• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Phạm Hầu - một tài thơ trong quá khứ

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Phạm Hầu - một tài thơ trong quá khứ

    Phạm Hầu (1920-1944) - một tài thơ trong quá khứ


    Vân Long

    Trên vòm trời thơ Việt, mỗi nhà thơ chỉ xẹt ngang trời như một vì sao đổi ngôi, để lại vài tia hồi quang đã là điều may mắn. Một trong những vì sao đó: thi sĩ Phạm Hầu, người gốc Điện Bàn, Quảng Nam, sinh năm 1920, đã từng học trường Quốc học Huế và trường Mỹ thuật Đông Dương.

    Sinh thời, ông chỉ có một số bài thơ in báo Tao Đàn và Mùa gặt mới. Nhờ mắt xanh của hai ông Hoài Thanh - Hoài Chân, tên ông đã được ghi vào thi sử Thi nhân Việt Nam. Nếu không có cuốn sách này, chắc chắn lớp độc giả ngày nay không thể biết Phạm Hầu là ai. Thơ in sách thì còn thọ lâu, thơ in báo là dễ… “hồng nhan bạc phận”.

    Dù có bài Chiều buồn và Vọng hải đài, người đọc lại chỉ nhớ có Vọng hải đài, lùi xa nữa, lại chỉ nhớ hai câu:

    Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
    Chẳng biết xa lòng có những ai?

    Hai câu đó thành cái neo của con tàu Phạm Hầu neo vào lòng người đọc. Cảm giác vũ trụ mênh mang vẫy tay vào vô tận phải đứng trên đài cao Vọng hải với một tâm hồn thi sĩ mới có được. Tôi đã từng dùng bộ óc duy lý để thắc mắc ý nghĩa của câu thứ hai Chẳng biết xa lòng có những ai?

    Tri kỷ tri âm tìm mới khó, mới phải đặt ra câu hỏi như vậy, còn (cách mặt) xa lòng thì đầy rẫy, việc chi Phạm Hầu phải hỏi. Nhà thơ Tế Hanh từng giải thích cho tôi: Theo cách hiểu của người miền Trung: xa lòng có nghĩa là người một lòng với mình mà phải xa cách.

    Câu thơ hay có cái lạ là toàn bộ tiết điệu, hơi thở, cảm xúc của nhà thơ chiếm lấy ta, ám ảnh ta ngay khi ta chưa kịp hiểu trọn vẹn ý nghĩa. Trước khi nghe anh Tế Hanh giải thích, hai câu ấy đã xâm chiếm tôi với sự cảm nhận không khác anh Tế Hanh là mấy.

    Nhân nhắc đến Phạm Hầu, anh Tế Hanh có nhắc đến cái chết thê thảm của nhà thơ: trước Cách mạng thành công ít lâu, ông bị mật thám Pháp bắt ở Hà Nội, bị đánh đến trọng thương sọ não, bị giam vào nhà thương Vôi. Ông bị chết dọc đường trên tàu hoả khi mật thám Pháp giải ông về quê Quảng Nam.

    Nhà thơ Tế Hanh tuy chưa được gặp Phạm Hầu, vẫn cảm thông một tài thơ yểu mệnh, đã viết một bài báo về Phạm Hầu sau khi ông chết. Anh có nhắc đến một số câu thơ của Phạm Hầu in trên báo Bạn Đường, một tờ báo xuất bản ở Thanh Hoá (1944) theo trí nhớ:

    Trong đày ải mình trần tê ngọn lửa
    Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn

    Hai câu cuối bài này vằng vặc trong tâm tưởng nhà thơ Tế Hanh, nhất là khi mắt nhà thơ đã không còn đọc được sách, anh chỉ bạn cùng ký ức với những câu thơ thuộc tự thiếu thời:

    Nếu tôi đau, trời đẹp, nếu tôi đau
    Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau!

    Thơ Phạm Hầu lúc nào cũng đau đáu một nỗi cô đơn. Hình tượng sự cô đơn cao thượng của Prométhée lấy lửa của trời bị chim ác rỉa thịt thật kiêu hãnh! Đó là ngọn lửa cách mạng ông góp phần mang lại cho nhân dân, sẵn sàng nhận sự tra tấn tù đày của thực dân Pháp. Nếu còn sống, hẳn ông đã đứng trong hàng ngũ thơ kháng chiến, thơ cách mạng như các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…

    Tôi được tiếp xúc với nhà thơ Phạm Hầu nhiều hơn ở dạng bản thảo (26 bài) khi được anh Hoàng Minh Nhân cho xem do anh sưu tầm được trước khi xuất bản. Hoá ra sau nửa thế kỷ câu hỏi Chẳng biết xa lòng có những ai? vẫn có lời đáp, sau Tế Hanh là Hoàng Minh Nhân, là những độc giả đọc bài báo này và tập Vẫy ngoài vô tận (Nxb Thanh Niên 6-2001).

    Tôi từng cảm tác câu thơ Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư của thiền sư Không Lộ:

    Một tiếng tâm linh ngàn tiếng vọng
    Khoảng không hoá đá tạc thơ Người.

    Nếu thực là tiếng tâm linh, tâm huyết thì có thể tạc cả lên khoảng không như tạc vào đá vậy!

    Ngoài tấm lòng yêu nước, ông vẫn mang tâm hồn lãng mạn như bao nhà thơ thời ấy. đọc Chiều buồn, thấy một vẻ buồn sang trọng:

    Buồn len lỏi trên đầu cây, thi vị
    Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi

    Càng quý sự tinh tế của Hoài Thanh - Hoài Chân. Hai ông thấy tâm hồn thơ Phạm Hầu mảnh mai, e dè, khiêm nhường “ở giữa đời, Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để lại dấu trên đường…” đến mức hai ông không thể cảm nhận được khi tạp chí Tao Đàn in thơ Phạm Hầu bằng thứ chữ in to đậm. Hai ông còn cho rằng Vọng hải đài chính là đài lòng của Phạm Hầu, thi sĩ đứng trên điểm cao đó để thẩm định mọi mây sớm gió chiều qua lại.
    Khép lại Chiều buồn, thi sĩ thấy:

    Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cội

    Và chỉ chờ một duyên cớ, một tác động nhỏ nào đó cũng đủ cho hai nhánh sầu đó hoà tan thành suối lệ:

    Khi giọt sương âu yếm nhỏ lên người
    Nàng và tôi là hai dòng lệ nối

    Phạm Hầu lớn lên trong nhịp sống mòn mỏi đến tẻ nhạt, là người có học, ông càng cố gắng tìm hiểu về nơi mình sẽ đến, nhưng ông không chỉ gặp một sự trống vắng:

    Tôi theo tư tưởng vô cùng tận
    Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu
    Sáng sớm rạng đông, chiều chạng vạng
    Những giờ mới lạ có bao nhiêu?

    (Lý tưởng)

    Con người bơ vơ ấy từng thấy hé một chân trời, nhưng trong hoàn cảnh ngặt nghèo, chỉ có thể gợi ra như một biểu tượng:

    Giữa trưa bơ vơ
    Sầu chi không rõ
    Tôi làm câu thơ
    Mà vần cũng đỏ
    Ai đọc thơ tôi
    Đóng giùm cửa ngõ
    Trời xanh của tôi
    Muốn đầy hoa đỏ

    (Màu đỏ đang rung)

    Nhưng dù lý tưởng của ông là thế nào, lý do tồn tại của ông cho đến hôm nay, vẫn vì ông là thi sĩ Phạm Hầu, ông tồn tại với tư cách người sáng tạo ra những câu thơ, bài thơ ghi được vào lòng người đọc, những hạt ngọc góp cho kho tàng thi ca đất nước:

    Ngập ngừng ai vẫn qua êm nhẹ
    Một cái nhìn hương, chỉ thế thôi!

    (Mộng cù lao)

    Cái nhìn người đẹp toả hương ư? Hay nhẹ như hương?

    Thẫn thờ lá trúc rưng rưng lệ
    Như mắt đa tình lúc tiễn đưa

    (Vọng lâu)

    Sau này trong Cuộc chia ly màu đỏ, Nguyễn Mỹ cũng coi lá như mắt:

    Nắng còn ngời trên những mắt lá si

    Nguyễn Mỹ có thể chưa đọc hai câu thơ trên để bị ảnh hưởng, nhưng người đi bước trước, vẫn là Phạm Hầu.

    Lá không chỉ là mắt, với ông, lá còn là chữ của cây, của nhà thơ:

    Cái cây thi sĩ vô tình đã
    Biên những dòng thơ lá bẽ bàng

    (Y Lan)


    Sức liên tưởng phong phú cùng với tri thức hội hoạ của Phạm Hầu giúp ông tạo nên những câu thơ kỳ diệu:

    Nàng khóc bằng tay trên phím ngà
    Những ngón tay dài như lệ sa

    (Dạ Nhạc)

    Có cái nhìn rõ để phân tích, lại có cách nhìn nhoè đi, chỉ để gây cảm giác, quệt một mảng màu trên vải:

    Ai về lướt thướt trong đêm trắng

    (Nhớ tự nhiên)

    Xưởng hoạ - thơ của thi sĩ không phải lúc nào cũng chỉ một gam màu dịu nhẹ. Có lúc ông cũng ấn tượng và dữ dội:

    Trăng cháy sau màn cây đỏ ối
    Máu bầm của một vết thương đau

    (Sầu thương)

    Từ hai bài thơ Chiều buồn và Vọng hải đài trong Thi nhân Việt Nam, nay qua cả tập thơ, ta đã hình dung được khái quát một diện mạo của thi sĩ Phạm Hầu.

    (Phụ bản thơ - Báo Văn nghệ)
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.
    Similar Threads
  • #2

    Thơ Phạm Hầu

    Vọng Hải đài

    Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
    Thềm son từng bước gót vân hài.
    Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
    Giây phút dừng chân Vọng Hải đài.

    Cơn gió nào lên có một chiều
    Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
    Tháng ngày đi rước tương lại
    Làm rã chân thành sắp sửa xiêu

    Trống trải trên đài du khách qua
    Mây ngày vơ vẩn, gió đêm tà,
    Muôn đời e hãy còn vương vấn
    Một sắc không bờ trên biển xa

    Lòng xiêu xiêu hồn nức hương mai,
    Rạng đông về thức giấc hoa nhài.
    Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
    Chẳng biết xa lòng có những ai?
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3

      Thơ Phạm Hầu

      Chiều Buồn

      Tôi đã dám cầu xin hai giọt lệ
      Trên mi nàng huyền bí vẻ say mê.
      Cho điệu buồn man mác tự đâu về
      Đưa ngọn cỏ theo chiều mây lặng lẽ

      Cho tôi được nghiêng kề nàng thỏ thẻ
      Vì lời yêu rên siết ẩn trong tôi
      Chỉ khi buồn mây mới thoáng qua thôi
      Mà hương lệ đó là trang sổ quí.

      Buồn len lỏi trên đầu cây thi vị
      Gieo lệ vàng trên ngấn nắng chiều trôi;
      Tôi kề nàng môi chạy kiếm làn môi,
      Lời tôi lặn trên môi nàng rúng động.

      Yêu đương đến tất cả chiều mơ mộng
      Buồn nhẹ nhàng trong làn gió thu không,
      Buồn mơn man trên đầu tóc rối bòng
      Và vơ vẩn bên đôi người vô tội.

      Nàng và tôi, nhánh sầu chung rễ cội,
      Kề vai tôi khi lệ với chiều rơi,
      Khi giọt vương âu yếm nhỏ lên người,
      Nàng và tôi là hai giòng lệ nối.
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 12-01-2011, 11:01 PM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4

        Thơ Phạm Hầu

        Lý Tưởng
        Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân,
        Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần.
        Một cột đèn cao mơ góa bụa,
        Đường dài toan nối hận gian truân.
        Tôi theo tư tưởng vô cùng tận,
        Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu.
        Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng,
        Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
        Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm.
        Giờ không mơ bướm lại mơ thơ.
        Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc,
        Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
        - Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
        Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn.
        Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện,
        Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.
        Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
        Dẫu xa, xa cách mấy phương trời.
        Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
        Phung phí đời tôi mấy độ tươi.

        (Bạn Đường, số 24, ngày 4 tháng 4 năm 1942)
        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        • #5

          Thi Nhân Việt Nam - Hoài Thanh * Hoài Chân - Trang giới thiệu Phạm Hầu

          Phạm Hầu

          --- Hoài Thanh - Hoài Chân ---



          Con quan nguyên thượng thư Phạm Liệu. Sinh ngày 2 -3-1920 ở Trừng Giang, phủ Điện Bàn (Quảng Nam). Học trường Quốc học Huế, trường Mỹ thuật Hà Nội.
          Đã đăng thơ: Tao đàn, Mùa gặt mới

          Lần đầu tôi xem thơ Phạm Hầu trên tạp chí Tao đàn, những bài thơ in bằng thứ chữ chắc chắn, đậm nét. Lần ấy tôi bỏ qua. Hôm nay đại khái cũng những bài thơ ấy tôi lại thích. Sự thay đổi đó tôi tin rằng một phần cũng vì những bài tôi xem hôm nay đều do tác giả chép bằng một lối chữ khác hẳn lối chữ Tao đàn ngày trước. Những chữ mảnh khảnh, nhỏ nét, nằm trên trang giấy như còn e thẹn, ngập ngừng. Lối chữ này đã giúp tôi hiểu Phạm Hầu dễ dàng hơn. Ở đời có những người nói to bước vững. Phạm Hầu quyết không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi. Người còn mải sống với mình và con người ta tưởng không có gì là một người vô vạn. Lòng người là một vọng hải đài, người chỉ việc đứng trên đài lòng mà nghắm: Qua lại thiếu gì mây sớm gió chiều. Một buổi trưa bình yên người thấy:

          Có cái gì chuyển thay đây với đó,
          Một cái gì lên xuống mãi không thôi.
          Lắng càng lâu càng nghe mãi xa xôi...
          Một tiếng nhẹ trong tiếng nào nhẹ nữa.


          Cho đến khi yêu, người vẫn ưa nhìn lòng mình hơn nhìn nhan sắc người yêu:

          Gặp tình cờ song chẳng biết vì đâu.
          Chân em trắng vậy mà lòng anh lạnh.


          Cái màu trắng kia tưởng ở trong lòng người thơ nhiều hơn là trên chân người đẹp.
          Thơ như thế mà in ra bằng một thứ chữ chắc chắn, rõ nét thì thực lệch lạc cả. Hồn thơ là một cái gì rất mong manh, có khi chỉ một tí cũng đủ làm tiêu tan hết. Không lẽ mỗi bài thơ - không, mỗi câu thơ - in một thứ chữ, nhưng phải như thế mới có nghĩa.

          Tháng 10 - 1941



          nguồn: Thi Nhân Việt Nam
          ----------------------------

          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

          Comment

          • #6

            Nhà thơ tiền chiến Phạm Hầu

            Bùi Thụy Đào Nguyên Biên Soạn

            Phạm Hầu (2 tháng 3 năm 1920 – 3 tháng 1 năm 1944) hay Phạm Hữu Hầu (tên ghi trong gia phả) là nhà thơ tiền chiến Việt Nam.

            Ông sinh ở Gò Nổi, xã Trừng Giang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
            Cha ông là Tiến sĩ Phạm Liệu, người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan đến chức Tổng đốc Nghệ An và Thượng thư bộ Binh dưới các triều vua Thành Thái, Duy Tân, Khải Định và Bảo Đại. Mẹ ông là bà Lê Thị Giảng, người Thanh Hóa.

            Lúc nhỏ, Phạm Hầu học trường Quốc Học Huế, sau ra Hà Nội học tại trường Mỹ thuật Đông Dương (nay là Đại học Mỹ thuật Việt Nam).
            Do mắc chứng bệnh động kinh, ông nằm điều trị tại nhà thương Vôi ở Bắc Giang một thời gian rồi được chuyển về quê nhà, nhưng khi tàu hỏa đến đoạn Đồng Hới (Quảng Bình) - Huế, thì ông mất, hưởng dương 24 tuổi. Hôm ấy, là ngày 3 tháng 1 năm 1944.

            Kể về chuyến trở về của Phạm Hầu, sách Việt Nam thi nhân tiền chiến, (Quyển 2) viết: Phát giác ông mất, người soát vé bắt buộc người thân đi theo phải đem xác ông xuống ga Truồi (Huế). Từ nơi đó, người nhà thuê thuyền đưa ông về Huế rồi an táng trên một đồi nhỏ, sau một ngôi chùa cổ ở vùng Nam Giao. Và để tiễn biệt một linh hồn cô đơn đi vào nơi yên nghỉ cuối cùng, người ta chỉ nghe đôi câu kinh, vài tiếng thút thít trong một chiều mưa gió thê lương...


            Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2), về hội họa, ông đã được tặng thưởng trong kỳ triển lãm hội họa tại Tokyo (Nhật Bản); về thơ, ông làm không nhiều (vỏn vẹn chỉ có khoảng 20 bài), thường đăng thơ trên các tạp chí Tao Đàn, Mùa gặt mới, Bạn đường...

            Năm 2001, nhà xuất bản Thanh Niên đã cho xuất bản thơ ông, tập thơ có tên Vẫy ngoài vô tận do Hoàng Minh Nhân biên soạn.

            Nhận xét về nhà thơ Phạm Hầu, trong Thi nhân Việt Nam có đoạn:

            ...Ở đời có những người nói to bước vững. Phạm Hầu quyết không phải trong hạng ấy. Ở giữa đời Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường đi. Người còn mải sống với mình và con người ta tưởng không có gì là một người giàu vô vạn. Lòng người là một vọng hải đài, người chỉ việc đứng trên đài lòng mà ngắm: "Qua lại thiếu gì mây sớm gió chiều..."

            Và ở trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2):

            Có thể nói, Phạm Hầu là hình ảnh kết tinh của một tâm hồn thơ và lòng yêu chuộng nghệ thuật. Tuy thơ ông rất ít, nhưng không thể lấy số lượng đánh giá trị thi nhân...Vì bài nào của ông cũng đều có một chiều sâu và chứa đựng một triết lý nhân sinh.

            ...Là một nghệ sĩ, tâm hồn ông thường hay rung cảm một cách bén nhạy...Mới chỉ trong cái tuổi đôi mươi mà ông đã quyết định mang theo bên mình một hoài bảo to lớn. Đấy là một cứu cánh toàn hảo, một tuyệt đích tình yêu, một tột cùng của nghệ thuật; nói gọn, đấy là cái Chân, Thiện, Mỹ vậy. Và có lẽ ít có người nghệ sĩ nào quá trân trọng bóng thiều quang như ông. Với ông, thời gian của kiếp đời mình cũng như vò nước. Từng giọt, từng giọt nhỏ dần…cho nên thi nhân không dám phung phí, luôn tự thúc giục mình trong công việc sáng tạo, để có thể lưu lại một cái gì trước tuổi 30.

            Giới thiệu thơ:

            Thơ ông thường buồn. Cái buồn của thi nhân cứ gờn gờn lên từng hồi, như bài Chiều buồn chỉ 20 câu mà đã lập lại 5 chữ buồn. Tương tự, bài Vọng lâu cũng chỉ 20 câu, tác giả cũng đã “ buồn” 8 lần. Hai thi phẩm sau đây, tuy không có chữ buồn, nhưng người yêu thơ vẫn có thể cảm nhận được nỗi cô đơn, đau đớn và ray rứt trong thơ ông…


            Lý Tưởng

            Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân,
            Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần.
            Một cột đèn cao mơ góa bụa,
            Đường dài toan nối hận gian truân.

            Tôi theo tư tưởng vô cùng tận,
            Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu.
            Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng,
            Những giờ mới lạ có bao nhiêu?

            Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm.
            Giờ không mơ bướm lại mơ thơ.
            Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc,
            Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.

            - Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
            Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn.
            Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện,
            Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.

            Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
            Dẫu xa, xa cách mấy phương trời.
            Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
            Phung phí đời tôi mấy độ tươi.

            (Bạn Đường, số 24, ngày 4 tháng 4 năm 1942)


            Vọng hải đài

            Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
            Thềm son từng bước gót vân hài.
            Hỡi ôi! Người chỉ là du khách
            Giây phút dừng chân Vọng hải đài.

            Cơn gió nào lên có một chiều
            Ai ngờ thổi tạt mối tình kiêu
            Tháng ngày đi rước tương lại
            Làm rã chân thành sắp sửa xiêu.

            Trống trải trên đài du khách qua
            Mây ngày vơ vẩn, gió đêm tà,
            Muôn đời e hãy còn vương vấn
            Một sắc không bờ trên biển xa.

            Lòng xiêu xiêu, hồn nức hương mai,
            Rạng đông về thức giấc hoa nhài.
            Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
            Chẳng biết xa lòng có những ai?

            (Tao đàn)


            Bùi Thụy Đào Nguyên, giới thiệu.

            Sách tham khảo:
            -Hoài Thanh & Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam. Nxb Văn học in lại năm 1988, tr. 159.
            -Nguyễn Tấn Long & Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển 2). Nxb Sống Mới, Sài Gòn, 1968, tr. 91-95.
            ----------------------------

            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

            Comment

            Working...
            X
            Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom