Đào Tiềm), người bạn tri kỷ của hoa cúc, đã một thời không chịu nhục treo ấn từ quan , và hình ảnh ẩn dụ của Thượng Tử Bình ngày xưa khi đọc kinh Dịch đến quẻ Tốn than rằng: "giàu không bằng nghèo mà không lo lắng" và sau đó ông từ quan đi ngao du sơn thủy .

    Vô tài bất cảm luỵ minh thì
    Tứ hướng đông khê thủ cố li
    Khởi yếm Thượng Bình hôn giá tảo(1)
    Khước hiềm Đào Lệnh khứ quan trì (2)
    Thảo gian cung ưởng lâm thu cấp
    Sơn lý thiền thanh bạc mộ bi
    Tịch mịch sài môn nhân bất đáo
    Không lâm độc dữ bạch vân kỳ
    Tảo Thu Sơn Trung Các (Vương Duy)

    Thời thịnh phiền chi kẻ bất tài
    Đông Khê hướng cũ nhắm đi hoài
    Thượng Bình đâu kém tình gia thất
    Đào Lệnh hiềm thua bỏ chức tài
    Cỏ rậm dế rền thu vội đến
    Non cao ve trỗi điệu bi ai
    Thềm tranh quạnh quẽ người không viếng
    Hò hẹn mình ta mây trắng bay
    Thơ Làm Trong Núi Buổi Đầu Thu (Hải Đà phỏng dịch)


    Bàn về hoa cúc là phải nói đến ngày hội Trùng Dương đã được nhắc nhở nhiều trong Đường thi . Trùng dương còn gọi là "trùng cửu" tức là tiết ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch, ngắm hoa uống rượu "cúc hoa tửu". Đó là thứ rượu ủ với cánh hoa cúc, khi hoa sắp tàn người ta mang nhặt bỏ những cành lá mà chỉ lấy toàn cánh hoa ủ với men rượu và một chút nước, đến năm sau vào đúng ngày Trùng Dương tức là mồng chín tháng chín mới mang ra uống. "Rượu đây vui với bạn đường, nâng ly thưởng hội trùng dương quên đời","Trùng dương hẹn lại chốn này, ngắm hoa cúc nở vui thay cảnh đời".
    Hoa cúc và ngày lễ Trùng Dương đã là đề tài được nhiều nhà thơ Đường ngâm vịnh:

    1-
    Trùng Dương tịch thượng phú bạch cúc
    Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng,
    Trung hữu cô tùng sắc tự sương.

    Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch,
    Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường.
    Bạch Cư Dị


    Tiệc Trùng Dương,vịnh hoa cúc trắng
    Vàng hoe cúc nở đầy vườn
    Một chòm trắng tựa như sương lạc loài
    Khác chi bàn tiệc sớm mai

    Giữa thanh niên trẻ chen vai cụ già
    Hải Đà phỏng dịch

    2-
    Cửu Nhật Tề Sơn Đăng Cao
    Giang hàm thu ảnh nhạn sơ phi
    Dữ khách huề hồ thướng thúy-vi

    Trần thế nan phùng khai khẩu tiếu
    Cúc hoa tu sáp mãn đầu qui
    Đãn tương minh-đính thù giai tiết
    Bất dụng đăng lâm hận lạc huy
    Cố vãng kim lai chỉ như thủ
    Ngưu-sơn hà tất độc triêm y *
    Đỗ Mục
    (*Ngưu sơn : núi ỏ nước Tề, đời Xuân thu, Tề-cảnh-Công lên núi trông về cố quốc mà khóc)


    Lên Núi Tề Sơn Ngày Trùng Dương
    Sông Thu lồng bóng nhạn mong manh
    Bầu bạn thong dong cảnh sắc xanh
    Thế tục buồn vương, môi héo nụ

    Đường về cúc giắt, bước dồn nhanh
    Mong sao cảnh đẹp, vui cùng rượu
    Chẳng phí trèo non, cảm nắng hanh
    Sự thế xưa nay trời đất chuyển
    Cớ gì lên núi đứng buồn tênh
    Hải Đà


    3-
    Thu Đăng Lan Sơn Ký Trương Ngữ
    Bắc-sơn bạch vân lý
    Ẩn giả tự di duyệt

    Tương vọng thí đăng cao
    Tâm tùy nhạn phi diệt
    Sầu nhân bạc mộ khởi
    Hứng thị thanh thu phiết
    Thời kiến qui thôn nhân
    Sa hành độ đầu yết
    Thiên biên thụ nhược tì
    Giang bạn châu như nguyệt
    Hà đương tái tửu lai
    Cọng tùy trùng dương tiết*
    Mạnh Hạo Nhiên

    Mùa Thu Lên Núi Lan Sơn làm thơ tặng Trương Ngữ
    Núi cao mây trắng giăng đầy
    Người u cư sống tháng ngày ung dung
    Lên non nhìn xuống mịt mùng

    Gửi lòng theo cánh nhạn trùng bay xa
    Sầu nghiêng nghiêng bóng chiều tà
    Trời thu biếc ngọc chan hòa ý thơ
    Ai về thôn xóm thẫn thờ
    Dừng chân biển cát, ngồi chờ bến sông
    Hàng cây xanh đứng đợi mong
    Sông quê in bóng nguyệt lồng soi gương
    Rượu đây vui với bạn đường
    Nâng ly thưởng hội trùng dương quên đời

    Hải Đà phỏng dịch

    4-
    Tràng An Thu Tịch
    Vân vật thê lương phất thự lưu
    Hán gia cung khuyết động cao thu

    Tàn tinh kỷ điểm nhạn hoành tái
    Tràng địch nhất thanh nhân ỷ lâu
    Tử diễm bán khai ly cúc tĩnh
    Hồng y lạc tận chử liên sầu
    Lô ngư chính mỹ bất qui khứ
    Không đái nam quan học Sở tù
    Triệu Cổ


    Đêm Thu Tràng An
    Ảm đạm trời thu điểm ánh thiều
    Hán Cung lồng lộng gió phiêu phiêu
    Lưa thưa sao sớm vờn chân nhạn

    Réo rắt lầu khuya lộng sáo diều
    Cúc nở hoa phô vườn thắm sắc
    Sen tàn nhụy úa bến đìu hiu
    Sông quê mùa cá, chưa về xứ
    Đày đọa phương người, phận hẩm hiu

    Hải Đà phỏng dịch

    5-
    Quá cố nhân trang
    Cố nhân cụ kê thử
    Yêu ngã chí điền gia

    Lục thụ thôn biên hợp
    Thanh sơn quách ngoại tà
    Khai hiên diện trường phố
    Bả tửu thoại tang ma
    Đãi đáo trùng dương nhật
    Hoàn lai tựu cúc hoa.
    Mạnh Hạo Nhiên


    Qua Trại Của Bạn Cũ
    Cơm gà bạn cũ mời ta
    Thong dong vườn ruộng quê nhà ghé chơi
    Quanh làng cây cỏ xanh tươi

    Thành xưa bóng núi biếc ngời soi nghiêng
    Vườn rau xanh mát ngoài hiên
    Dâu tằm chuyện gẫu, bạn hiền cùng say
    Trùng dương hẹn lại chốn này
    Ngắm hoa cúc nở vui thay cảnh đời
    Hải Đà phỏng dịch


    6-
    Trùng Dương
    Tiết vật kinh tâm lưỡng mấn hoa
    Đông ly không nhiễu vị khai hoa

    Bách niên tương bán sĩ tam dĩ
    Ngũ mẫu tựu hoang thiên nhất nha
    Khởi hữu bạch y lai bác trác
    Nhất tòng ô mao tư y tà
    Chân thành độc toạ không bao thủ
    Môn liễu tiêu tiêu táo mộ nha

    Cao Thích

    Ngày Trùng dương
    Cảnh ngắm lòng kinh tóc bạc phơ
    Dậu đông chưa nở cúc ven bờ
    Ba phen nhậm chức đời gần cạn

    Năm mẫu vườn hoang đất xa mờ
    Áo trắng ai đây phường quấy nhiễu
    Mũ đen ta đó ngả thân chờ
    Một mình vò tóc ngồi ngơ ngác
    Khóm liễu chiều kêu tiếng quạ ô

    Hải Đà phỏng dịch

    7-
    Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ức Sơn Đông Huynh Đệ
    Độc tại dị hương vi dị khách
    Mỗi phùng giai tiết bội tư thân

    Dao tri huynh đệ đăng cao xứ
    Biến sáp thù du thiểu nhất nhân
    Vương Duy


    Ngày 9 Tháng 9 Nhớ Anh Em Sơn Đông
    Quê người lạ lẫm một mình ta

    Tết nhớ người thân mãi thiết tha
    Vẫn biết anh em lên núi thẳm
    Thù du thiếu giắt một người xa*
    Hải Đà phỏng dịch

    *Thù du thiếu giắt một người xa:
    ý nói tác giả vì phải làm thân ly khách, nơi đất lạ quê người, nên Tết Trùng Dương này không cùng với bạn bè ở phía đông núi Hoa Sơn (Sơn Đông) lên núi bẻ nhánh thù du. Ngày xưa tiết Trùng Dương 9/9, người ta hay tổ chức hội hè yến ẩm, ở nhà uống rượu cúc, khi đi chơi núi thường giắt lá thù du vào người với niềm tin là để tránh tai nạn, gọi là "kỵ tà". Thù du là loại cây thuốc có mùi thơm, giống cây tiêu dùng làm vị cay.






    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 12-01-2011, 05:04 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom