• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Con cháu những người nổi tiếng

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Con cháu những người nổi tiếng





    Con cháu vua Thành Thái


    Ở một nơi heo hút thuộc xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, ngoại ô thành phố Cần Thơ, trong căn nhà tranh vách lá có một vị hoàng thân. Đó là ông Nguyễn Phước Bảo Tài, cháu nội vua Thành Thái.
    Các phóng viên gặp vợ chồng ông Bảo Tài (ngang hàng với Hoàng tử Bảo Long con vua Bảo Đại) khi ông đang ngồi ăn chung một dĩa cơm với vợ trong chiếc quán nhỏ đối diện chợ An Bình, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Có lẽ, trong số các hậu duệ của nhà vua yêu nước Thành Thái, người cháu nội tên Bảo Tài là nghèo khó nhất. Hằng ngày ông phải chạy xe ôm, còn vợ thì đi bán vé số để mưu sinh.

    Hoàng gia lưu lạc

    Cách nay khoảng 6 năm, ông Bảo Tài cùng vợ là bà Nguyễn Bích Thủy rời ngôi nhà có đến 3 thế hệ cùng chung sống (Hoàng tử Vĩnh Giu, ông Bảo Tài và con ông Bảo Tài), trong một con hẻm nhỏ trên đường Phan Đình Phùng, quận Ninh Kiều, về quê vợ ở xã Nhơn Nghĩa, huyện Phong Điền, Cần Thơ, mượn đất cất nhà ở tạm cho đến bây giờ.
    Căn nhà tranh vách lá của vị hoàng thân này rộng chừng 20m2, nằm khuất trong một xóm nghèo. Nhà không có gì đáng giá ngoài vài vật dụng của gia chủ, trong đó có cặp nạng gỗ mà Bảo Tài đã dùng khi bị tai nạn nghề nghiệp gãy chân hơn một năm trước. Kệ thờ được chắp vá từ những miếng gỗ vụn, đặt trang trọng hai bức ảnh vua Thành Thái lúc ngài còn tại ngôi và khi bị đày ra đảo Réunion. Cạnh đó, phía tay trái là ảnh Hoàng phi Chí Lạc. Bên dưới là ảnh "Hoàng tử" Nguyễn Phước Vĩnh Giu - một trong 9 người con của vua Thành Thái và Hoàng phi Chí Lạc.
    Theo một số tài liệu về dòng họ Nguyễn Phước, sau khi trả tự do cho gia đình cựu hoàng Thành Thái trở về nước, chính quyền Pháp đã dùng thủ đoạn tách riêng mỗi người một nơi.
    Năm 1949, Hoàng tử Vĩnh Giu bị đưa xuống Cần Thơ làm đốc công trong đội cầu đường thuộc ty Giao thông Công chánh. Năm 1951, ông kết hôn với bà Lý Ngọc Hóa, quê gốc Cần Thơ, sinh được 7 người con, trong đó có Bảo Tài. Để có tiền nuôi các con, ngoài giờ làm việc ban ngày, hằng đêm ông Vĩnh Giu còn đi làm nhạc công trong các quán bar tại Cần Thơ.
    Chính quyền Pháp vẫn luôn tìm cách gây khó khăn nên các con của Hoàng tử Nguyễn Phước Vĩnh Giu (ngang hàng với vua Bảo Đại tức Nguyễn Phước Vĩnh Thụy) không ai được học hành đến nơi đến chốn.
    Năm 1975, ông Vĩnh Giu thôi làm đốc công ở ty Giao thông Công chánh vì đã già rồi, đem gia đình về sống nương nhờ nhà mẹ vợ trong một con hẻm trên đường Phan Đình Phùng. Tại đây, ông Vĩnh Giu làm nghề sửa xe đạp để mưu sinh.
    "Hoàng thân" Bảo Tài kể lại: "Trong nhà khi ấy cả con lẫn cháu có đến gần 20 người nhưng chỉ anh hai Bảo Bồi là có việc làm ổn định, còn các anh em khác đều chạy xe ôm hoặc đi làm thuê. Không có tiền mua xe, nhiều người phải mướn xe để chạy. Năm 2007, cha tôi mất, hai năm sau thì anh Bảo Bồi cũng theo ông".
    Đến nay, những người trong gia đình Nguyễn Phước ở Cần Thơ đã dần dần vượt qua khó khăn nhờ con cháu họ đã lớn lên, có việc làm, riêng ông Bảo Tài hằng ngày vẫn phải kiếm sống nhờ chiếc xe ôm. Chiếc xe tuy cũ nhưng là phương tiện mưu sinh duy nhất của ông. Đó cũng là quà tặng của một vị khách đến thăm gia đình ông.

    Vấn đề là mình chứ không phải mình xuất thân từ đâu
    Hoàng thân Bảo Tài sinh năm 1964, đến năm 2004 (40 tuổi) mới lấy vợ và sinh được một con gái đặt tên Nguyễn Phước Thanh Tuyền. Thanh Tuyền nay hơn 5 tuổi, có gương mặt thật đẹp nhưng bệnh tật từ khi mới lọt lòng. Bảo Tài nói đó là nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời ông. Giờ ông cũng không hiểu chính xác căn bệnh của con mình, chỉ nghe bác sĩ bảo là suy não.
    Thanh Tuyền dường như thiếu khả năng tư duy và đi lại, thỉnh thoảng bé bị co giật, té ngửa. Ông Bảo Tài cho biết lúc chào đời bé chỉ cân nặng 0.9kg. Bác sĩ khuyên phải chăm sóc bé bằng chế độ dinh dưỡng đặc biệt mới hy vọng bé phát triển bình thường, nhưng vợ chồng ông đầu tắt mặt tối cũng không đủ ăn, làm sao lo cho con một chế độ dinh dưỡng đặc biệt! Có lần nghe người ta nói về một loại sữa bột bổ não gì đó, ông cũng muốn cho con dùng thử nhưng khi đến tiệm, đành tiu nghỉu trở về vì không đủ tiền.
    Bà Nguyễn Bích Thủy ôm con vào lòng, nghẹn ngào: "Chúng tôi bận đi kiếm ăn nên phải gửi cháu cả ngày cho người dì giữ hộ. Cháu vẫn nhận thức được nhưng chậm, đôi khi muốn nói vài từ đơn giản cũng phải hồi lâu mới cất tiếng nổi. Do không thể chơi đùa nên cháu chỉ thích ngồi coi tivi. Hơn tháng trước, cháu phát bệnh mà trong nhà không có tiền, nhìn đi nhìn lại chỉ còn chiếc tivi, chồng tôi đành mang đi cầm lấy 200 ngàn đồng để mua thuốc. Người ta biết hoàn cảnh của chúng tôi nên mới cầm giùm chứ chiếc tivi đó có bán cũng chẳng được tới 200 ngàn".
    Một lần nhìn con bị bệnh tật hành hạ, ông Bảo Tài không chịu nổi nên đã làm đơn tìm đến Sở Lao Động-Thương Binh-Xã Hội thành phố Cần Thơ xin được giúp đỡ. Sở này gởi hồ sơ về xã. UBND xã Nhơn Nghĩa mời ông lên gặp và đề nghị gia đình chọn một trong 3 giải pháp: đem Thanh Tuyền lên tuyến trên điều trị; cho bác sĩ đến nhà chữa bệnh; hoặc nhận trợ cấp hằng tháng.
    Cân nhắc thật kỹ, cuối cùng vợ chồng ông Bảo Tài bàn nhau chọn giải pháp thứ ba tức nhận tiền trợ cấp để mua thuốc men và sữa cho con. Nhưng chờ hoài mà vẫn không có, ông rầu rĩ: "Cách nay hơn một tháng, cán bộ xã đến thông báo rằng vợ chồng tôi còn sức lao động, chưa khó khăn đến nỗi phải giải quyết trợ cấp nên xã không trợ cấp. Tôi buồn lắm nhưng cũng đành chịu vậy thôi".
    Ở Cần Thơ, rất ít người biết ông Bảo Tài là con Hoàng tử Vĩnh Giu và là cháu nội của vua Thành Thái, vị vua sinh ra vua Duy Tân tức anh ruột Hoàng tử Vĩnh Giu, cả hai vị vua đều nổi tiếng về lòng yêu nước, chống Pháp nên bị Pháp truất phế rồi đày sang đảo Réunion vào tháng 11/1916 là một hòn đảo nhỏ ở Ấn Độ Dương. Thậm chí, ông Bảo Tài kể rằng có lần một tờ báo đăng tin ông là cháu nội vua Thành Thái và gọi vua Duy Tân bằng bác ruột, khi ông đậu xe Honda ở bên lề đường đón khách, có nhiều người qua lại nhìn ông lom lom rồi thì thầm với nhau: "Chạy xe ôm mà là con cháu vua chúa à? Cháu vua sao khổ dữ vậy?"...
    Hoàng thân Bảo Tài chưa bao giờ nói đến chuyện thân thế hoàng tộc hoặc than vãn về cuộc sống nghèo khổ của mình. Bởi vì ông nghĩ rằng cha và bác mình cũng xuất thân hoàng tộc mà có bao giờ được sống trong cảnh nhung lụa đâu? Vua Thành Thái không nhận ngôi biệt thự mà Pháp xếp đặt cho ngài trên đảo Réunion để ra ngoài sống một cuộc sống đơn giản, bình thường của kẻ đi đày.
    Ông Bảo Tài tâm sự: "Tôi nghĩ vấn đề là mình chứ không phải mình xuất thân từ đâu. Tất nhiên tôi rất tự hào về các bậc tiền nhân của mình và tự nhủ phải sống sao cho xứng đáng với các bậc đó. Ông nội tôi, vua Thành Thái, và bác tôi, vua Duy Tân, đều là những người nổi tiếng, không chịu khuất phục trước kẻ thù, không màng ngôi vua dưới sự áp chế của Pháp, vậy thì dù là một anh chạy xe ôm đi nữa tôi cũng phải sống xứng đáng với các vị đó”. Ông Bảo Tài còn bộc bạch rằng có lẽ ông nghèo vì không bắt kịp thời đại nhưng lịch sử thì vẫn mãi mãi ghi khắc tên các vua Thành Thái, Duy Tân... Nói xong ông mặc chiếc áo gió đã sờn cũ rồi ngồi lên chiếc xe Honda bạc phếch màu sơn để đi đón vợ bán vé số.
    Con cháu
    liệt sĩ Phạm Hồng Thái

    "Thầy tôi sinh năm 1896, hy sinh năm 1924, lúc ấy tôi mới được 2 tuổi..." - ông Phạm Minh Nguyệt, người con trai duy nhất của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái, đã mở đầu câu chuyện như vậy về cha mình tại căn hộ mà nhà nước cộng sản đã cấp cho hai mẹ con ông tại đường Trương Định, Hà Nội. Mặc dầu căn phòng ở cuối tầng hai nay đã sập sệ nhưng cũng còn ở được.
    Theo tài liệu của cụ Phan Bội Châu đã ghi lại, Phạm Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, sinh năm 1896, tại làng Xuân Nga, tổng Văn Viên, phủ Hưng Nguyên, gần thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình có truyền thống yêu nước, có tư tưởng chống thực dân Pháp. Do ảnh hưởng nói trên nên Phạm Hồng Thái đã bỏ học rất sớm trong lúc đang học tại trường Vinh, ra Bắc rồi sang Xiêm La (Thái Lan) để tìm cách liên lạc với các nhà cách mạng đang ở hải ngoại.
    Năm 1922, Phạm Hồng Thái từ Xiêm sang Trung Hoa, được cụ Phan Bội Châu kết nạp vào Việt Nam Nghĩa Hòa Đoàn, hoạt động tại Quảng Đông. Ở đây, người Việt không đông lắm, phần lớn đều sống trong tô giới Pháp, tức thành phố Sa Điện, ngăn cách với thủ phủ Quảng Châu bởi dòng sông Châu Giang rất lớn. Tỉnh trưởng Quảng Châu lúc bấy giờ là Hồ Hán Dân, rất có cảm tình với các tổ chức cách mạng người Việt chống Pháp.
    Phạm Hồng Thái là một trong 9 thành viên đầu tiên của Tâm Tâm Xã, đều là đảng viên thuộc Việt Nam Quang Phục Hội do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và cụ Phan Bội Châu làm thủ lãnh, theo chủ trương dùng bạo động chống Pháp.
    Năm 1924, Phan Bội Châu và Nguyễn Hải Thần từ Hàng Châu về Quảng Châu để tổ chức lại Việt Nam Quang Phục Hội. Dịp này hai ông vào gặp Tưởng Giới Thạch và Lý Tế Thâm, lúc đó đang chỉ huy Trường Võ Bị Hoàng Phố được xây dựng trên đảo Trường Châu phía đông Quảng Châu, để yêu cầu thâu nhận một số thanh niên Việt Nam và được chấp thuận. Chính thời gian này, cụ Phan Bội Châu đã đổi tên Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng, như vậy Phạm Hồng Thái là đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng chứ không phải CS, bởi vì Việt Nam lúc ấy chưa có đảng CS, mãi 6 năm sau mới bắt đầu manh nha.

    Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Điện
    Bấy giờ hầu hết các nhà cách mạng Việt Nam chống Pháp đều hoạt động tại Nhật Bản và Trung Hoa, trong đó có các lãnh tụ như Cường Để, Nguyễn Hải Thần, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Tử Mẫn v.v...
    Nhìn thấy sự lớn mạnh của cách mạng Việt Nam nói trên, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương là Martial Merlin quyết định sang Nhật và Tàu, dùng quyền lợi yêu cầu họ trục xuất các đảng cách mạng cũng như các du học sinh Việt Nam trong phong trào Đông Du về nước. Vì vậy, các thành viên Quốc Dân Đảng trong Tâm Tâm Xã quyết định phải ám sát Merlin khi y từ Nhật ghé qua Hồng Kông.
    Phạm Hồng Thái được cụ Phan Bội Châu giao phó nhiệm vụ nói trên, lúc ấy ông mới 28 tuổi.
    Vì Merlin là Toàn quyền Đông Dương thay mặt chính phủ Pháp nên khi y tới Hồng Kông, được nhà cầm quyền Anh và Pháp tại tô giới này tổ chức một buổi tiệc rất lớn tại nhà hàng sang trọng của khách sạn Victoria nằm trong thành phố Sa Điện, thuộc khu tô giới Anh-Pháp, sát với bờ sông Châu Giang.
    Hôm đó là đêm 19/06/1924. Tất cả mọi người Việt Nam đều bị cấm lai vãng đến gần nhà hàng nói trên. Phạm Hồng Thái phải hóa trang thành một phóng viên nhiếp ảnh người Nhật mới lọt vào được khách sạn. Cả khu vực được canh gác, bảo vệ cực kỳ nghiêm ngặt, mật thám đông như rươi.
    Ngoài Merlin và đoàn tùy tùng từ Hà Nội qua Nhật rồi qua Hồng Kông, bữa tiệc đêm đó còn có mặt nhiều quan chức các nước Tây phương khác tại Hồng Kông như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Bồ Đào Nha v.v... với các mệnh phụ phu nhân và các vũ công xinh đẹp múa hát giúp vui. Đặc biệt, ngoài Toàn quyền Merlin ra, khách danh dự còn có Giám đốc Ngân Hàng Anh tại địa phương và Lãnh sự Pháp tại Hồng Kông. Tiệc do các thương gia Anh Pháp tại Quảng Châu khoản đãi.
    Đêm đó các nhà cầm quyền Anh-Pháp đã bố trí rất nhiều công an, mật thám, thủy binh Ấn Độ, kể cả lính Tàu nhưng Phạm Hồng Thái vẫn tới được gần bàn tiệc của Merlin và ném chiếc máy chụp hình vào mục tiêu đã định. Trong máy đã gài sẵn một trái bom nhỏ nhưng có sức tàn phá ghê gớm. Bom nổ rung chuyển cả căn phòng lớn, làm tung vỡ cả đồ đạc tại chỗ, đèn điện phụt tắt, nhiều người thương vong, trong đó có Lãnh sự Pháp tại Quảng Châu tên Louis Cordeau, Giám đốc Ngân hàng Anh ở Hồng Kông với một chính khách Trung Hoa và một vũ nữ ngồi kế Merlin. Cộng chung có 6 người chết và 28 người bị thương. Merlin rất tinh mắt, vừa thấy chiếc máy ảnh ném ra bèn chui tọt ngay xuống gầm bàn nên thoát chết, chỉ bị thương nhẹ.
    Cuộc ám sát tại Sa Điện được báo chí đăng tải khiến bọn thực dân vỡ mật kinh hồn, còn dân chúng Trung Hoa thì cảm phục. Họ thầm cám ơn nhà cách mạng người Việt đã thay họ trả mối hận bị các nước Tây phương và Nhật xâu xé.

    Cái chết của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái
    Sau khi thi hành xong nhiệm vụ, lợi dụng tình trạng hỗn loạn và tắt điện, Phạm Hồng Thái thoát ra được ngoài khách sạn, nhưng ông bị bọn công an, mật thám và các thủy binh Ấn Độ truy đuổi gắt gao phía sau. Giữa lúc vô cùng nguy cấp mà trước mặt là con sông Châu Giang rộng lớn đang chảy xiết, Phạm Hồng Thái bèn lao mình xuống nước, có lẽ để tìm cách thoát thân, nhưng ông đi giày, ăn mặc sang trọng theo kiểu một nhiếp ảnh gia "cỡ lớn" nên khó xoay trở, mặc dầu lúc ấy ông 28 tuổi, đang có sức mạnh.
    Trên mặt sông xuất hiện nhiều ca nô chở đầy lính tráng, chiếu đèn soi sáng cả một vùng, lùng sục, truy tìm cho bằng được kẻ ném tạc đạn. Còn hai bên bờ sông, lính Anh lính Pháp tại tô giới vẫn túc trực canh gác suốt đêm, quyết tâm bắt cho được thủ phạm để "rửa mặt" với quan Toàn quyền bị ám sát suýt chết.
    Ba ngày sau, xác Liệt sĩ Phạm Hồng Thái nổi lên mặt nước và tấp vào chân cầu Châu Giang. Lập tức lãnh sự Pháp tại Sa Điện ra lệnh vớt lên nhưng không cho chôn cất, mà để đó phơi nắng mưa suốt ba ngày đêm, mặc cho ruồi nhặng, kiến lửa bâu đầy, hết sức thê thảm. Dân chúng địa phương phản đối dữ dội. Họ khiếu nại với nhà cầm quyền Quảng Châu, đòi phải can thiệp với thực dân Pháp để họ chôn cất, giữ vệ sinh công cộng. Cuối cùng, Pháp phải đồng ý, giao xác ông cho Hội Y tế Quảng Châu chôn cất. Hội tẩn liệm ông rất đàng hoàng và chôn dưới chân đồi Bạch Vân, trông ra dòng sông Châu Giang, là nơi liệt sĩ đã hy sinh. Hầu hết các lãnh tụ Việt Nam tại hải ngoại đều tham dự đám tang. Chính cụ Phan Bội Châu thân hành viết văn truy điệu và viết bia mộ.
    Năm sau (1925), vì kính phục trước cái chết oanh liệt của vị anh hùng người Việt, các lãnh tụ Trung Hoa Quốc Dân Đảng như Uông Tinh Vệ, Liêu Trọng Khải và Tỉnh trưởng Quảng Châu là Hồ Hán Dân, đã bỏ ra số tiền 3000 đồng để cải táng Phạm Hồng Thái từ chân đồi Bạch Vân về chôn tại Hoàng Hoa Cương là Nghĩa Trang Quốc Gia, nơi an giấc ngàn thu của 72 Liệt Sĩ Trung Hoa đã hy sinh đầu tiên trong cuộc Cách Mạng Tân Hợi (1911), lật đổ nhà Mãn Thanh.
    Hoàng Hoa Cương nằm cách thành phố Quảng Châu của tỉnh Quảng Đông chừng hai cây số, đây là thánh địa tôn quý của Trung Hoa Dân Quốc lúc bấy giờ. Sự kiện di cốt của Phạm Hồng Thái nằm cạnh các liệt sĩ Trung Hoa mang một ý nghĩa to lớn về tinh thần, nói lên sự kính phục những người vì dân vì nước, không phân biệt chủng tộc.
    Mộ của ông nằm trên một hòn núi nhỏ trước Hoàng Hoa Cương, đối diện với hàng mộ bia của 72 liệt sĩ Trung Hoa, được kiến trúc rất hùng vĩ, có xây bia đình và một tấm mộ bia cao lớn do Trần Lộ Tiên Sinh đề "Việt Nam Liệt Sĩ Phạm Hồng Thái Tiên Sinh Chi Mộ”.
    Hôm giỗ đầu tiên của ông nhằm ngày 19/06/1925, hầu như tất cả các nhà cách mạng Việt Nam và Trung Hoa đều tham dự, thực dân Pháp tại tô giới phản đối kịch liệt nhưng không làm gì được.
    Theo lời kể của ông Phạm Minh Nguyệt, cha ông lấy bí danh Phạm Hồng Thái với ý nghĩa: "Nợ nước nặng như núi Thái Sơn nên coi cái chết nhẹ như lông hồng". Thân phụ liệt sĩ Phạm Hồng Thái là cụ Phạm Thành Mỹ, làm huấn đạo coi về giáo dục phủ Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An (tương đương với trưởng phòng giáo dục huyện bây giờ). Thấy con trai bỏ học, ra Bắc rồi sang Xiêm đi theo các nhà hoạt động cách mạng, cụ bèn đổi ngay tên đứa cháu trai mới sinh từ Phạm Cao Lân thành Phạm Minh Nguyệt để tránh rắc rối, với ý nghĩa đứa cháu sau này lớn lên sẽ dõi theo bóng cha nó như ánh trăng sáng. Khi Phạm Hồng Thái chết, tất cả mọi người (ngoại trừ cụ Phan Bội Châu), kể cả chính quyền Pháp, đều chỉ biết người ném tạc đạn tên Phạm Hồng Thái chứ không biết ông quê quán ở đâu, tên thật là gì.
    Còn về phần bà Cao Thị Chắt, vợ của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái, bà sinh năm 1903, cùng quê Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An, lấy chồng năm 18 tuổi, năm sau (1922) vừa sinh con trai đầu lòng thì chồng đi làm cách mạng. Hai năm sau nữa (1924), đứa con 2 tuổi, chồng hy sinh. Từ đấy, tuy mới 21 tuổi nhưng bà ở vậy, sống về nghề dệt vải, thờ chồng, nuôi con.
    Phạm Minh Nguyệt (tức Phạm Cao Lân đã được ông nội đổi tên) lớn lên, thi đậu vào Đại học Bách khoa Hà Nội, trở thành kỹ sư Nông Lâm nhưng rất giỏi ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Pháp). Năm 1972, nhà nước CS cử ông đi theo làm thông dịch viên tiếng Pháp tại hội đàm Paris. Còn về tiếng Anh, đến 80 tuổi (2002) ông vẫn tiếp tục đi dạy tiếng Anh tại các đại học ngoại ngữ.
    Vợ chồng ông Phạm Minh Nguyệt sinh dược 4 người con, 3 trai và 1 gái, tất cả đều rất thành đạt. Năm 1956, khi các cháu còn nhỏ, bà Cao Thị Chắt năm ấy 53 tuổi, thu xếp ra Hà Nội ở với con trai, con dâu, trông nom các cháu. Lúc ấy, ông Phạm Minh Nguyệt đã được nhà nước CS cấp một căn hộ rộng 20m2 ở tầng hai chung cư Trương Định, tuy sập sệ nhưng cũng ở được như đã kể trên. Năm 1969, các con đã lớn và đã khá giả, vợ chồng ông trả lại căn hộ cũ, mua ngôi nhà mới tại phố Đội Cấn, rộng rãi, khoáng đãng. Bà Cao Thị Chắt mất ngày 31/03/1980, thọ 77 tuổi. Bà là một trong những phụ nữ mẫu mực nhất của xứ Nghệ nên con cháu bà mới được như vậy.

    Con trai Công tử Bạc Liêu

    Trong căn nhà trọ nhỏ ở thị xã Bạc Liêu, ông Trần Trinh Đức " con trai của Công tử Bạc Liêu Trần Trinh Huy " và là cháu nội ông Hội đồng Trần Trinh Trạch giàu có bậc nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long " buồn bã nhìn cô con gái bị bệnh tâm thần, cứ vô tư ngồi cười hềnh hệch. Bằng giọng trầm trầm, nho nhỏ, người đàn ông tuổi đã quá 60 cho hay cuộc sống của gia đình ông hiện tại phải chạy cơm từng bữa, tài sản duy nhất là chiếc xe để chạy xe ôm kiếm sống.
    Theo ông Đức, dòng họ nhà ông bắt đầu gặp khó khăn về kinh tế từ khi cha ông mất (năm 1973). Anh em ông bán căn biệt thự ở đường Nhất Linh, nay là đường Nguyễn Huy Tưởng, quận Bình Thạnh, Sài Gòn, để chia mỗi người một phần. Riêng ông thì chuyển về ở nhờ nhà vợ tại đường Huỳnh Tịnh Của, Quận 3, Tân Định. Dù buôn bán lặt vặt ở đất Sài Gòn nhưng nhờ được thừa hưởng một phần tài sản của Công tử Bạc Liêu nên cuộc sống cũng tạm ổn. Thế rồi đứa con gái duy nhất của ông sa vào bài bạc, bị lừa cả tình lẫn tiền dẫn đến mắc nợ và mắc bệnh tâm thần. Vợ chồng ông phải bán hết tài sản còn lại để trả nợ cho con nhưng vẫn không đủ, đành dắt díu nhau sang Campuchia lánh nợ, làm đủ thứ nghề.
    Giọng nghèn nghẹn, ông Trần Trinh Đức kể sau hai năm trốn nợ trên đất khách quê người, năm 2000 ông dẫn vợ con về lại Sài Gòn, sống với nghề chạy xe ôm. Ông phải làm việc từ 5 giờ sáng đến tận nửa khuya nhưng vẫn nghèo túng vì ngoài chi phí sinh hoạt hằng ngày, vợ chồng ông còn phải mua thuốc điều trị cho con gái. Đến tháng 09/2009, gia đình ông về cố hương Bạc Liêu để tìm cách nuôi thân.
    Đậu chiếc xe ôm gần khuôn viên ngôi dinh thự thường gọi là "nhà lớn" của dòng họ Trần Trinh giàu nhất xứ Bạc Liêu xưa, nay được trùng tu thành Khách sạn kiêm Nhà hàng Công tử Bạc Liêu, ông Đức con trai của Công tử Bạc Liêu với người vợ quê Mỹ Tho cho biết cha mình có đến 4 người vợ. Ngay từ lúc lọt lòng, ông Đức đã mồ côi mẹ nên cùng anh trai là Trần Trinh Nhơn được cha đón về sống trong "nhà lớn", chị ông Đức là bà Trần Thị Thảo sống với bà ngoại ở Mỹ Tho.
    "Tôi sinh ra lúc ba tôi còn giàu có nên hồi 7 tuổi đã được ông gửi học tại Trường Lasan Taberd (nay là trường Trung học phổ thông Lê Lợi, thành phố Sóc Trăng), cuối tuần lại rước về "nhà lớn" ở Bạc Liêu. Vài năm sau, ông đưa anh em tôi lên Sài Gòn học để cùng nhau quản lý tài sản là các dãy nhà phố, và sống tại biệt thự số 117 Nguyễn Du. Sau này chúng tôi chuyển qua ở biệt thự trên đường Nhất Linh", ông Đức bồi hồi nói.
    Xuất thân giàu có, ảnh hưởng sự phong lưu của cha nên những năm tháng vàng son, không chỗ vui chơi nào ở đất Sài Gòn mà ông Đức không biết đến, đêm nào cũng đi nhảy đầm. Người em cô cậu ruột của ông là ông Phan Kim Khánh khi ấy cũng học ở Sài Gòn và "ham vui" có tiếng. Ông này biết trong "nhà lớn" có 5 cặp bình màu xanh lục có dấu ấn của vua chúa bên Tàu, được ông ngoại là ông Hội đồng Trạch mua được từ bên đó. Mỗi lần vui chơi hết tiền, ông Khánh được một đại gia nổi tiếng trong giới kinh doanh ở Chợ Lớn xúi về quê "chôm" cặp lục bình mang lên bán cho ông ta với giá 250,000 " 300,000 đồng/cặp (thời ấy giá lúa chỉ có 1.7 đồng/giạ tức 40 kg) để lấy tiền tiêu xài. Đến năm 1975, miền Nam đổ vỡ, ông Khánh là người trực tiếp bàn giao 3 cặp lục bình còn lại cùng với toàn bộ gia sản, đất đai, các khu phố v.v... ở Bạc Liêu cho chính quyền CS. Nay không biết 3 cặp lục bình và các thứ khác "lưu lạc" nơi đâu!
    Cũng theo hậu duệ của Công tử Bạc Liêu, dòng họ Trần Trinh thời đó sở hữu điền sản với 145,000 ha ruộng lúa và 10,000 ha ruộng muối nằm dọc bờ biển Bạc Liêu. Ngày cha ông về nước sau 3 năm du học bên Pháp, ông nội tất bật lên Sài Gòn mua ngay chiếc Mercedes mới cáu cạnh để đón "quý tử", cũng là để làm rạng mặt dòng họ Trần Trinh lúc bấy giờ. Xe Mercedes lúc ấy mới xuất hiện, chỉ Hoàng đế Bảo Đại mua một chiếc và Công tử Bạc Liêu mua một chiếc mà thôi.
    Người dân Bạc Liêu vẫn còn truyền tụng câu chuyện nhờ cái mác học bên Tây về nên cậu Ba Huy rất được cha ưu ái, mua cả ca-nô và máy bay để cậu đi chơi, thu nợ và... thăm ruộng lúa, ruộng muối. Vậy là, ngoài vua Bảo Đại, cậu Ba Huy là người sở hữu máy bay tư nhân đầu tiên tại Việt Nam. Có lần qua Rạch Giá thăm ruộng, cậu hứng chí lái luôn máy bay ra Hà Tiên chơi. Do chưa quen lắm nên... bay lạc sang đất Thái Lan, đáp xuống Thái Lan (hồi đó gọi là nước Xiêm La). Trong lần "nhập cảnh trái phép" này Ba Huy bị bắt giữ và bị phạt 200,000 giạ lúa (tức... 8,000 tấn lúa!), buộc ông Hội đồng Trạch phải đưa không biết bao nhiêu là ghe chở lúa qua Thái Lan để chuộc cậu quý tử về.
    Chung quanh chuyện giàu có của cha và của ông nội, ông Đức cho rằng đó là những kỷ niệm mà ông mang theo cho tới lúc chết, bởi vì cái tên Công tử Bạc Liêu đã "vang danh" cả nước. Tuy nhiên, không ai "giàu ba họ"nên giờ đây nhiều người con của Công tử Bạc Liêu đang sống trong cảnh khốn khó, trong đó có ông.
    Cách đây ít lâu, ở Việt Nam có cuốn phim "Công tử Bạc Liêu", trong đó nói rằng Công tử Bạc Liêu (tục gọi là Hắc công tử) ganh đua với Bạch công tử George Phước ở Rạch Giá, thi nhau nấu cháo bằng tiền xem cháo của ai sôi trước. Và cuốn phim cũng nói bà Hội đồng Trạch là người ăn chơi, giao du lịch lãm với các "ông lớn" Pháp, chuyên tổ chức nhảy đầm trong nhà, sinh ra nhiều chuyện không tốt. Sự thực, trong cuốn "Công tử Bạc Liêu", tác giả là ông Phan Kim Khánh, cháu gọi Công tử Bạc Liêu bằng cậu ruột, kể rằng ông có hỏi Công tử Bạc Liêu về chuyện "thi nấu cháo" này, Công tử Bạc Liêu nói: "Tao đâu có ngu vậy mày! Nếu tao dư tiền đem đốt thì chẳng thà tao đem tiền đó sang Nhựt chơi gái còn sướng thân hơn!". Đúng là khẩu khí của Công tử Bạc Liêu! Năm 1973 ông mất, thọ 73 tuổi. Năm 1965, tôi (Đoàn Dự) dạy học ở Bạc Liêu, có dạy mấy người cháu nội cháu ngoại của ông nên biết chuyện về ông khá rõ. Còn việc bà Hội đồng Trạch ăn chơi, giao du lịch lãm, ông Phan Kim Khánh kể rằng bà ngoại ông... không biết chữ, chuyên bận đồ xẩm (đồ phụ nữ Tàu) bằng vải sa-teng đen, tóc ngắn cum cúp (theo kiểu người Tàu), không hiểu sao hai mắt bị mờ từ còn rất sớm, trông không thấy đường nên suốt ngày nằm trên chiếc ghế xích-đu trước cửa ra vào. Ngoài ra, bà còn bị bệnh về đường tiêu hóa nên chỉ ăn được một món duy nhất là con ba khía muối, không ăn được bất cứ một thứ gì khác. Hồi tôi dạy học tại Bạc Liêu, bác chủ nhà cũng nói với tôi như vậy. Bác là người giàu thứ 8 tại Bạc Liêu và cũng gốc Triều Châu (thường gọi người Tiều) nên chơi khá thân với Công tử Bạc Liêu.
    Ông Đức kể năm 1973 cha ông qua đời tại Sài Gòn, anh em ông đưa thi hài về quê an táng tại khu đất hương hỏa 1,000 ha ở Cái Dầy, Bạc Liêu. Đến năm 1975, con cháu tứ tán, đất bị lấn chiếm, sang bán gần hết. Đến nay, khu nghĩa trang "Trần gia chi mộ"với những lăng mộ ông Trần Trinh Trạch, Công tử Bạc Liêu v.v... rất lớn, toàn bằng đá cẩm thạch trắng, bây giờ nhà cửa san sát, ngồi trên xe đò trước khi vào thành phố Bạc Liêu không còn trông thấy đâu nữa. Tôi nghĩ nếu người ta đập đi thì cũng rất uổng, loại đá cẩm thạch mua từ bên Ý đó.
    Đầu năm 2009, một doanh nghiệp ở Bạc Liêu hay tin con trai Công tử Bạc Liêu sống đời cơ cực nên đã gợi ý với ông là về Bạc Liêu. Trong một lần về giỗ cha tại Khách sạn Công tử Bạc Liêu, ông Đức đã gặp ông Nguyễn Chí Luận (Giám đốc Công ty Địa ốc Bạc Liêu) và bày tỏ nguyện vọng muốn về quê lập nghiệp. Chính vì vậy mà vị giám đốc này đã cho ông mượn một khu đất rộng 300m2 với thời gian 50 năm, nằm đối diện khu du lịch Hồ Nam. Đầu tháng 11/2009, ông Luận và nhà văn Phan Trung Nghĩa cùng với ông Đức ra nền đất ấy thắp nhang động thổ xây dựng nhà ở, kết hợp lập phủ thờ Công tử Bạc Liêu. Tuy nhiên, đã gần một năm trôi qua nhưng khu đất vẫn chỉ là một bãi đất hoang, cỏ mọc um tùm.
    "Động thổ để cất nhà lâu rồi mà đất vẫn còn hoang vu, cây cỏ mọc um tùm nên tôi phải ở đậu. Tôi lớn tuổi thế này thì khó xin được việc làm. Bây giờ mỗi ngày vẫn phải chạy vạy khắp nơi vay mượn tiền mua gạo và thuốc thang cho con gái", ông Đức buồn bã nói.


    - Đoàn Dự ghi chép
    Similar Threads
  • #2

    Con cái của một trong những người nổi tiếng trong bài viết này chỉ có con của Liệt sĩ Phạm Hồng Thái là thành công. Xuất thân gia đình ông là nhà giáo yêu nước. Còn con ông, cháu cha và con nhà giàu thì ít thành công. Nhìn vào đó để biết cách chọn...chồng nếu bạn là nữ.

    Làm vua hoặc quan võ thì đời con cháu dễ bị triệt vì không ít thì nhiều cũng có giết chóc, cũng xử chết oan nhiều người. Hoặc "khi nào dân nổi can qua, con vua thất thế lại ra quét chùa"...

    Làm con nhà giàu thì không thức thời khi có chính biến...

    Và nên nhớ rằng cái đức của mình sẽ truyền mãi đến nhiều đời sau chứ không chỉ 1 đời trực hệ.

    Comment

    • #3

      Chi biet Cong tu Bac Lieu, moi nghe chi Huong Binh noi con vua Thanh Thai moi biet them. Thanks

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom