• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Chủ Đề Xuân Tân Mão

Collapse
This topic is closed.
X
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Chủ Đề Xuân Tân Mão

    Chủ Đề Xuân Tân Mão


    Năm con Cọp lại sắp sửa ra đi và chúng ta đang chuẩn bị đón chào năm Con Mèo Con Mẽo Con Miu sắp đến. Với một đôi điều cảm xúc của những ngày cuối năm và chuẩn bị cho một năm mới đang đến, HV xin mời các bạn cùng tham gia đóng góp cho CLL một đôi bài viết nói về mùa Xuân như là một "Giai phẩm Chủ Đề Xuân Tân Mão".

    Chủ đề bao gồm tất cả có thể là những bài viết, thơ, văn, nhạc ...... về mùa Xuân .

    Thành thật cảm ơn và rất mong sự đóng góp của tất cả Quý Tác giả, Anh Chị Em và các bạn.
    Sống trên đời

    Similar Threads
  • #16






    Ý Xuân Thắm




    Xuân tiễn đông đi đón tết về
    Mọi nhà hớn hở đón xuân sang
    Người người tấp nập trông vui vẻ ...
    Hoa nghiêng đón khách mời ghé ngang


    Cầu chúc muôn phương được An Khang
    Tân Xuân - Tấn Phát - Phước Lộc Tường
    Vạn sự như ý .. và Thăng Tiến
    Thành công, thăng chức, được hanh thông .


    Cành Đào chúm chím liếc hoa Mai
    Cùng hẹn đơm hoa giữa chốn này
    Cành Mai cúi mặt cười thật khẽ
    Màu áo ta mang dáng kiêu kỳ


    Đêm khuya, gió nhẹ, trăng tròn xem ...
    Tò mò vén nhẹ bức màn đêm
    Ánh Nguyệt rẽ ngang qua mành trúc
    Vô tình đánh rớt - yếm đào mềm ...


    Hoa Mai, Đào nở giữa vườn xuân
    Ngây ngất hương xuân toả say nồng
    Ái ân ta hẹn mùa trăng rụng
    Ngàn năm vẫn đẹp mãi đêm xuân .



    Uyên Ương



    Comment

    • #17






      Con thỏ ăn củ cà rốt

      Những ngày cuối năm là cao điểm làm ăn của giới chiêm tinh, bói toán. Bước vào năm mới tâm lý ai nấy trong chúng ta cũng đều muốn biết trước sắp tới vận mệnh của mình sẽ ra sao. Các sạp bán lịch Tam Tông Miếu để coi ngày lành tháng tốt, cùng các hàng bán lá số Tử Vi in sẵn. Với luận giải đủ Mười Hai Con Giáp cho mọi lứa tuổi trong năm mới, bày bán trước các cổng chùa. Chưa biết hay dở, trúng trật thế nào nhưng đã có người bán thì cũng có người mua.

      Ảnh hưởng lâu dài ra sao đã có sự đánh giá kiểm soát của các đơn vị chức năng, nhưng trước mắt người lao động cũng có thêm chút thu nhập chi dùng ba ngày Tết. Liên quan đến luận đoán vận hạn, bói tuổi của mọi người với trọn bộ Mười Hai Con Giáp mỗi năm, nói chung là vô thưởng vô phạt, ai đọc cũng thấy hài lòng để rồi năm sau còn háo hức mua tiếp.

      Từ xa xưa người Trung Quốc đã phát minh ra thuật số, nhằm đoán điềm, luận vận hạn cho những ai có mong muốn biết trước thiên cơ. Những cụm từ quen thuộc đầu môi của các vị hành nghề bói toán thường dùng là: âm dương,ngũ hành tương khắc bao gồm Kim-Mộc-Thủy-Hỏa-Thổ. Kế đến là tên gọi 108 vì sao tọa thủ hoặc xung chiếu điển hình trong Tử Vi đẩu số. Ví như sao tốt có Tả Phù- Hữu Bậc-Hóa Khoa-Hóa Quyền v.v còn sao xấu thường đề cập như Thái Bạch-Triệt -Kế Đô-Bệnh Phù v.v.Sau đó tùy đối tượng mà luận đoán kiết hung.

      Độc đáo và lại phổ biến nhất là gọi tên giờ ngày,tháng năm cũng như tuổi của mỗi người ứng với Mười Hai Con Giáp (còn gọi làChi) gồmTý - Sửu - Dần - Mão - Thìn - Tỵ - Ngọ - Mùi - Thân- Dậu - Tuất - Hợi. . Ghépvào trước tên gọi các con vật đó là mười từ bao gồmGiáp - Ất - Bính - Đinh - Mậu - Kỷ - Canh - Tân - Nhâm - Quýđược gọi là Can.

      Cách ghép bắt đầu bằng từ thứ nhất của Can Giápđi đôi với từ thứ nhất của Chi thành Giáp Tý kế đó từ thứ hai được ghép là Ất Sửu. Lần lượt đến từ thứ mười của Can Quý ghép với Chi có từ thứ mười là Dậuthành Quý Dậu. Sau đó quay trở lại từ đầu tiên của Can ghép tiếp vào từ thứ mười một của Chi là TuấtthànhGiáp Tuất và cứ thế tiếp tục.

      Chu kỳ mười hai năm còn gọi là một Giápvì tên cầm tinh con vật giống nhau,thường được gọi là năm Tuổi. Điều đặc biệt là để Can và Chi ghép đôi trùng nhau thì phải mấtsáu mươi năm mới có một lần.Ví như cách đây sáu mươi năm mới có năm Canh Dần, và sắp tới những ai tuổi Tân Mão đều đã qua sáu mươi tuổi đời rồi vậy. Nhất thiết trong vòng sáu mươi năm qua không hề có năm nào có tên gọi Tân Mão như năm sinh của các vị Lục Tuần như vừa đề cập ở trên.

      Đôi dòng tản mạn, xem như múa rìu qua mắt thợ khi đề cập tới các thuật ngữ chiêm tinh,bói toán, mong được quý vị thông cảm nếu đã biết rồi. Mời xem luận đoán bói tuổi trọn bộ dưới đây được thể hiện bằng thơ. Chẳng biết có phải thơ Đường Luật không,chỉ thấy câu nào cũng gồm tám chữ cả,thấy ngồ ngộ nên chép lại cùng chia sẻ với quý vị nhằm thư giản. ( Thảo-Bân )


      Nam Mạng

      Chàng tuổi Tí thường lấm la lấm lét
      Giỏi đánh hơi dầu mùi ở đâu xa
      Chuyên thập thò ăn vụng thói tinh ma
      Gặp keo dính đứng yên xin tạ lỗi.

      Chàng tuổi Sửu hòa đồng nhưng nông nỗi.
      Dáng lừ đừ mơ mộng thích yêu đương
      Chờ đã lâu nhưng chẳng gặp được nường.
      Loài nhai lại có gì mà nóng vội.

      Chàng tuổi Dần cục cằn ghen dữ dội
      Luôn độc chiếm mình ên riêng một cõi.
      Chọn ai rồi, đố nàng nào thoát khỏi.
      Chờ tới phiên kết bạn chúa sơn lâm.

      Chàng tuổi Mão đa tình,tài thiên bẩm.
      Được quới nhân phò trợ khắp nơi nơi.
      Chuyện tình duyên trăn trở chẳng thảnh thơi.
      Xanh mắt mèo, nàng nào không ái ngại

      Chàng tuổi Thìn nên ngông cuồng hoang dại
      Thích tự do phiêu bạt bốn phương trời
      Xem cuộc tình như gió thoảng mây trôi
      Mặc mưa gió chàng hung hăng cười khảy.

      Chàng tuổi Tỵ nên chẳng màng bay nhảy
      Thấy cô nào cũng lè lưỡi muốn hun
      Độc rắn thâm chàng sẽ lấy ra dùng
      Chiếm nàng rồi chàng trườn nhanh như gió.

      Chàng tuổi Ngọ thích đi hoang đây đó
      "Hí" em rồi ai dám đụng tới em
      Dám lơ ngơ đá giò lái ra liền
      Không đo đất cũng mảy môi sứt trán.

      Chàng tuổi Mùi hay làm duyên làm dáng
      Xức dầu thơm chải chuốt bóng loáng đầu
      Trên có sừng bên dưới một chòm râu
      "Be he" hết cô này sang cô khác.

      Chàng tuổi Thân ưa rừng xanh bát ngát
      Thích trêu đùa cợt nhã với tình yêu
      Luôn múa may, nhảy nhót có hơi nhiều
      Quên thân ngứa bảy ngày còn... chưa tắm.

      Chàng tuổi Dậu tính tình hiên ngang lắm
      Thích màu mè diêm dúa nhiều nàng mê
      Rót bên tai lời ngon ngọt thật nghề
      Gặp đối thủ chàng ngẩng cao đầu gáy.

      Chàng tuổi Tuất đa nghi, lo ngay ngáy.
      Thức thâu đêm đảm bảo giấc mộng lành.
      Suy nghĩ lâu nhưng xuất thủ cực nhanh
      Thích kết bạn chàng theo sau lặng ngắm.

      Chàng tuổi Hợi ... chu choa ôi hôi lắm
      Ham ăn nhiều tính lại thích than van
      Lười một cây và nổi tiếng hơi gàn
      Lui cui mãi chẳng nàng nào kết bạn.



      Tuổi Mùi cầm tinh con Dê


      Nữ mạng

      Nàng tuổi Tí nên thường hay khúc mắc
      Lục lạo tìm như thám tử tài ba
      Những nguồn tin dù có ở đâu xa
      Liền cập nhật chẳng chần chừ ngần ngại.

      Nàng tuổi Sửu nên cần cù nhẫn nại
      Mơ chuyện tình đẹp mãi tháng ngày qua
      Biết người yêu nhiều mơ mộng, hào hoa
      Chỉ trách nhẹ và dỗi hờn đôi chút.

      Nàng tuổi Dần nên chẳng hiền như Bụt
      Chẳng dám gần bởi sợ móng vuốt nàng
      Bởi cao số nên chẳng có ai màng
      Hoài trông ngóng nổi buồn như bất tận.

      Nàng tuổi Mão nên ai đùa chẳng giận
      Thích ngọt ngào, ưa chiều chuộng vuốt ve
      Lời tán tỉnh nàng thích thú lắng nghe
      Lim dim ngủ tha hồ ai trêu chọc.



      Nàng tuổi Thìn muốn sống đời ngang dọc
      Trải sông hồ, thăm khắp nẻo quê hương
      Nàng chấp nhận phiêu du mọi nẻo đường
      Vui cuộc sống chẳng chút lòng e ngại.

      Nàng tuổi Tỵ thích sống đời hoang dại
      Yêu cuộc tình lơ lững chín tầng mây
      Trải đường đời, vẫn giữ nét thơ ngây
      Luôn ngoảnh lại tìm ngày xưa còn bé.

      Nàng tuổi Ngọ bao chàng không kịp né
      Sấn lại gần ăn đá chẳng nương chân
      Trời mưa lạnh chàng đâu dám vào sân
      Cứ mặc kệ có người đang sũng ướt.

      Nàng tuổi Mùi nên tánh tình lã lướt
      Trên mặt sàn cùng bước nhịp pa sô
      Khi dìu nàng nhảy vũ điệu măm bô
      Chàng khẽ đọc đôi vần thơ nàng tặng.

      Nàng tuổi Thân nên số phần hơi nặng
      Thường ngậm ngùi thua thiệt với chị em
      Nàng hay than số Khỉ chẳng ai thèm
      Chờ đợi mãi chẳng anh nào mò tới.

      Nàng tuổi Dậu nên thường hay tìm bới.
      Chuyện tầm phào vụn vặt chẳng ai ưa.
      Thích tám chuyện suốt ngày vẫn say sưa.
      Moi bằng hết ngại ngần chi dĩ vãng.

      Nàng tuổi Tuất nên ghét người lơ đãng
      Hỏi điều gì bắt phải trả lời ngay
      Ai yêu nàng phải biết cách tỏ bày.
      Cho nàng rõ những gì nàng muốn biết.

      Nàng tuổi Hợi cứ tìm ăn mãi miết.
      Chẳng thích trò mơ mộng với làng nhàng.
      Dẫu thơ hay, tranh đẹp chẳng hề màng.
      Chầu kem lạnh nàng gật gù tủm tỉm (hay ủn ỉn).
      Vô Danh


      Tuổi Tỵ cầm tinh con Rắn


      ( bài sưu tập được không rõ tác giả, đã có sự hiệu chỉnh mong tác giả thông cảm bỏ qua cho vì đã sửa cả ý lẫn lời,nhằm mục đích thư giản là chính chứ không có ý đạo văn. Thảo Bân)
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #18

        Chàng tuổi Tí thường lấm la lấm lét
        Giỏi đánh hơi dầu mùi ở đâu xa
        Chuyên thập thò ăn vụng thói tinh ma
        Gặp keo dính đứng yên xin tạ lỗi.


        Mây tuổi Tí đâu có ăn vụng? Tội cho Mây lắm CO ơi !!! (híc!híc!)

        Comment

        • #19

          Nụ Cười Xuân


          Một bài thơ của Xuân Diệu tuy rất xửa rất xưa, nhưng đọc lại nhất là những tháng ngày vào lúc Giao mùa như hiện tại (chờ đón những ngày của đầu năm Tân Mão) vẫn cảm thấy rất hay.

          Nụ Cười Xuân
          Xuân Diệu

          Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
          Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời.
          Sao buổi đầu xuân êm ái thế!
          Cánh hồng kết những nụ cười tươi.

          Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao
          Cây vàng rung nắng, lá xôn xao;
          Gió thơm phơ phất bay vô ý
          Đem đụng cành mai sát nhánh đào.

          Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
          Bên màu hoa mới thắm như kêu;
          Nỗi gì âu yếm qua không khí,
          Như thoảng đưa mùi hương mến yêu.

          Này lượt đầu tiên thiếu nữ nghe
          Nhạc thầm lên tiếng hát say mê;
          Mùa xuân chín ửng trên đôi má
          Xui khiến lòng ai thấy nặng nề...

          Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người
          Chưa từng hẹn đến, - giữa xuân tươi
          Cùng chàng trai trẻ xa xôi ấy
          Thiếu nữ làm duyên đứng mỉm cười.
          Sống trên đời

          Comment

          • #20

            Chúc cả nhà một năm Tân Mão trọn vẹn hạnh phúc.


            7 loại cây khai vận năm mới


            Năm mới sắp đến, hãy lựa chọn cây cảnh trang trí cho ngôi nhà thêm đẹp và mang đến nhiều may mắn hơn nữa cho mọi người trong gia đình.
            Theo quan niệm của phong thủy, một số cây cảnh có tác dụng phong thủy như hoa cúc, hoa đào, hoa lan... Trồng hay trưng bày những loại cây đó trong nhà sẽ mang đến những điều tốt đẹp cho gia đình trong năm mới.

            Hoa cúc


            Ngày Tết, người ta thường thấy xuất hiện hoa cúc trong nhà, đặc biệt là hoa cúc vàng và đỏ... Bởi vì theo phong thủy, hoa cúc là biểu tượng của sự sống, tăng thêm phúc lộc cũng như sự hoan hỉ đến nhà. Trồng những chậu cúc nhỏ hay cắm hoa cúc có thể giúp ổn định phúc khí trong nhà. Cũng lưu ý rằng, hoa cúc nên đặt nơi có nhiều ánh sáng trong nhà để sự may mắn thêm mạnh mẽ và rực rỡ.

            Cây quýt (quất)



            Cây quất (hoặc quýt) tượng trưng cho sự thu hoạch và cũng là một khởi đầu tốt đẹp. Vì thế, vào đầu năm mới, ta thường thấy mỗi gia đình thường mua một cây quất (quýt) quả vàng xum xuê, lá xanh tốt với mong muốn khởi đầu một năm mới tốt đẹp, giúp gia tăng tiền tài và vận may cho các thành viên trong gia đình.

            Hoa mai



            Hoa mai thích hợp với khí hậu ở miền Trung và miền Nam nước ta. Mai vàng tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang. Trong ngày Tết, mọi người thường mua cây (hoặc cành) mai vàng nhiều lộc bởi theo quan niệm của phong thủy, hoa mai nở đúng lúc giao thừa hay sớm mùng một sẽ mang lại nhiều may mắn, thịnh vượng và hạnh phúc sẽ đến với gia đình trong năm đó. Ngoài ra, theo cách phát âm của người miền Nam, hoa mai đồng âm với « mai (may) mắn ».

            Hoa đào



            Nếu miền Nam chuộng hoa mai trong ngày Tết thì miền Bắc nước ta lại thường mua những cành đào để trang trí cho căn nhà vào những ngày đầu Xuân. Hoa đào không chỉ có tác dụng xua đuổi tà ma mà còn có thể mang đến nguồn sinh khí mới, giúp mọi người trong nhà luôn khỏe mạnh và bình an trong năm mới.

            Hoa thủy tiên



            Hoa thủy tiên được xem là loài hoa thanh tao, quyền quý. Trồng hoa thủy tiên có tác dụng khử tà, mang lại cát tường như ý cũng như tăng thêm tài khí cho gia đình. Hoa thủy tiên là loại hoa rất khó trồng, hoa thường được trồng trong nước, hình dáng giống như củ hành tươi. Trước khi mua về, bạn nên tìm hiểu cách chăm sóc để cây hoa có thể sống thật lâu trong nhà.

            Cây sung cảnh



            Cây sung là loại cây khá dễ trồng và dễ sống. Chọn một cây sung có dáng đẹp và nhiều quả trang trí trong nhà vào ngày Tết cũng có thể mang đến sự no đủ và nhiều điều tốt lành cho năm mới.

            Hoa đồng tiền



            Cây hoa đồng tiền còn gọi là cây kim tiền. Trong những dịp đầu xuân năm mới, nếu trồng hoa hoặc cắm hoa đồng tiền sẽ mang đến nhiều tài lộc và tiền của cho gia đình.

            Comment

            • #21

              Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương


              Thơ Xuân Vũ Hoàng Chương

              Đặng Tiến

              Gửi chị Thục Oanh


              Xuân đã đem mong nhớ trở về

              Câu thơ Nguyễn Bính, ý thường thôi. Lời e cũng thường thôi. Nhưng dư vang vô tận, xoáy sâu vào tâm tư khách xa quê, nhất là những kẻ không có ngày về. Xuân đã ... đau lòng một chữ đã. Xuân đã. Người chưa. Những lỡ làng và những bẽ bàng.
              Lần này, ở đây, Xuân đã đem mong nhớ trở về Vũ Hoàng Chương, người bạn thơ, bạn kịch cũ càng với Nguyễn Bính Lỡ Bước Sang Ngang.

              Mùa xuân thương nhớ mùa Xuân.

              Nói đến thơ xuân Vũ Hoàng Chương, cái bồi hồi lẫn chút bùi ngùi. Có hay không có, mùa xuân trong thơ đấng trích tiên, đã tự giam thơ giam đời trong mươi chữ :

              Xuân đời chưa kịp hưởng
              Mây mùa thu đã sang ?

              Nhà thơ đã tự tình như thế, ở tuổi chưa đến ba mươi, trong tập thơ Mây. Người còn giăng tơ tâm sự

              Xuân có sang mà hoa không tươi
              ý ngát hoài chăng hề tuổi chớm ba mươi
              Nằm say ngõ lạnh
              Buồn nghe mưa rơi
              Tuôn châu oà bật lên cười
              Ta có là ta chăng hề Ai chớ là Ngươi
              Chậu sành tiếng đập ngàn năm cũ
              Hoạ điệu chiều nay xác rã rời


              Và từ đó, hay trước đó, với Vũ Hoàng Chương, tất cả những mùa Xuân đều là :

              Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay

              Ðã có nhiều người nói, và nói có cơ sở là men rượu và khói thuốc đưa thơ Vũ Hoàng Chương ra khỏi không gian ; và thơ Ðường, thơ Tống, người đẹp Liêu Trai đưa thơ ông ra khỏi thời gian. Ðiều đó có thật, nhưng con người dù là người thơ, vẫn còn xương còn thịt chuyển động theo bốn mùa mưa nắng. Và cả bốn mùa đều in nét trong thơ Vũ Hoàng Chương.

              Tác phẩm đầu lòng Thơ Say in năm 1940 gồm những sáng tác buổi hoa niên, nhưng hoạ hoằn lắm mới ánh lên một nét tươi xuân.

              Thuyền nhỏ sông lam yểu điệu về
              Cỏ chen màu liễu biếc chân đê
              Tình Xuân ai chở đầy khoang ấy
              Hương sắc thanh bình ngập lối quê.
              Nắng nhẹ mây hờ sương hơi hơi
              Sương thưa nắng mỏng nhạc khoan lời
              Dây đàn chầm chậm hôn lên phím
              Muôn vạn cung Hồ lả lướt rơi


              Thơ Say gồm có nhiều phần : Say, Mùa, Yêu, Lỡ Làng ... Phần Mùa chỉ có hai bài thơ ngắn, bài Dịu Nhẹ tả cảnh mùa xuân trên đây, bài sau là Mùa Thu Ðã Về. Thơ Mùa đề tặng ‘em Vân’, người yêu trong mộng. Chủ đề Mùa chứng tỏ nhà thơ coi trọng thời gian, nhưng loại thơ tứ thời bát tiết không nhiều, vì không nằm trong thi hứng Vũ Hoàng Chương. Bài thơ xuân Dịu Nhẹ hiếm hoi, nhưng vẫn mang phong cách đặc biệt Vũ Hoàng Chương. Dường như mãi đến 1952 ông mới có trọn vẹn một bài thơ Xuân khác, nhưng cỏ cây đã nhuốm màu Thiền. Bài Thoát Hình gồm 7 đoạn, một vần :

              Rào rạt trong cây nhựa trắng ngần
              Ðã nghe dồn cả tới đài xuân
              Ðã nghe rào rạt từng cơn gió
              Về mách tin hương với cõi trần
              Muôn vạn tế bào đang huỷ thể
              Vâng theo ý lớn nhịp xoay vần ...
              ... Ta mở trang lòng nguyên vẹn mãi,
              Chưa từng hoen ố vết trầm luân
              Ðêm nay xuống một bài thơ trắng
              Cầu nguyện cho đời nở ái ân


              Sau này, nhất là từ 1963, Vũ Hoàng Chương sẽ sáng tác nhiều thơ về Ðạo Pháp, tuy nhiên nguồn thơ Ðạo đã róc rách từ trước đó. Ngoài ra, bài Thoát Hình còn mang thêm dấu ấn của khoa học và triết học, hai nguồn thi hứng sẽ phát triển sâu rộng hơn trong thơ Vũ Hoàng Chương về sau.


              * * *

              Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay ... là một câu tiên tri. Di cư vào Nam, nhà thơ xem như thất lạc mùa xuân.

              Bài Nửa đêm Trừ Tịch làm 1955 ; mùa xuân đầu tiên xa xứ :

              Mười năm qua, đến bây giờ
              Nhìn nhau thấy cả giấc mơ thưở nào ..
              (...)
              Xuân về nhớ thưở ngát chiêm bao
              Giòng nước trôi xuôi chợt nghẹn ngào
              Lạc lõng vàng son màu lữ thứ
              Cành mai gượng ánh mặt hoa đào
              Mười phần xuân có gầy hao
              Tấm lòng xuân vẫn dạt dào như xưa
              Mấy phen biếc đón hồng đưa
              Dẫu rằng xong, vẫn là chưa thoả nguyền


              Ðây là một bài thơ hay, giàu cảm xúc, chĩu nặng ưu hoài. Không mang nội dung, dụng tâm chính trị nào, nhưng đã bị Chế Lan Viên chiếu cố và mạt sát thậm tệ (1960) cho rằng " cái điều Vũ Hoàng Chương đáng hổ thẹn nhất và chúng ta đau xót căm giận nhất là bốn câu này :

              Có nghĩa gì đâu một chữ " về "
              Nếu không ngàn dặm ngược sơn khê
              Nếu không ngược cả mười năm ấy
              Về tận kinh đô của ước thề


              Theo Chế Lan Viên, chữ" Về " là " cái việc về thành, cái việc dinh tê về Hà Nội (mà) chẳng có nghĩa gì cả, thì trong tâm hồn nhà thơ này không còn ranh giới giữa cái tốt, cái xấu, cái đúng, cái sai, cái có nghĩa và cái không có nghĩa "
              Ðây là lối viết vu oan giáng hoạ, vì chữ " về ", trong bài thơ, không có ngụ ý chính trị, chỉ là một ước vọng tình cảm, hay xa hơn nữa là một xu hướng tâm linh. Từ xưa thơ Vũ Hoàng Chương đã là một lối tìm về :

              Lang thang từ độ luân hồi
              U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
              Nguyện Cầu, 1950


              Còn mấy chữ " có nghĩa gì đâu ", là phỏng theo Xuân Diệu :

              Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
              Có nghĩa gì đâu một buổi chiều


              Nếu nhất định gán cho câu thơ một dụng ý thời sự thì nên hiểu : việc hồi cư năm 1950, với Vũ Hoàng Chương không mang ý nghĩa một chọn lựa chính trị, mà chỉ do một nhu đầu một tình cảm riêng tư - phần nào đó hoang tưởng - " có nghĩa gì đâu " . Còn về thời gian mười năm, từ thời Mây (1943) thi nhân đã nhiều lần nói đến : " Mười năm thôi nhé mộng tan tành " ... ,

              "
              Tình mười năm còn lại mấy tờ thư "…. Thận trọng, chúng tôi đã hỏi lại bà Vũ Hoàng Chương và được chị trả lời là đúng như thế, và còn cho biết thêm : ‘ước thề’ ở đây không phải là chị ấy.

              Ngoài ra, giai đoạn này, Vũ Hoàng Chương còn có Bài Ca Bình Bắc, kể chuyện xuân chiến thắng của Quang Trung :

              Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới
              Sầu xuân vời vợi
              Xuân tứ nao nao
              Nghe đêm trừ tịch hề máu nở hoa đào
              Ngập giấc xuân tiêu hề lửa trùm quan tái
              Trời đất vô cùng hề một khúc hát ngao


              Bài thơ là một thiên sử thi, ngợi ca hào quang dân tộc, nhưng hay ở những âm vang vời vợi nao nao, vô cùng quan tái. Nó là một khúc " hát ngao " hơn là một anh hùng ca.
              Cùng trong nỗi u hoài mùa-xuân-mất, tết năm 1963, nhà thơ mơ tưởng một Cành Mai Trắng Mộng

              Chín giao thừa, tám năm dư
              Cành Mai trắng mộng đêm trừ tịch suông
              (...)
              Khói đâu mờ tím căn buồng
              Thời gian ai đốt trên luồng thần giao
              Cố đô lửa cháy gan nào
              Sài đô son sắt như bào, như nung


              Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Xuân giọng hãi hùng cay đắng. Bài Ðục Trong, làm theo lối cổ phong, toàn vần đục, khổ độc, gân guốc, gay gắt :

              Chợ Tết mai lan cúc
              Ðắm mình trong bụi đục
              Từng phiên nép mặt hoa
              Thẹn không bằng khóm trúc
              (...)
              Liên miên khói lửa này,
              Dám đâu mơ hạnh phúc
              Lần lượt tre rồi măng
              Ðã tơi bời cốt nhục
              Ðoạn cuối, ê chề, xót xa thân phận :
              Thân càng xót cho thân
              Uổng gây hình ngọc đúc


              Bài thơ có lẽ làm vào những ngày áp Tết Mậu Thân, sức khoẻ không tốt, cũng như bài Bặt Khoá Buồng Xuân, cùng một âm hao não nuột :

              Miệng héo dần theo lòng khắc khoải
              Năm nay rồi sắp thành năm ngoái
              E khi chiều xế, tuyết thay tơ
              Không cả chút tình thương nắng quái
              Kẻ vô-hạn-hận không là gió
              Xuân đến trà mi đời tự bỏ
              Ngồi chín từng cao, thẳm đáy hang
              Cùng ai gửi chút hương vò võ ?


              Toàn bài vần bằng, xen hai đoạn vần trắc nói trên, là u uất nhất. Và kết thúc với hình ảnh của Tết Mậu Thân : thiều quang ngập máu đổ quyên hồng...
              Bài Vỡ Mộng Liêu Trai làm giữa ngày Tết tang thương :

              Ma sợ cung vôi chạy vọt lên
              Người thơ giữa lúc mở bầu men,
              Khai xuân chưa kịp vui cùng khách
              Ðạn rót trời cao đã nổ rền


              Nhưng Tết Mậu Thân 1968, tang tóc nhất là Cố đô Huế. Vũ Hoàng Chương làm một loạt tám bài đường luật theo thể liên hoàn liên vận dưới đề tài : " loạn trung Huế cảm bệnh trung nhân " (trên giường bệnh, cảm thương Huế loạn lạc) :

              Lăng miếu gần kề lưng chó sói
              Thịt xương phó mặc vuốt diều hâu
              (...)
              Ðạn réo vang vang lửa bốn bề
              Như thiêu giường bệnh cháy cơ mê
              Sốt dâng mạch loạn càng u uất
              Máu chảy ruồi bâu thật não nề


              Trước cảnh trúc chẻ ngói tan ấy, nhà thơ đau yếu, bất lực chỉ gởi lời cầu nguyện :

              Mong người một nước soi gương cũ
              Nguyện đấng ngàn tay độ nhiễu điều ...
              (Huế Cảm)


              Tết năm sau, Kỷ Dậu – 1969, sức khoẻ khá hơn, tình hình chiến trận, bên ngoài, có vẻ yên ắng, hoà hội Paris đang tiến triển và hứa hẹn, Vũ Hoàng Chương chợt nghe hồn thơ phấn khởi :

              Tin Xuân gà gáy rách trời đêm
              Tuổi nửa trăm vừa nửa chục thêm
              Ðủ thấy điềm lành hai nửa nước
              Một nhà trong ấm với ngoài êm
              (Mở Bút ghi Ðiềm)

              Thi nhân ngất ngưởng, lạc quan như chưa bao giờ lạc quan ở tuổi hoa niên :

              Chữ lựa vần gieo đắc ý rồi
              Ðèn khêu vừa tỏ nước vừa sôi
              Nhựa say trà ngát thơ cao giọng
              Hỏi chúa xuân rằng : ai có ngôi ?
              (Hạnh phúc nào hơn)

              Vũ Hoàng Chương thi sĩ còn là một Vũ Hoàng Chương kẻ sĩ, tâm hồn luôn luồn gắn bó với vận hưng suy của đất nước – cho dù ông có là nạn nhân của nhiều ngộ nhận và xuyên tạc. Mùa xuân Kỷ Dậu 1969 đưa hồn thơ về một năm Kỷ Dậu khác, 120 năm trước, mùa xuân Quang Trung, 1789, qua bài thơ chữ Hán :

              Kỷ Dậu hồi thanh
              Kê minh nhật thướng cựu sơn xuyên
              Hồi ức Quang Trung vũ hịch truyền
              Sơn vĩ sơn đầu hoa giải ngữ
              Hoà âm xuân thảo nhiễu bình nguyên


              Ông tự dịch :

              Tiếng vang lịch sử
              Ðất xưa gà gáy mặt trời lên
              Giục nhớ Quang Trung hịch sấm rền
              Hoa mở cánh chào ngang dọc núi
              Hoà âm cỏ ngát xuống bình nguyên


              Ðặng Tiến dịch ké :

              Gà thúc bình minh sông núi xưa
              Quang Trung thuở nọ, hịch truyền đưa
              Sườn non lưng núi lời hoa mở
              Nội cỏ hoà xuân, nhạc tấu mùa


              Vũ Hoàng Chương sinh năm ất Mão-1915 – giấy tờ thường ghi 1916 – tính đến năm 1969 là 55 tuổi ta. Ông tự hào thọ hơn ... Khổng Minh một tuổi, có bài thơ thu gọn đời mình, giữa những dư luận thị phi, và trầm luân thế cuộc :

              Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
              Bến nằm dư biết đục hay trong
              (...)
              Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
              Ðể ngấn vàng gieo chợt rối vòng


              Nhưng phấn khởi, dường như chỉ được một mùa xuân ấy. Tết năm sau, 1970, bài " Xúc Ðộng Cuối Năm " thật buồn :

              Chơi xuân đất này không cỏ non
              Thơ không vàng nữa, ấn không son
              Hỡi ơi lòng chợt đau như cắt
              Một nụ cười xuân cũng chẳng còn


              Bài thơ tưởng niệm bạn tâm giao là thi sĩ Ðông Hồ (1906-1969) vừa mới quy tiên trong năm. Người sành thơ nhận ra bóng dáng Ðông Hồ : câu đầu lấy từ một câu tập cổ của tác giả Bội Lan Hành : " xuân du thử địa vô phương thảo ", câu sau lấy ý từ bài Vàng Son hoa nở hai mùa :

              Mùa vàng hoa mai hoa cúc
              Mùa son hoa phượng hoa vông
              (...)
              Mùa vàng giàu thật giàu
              Mùa son sang rất sang
              (Ðông Hồ)


              " Một nụ cười xuân cũng chẳng còn ", là nhắc tên tập thơ " Cô Gái Xuân " (1935) của Ðông Hồ.
              Xuân Tân Hợi – 1971, lại thêm một mùa tang tóc :

              Theo nắng trôi vàng, bạc nổi mây
              Thương xuân lìa cội, Tết sa lầy
              Sông Rồng bến Nghé đêm Trừ tịch
              Phá vỡ vòng sao tự giải vây
              Mách cho Lã Vọng về đây
              Tha hồ câu, bến sông đầy tử thi

              Tuý Ông ngồi rũ cánh Lan buồn
              Nơi ấy đầy xương chất máu tuôn
              Thà đợi một mùa Xuân Ðích Thực
              Âm thanh Cuồng sát tự dìm luôn
              (Xuân Ðối Diện)


              Năm sau, 1972, khói lửa vẫn ngập trời :

              Giấc mộng trường chinh lửa ngút mây
              Tỉnh ra ngựa đấy với thuyền đây
              Nhìn nhau chuột nhỏ tung tăng dạo
              Vừa uống sông xuân một bụng đầy
              (Nhâm Tý khai bút)


              Tác giả tự dịch ra Hán Văn :

              Trường chinh mộng hậu tức phong yên
              Thiên lý long câu vạn lý thuyền
              Hốt ngộ tiền thân nhất yến thử
              ẩm hà mãn phúc tuý xuân thiên


              Lời thơ thanh thoát, dí dỏm. Nhưng tâm sự tác giả, thời điểm ấy còn u ám lắm qua bài " Xuân Quạnh " :

              Hỡi ơi trầm ngát mùa cung điện
              Ngõ hẹp ... Thôi rồi vẫn tịch liêu
              Lầu Vọng-giai-nhân mãi quạnh nằm
              Ngày xưa Kim ốc chỉ mười năm
              Ðắng cay thế vị lòng vương giả
              Ôi nguyệt tiền thân ngọt đoá rằm



              Cuối năm 1972, hoà hội Paris bế tắc, chiến trường miền Nam ác liệt và Mỹ dùng pháo đài bay B 52 oanh tạc Hà Nội suốt 12 ngày đêm cuối năm. Phải nhớ rõ bối cảnh đó, mới hiểu tâm trạng Vũ Hoàng Chương qua bài " Ðón Xuân Mười Chín " làm trước Tết Quý Sửu (nhằm ngày 3.2.1973) :

              Bấm đốt từ di cư đến nay
              Ðón xuân vừa vặn hết bàn tay,
              Sang sông Ngựa đã hai lần hí
              Vạch đất Trâu thêm một luống cày
              Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
              Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây
              Bút toan chạy ngược đau lòng chữ
              Núi vẫn nằm ngang bạc tóc mây
              Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác
              Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say
              Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi
              Tết đến buồn không chịu vẽ mày
              Xưa rồi lửa phóng tên bay
              Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn
              Bóng ai trên đá ngồi gan
              Có nghe rung một giây đàn lẻ loi
              Trời xuân chẳng én đưa thoi
              Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua
              Nghé kêu đầy bến vàng hoa


              (dẫn trọn bài)


              Bài này đăng trên Giai Phẩm Văn Xuân Quý Sửu, phát hành ngày 15.1.1973, trước khi ký hoà ước Paris. Vậy Vũ Hoàng Chương phải làm trước đó, vào thời điểm :

              Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc
              Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây


              Câu thơ ngụ ý : lửa thử vàng, Vàng Mười không sợ lửa, chế độ miền Bắc không khuất phục trước vũ lực thô bạo. Ðây là một câu thơ nặng tình dân tộc, nhưng không mấy người để ý, như một thứ cung đàn lẻ loi. Ngược lại, người ta bới móc những câu thơ " chống cộng " để lên án và hạ ngục Vũ Hoàng Chương khi có cơ hội.
              Người đọc vẫn tưởng nhà thơ sống trong mây khói, quên rằng Vũ Hoàng Chương gốc gác là một bộ óc khoa học, toán học, nên đã có những tính toán chi ly, chính xác : bàn tay, tổng cộng có 19 đốt, ứng vào con số 19 năm di cư sang sông (1954-1973). Ngựa đã hai lần hý là hai năm Giáp Ngọ (1954) và Bính Ngọ (1966). Trâu thêm một luống cày là hai năm Tân Sửu (1961) và Quý Sửu (1973). Hai vần mây và say nhắc tên hai tập thơ đầu tay ; Nửa đêm trừ tịch là tên một bài thơ. Nghé kêu đầy Bến ngụ ý bài thơ làm tại Sài Gòn, tên cũ là Bến Nghé.

              Sau đó, hiệp định Paris ký ngày 27.1.1973, chấm dứt chiến tranh Việt Nam trên giấy tờ. Ngay ngày Tết Quý Sửu, Vũ Hoàng Chương có thơ kịp thời ghi dấu :

              Ma là Người ... kiếp khác
              Người là Trời ... đêm nay
              Nghe chừng lửa đã tắt
              Hai bờ Con-Sông này
              ờ nhỉ ! đâu còn Vết Cắt
              Sao lòng ai vẫn chưa hay ?
              Nằm kia, người nín bặt
              Vòng luân hồi đã ngược chiều quay
              Ma thôi vất vưởng, trời thôi lưu đày
              (Tin Xuân)


              Vũ Hoàng Chương là người thiết tha với vận mệnh dân tộc và đất nước, gắn bó với kỷ niệm Hàng Khay Hàng Trống hoa nào rụng, nhất định phải kỳ vọng vào hiệp định 27.1.1973 sẽ mang lại thanh bình cho đất nước, và ngày thống nhất sẽ không xa. Dù rằng kỳ vọng ấy chỉ rung một giây đàn lẻ loi, và sau này sẽ không đúng với thực tế : đất nước sẽ thanh bình và thống nhất, nhưng trong những điều kiện khác – mà Vũ Hoàng Chương sẽ là nạn nhân.

              Năm 1974, Tết Giáp Dần, thi nhân có bài Thuý Vũ Ðoản Từ, trích toàn văn, vì ít người còn lưu giữ :

              Cỏ Bồ ôm đá ngủ
              Trong tranh từ bao giờ
              Cho đến bây giờ
              Còn say trong thơ
              Vườn bỗng hót vang chim Thuý Vũ
              Ðèn xanh nến biếc đêm giao thừa
              Nét bút gầy theo mực úa
              Bao năm rồi tiêu sơ
              Có phải xuân đang từ đáy lụa
              Một chiều sâu không ai ngờ
              Truyền tin về giấc mơ
              ánh nguyệt mung lung cành lãng đãng
              Nghe lòng trời đất ươm tơ
              Nguyệt vẽ mày cong dĩ vãng
              Cành đơn hoa trắng tương tư
              Ôi thôi áo vải đã màu nâu thuyền đã hư
              Mối manh gì nữa còn ai nữa
              Ðành kết vào hương Thuý vũ từ


              Tác giả giải thích : Thuý Vũ nguyên là tên một loài chim, sau thành tên một loài hoa : hoa mai trắng, nhiều cánh và nhỏ hơn Bạch Mai . Nói là thơ xuân, kỳ thực bài này nằm giữa mộng và thực. Nó quý ở chỗ phản ánh tâm trạng của tác giả thời đó, ông sẽ viết " ta đành mất hết để còn nhau " (Huyền Lan Trường Từ, cuối xuân Giáp Dần 1974).

              * * *

              Thơ xuân thơ Tết cuối cùng của Vũ Hoàng Chương là bài Vịnh Tranh Gà Lợn, làm vào ngày Tết Bính Thìn, 1976. Bài thơ được truyền tụng nhờ được truyền khẩu. Nhưng cũng vì truyền khẩu, nên nhiều dị bản khác nhau, nhiều bản sai lạc, vô nghĩa. Bà Vũ Hoàng Chương đã than phiền và ghi lại cho chúng tôi chính văn :

              Vịnh tranh Gà Lợn

              Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành
              Gà lợn, om sòm rối bức tranh
              Rằng vách có tai, thơ có hoạ
              Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
              Mắt gà huynh đệ bao lần quáng
              Lòng lợn âm dương một tấc thành
              Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn
              Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh


              Bà Vũ Hoàng Chương ghi chú : Thơ có hoạ có ba nghĩa : thơ có xướng thì phải có hoạ, gọi là thơ xướng hoạ : thơ phản nghịch là tai hoạ ; và thơ hoạ (vẽ) ra tranh. Vũ Hoàng Chương nổi tiếng là uyên bác : thơ ông thường sử dụng nhiều điển cố. Ðặc biệt bài này ông sử dụng tục ngữ, theo truyền thống Nguyễn Trãi, Nguyễn Du. Bà Vũ Hoàng Chương lưu ý đến những tục ngữ : " dừng có mạch, vách có tai " ; " xanh vỏ đỏ lòng ". Nhưng còn nhiều thành ngữ, tục ngữ khác như : " tranh tối tranh sáng ", " mắt xanh ", " mắt quáng gà ", " gà cùng một mẹ ", " lợn âm dương ", " con gà cục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi ". " Khúc tân thanh " ngụ ý " đoạn trường " . Còn ý nghĩa, ngụ ý dí dỏm nhưng thâm trầm của từng câu, từng chữ thì chúng tôi xin miễn giải thích, sợ làm mất cái duyên ngầm của bài thơ.

              Chỉ mong văn giới ghi nhận : đây là văn bản chính thức của bài Vịnh tranh Gà Lợn của Vũ Hoàng Chương làm vào dịp Tết Bính Thìn 1976. Bà Vũ Hoàng Chương và chúng tôi chịu trách nhiệm về 56 chữ trong văn bản. Những dị bản khác nên xem như là truyền khẩu, " tam sao ", được phổ biến trong nghịch cảnh. Sau đó nhà thơ Vũ Hoàng Chương bị bắt, giam ở ngục Chí Hoà, bị bệnh nặng, đưa về nhà mấy hôm thì mất, ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bình Thìn, lúc 23 giờ.

              * * *

              Tóm lại, ở thời trai trẻ Vũ Hoàng Chương ít có thơ Xuân trong các tập Thơ Say, Mây, Rừng Phong. Sau ngày di cư vào Nam, thơ xuân của ông thường là hoài niệm hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay. Khoảng mươi năm về sau, ông có nhiều thơ xuân mỗi năm vì yêu cầu của báo giới ; vả lại, ông thường dùng thể thơ ngắn, gọi là nhị thập bát tú, dễ sử dụng để ký hoạ một tâm trạng, một biến cố lịch sử. Do đó, những bài thơ hoàn cảnh lại là những bài thơ thời thế và thân thế giàu sử liệu và tư liệu.

              Chúng tôi sưu tầm và giới thiệu thơ xuân của Vũ Hoàng Chương qua nhiều giai đoạn, để bạn đọc và văn giới có một chuỗi tư liệu. Nhưng nhất định là thiếu sót, nhất là những bài thơ đăng rải rác trên báo, hay rất nhiều thơ xuân thù tạc gửi bằng hữu.

              Dùng từ cho chính xác, có thể nói là Vũ Hoàng Chương làm nhiều thơ Tết và ít thơ xuân. Và nói chung, thơ xuân Vũ Hoàng Chương, ở cái phần đọng lại trong lòng người đọc thường là :

              Hương mùa-xuân-mất ngậm ngùi bay.

              Người đời vẫn mơ ước những thành đạt làm nên sự nghiệp. Nhưng có những sự nghiệp lớn lao hình thành trên mất mát.
              Cao quý và thiêng liêng thay, một sự nghiệp làm bằng mất mát.


              Ðặng Tiến

              ----------------------------

              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

              Comment

              • #22

                Thay cho lời chúc Tết bằng bài hát này nhé!

                Comment

                • #23

                  Nỗi niềm hoài cổ


                  Nỗi niềm hoài cổ
                  Di Li

                  Tôi có cô bạn lấy chồng Mỹ, giờ sống ở San Francisco. Cô ấy bảo rằng cái thời còn du học ở London, năm nào cũng cứ đến giờ khắc giao thừa là cô lại cảm thấy vô cùng cô đơn và nhớ nhà.
                  Tôi chưa sống lâu nơi xứ người bao giờ, càng chưa bao giờ được hưởng một cái Tết Nguyên đán ở nơi không phải nhà của mình nên ngạc nhiên vì điều này lắm. Tôi cứ cho rằng người Việt sinh sống ở nước ngoài chỉ có thể cô đơn khi nước người vào Giáng sinh, nước người nhộn nhịp náo nức đón dịp nghỉ lễ và quần tụ gia đình, lúc ấy mình thấy mình thừa ra thì mới đâm cảm thấy lạc lõng. Chứ ngày Tết Nguyên đán, người xứ họ vẫn đi làm bình thường, thì đâu có cảm giác ấy. Song sau rất nhiều người Việt ở nước ngoài cũng nói với tôi cảm giác này, cái cảm giác cứ đến ngày Tết Nguyên đán là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương trong lòng họ lại rộn lên, hệt một phản xạ có điều kiện.

                  Cô bạn tôi kể về cái Tết đầu tiên ở London, cô cũng chuẩn bị cho ngày lễ như ở nhà: dọn dẹp thật sạch nhà cửa; không có hoa đào, hoa mai hay cây quất làm cảnh nhưng cô mua được một bó hoa để trang hoàng cho căn phòng thuê bé tí tẹo của mình. “Sáng mồng Một tôi cũng tìm được đến một ngôi chùa của Việt Nam sau hàng giờ liền ngồi trên xe buýt, để thắp nén hương cầu an” - cô nói.

                  Với người phương Tây, có lẽ Giáng sinh là dịp duy nhất để họ quây quần đủ đầy cùng gia đình sau một năm vô cùng bận rộn. Dù ở bất cứ đâu trên thế giới, thế nào Giáng sinh họ cũng phải bay về nhà tham dự giờ khắc thiêng liêng này. Tết Tây họ dành cho bạn bè là phần nhiều, còn Giáng sinh nhất thiết phải được ở bên những người thân. Tết Nguyên đán đối với dân mình có khi còn quan trọng hơn Giáng sinh đối với người phương Tây. Người ta bận rộn cho Tết từ cả tháng trước đó. Tướng Westmoreland* cũng đã miêu tả trong hồi ký của mình về Tết của Việt Nam: “Người Mỹ không có cái lễ nào giống dù là giống một cách xa xôi với cái Tết Việt Nam bắt đầu từ ngày đầu năm âm lịch. Dù so sánh nó với lễ Giáng sinh, lễ Tạ ơn và ngày 4-7 cũng không đủ để nói lên tầm quan trọng mà người Việt Nam gắn bó với cái Tết của họ. Trước Tết hàng mấy tuần lễ, các bà nội trợ Việt Nam đã gói bánh chưng bằng nếp dẻo bên trong những chiếc lá dong mùi rất thơm. Người ta bày bán chè, bánh kẹo, rượu, nếp, mua sắm quần áo mới, trang hoàng nhà ở bằng các thứ hoa. Người thân chuẩn bị về quê làm lễ cúng ông bà, tổ tiên. Trẻ em mường tượng sẽ được mừng tuổi bằng kẹo bánh và giấy bạc 5 đồng. Không có gì, thậm chí cả một cuộc chiến tranh để sống còn, lại có thể cản được lễ Tết”. Các tài liệu sau này cũng cho thấy rằng trong dịp Tết Mậu Thân, ít ra tới nửa quân số của Quân đội Sài Gòn về quê ăn Tết và chính Tổng thống miền Nam Nguyễn Văn Thiệu cũng về quê vợ ăn Tết ở Mỹ Tho.

                  Tôi từng chứng kiến nhiều chủ doanh nghiệp nước ngoài nổi khùng lên vì cứ đến Tết là nhân viên nghỉ rất dài ngày. Họ muốn công việc của họ được liên tục. Thậm chí ngay cả khi công việc đang đến hồi nước rút mà đùng cái vào Tết thì dù có trả lương gấp đôi, gấp ba nhân viên cũng không làm. Sống chết gì nhân viên cũng phải nghỉ ăn Tết. Có một số khách nước ngoài đi du lịch bụi Việt Nam vào dịp Tết Nguyên đán chỉ với mục đích khám phá lễ hội thì thực gặp hạn. Họ than phiền rằng quán xá, cửa hàng cửa hiệu đóng cửa im ỉm. Chỗ vui chơi không có, ăn uống thì không, chỉ còn thú vui duy nhất là vãn cảnh chùa và đi xem pháo hoa vào đêm Giao thừa.

                  Nói vậy là để thấy Tết Nguyên đán của chúng ta quan trọng đến thế nào, nhưng quan trọng đôi khi không đồng nghĩa với việc đón chờ nó. Càng ngày tôi càng thấy nhiều người than phiền về cái nỗi “sợ Tết”, “chán Tết”. Tôi còn nhớ nguyên vẹn cảm xúc của những cái Tết cách đây hai chục năm, khi mà tôi háo hức chờ đợi một bộ quần áo mới, khi mà tôi quẩn quanh cha mẹ trong không khí chộn rộn của cái sự sắm Tết và chuẩn bị cho Tết. Mẹ tôi chất kìn kìn trên xe những lá dong, gạo nếp, gà trống thiến, bưởi bòng và dăm cành lay-ơn, thược dược, violet mỗi lần đi chợ về. Cha tôi chọn mua một bánh pháo dài hai mét mà ông dự đoán năm nay nó sẽ nổ rất đanh. Chúng tôi làm mứt bí, mứt cà chua, cà rốt thơm phức mùi đường sấy. Và tôi góp phần trang trí kim tuyến lên những cành đào. Nhưng càng ngày những cảm giác ấy càng mờ nhạt như một thứ hồi ức đã trải dài từ xa lắc. Ngày nay chúng ta không cần phải chờ đến Tết mới được sắm quần áo mới, không phải chờ đến Tết mới được ăn con gà, miếng bánh chưng và mứt bí. Những thứ ấy có quanh năm. Thậm chí giờ không chỉ lay-ơn, thược dược, violet mà ngày thường chúng ta cũng mua hoa về cắm trong lọ, đủ thứ hoa xa xỉ, từ các loại hồng Đà Lạt cho đến ly trắng, rum, salem và địa lan. Không cần chờ đến Tết mới tích cóp tiền mua chiếc vô tuyến mới mà nhiều nhà giờ phòng nào cũng có vô tuyến. Trước, ngày mùng Năm chợ còn lác đác. Nay mùng Hai người ta đã họp chợ, chỉ có điều là đắt, giá cả tăng và chỉ giảm dần cho đến tận Nguyên tiêu. Hàng quán mùng Ba hầu như đã mở cửa. Thậm chí chuỗi nhà hàng Ý Pepperonis còn quảng cáo từ năm trước rằng sẽ mở hàng ngay từ sáng mùng Một, nhân viên mang đồ phục vụ tận nhà. Vậy là các thực khách cứ thế nhấc điện thoại gọi pizza, spaghetti về ăn thay bánh chưng, canh măng và bóng xào cho đỡ cái sự nấu nướng. Ngày Tết xưa vắng tanh, đường phố trong cái lạnh đang ngấm vào tận da thịt cũng là mang lại cảm xúc. Nhưng Tết giờ phố phường không còn vắng lắm nữa, và khí hậu dường cũng đang nóng dần lên.

                  Nhiều người sợ Tết. Đàn ông sợ Tết sẽ cản trở công việc đang chạy. Đàn bà sợ Tết Ôsin về quê hết sẽ phải nai lưng ra mà làm Ôsin. Tết là phải thăm viếng, tiếp đón họ hàng, cả những người ưa thích và những người không ưa thích. Tết là phải đôn đáo ngược xuôi lo quà biếu, người biết ơn nhiều và người biết ơn ít, mỗi người quà một kiểu. Phức tạp lắm. Mệt mỏi lắm. Tết cũng là phát khổ cho những người đơn chiếc. Cũng có những người, vì lý do mưu sinh mà Tết không được về thăm quê nhà, đành đoạn ở lại thành phố, mới thấy cái thời khắc Giao thừa ấy như tra tấn, mới chỉ đành mong mong cho qua ba ngày Tết.

                  Vài năm trở lại đây, Tết người ta bỏ nhà đi du lịch nhiều. Thanh niên trai trẻ trong hội phượt đi du lịch bụi túm năm tụm ba đã đành, giờ đến cả người già cũng thấy chán Tết mà đi du lịch. Chỉ có điều người trẻ trốn đi du lịch từ 25 tháng Chạp cho đến hết mùng Năm mới về, còn người già chỉ dám khởi hành từ mùng Hai, để Giao thừa và mùng Một vẫn làm đầy đủ phận sự cúng gia tiên và vấn an các bậc trưởng lão trong họ. Thành thử các công ty du lịch hốt bạc trong dịp lễ Tết, một dịp tưởng chừng như không ai muốn đi đâu ngoài cửa nhà.

                  Năm vừa rồi tôi đón Tết ở Sa Pa, Hà Khẩu. Đằng nào thì cũng được hưởng không khí Tết với đào với mận và những dòng người Mông, Dao lũ lượt ngoài cổng chợ phiên. Thị trấn Sa Pa vẫn náo nức như thường vì các cửa hàng cửa hiệu hầu như không đóng cửa để phục vụ khách du lịch. Ngày Tết, người ta vẫn có thể vào quán bar uống một ly cocktail hay ngồi hút shisha bên lò sưởi. Phố đồ nướng vỉa hè vẫn hoạt động rôm rả với đủ món cơm lam, khoai nướng và trứng gà nướng. Nhà hàng kiểu Pháp vẫn phục vụ súp kem nấm bí đỏ và tôm sốt rượu vang. Tịnh chẳng hề thấy vị bánh chưng, canh măng đâu nữa. Thôi thì giờ không khí Tết đã khác xưa nhiều. Cũng may người ta chưa thay đào, quất, mận, mai bằng những giống hoa khác. Nếu không, những gì người Việt ở hải ngoại đang cố gắng sắm sanh, trang hoàng cho ngày Tết rồi ra cũng chỉ còn là một nỗi niềm hoài cổ.

                  Di Li

                  ----------------------------

                  Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                  Comment

                  • #24

                    Ngày Tết Nhớ Mẹ




                    Lúc tôi “gõ” những dòng chữ này thì u tôi vừa mừng sinh nhật lần thứ một trăm. Bây giờ u tôi hoàn toàn bị lẫn, không còn biết gì nữa. Con cái ngồi bên cạnh cũng chẳng biết là ai. Đầu óc gần như không còn hoạt động nhưng cơ thể thì vẫn khoẻ mạnh. Những chuyện bốn năm chục năm về trước, u tôi nhớ đến từng chi tiết. Chuyện gì mới xẩy ra ngày hôm nay hoặc cách vài ba năm thì lại quên chẳng biết đâu vào đâu. U tôi vẫn đi lại ăn uống bình thường và không hề phải dùng bất cứ loại thuốc men gì. Mỗi ngày u tôi còn nhai nát mấy quả cau. Lúc nào u tôi cũng cười, môi đỏ tươi, chuyện trò rôm rả, “Cốt trầu đỏ thắm làn môi mẹ.” Ở vào tuổi của u tôi mà có được sức khoẻ như vậy cũng hiếm lắm. Ông chú tôi cứ nói đùa:

                    “Ngày trước, mỗi lần sinh các anh chị thì bác uống đến mấy chục bát nước đái nên bây giờ mới được như vậy.”

                    Tôi nhớ cách đây có đến mười năm, ông Thủ Tướng Ấn Ðộ khuyên dân chúng mỗi ngày nên uống lấy một bát nước đái. Bản thân ông ngày nào cũng đái vào cái ly rồi uống chính nước đái của ông. Chắc là ông Thủ Tướng phải kinh qua những kinh nghiệm bản thân cũng như có nhiều dữ kiện chắc chắn nên mới khuyên bảo dân chúng như vậy.

                    U tôi là thường trú nhân của nuớc Mỹ nhưng vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Đã mấy năm nay u tôi “cư trú bất hợp pháp” ngay trên quê hương mình. Cứ mỗi ba tháng u tôi phải “nộp phạt” bốn trăm ngàn đồng bạc Việt Nam vì “tội” cư ngụ trong ngôi nhà trên nền đất thấm ướt mồ hôi và nước mắt của chính mình. Cả cuộc đời của u tôi là một chuỗi ngày vất vả khó nhọc. Đến tuổi già cũng được an nhàn, các con cháu hết lòng phụng dưỡng nên u tôi cũng phần nào được an ủi và yên lòng. Trải qua bao nhiêu cay đắng nhục nhằn của cuộc đời, u tôi vẫn luôn vui vẻ chịu đựng và phó thác tất cả trong sự quan phòng của Thiên Chúa. U tôi rất ngoan đạo, mỗi ngày vài ba lần đi nhà thờ cầu nguyện. Trong nhà lúc nào cũng rầm rì những câu kinh, buổi sáng lúc vừa thức dậy, buổi tối trước khi đi ngủ. U tôi thuộc nhiều bài hát đạo, thỉnh thoảng cũng cất tiếng hát một mình rất nhỏ nhẹ và cung kính. Chắc thời con gái u tôi cũng đã là một ca viên trong hội hát của nhà thờ. Tiếng hát con gái của u tôi phải mượt mà như giải lụa dưới nắng xuân, phải tinh khôi trong suốt như khối thủy tinh trong nắng hè.

                    Năm mới đến với những ngày Tết vui tươi rộn ràng. Người giầu có Tết của người giầu với cỗ bàn đủ món, quần áo lụa là đủ bộ. Người nghèo manh áo vá che thân, ngày đầu năm dè dặt đụng đũa miếng thịt gọi là hơi hướm “Tết Nhất.” Nhưng giầu hay nghèo thì ai cũng hy vọng, cũng mơ ước vào ngày tháng trong năm mới được khoẻ mạnh hơn, may mắn hơn, cơm no hơn và áo ấm hơn.

                    Những ngày Tết năm xưa đang chạy nhẩy trong tôi, quê hương mến thương xa đến nửa vòng trái đất và lại không được ngồi bên cạnh người mẹ yêu qúy trong giây phút giao hòa của Trời Đất. Quang cảnh chợ Tết và bao nhiêu niềm vui của ngày Tết lúc tôi mới lên năm tuổi đang lao xao chạy nhẩy trên chuyến xe u tôi cõng tôi đưa về miền dĩ vãng. U tôi dắt tay tôi đi chợ Tết, tay kia xách một cái bị cói. Hôm nay u tôi diện đẹp lắm. Khăn nhung quần lĩnh, áo len mầu đỏ thẫm, lưng thắt ruột tượng mầu xanh da trời buông thõng bên hông. Thời con gái u tôi là một thiếu nữ xinh đẹp nhất vùng. Chẳng thế mà thày tôi, một học sinh đã nhiều năm “nói tiếng tây nhiều hơn tiếng ta” và quen với lối sống thành thị đã “phải lòng” u tôi. Mãi đến cách đây mấy năm, u tôi vẫn còn nhớ lại ngày cưới với hơn một trăm chiếc xe tay và tiệc tùng đình đám đến cả hơn tuần lễ.

                    Đường đê dưới cơn mưa phùn ở miền Bắc chỉ hơi ẩm ướt. Những vạt hoa cải vàng nhạt nhòa dưới chân đê chạy dài ra đến tận bờ sông. U tôi rón rén bước đi nhẹ nhàng dưới làn nước mờ sương của buổi sớm mai lúc Trời Đất chuyển mình bước sang Xuân. Tiếng người gọi nhau nói cười rộn rã. Ai cũng hớn hở chờ đón những ngày tháng trong năm mới tràn đầy phúc lộc và thật nhiều may mắn. Con đường đi đến chợ huyện tràn ngập những xôn xao rộn ràng của một mùa Xuân mới. Đến chợ Huyện, u tôi mua cho tôi hai cái bánh rán. Chiếc bánh rán tròn như quả quít, lớp mật bóng nhẫy dưới những hạt vừng óng ả vàng rộm. Nhân đậu xanh ngậy mùi đường mía thơm ngào ngạt. Tôi bám áo u tôi đi xem chợ, vừa ăn bánh vừa xem một ông già làm những con “tò-he” đủ mầu sắc với nhiều hình thù của muông thú. Phiên chợ ngày Tết chắc hẳn phải nhiều người mua bán hơn những buổi chợ quanh năm. Người đi người đến ai cũng có vẻ vội vàng tất bật mua bán. Gặp những người trong làng, u tôi đều đứng lại chuyện trò một lúc. Chuyện mùa màng, chuyện sắm sửa những vật dụng và đồ ăn thức uống cho ba ngày Tết.

                    Chợ Tết ở nơi thôn dã nghèo nàn nhưng thật vui vẻ. Mọi người ai cũng muốn quên đi những khó nhọc vất vả trong năm, những buồn phiền lo lắng cũng được xếp lại một xó để có được một niềm vui sau những ngày dầm mưa giãi nắng ngoài đồng ruộng,“bán mặt cho đất bán lưng cho trời.” Cô hàng xén cười tươi, áo nâu non quần lĩnh đen nhánh, cất lời chào hỏi mời mọc mua bán. Giọng chào hàng trong trẻo thật duyên dáng của cô hàng xén như cầm chân đám trai tráng ngẩn ngơ nhìn. Những chiếc bút máy bên một chồng vở còn thơm mùi giấy của cô hàng xén là một ước ao của tôi nhưng ước ao ấy chỉ là mộng mơ vào những ngày mới chập chững đánh vần tập đọc. Ông hàng thịt mặt mũi bóng nhẫy, tay dao tay thớt hò hét sai bảo vợ con. Thày u tôi đánh đụng với chú tôi con lợn gần một tạ, đủ thịt để làm giò nem ninh mọc trong suốt cả những ngày Tết kéo dài cho đến giữa tháng Giêng. U tôi đi ngang qua hàng thịt nhưng cũng đứng lại hỏi han xem giá cả ra sao. Cụ lang ngồi giữa hai bồ đựng thuốc Nam bắt mạch hốt thuốc; mùi thơm của những vị thuốc Bắc thoang thoảng trong cơn gió nhẹ. Ông thầy bói ngồi chồm hổm ngáp vặt chờ thân chủ, đôi kính đen như mờ mịt sau cây nhang đã gần tàn, hai cái chân gà khô khẳng khiu trong một cái đĩa đặt trên mặt tráp nhìn thật trơ trọi như vận may rủi của chính ông thầy. Chỗ ngồi của người bán rau quả chiếm gần nửa chợ. Những bó cải ngồng non xanh biếc bên cạnh rổ quýt vàng thẫm. Rau thơm rau mùi chẳng thiếu thứ nào. Mấy bà hàng rau khăn mỏ quạ kín đầu, bã trầu đỏ thắm cắn răng chuyện trò ầm ĩ. Mấy tiếng cãi nhau lọt thỏm vào tiếng nói tiếng cười hớn hơ mừng Xuân đón Tết.

                    Đến gần trưa, u tôi dẫn tôi đến khu hàng quán ăn uống. Gánh phở, hàng thịt chó, hàng bán lòng lợn tiết canh và nhiều thức ăn uống khác. U tôi xà vào một gánh bún riêu có vẻ quen thuộc. Gọi là gánh bún riêu nhưng khi cô hàng dọn lên chiếc mẹt có một nắm rau chuối rau thơm thì hai bát “bún” lại là bánh đúc thái nhỏ. Gạch cua đồng nổi lềnh bềnh trên bát “bún” lấm tấm vàng. Nước canh cua ngọt lịm thơm ngai ngái mùi đất. Chắc là những con cua từ trong hang bò ra chưa kịp rũ sạch bùn đất đã bò vào nồi làm món ăn ngọt ngào thơm ngon cho người dân quê. Tôi cũng được ăn một bát to như bát của u tôi, húp cạn bát mà vẫn thòm thèm. Ăn xong cô hàng bún cho tôi một cái kẹo bột và mời u tôi miếng trầu. Chuyện trò qua lại với cô hàng bún một lúc rồi u tôi dẫn tôi sang chỗ bán đồ chơi cho trẻ con. U tôi mua cho tôi một con gà làm bằng đất. Con gà trống có cái mào đỏ chót và bộ lông vàng mượt. Trên lưng con gà có một cái ống còn thơm mùi tre, tôi thổi hết hơi vào, con gà gáy vang trời. Thích quá! U tôi còn mua cho tôi một bức tranh Tết vẽ một đám lợn con đang bú mẹ. Con lợn xề nằm lim dim mắt âu yếm đàn con. Năm nay tôi đã biết đọc biết viết nhưng đêm đến tôi vẫn rúc vào nách u tôi ngủ mê mệt. Hơi ấm của u tôi là bếp lửa mến yêu, dạt dào lòng mẹ bao bọc chở che.

                    Sắm sửa Tết cho tôi xong rồi, u tôi mới đến chỗ bán mật. Bà bán mật gặp khách hàng quen cầm tay u tôi mời chào rối rít. U tôi lấy trong bị cói ra một cái lọ sành mua đầy mật rồi cũng mua một lọ chè Tầu và vài loại mứt cho ngày Tết. Đến hàng bán vải vóc thì u tôi mới thực sự bận rộn so sánh hàng tốt xấu và giá cả cho khỏi bị hớ. Tiếng xé những vuông vải đủ mầu xoàn xoạt trong gió. U tôi mua vải cho cả nhà để sang Xuân gọi thợ may đến đo cắt. U tôi cũng không quên mua vải để khâu cho bà nội tôi cái áo bông.

                    Chợ búa mua sắm xong thì cũng đã đến giờ phải đi về. U tôi một tay xách cái bị cói, tay kia cặp những xấp vải còn thơm bột hồ đi trên đường đê. Tôi nắm áo u tôi nhẩy chân sáo giữa những người đi người về. Ai cũng cười cợt chuyện trò to tiếng. Các bà mời nhau ăn trầu, các ông dừng chân bên bờ đê mang cái điếu cầy ra hút thuốc lào khói mù mịt. Lúc xuống khỏi bờ đê rẽ xuống con đường ngay đình làng, u tôi bảo đến mùng năm Tết có phường hát đến “làm trò.” Tôi chưa được xem “làm trò” bao giờ nên cũng không có gì thích thú. Tôi thích ở nhà thổi con gà trống gáy và chơi cục pháo xiết. Tiếng gáy của con gà trống và tiếng lẹt đẹt của cục pháo xiết là Tết, là mùa Xuân mới rộn ràng của tôi.

                    Tôi gọi điện thoại về chúc thọ và mừng tuổi u tôi:

                    “U có khoẻ không? U ăn Tết có to không?”

                    Tiếng nói của u tôi vẫn to và khỏe, giọng thật vui:

                    “Cám ơn ông, Chúa thương tôi vẫn khỏe. Chiều nay mời ông về sơi cơm nhá.”

                    U tôi đã không nhận ra được tiếng nói của đứa con mà u đã mang nặng đẻ đau. Tôi ngậm ngùi chưa biết nói gì thì u tôi tiếp:

                    “Cây quít nhà mình sai quả lắm. Mấy con lợn chóng nhớn quá.”

                    Cây quít và mấy con lợn u tôi nói đến là chuyện ngày xửa ngày xưa, nơi chốn mà u tôi đã cầm tay dắt tôi đi chợ Tết, một làng quê nhỏ bé nghèo nàn dưới chân núi Gôi cạnh dòng sông Lò Gạch bốn mùa nước đỏ quạch như nhuộm phẩm. U tôi vẫn còn những ngày Tết đầy hương sắc với một trời kỷ niệm và một mùa Xuân vui tươi chan hoà Hồng Ân.


                    Trương Phú Thú

                    Comment

                    • #25


                      Nàng Xuân Ghen !!!



                      Nàng xuân ghen giận má hây hây
                      Chúm chím cặp môi, động chân mầy
                      Chàng Đông mãi vờn hoa ... chẳng biết ...
                      Để nàng Xuân giận ... thấy thương thay !

                      Ngàn sắc hoa thắm trải đường xuân
                      Đua nhau khoe sắc toả thơm ngần
                      Nàng Hồng ... Chao ôi, môi đỏ thắm
                      Cô Đào tha thướt lụa là hơn!

                      Nàng Mai thuần tuý vẻ ngất ngây ...
                      Thân Lan ngọc ngà trong đắm say ...
                      Nàng Huệ nõn nà thơm ngào ngạt
                      Cúc Vàng tươi thắm tươi cả ngày

                      Ối !!! Nàng nào cũng hổng bằng ta
                      Ta là Chúa Xuân khắp mọi nhà
                      Mang nguồn tươi vui đầy hy vọng
                      Ắt hẳn nàng nào cũng thua xa ...!


                      Uyên Ương


                      [ame]http://www.esnips.com/doc/5e0b7ad6-b517-487b-a25d-d4345fad0c3f/13-Lung-Linh-Nang-Xuan---Thanh-Thao[/ame]

                      Comment

                      • #26



                        Mùa xuân bên ấy
                        Thái Kim Lan


                        Cung cách đón tết Huế gần như một cuộc hành đạo nếp sống Huế, trong đó mỹ cảm và tâm cảm, đạo làm người trong bước đi “đẹp lòng” với người với cảnh, là một không hai.

                        Mưa đầu truông xuống đầu nguồn
                        Mùa xuân tấm tức bên triền mây trôi
                        (Bùi Giáng)

                        Ðêm đã sâu hơn giờ thường…hình như cái đêm trước ngày lên đường thường sâu hoắm như thế…vì giấc ngủ không an… thấp thỏm màu đen lún xuống quầng thâm của mắt như chìm vào vũng lầy bùn non của cơn lụt vừa qua…Giấc ngủ chập chờn quẩn quanh, lãng đãng những ý tưởng gần xa không rõ nét…

                        Những lúc như thế tai thường lắng nghe và nhận rõ tất cả những tiếng động trong đêm. Ðêm mùa đông, trời không gió, con phố Bạch Ðằng bên hữu ngạn sông Hương như rỗng ở hai đầu, im vắng lân la trên đường, nghe như dừng lại chần chờ trước mỗi ngưỡng cửa những căn nhà ngủ say, rồi lẩn vào trong bóng cây hột mác bên bờ sông, thăm thẳm như bị hút vào khoảng không chới với trên sông …Cơn im lặng trải ra đột ngột vào lúc quá khuya, bởi vì tiếng động hàng xóm chung quanh nơi khu phố này lịch kịch từ sáng cho đến tối đã ngừng hẳn, nó cho biết đêm đã rất sâu…như đang rình giờ sáng, ngày mai đi…rời Huế…

                        Thì đi, không nên dây dưa như những lần trước, dứt khoát mà đi, đừng có nhớ nhung lôi thôi kiểu Huế, nhớ này nhớ nọ mất công, lòng dặn lòng như thế, nằm nghiêng cánh gối, như chuẩn bị một thế hờ hững với mọi ngổn ngang có thể có vài giờ sau…

                        Rồi bỗng…- có hẹn không mà lại đúng hẹn đến thế không ngờ ? - lách tách trên mái ngói những tiếng dài ngắn không đều, nhặt khoan mà vội vả như muốn đến trước cơn gió thốc chạy theo, âm vang nhỏ nhẻ trong giây lát mơ hồ như tiếng phân trần không muốn làm rộn giấc ngủ của con người, rồi thoáng sau không chút kiêng dè, mưa ào ạt sạt sào trên mái ngói.

                        Mưa! Mưa Huế thường đến như thế giữa giấc ngủ nửa đêm, nửa ồn ào đánh thức nửa vỗ về cơn mộng triệu đang say. Ai ngủ mê thì chỉ cần trở mình, nghe thú vị êm ấm trong chăn đến cùng với tiếng mau sầm sập, còn ai đang thao thức thì đành ôm mưa vào lòng ngao ngán chờ ngày sáng ra.

                        Mưa! mưa về giữa khuya là đề tài muôn thuở của Huế…mà quả tình mưa đêm của Huế da diết lạ thường. Tiếng mưa trên mái ngói nhà Huế âm vang cũng khác mưa Sài gòn, mưa Hà nội, mưa Muenchen. Dù mưa chợt về mà như đã hẹn từ lâu, dù mưa vừa rơi trên mái mà nghe như đã có độ nghìn xưa, dù mưa đến bằng tiếng chân xa lạ, mà nghe quen thân như trăm năm bến cũ, dù mưa bay qua biển rộng bao la mà nghe gần gủi lá chuối lá cau bên hiên cũ một thời… Và cứ thế mà mưa…mà mưa…mà mưa… như mưa Huế, cho đến một lúc nào không hay, trong chiếc võng phù du chơi vơi đầu này cuối nọ ấy, hồn người bỗng dưng như bị mắc mưa“…vùng vẫy trong lưới mưa, chìm lĩm trong tiếng mưa, khó thoát.

                        A cái cơn mưa Huế ấy, đố ai mà gỡ được cho ra…khi đã mắc vào, nhỏ nhẹ thiết tha mà tinh quái gớm! Cứ không hẹn mà đến thật đúng giờ…cái giờ ngắc ngoải sắp lên đường xa Huế đó… thế là mưa xuống đúng thì, cứ như một lời níu áo cầm chân…và vu vơ kể lể xa gần, thủ thỉ nào là nào là, năm nay xuân sắp đến rồi, lạnh cũng qua đi, răng không ở lại đón xuân quê hương một lần, tết Huế thân thương như áo xanh áo đỏ một thời…Nì, đã hơn mươi năm không ăn tết, không nhớ nồi bánh chưng bên bếp lửa hay răng, mà bỏ đi đành đi đoạn…Răng không ở lại thêm, chỉ còn mươi ngày nữa là đến Tết mà bỏ Huế mà đi …

                        Rõ thật lôi thôi cơn mưa Huế nằn nì bên gối của kẻ sắp lên đường! Lần này thì phải dứt khoát, mưa thì mặc mưa, mai lên đường, mà con mắt ráo hoảnh, mà tim lạnh tanh, mà chân quả quyết, mà tay vẫy nhanh… hãy bỏ cái thói nghe mưa não nề, để đi là đi… Này cơn mưa, ta úp mặt vào gối nhé và ngủ đi cái tôi Huế thường hay nhão nhẹt trong mưa ! với tấm lòng dửng dưng…ngoài kia có mưa chi nữa, thì mặc trời mưa…

                        Lên xe khởi hành với chút lạnh sửng trong lòng. Mưa cũng đã tạnh từ sáng sớm. Khí trời còn đục ngầu hơi nước, nhưng chân mây đã nhuốm được chút ánh hồng của mặt trời ngái ngủ trên Cồn hến xa xa. Mùa đông Huế chắt chiu một chút duyên trên những lá bàng vàng đỏ loáng thoáng trên đường đi. Phượng xanh mướt xơ rơ trên đường trước khi qua cầu Trường Tiền. Sông Hương lất phất trong sương mù.

                        Xe băng qua con đường thuở trước là cánh đồng lúa de „ngài ngự“ dẫn đến chợ An Cựu rồi qua sông An Cựu. Bánh xe lạch cạch lăn trên đường trốc ổ gà. Ðường đi Phủ bài lần nào cũng hun hút, gần mà như xa, cây hai bên đường bất động, kiên nhẫn chờ cơn nắng dậy muộn để cựa mình. Khi xe quành khỏi khúc quẹo giàng xay, mặt trời đã le lói chiếu xuyên qua màn hơi nước màu lam nhạt, tôi đã tưởng mình thoát nợ mưa, để rộng lòng xa Huế mà không buồn.

                        Nhưng sự lạnh lùng không lâu hơn cái khúc quẹo, nó vỡ òa sau khúc quẹo Giàng xay, chưa xa nơi ánh phản chiếu của vũng nước mưa còn đọng lại trên đường, nơi đó có một mảnh trời thấp thoáng mây xanh vừa hé, bóng vài ngọn lá của đọt sầu đông còn hiếm hoi sót lại bên vệ đường lấp lánh trong nước. Xe chạy không nhanh còn đủ vài giây để thấy những hòn cuội lăn lóc xung quanh vũng nước, khoanh tròn nét một con mắt long lanh. Con mắt nhìn theo khi xe đã qua một đỗi đường, con mắt ấy tuồng như vướng ánh sáng của một chút bầu trời vẩn đục ở trong.

                        Quái thật! cả cái thành phố Huế, cả nhà cửa sông núi, cả khối người thân đã không đủ sức níu lại, cả một cơn mưa đêm như thác đổ lần đầu tiên mất hết ma lực kiềm tỏa người đi, chưa đủ làm núng lòng. Thế mà cái vũng nước có bầu trời thu nhỏ như đôi mắt nhìn theo ấy, bỗng như chạy dồn, đuổi theo sau lưng, ào ạt hơn một cơn sóng ập đến bất ngờ không phòng thủ, lôi tôi chìm lĩm trong vũng nước mưa tình cờ thấy bên vệ đường mà chiếc xe thúc bánh vừa vượt qua.

                        Trong một giây thôi, bầu trời Huế bỗng trở về với tôi, òa vỡ. Không phải bầu trời mùa đông thiên la địa võng to tát hôm nay trong chuyến ra phi trường này, mà một bầu trời rất nhỏ, không lớn hơn vũng nước bên đường, một bầu trời focus đăm đăm, trong võng mô của đôi mắt vừa nhắm lại của tôi.

                        Ðó là bầu trời nhỏ bé của Tết năm xưa, một cô bé con ở vùng quê Thiên Mụ ngồi mong ngày tết, nỗi mong ngóng duy nhất trong năm sau nỗi chờ mẹ đi chợ về. Chưa hết tết này đã chờ tết khác, càng gần ngày tết bao nhiêu, ngày tháng càng chậm chạp bấy nhiêu, và những ngày cuối tháng chạp sao thì giờ đi chậm đến chừng ấy, mấy tờ lịch giở hoài, mấy ngón tay đếm hoài mà Tết vẫn chưa về…Bộ áo mới mân mê trước đó một tuần nhưng chưa được mặc, áo thơm mùi vải mới lạ kỳ, hăng hăng nồng nàn thúc dục niềm ước mơ được giữ nó lâu hơn một giờ, sau bao lần tròng vào ướm thử, rồi miễn cưỡng bị mẹ hay chị trịnh trọng lấy đi, cất vào tủ chờ đến ngày mồng một Tết.

                        Hình như từ khi bộ áo tết được may xong, ngày mồng một Tết trở nên điểm chờ đợi thiêng liêng. Nó đi từng bước dài bằng thế kỷ. Tất cả đều trở nên sự mong chờ kỳ lạ cái ngày đầu tiên của năm mới. Tưởng như nó còn mới y nguyên, chưa được khui ra, còn niêm kín trong phong bì “lì xì“ màu đỏ mà bà nội và mẹ đã cẩn thận xếp nó trong tráp dành cho ngày đầu năm. Nó như một giấc mơ gặp ông Bụt hứa cho“ ngày mồng một tết” làm quà, nên nó là tia hi vọng không ngờ. Nó bí mật chưa về như mặt trời bên kia sườn núi chưa lên vào buổi sáng mai. Nó tranh sáng tranh tối như mấy nải chuối xanh ‘dzú“ trong thạp gạo chờ ngày chín tới đơm quả bồng. Nó riu riu như đường cát đang sôi trong mấy chảo mứt me, mứt gừng, mứt bí đao trên lò bếp đất sắp hàng trong sân trong, để từ từ lớp “áo” đường được choàng thêm “áo nắng“ mùa đông trong veo trước ngày khai xuân. Nó chưa chín như nồi xôi mụ Nậy đang hông dưới bếp vào ngày đưa ông táo về trời. Nó chưa nhuyễn như bột nếp đang được mẹ nhào với măng để làm bánh măng đặc biệt của gia đình. Nó còn sống nhăn như đám bánh lá bánh nậm của bác Hai gói lá dong đang chờ hấp trong nồi hấp. Nó như nồi bánh chưng bánh tét nấu hoài chưa chín, đến nỗi mi mắt cô bé không còn dương lên được nữa trong ánh lửa chập chờn, nằm dụi trong lòng o Liểu, phải được o Liễu cõng vào giường.

                        Tất cả mong chờ, tất cả câu hỏi đều chỉ được đáp lại bằng tiếng “chưa…” của mẹ; ngày mồng một tết vẫn còn là ngày “chưa…tới”, và nỗi mong đợi càng nao nao – một thứ nao lòng thoát ra chạy nhẹ trên da, rờn rờn như khi ghé mắt vào ống kính vạn hoa (kaleidoskop), viễn ảnh chập chờn những tín hiệu reo vui làm thót nhẹ con tim, thúc đẩy ghé nhìn thêm tí nữa. Cái ngày chưa đến ấy của năm mới làm tăng nỗi bồn chồn, háo hức trẻ thơ một cách vô thức. Náo nhiệt hơn ngày thường là những buổi anh em đuổi nhau chạy khắp vườn bà nội, từ “tập vồng vông tay nào không tay nào có” đến trò chơi ú tìm, phải sục sạo “nó” khắp nơi, đoán cho ra những điều “chưa” tới ấy, trong nắm tay kia “chưa“ mở ra, trong khóm lá trong vườn dấu kín gương mặt đang trốn thời gian đợi phút giây “chưa“ mặc khải, chưa “chộ mệ“ tìm ra.

                        Ngay chính khu vườn vào thời điểm trước Tết cũng vang vọng tiếng “chưa…” lửng lờ trong không gian những sáng bước ra vườn. Cây hải đường tháng ngày đón gió sông Hương từ bến nhà theo ngõ hút sâu đến tấm bình phong, thường chịu đựng giỏi những cơn gió đông bơ phờ, căng những ngọn lá mạnh viền gai màu xanh sậm trên thân cây trổ những đồi mồi nâu bạc như những vết sẹo thời gian, thân cây hải đường gầy và cổ kính so với những búp non tươi tắn đang nhú trên đầu cành. Cả toàn thân như một bó hoa được sắp xếp cành lá đều đặn cắm vào đất trước tấm bình phong bằng đá cẩn mảnh sành hoa văn chữ phước, như một biểu tượng hiếu khách kín đáo của gia đình. Nụ hải đường vào những ngày trước tết trong vườn nội vùng Linh Mụ còn mím đôi môi hồng tươi như chưa muốn nói điều gì, mà cũng chưa dám nói vì bốn cánh cứng màu nâu xanh bóng của đài hoa quấn chặt lấy nụ hồng, ngăn những cánh hoa chớ vội vàng bật hé những bí mật của ngày đầu năm sắp đến.

                        Cây hồng bên bể cạn trước nhà thờ thường rụng lá cuối mùa đông, cành khẳng khiu thế mà sây trái “lộc trời cho”, như bà nội mỗi buổi sáng đứng ở hiên thường tán thán với cử chỉ tri ơn trời đất, ôn mệ. Những quả hồng như dấu hiệu phúc ấm gia tộc còn treo lủng lẳng đợi đến ngày đơm quả phẩm cúng tổ tiên. Chúng gợi nhớ những cánh quạt “hồng ngâm” mềm được cô Thị tỉa khéo bày cùng với mứt bánh trên khay cẩn mời khách trong những ngày đầu năm. Những khay quả mứt bánh Huế vào ngày tết của thời xưa ấy được trưng bày đẹp như những bài thơ mà hoa trái trong vườn trao tặng cho con người sống trong mảnh vườn ấy.

                        Hãy vít nhánh hoa đào bên chái đông để xem đào đã nở hay chưa. Khóm đào hoa thường trụi lá trước khi xuân đến. Từ xa những cành đào ửng màu nâu hồng mảnh khảnh vướng sương đan vào nhau như những đám mây hồng lam sà trên vồng đất mới xới còn ẩm hơi đất bồi nồng nàn. Những nụ đào núp trong đài lá màu xanh non, rúc vào nách cành gầy guộc thường cho cảm giác, giấc mơ hoa này triền miên, chỉ như một hứa hẹn không hơn.

                        Rồi khóm thanh trà, rồi khóm chè vườn trước, rồi nhóm cây ổi bên hông nhà đông, cây cam quật bên tây, cây chùm kết, cây tràng bì, cây hồng quân, cây nhãn, cây bứa, cây thị tận tít vườn sau, cây vải cổ thụ hai ngưòi ôm không hết bên phải của sân chính trước nhà thờ, chúng lẳng lặng như đang toan tính điều chi huyền mật, đến nỗi trong giấc ngủ ban ngày, mộng mị mê sảng bật ra những chồi non màu xanh mềm mướt giữa những lá già xanh lục. Tưởng như những thứ mộng triệu đâu đâu. Nhưng hãy chờ đi, chỉ vài hôm nữa trong hương xuân, từ xa, trên vòm cây xanh non ấy, trông như có hàng nghìn con bướm xanh bay đến mở hội đón ngày xuân sắp đến…

                        Nhiều khi lạc giữa vùng cây trong trò chơi trốn tìm, gặp cây khế hứa “cho vàng đem túi ba gang mà đựng” nên ngồi mê mải nghe hương khế lịm người trên cây, gặp cây mít chi chít đơm bông và trái cùng một lúc như “trâu đực biết đẻ”, tẩn mẩn hái thử trái mít non chấm muối chát ngầm, làm tăng nỗi thèm thuồng vị ngọt của mấy chục món mứt bánh sắp sửa làm mê đầu lưỡi vào ngày đầu năm. Có lần đang ngồi nấp trong bụi tre, bỗng rờn rợn những mẫu chuyện bị “ma thu’ trong bụi cây dứa, trong bụi chuối, trong lùm chè tàu được kể quanh ngọn đèn dầu những đêm trừ tịch…

                        Ðể sáng hôm sau thấy thương nhiều hơn khóm hoa trà hiền lành trong sân nhỏ trước “nhà ở” bên cạnh nhà thờ họ, có lu nước mưa cho khách rửa chân trước khi bước vào nhà. Ðứng chung với trà mi còn “ngậm trăng”, những búp thược dược, mẫu đơn, cúc vạn thọ bỗng trở nên nhu mì ít lời. Những cánh hoa chưa mở, ngậm vành môi chúm chím, như lẩm nhẩm học thuộc lời chúc thọ năm mới mà bọn trẻ con sắp lạy thưa vào ngày mồng một tết và sau đó được bà, mẹ và các bác lì xì: “năm cũ bước sang năm mới, con xin mừng tuổi mệ nội, kính chúc mệ nội sống lâu trăm tuổi cho con được nhờ, năm cũ bước sang năm mới, con xin mừng tuổi hai bác…”. Từng lời từng lời đừng quên, đừng ậm à khi đứng vòng tay, nhớ học thuộc trong đêm ba mươi, trước khi ngủ thiếp đó nghe.

                        Và tình bạn với hoa bỗng trở nên thân thiết hơn bao giờ, khi khí trời bắt đầu ấm hơn trên những đọt lá chuối màu xanh ngọc thạch, báo hiệu ngày tết thật gần kề.

                        Ấy là lúc theo bà ra trước ngỏ thăm chừng hai cây mai cổ thụ quí nhất trong vườn. Cây mai thường là bí nhiệm cuối cùng chưa mở hết, như là bước hoàn thành nghi lễ đón chào năm mới của gia đình. Thân mai gầy, nhánh cũng trơ xương, vậy mà những lộc non chỗi lên đầy sức lực, rờ vào thấy mũi nhọn của hoa đâm lún cả thịt lòng bàn tay. Sau lượt trẩy hết lá già, búp hoa từ chồi bắn ra nhanh như những ngôi sao băng, chi chít đầy cành còn hiếm lá. Nhưng hoa chưa được nở vội vào ngày trước tết, hoa phải để dành tất cả những gì “MỚi” như “MAI”, những gì CHƯA đến như là một ý niệm đang thành hình, như hoa mai vẫn là “mai” của tiết trời hi vọng. Cuộc đi thăm mai có thể ví như một cuộc hành thiền không chủ ý , khơi động trong tâm non nớt chút nhạy cảm về một thứ đạo vị tương lai, từ đó, những tháng năm sau có thể hiểu được danh hiệu “mùa xuân Di lặc” không gì khác ngoài Phật tâm của mùa xuân như thiện niệm sáng tạo toàn hảo.

                        Vô hình chung những giây phút nhìn hoa cùng với những dặn dò, mân mê ân cần cho riêng hoa hầu như đã gây mầm linh cảm thấu rõ “cốt cách” mùa xuân của Huế, không phải là một “phú xuân” vật chất ô trọc kích thích ham muốn mà phải là “mai cốt cách” của một đạo tâm “nghèo tham lam” nhưng “giàu sáng tạo” cho một thể tính thanh cao.

                        Phải là MAI và có lẽ chỉ có hoa MAI - nụ hoa đã chắt lọc tất cả tinh hoa của mặt trời Đông phương trong bốn mùa dồn lại, lượm hết mọi giọt nắng cuối mùa đông - mới có thể trao cho đất trời và con người Huế màu vàng lộng lẫy tinh khôi trong mùa xuân mới. Cành hoa như khổ hạnh biết đủ, không hút thừa một chút tinh túy nào của đất, nên gầy mà thanh, chứa đầy nội tâm nhân hậu, cần cù suốt năm, khổ công tôi luyện tâm thành của chính nó cho hoa, cho nên cánh hoa rực rỡ mà đầy vẻ đoan trang, ý tứ. Nhánh mai trở nên tinh thần ngày tết, như một truyền thống nếp nhà Huế, cho nên mai già cỗi như tình quê hương mà “mới” như ngày mồng một tết và mới mãi cho tương lai…

                        Buổi thăm hoa chọn cành trang hoàng ngày Tết thường kéo theo những bước đủng đỉnh bên khóm hoa sói với cành lá xanh rờn. Chưa kịp nghoảnh mặt đi, đã nghe có hương thơm thanh thanh trên búi tóc cúi xuống của bà, nhìn lại là niềm thích thú không lời được ngắm vẻ đẹp kín đáo của đoá hoa sói trắng dung dị vừa được hái đem cắm xiêng trên mái tóc và ấn tượng dài lâu về nét thanh nhã của người phụ nữ Huế còn âm ba mãi trong những cảm hứng thiện mỹ về sau. Hình như hoa sói chỉ nở cho những nét đẹp kín đáo và u nhã, cho nên chén trà ướp sói trong buổi cuối đông khi được nâng lên môi chưa kịp uống đã nghe lòng dịu lại những đợi chờ nôn nóng, hương hoa theo với nước trà chuốc trên lưỡi nhẹ nhàng mà thanh thoát như tiếng ngâm thơ Thiền trong giờ độc ẩm.

                        Bà nội thích hương sói nên mỗi lần ra vườn thường không quên hái một “bụm” hoa đem vào ướp trà. Nhắc đến hương sói mà không nói đến hoa mộc đang chờ bên kia hàng dậu thì tội cũng gần bằng tình phụ cố nhân. Hoa mộc thơm đặc biệt hương vườn quê, nên thật xứng với tên “mộc”, đơn sơ, lắm khi quá mộc mạc đến tưởng như là hoa không còn đó. Không ồn ào, không sàm sở, hương hoa lẩn trong vườn như màu trắng không biết gọi tên mình. Có khi sau nhiều ngày mưa gió bão bùng, tưởng hoa đã bỏ đi không bao giờ trở lại ngõ cũ, thế mà bước chân ai vừa dạo qua hàng dậu giờ hé nắng, bỗng nghe như có hơi thở thoảng bên tai, ngảnh mặt lại, hương mộc đã kề bên, trong thoáng giây tim như ngừng lại để lắng nghe rồi nhận ra ngay mùi hương quen thuộc như hương đã ở đó tự bao giờ. Không ràng buộc, không níu kéo, hương mộc đem đến rất gần những bước chân xa, và chén nước trà ướp thoảng hương mộc tưởng là dung dị quê mùa nhưng thật là sâu lắng bền bỉ như tiếng ngân của nốt nhạc sau cùng còn đọng lại trong tâm.

                        Thế rồi bước đi bỗng gấp vì nhà bếp rộn rịp đàng kia góc vườn: đám lá dong vào dịp Tết thường phải cúi mình chịu phạt vì nhát dao của các anh trai đang giúp mụ Nậy cắt lá gói bánh chưng bánh tét đêm ba mươi. Cảnh tượng trông phũ phàng tàn bạo, cả góc vườn xơ xác như đầu tóc ai bị phạt xém một góc, tội tình, nhưng lá dong sinh ra hầu như chỉ để được làm lá gói bánh chưng, bánh nậm, bánh lá. Bánh chưng gói lá dong trong lót lá chuối khi mở ra, hột nếp lấy màu xanh của lá trông bắt mắt và bắt thèm, nếu gói bằng thứ lá khác, bánh chưng bánh nậm mất đi hết vị đậm đà có duyên. Có lẽ vì thế mà lá dong ngoan ngoãn để mọi người cắt hái vô điều kiện và việc cắt lá trở nên vui nhộn. Ðó là những giờ náo động trong khu vườn thân yêu, tiếng cười nói, tiếng chân sục sạo trong vườn, làm cho những cây đu đủ hoảng sợ nhớ lại những ngày bị làm “dưa món”.
                        Trước ngày gói bánh chưng độ mươi bữa, bà nội đã cho sửa soạn làm dưa món với đu đủ, củ cải, cà rốt, su hào, củ kiệu. Thịt trái đu đủ chưa chín, hườm huờm, còn độ cứng là chất liệu tốt nhất để các cô các bác các chị tỉa gọt những hoa ngọc lan, hoa cúc, hoa thị, hoa hồng, “trổ khéo” theo ngón tay tài hoa và óc thẩm mỹ. “Làm khéo” là bổn phận trau dồi đức hạnh của những tiểu thư trẻ trong gia đình, và cũng là nỗi say mê của những nàng con gái của Mạ, cháu gái của Mệ, lắm khi pha lẫn chút chi cuồng tín về công dung của người phụ nữ Huế.

                        Nhưng Huế xưa đã từng đẹp như thế nơi dĩa dưa món mặn mà thanh lịch ngày Tết bên cạnh dĩa bánh chưng bánh tét lành mạnh no lâu, đẹp như một bức thêu hoa, ở đó thiên nhiên và tiểu xảo con người đi về gần nhau trong gang tấc.

                        Có lẽ không có năm canh nào của một đêm qua đi một cách phi lý như năm canh của đêm ba mươi. Cả năm dài đằng đẳng là như thế, công trình đợi chờ, mong mỏi, háo hức của một đứa bé không biết lấy gì mà đo cho vừa cho đúng, ấy thế mà cái đêm gần kề nhất ngày mong đợi, cái đêm cuối cùng của năm, để Tết trở thành NGÀY TẾT thật sự, thường là đêm hụt hẫng, bị bỏ qua, bị ngủ quên, dù trước đó lòng tự nhủ lòng phải ráng thức cho đến Giao Thừa, để biết mặt mũi của Giao thừa, mà nào biết được!

                        Chỉ biết đêm ba mươi Tết trời tối đen hơn mực, một phần vì ánh lửa bập bùng nấu bánh chưng dưới gốc cây vải cổ thụ, ánh sáng dồn vào một góc vườn nên góc kia lại càng tối hơn, mọi người quây quần chung quanh bếp lửa, ấm cúng và vui vầy đến nỗi chẳng ai muốn rời chỗ ngồi, cũng không dám đi ra, nghe như ông ba mươi đang rình lẩn quất đâu đây. Ðêm ba mươi thường cho những đứa trẻ như tôi hồi ấy cảm giác tiếc nuối không được ngồi nghe hết những câu chuyện “ông ba mươi”, pha lẫn với cảm giác rợn người khi nhìn làn khói nghi ngút biến mất trong hư vô đen ngòm. Cả khu vườn như một sân khấu bị tắt đèn tối om, chuẩn bị cho một màn ảo thuật mới, nhưng người chờ đợi nồng nàn nhất giây phút ảo hóa lại thường ngủ quên với tưởng tượng mơ hồ, có lẽ đêm ba mươi đã dấu trong tấm áo đen chiếc đũa thần vô hình huyền diệu nhất có thể trong khoảnh khắc biến không thành có, biến hôm qua thành ngày mai… Âm vang giao thừa chỉ còn vọng trong mơ tiếng chuông trống bát nhã đổ về từ chùa Linh Mụ, chùa Từ Ân, chùa ôn Nghệ chào đón giờ phút đầu tiên của một năm hòa với tiếng pháo “tống cựu nghinh xuân” sau buổi lễ tổ tiên rước ông bà về ăn Tết với gia đình.

                        Thật lạ lùng, nếu so lòng mong mỏi ngày tết với những điều xảy ra trong ngày tết, thì thấy hầu như mình ôm hai bàn tay không, một nửa kia của trò “tập vồng vông”. Nhưng ngoài những thứ ít ỏi đếm trên đầu ngón tay như áo mới, mứt gừng, hoa mai, hoa đào, tiền lì xì, hột dưa đỏ, đánh bài tới, đổ xâm hường bói “trạng” và “ăn chơi tháng giêng”, còn có một đền đáp tấm lòng mong mỏi ấy bao năm vẫn vang vọng khó quên: không khí cảm động huyền diệu của ngày đầu năm. Có thể tiếng lắc cắc cắn hột dưa đỏ một ngày nào đó bặt đi mất hút, hột dưa vì mấy cái răng sệu sạo đành rơi trong quên lãng, cũng như những vị cay chua mặn ngọt của ngũ quan đã phôi pha theo ngày tháng, nhưng nỗi xúc cảm không khí Tết thật khó phai mờ, theo đến tận cùng đời người, dù không khí ấy chỉ là …không khí.

                        Sau những ngày rộn ràng, sáng mồng một tết thường bắt đầu với nỗi bỡ ngỡ về sự tĩnh lặng bất ngờ trãi ra trong không gian, tưởng như tất cả nhân gian đều ngưng thần soi mặt vào nước sông Hương cũng đang dừng lại không trôi trong khoảnh khắc mới nhất của năm bắt đầu. Không khí trở nên khác hẳn. Hôm qua người đi hầu như va nhau côm cốp, khiêng bàn kéo ghế, sửa soạn bàn thờ với các bộ tam sự, ngũ sự nặng tay, chưng hoa, bày quả phẩm rối rít. Qua một đêm, sáng ngày mồng một tết, bỗng dưng mọi người đi lại nhẹ nhàng như những chiếc bóng, cử chỉ khác hẳn không tíu tít ồn ào, không ai nói lớn tiếng với ai mà chỉ âm thầm trang điểm, người lớn thì chải tóc vấn khăn và thay áo, chỉ riêng lũ trẻ lúng ta lúng túng với những áo những quần chưa quen mặc.

                        Giờ mặc áo mới thật khó quên, hình như chỉ từ giây phút được mặc áo mới, năm mới đối với đứa trẻ mới bắt đầu, nỗi mong đợi Tết mới được vừa vặn sít sao dù tay áo có dài, vạt áo có dư ra để “trừ hao cả năm chóng lớn bơ vừa” như mẹ vừa mặc áo vừa thủ thỉ. Chỉ khi áo mặc xong, năm mới thật sự là mới từ giờ phút ấy.

                        Và giây phút trang nghiêm bắt đầu, khi mọi người trong đại gia đình chỉnh tề khăn áo đến mừng thọ bà nội. Khó quên nỗi hồi hộp trào dâng tình cảm mâu thuẫn của mỗi người thân được biểu lộ trong giờ chúc tết, khi cả nhà sụp lạy mừng bà sống lâu, có tiếng cười nơi vết lăn của giọt nước mắt trên má, và có cánh tay áo chùi nước mắt trong khi miệng nhoẻn cười. Vào dịp này hình như người lớn tuổi bỗng thành trẻ con, mít ướt, còn trẻ con lại thành người lớn…hơn. Bác trưởng tộc trong chiếc áo rộng xanh, đầu bịt khăn đóng, vừa mới cất lời khai mạc buổi mừng tuổi với hai chữ trịnh trọng “thưa mệ” bỗng nhiên nghẹn ngào, nói không ra lời, nước mắt ràn rụa. Cô Thị đứng sau nước mắt chạy quanh theo vành môi đang mở nụ cười. Rồi các bác, các o, các mụ vừa hít hà vừa ẩn mặt bằng cách đẩy những đứa bé lên trước mặt bà, nói lời chúc tụng. Và tiếng cuời sau đó không còn đẳm nước mắt theo với tiếng trẻ thơ làu làu thuộc bài mừng tuổi.

                        Khó quên cảnh nhà ngày mồng một tết ấy, ánh nến lung linh trong ba gian nhà thờ, khói trầm nghi ngút, hoa mai vàng trang trọng, những quả bồng bánh cúng ngũ sắc, những tranh chúc tết, câu đối Tết và dáng ngồi thanh gầy của bà nội, như một cành mai bên cạnh cành mai vừa nở trong vườn hôm qua. Vào ngày tết, bà nội cũng như mẹ và các bác, các cô đều đem những bộ áo cất lâu năm trong tủ ra mặc, những chiếc áo may bằng vải the thêu chữ thọ chữ phước, hoa cúc hay chim phượng được lót bằng vải lụa đỏ hay xanh rực rỡ, quần trắng mớ ba mớ bảy. Bà nội thường mặc áo cặp hai màu, áo ngoài màu vàng hổ hoàng, áo trong màu xanh da trời hay màu xanh lục thủy, áo may bằng vải the hay lụa vân dệt tay công phu, đầu chít khăn nhiểu màu vàng cam hay để tóc bối có cài trâm, thanh lịch và đẹp như một bức tranh cổ. Bà nội thường nói “chi thì chi, nghèo thì nghèo, ba bữa tết áo quần nên lành lặn, nhà cửa nên quét dọn tươm tất, vườn tược vun xới đẹp đẽ, và nên làm “đẹp lòng” nhau, ngày tết nhất định bà không chỉ vẻ con cháu nghiêm khắc một tiếng nào bắt đầu sáng mồng một tết…

                        Cung cách đón tết Huế gần như một cuộc hành đạo nếp sống Huế, trong đó mỹ cảm và tâm cảm, đạo làm người trong bước đi “đẹp lòng” với người với cảnh, là một không hai. Ở đó không có ý niệm phân biệt sang hèn, cao thấp trong so đo vật chất, tranh chấp thế giá. Ở đó có nhiều tận tình chung nhau niềm tin lạc quan về thời gian, về đổi thay, về chuyển hóa, mà năm mới là khởi đầu của hi vọng, ở đó nếu hiểu “lạc đạo”, trong nghĩa “đẹp lòng” thì “an bần” không phải là “nghèo tủi” mà là “biết đủ” và “biết chia xẻ”,cho nên cũng “đẹp lòng”, cho nên vui đạo. Hình như từ tuổi thơ, linh cảm về “bước đi của đạo” ấy một nửa đã đến từ “bầu trời” Linh Mụ một sáng mùa xuân. Không biết có người Huế nào đã gặp khoảnh khắc ấy như tôi đã gặp, sáng mồng một tết chạy ra ngõ chơi, bất ngờ - vì đã chưa một lần chủ ý - gặp sông núi mùa xuân đài các dưới bầu trời tết Huế bãng lãng mây bay trên cao.

                        Núi mùa xuân khoác tấm áo màu xanh mực tàu, màu xanh bát ngát, như vừa mới được tạo hóa xuất thần ra tay tuyệt xảo, một màu xanh mới lạ, tân kỳ chưa từng nghe ca ngợi trong cổ thi cũng như chưa bao giờ thấy trong các bức cổ họa. Lung linh trong nắng sớm, tấm áo mùa xuân của núi bỗng trở nên một bài thơ Tết diễm ảo không lời, trong đó đỉnh Kim Phụng hiện ra vừa ung dung tự tại vừa trang trọng bí ẩn nơi khúc quành giòng sông, gần gũi thân thuộc chứ không xa xôi mờ nhạt như trong ngày đông giá. Hình như vẻ thanh tú, trẻ lại thành “non xanh” của núi mùa xuân đã làm con sông ngẩn ngơ đứng sửng, tưởng như không còn biết mình là dòng sông phải chảy. Nhưng chính trong giây phút “quên mình” ngẩn ngơ ấy, sông Hương lại đẹp hơn bao giờ. Thủy chung đến tận đáy lòng, sông Hương đem cả bầu trời mùa xuân giao trả lại cho đất với tất cả sự rộng lượng không bến bờ. Nắng xuân u nhã, nhu hòa rãi trên sông một lớp tơ trời nhẹ như một thoáng mộng, gây cho người nhìn cảm giác lâng lâng, cơ hồ trong thoáng chốc tưởng sẽ vụt bay vào trong cõi mông mênh ấy. Mênh mang sông nước, vạn vật như đắm chìm trong tĩnh lặng, trong đơn sơ lồng lộng, từ đó cảm giác thanh bình dội vào tim như một thứ hạnh phúc ân sủng. Một thứ hạnh phúc được nghe tiếng cao xa không lời của núi, được chiêm ngưỡng đường cong vời vợi không tiền bạc không lâu đài của sông, được nhìn “nghèo nàn lộng lẫy” của bầu trời Linh Mụ trong một sáng đầu xuân.

                        Hạnh phúc ấy từ đó đọng sâu trong tiềm thức, qua năm tháng đã trở nên những xao xuyến vô hình thôi thúc trở về trong nỗi nhớ, lắm khi chẳng biết vì sao. Vì sao khi trời đổ tuyết nơi viễn xứ, lại tự hỏi mình “mùa xuân bên ấy” bây giờ ra sao?

                        Thái Kim Lan

                        Viết trong ký ức”mùa xuân bên ấy”
                        Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 25-01-2011, 01:39 AM.
                        ----------------------------

                        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                        Comment

                        • #27

                          Nàng xuân ghen giận má hây hây
                          Chúm chím cặp môi, động chân mầy
                          Chàng Đông mãi vờn hoa ... chẳng biết ...
                          Để nàng Xuân giận ... thấy thương thay !
                          Uyên Ương


                          En hỏi anh: anh vẫn yêu em phải không? Sao ngày qua tình ta chẳng thể đi đến đâu.
                          -Bao lâu nay chính anh đã có lỗi lầm , xa em rồi giờ mới thấy đớn đau.
                          Em hỏi anh: giữa chúng ta có điều chi? Bao ngày qua mà sao chẳng thể nói với nhau.
                          -Khi xa em giấc mơ trong tim anh vẫn chờ. Có lẽ nào giờ đây ta mất nhau...
                          Năm tháng đã trôi qua, nhưng tình đâu có phai. Trong trái tim em đây vẫn yêu anh nguyên vẹn.
                          -Thời gian xa cách nhau làm cho anh khổ đau, người ơi có giận dỗi xin em hãy nghĩ lại.
                          Năm tháng đã trôi qua nhưng tình đâu có phai. Trong trái tim em đây vẫn mong anh quay về.
                          -Thành thật xin lỗi em về thời gian đã qua, để từ nay về sau anh sẽ cố gắng hơn.

                          Lấy thơ chép nhạc ghi lời
                          Hoài thương hoài nhớ một người phương xa

                          Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 25-01-2011, 02:34 AM.

                          Comment

                          • #28


                            Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 25-01-2011, 09:45 AM.
                            ----------------------------

                            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                            Comment

                            • #29

                              Những mỹ nhân Việt cùng sinh năm con Mèo

                              Những mỹ nhân Việt cùng sinh năm con Mèo

                              Năm 1987 đã đóng góp nhiều gương mặt đẹp cho làng giải trí. Họ đều được ghi nhận bằng các giải thưởng trong những cuộc thi nhan sắc lớn.



                              Hương Giang


                              Sau những thành tích nổi bật tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2009, Hương Giang đã trở thành Hoa hậu Việt Nam đầu tiên nhận được giải thưởng và vương miện của tổ chức Global Beauties - một website nổi tiếng và uy tín hàng đầu về các cuộc thi sắc đẹp trên thế giới. Cô trở thành một trong những gương mặt nổi bật và thành công nhất trong năm 2010 với sự xuất hiện dày đặc trong các sự kiện.

                              Ngày 23/10, Hương Giang đã bất ngờ tổ chức lễ cưới tại bãi biển Phú Quốc với chú rể người Trung Quốc. Lễ cưới của cô chỉ có sự góp mặt của một số ít người thân, bạn bè.



                              Vũ Hoàng Điệp


                              Năm 2009, Vũ Hoàng Điệp đăng quang Miss International Beauty 2009 - một cuộc thi sắc đẹp được tổ chức tại Trung Quốc. Hoàng Điệp là người đẹp khá ầm ĩ sau nhiều scandal: thắc mắc về kết quả cuộc thi Bước nhảy hoàn vũ, đưa 26 vệ sĩ hộ tống ở bất kì nơi nào cô xuất hiện…Mặc rất nhiều người lên tiếng chỉ trích thái độ “chơi ngông” của Hoàng Điệp, nhưng không thể phủ nhận Điệp là một người phụ nữ cực kì dễ gần và cởi mở khi tiếp xúc.



                              Ngô Phương Lan


                              Là cô gái đầu tiên đoạt vương miện Hoa hậu thế giới người Việt, Ngô Phương Lan được nhiều người hâm mộ yêu quý bởi vẻ đẹp quý phái và thuần Việt. Đậu tú tài toàn phần ở Pháp, nói lưu loát ba thứ tiếng: tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, hiện cô là sinh viên ngành Quan hệ quốc tế ở Đại học Genève. Ngô Phương Lan hướng mình trở thành một nhà ngoại giao để cống hiến cho đất nước hoặc là một nhà hoạt động xã hội trong một tổ chức quốc tế nào đó tại Việt Nam giúp đỡ những người nghèo.




                              Thùy Lâm


                              Thùy Lâm sinh ngày 10 tháng 9 năm 1987 và là Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam năm 2008. Sau đó cô trở thành đại diện của Việt Nam tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008. Thùy Lâm tham dự cuộc thi này và đã được vào top 15 người đẹp nhất cuộc thi Hoa hậu Hoàn Vũ 2008. Ngoài ra cô còn đạt một số thành tích khác như : Top 10 Trang phục truyền thống đẹp nhất ( Vũ Khúc Hạc), Top 5 Duyên Dáng Áo Dài. Trước khi trở thành Hoa hậu, Thùy Lâm là thành viên nhóm hát TymyTy và tham gia vào một số bộ phim như Kiều nữ và đại gia, Tây Sơn hào kiệt…

                              Đầu năm 2010, Thùy Lâm cũng quyết định tạm dừng các hoạt động giải trí để “theo chồng về dinh”. Sau đám cưới, Thùy Lâm ra Hà Nội sinh sống và sinh cho chồng một cậu con trai kháu khỉnh.


                              Huỳnh Thanh Tuyền

                              Huỳnh Thanh Tuyền sinh năm 1987, chiều cao 1m77. Cô đoạt giải bạc tại cuộc thi Siêu mẫu Việt Nam 2009, danh hiệu "Ngôi sao người mẫu thế hệ mới" và là đại diện của Việt Nam tham dự cuộc thi Miss Bikini International 2009.

                              Đang là người mẫu nhiều triển vọng, Huỳnh Thanh Tuyền quyết định lên xe hoa với người đàn ông đã qua 2 lần đò, ông trùm truyền thông tại Việt Nam, giám đốc công ty truyền thông Cát Tiên Sa Nguyễn Quang Minh - đơn vị đã và đang tổ chức rất nhiều các cuộc thi hoành tráng, rầm rộ mang tầm quốc gia lẫn quốc tế. Hiện tại, Huỳnh Thanh Tuyền ít xuất hiện trong các hoạt động giải trí, thi thoảng cô xuất hiện ở những sự kiện lớn cùng với chồng mình.

                              Theo Afamily
                              Sống trên đời

                              Comment

                              • #30

                                Chuyện vui mèo nhân năm Mão

                                Chuyện vui mèo nhân năm Mão

                                Mèo là con vật rất gần gũi thân thiện với người dân Việt. Công dụng đầu tiên của nó là... bắt chuột. Khi mà hơn 90 phần trăm dân Việt ở nông thôn thì đồng nghĩa với việc các căn nhà ấy cũng là nơi trú ẩn đầm ấm no đủ của họ nhà chuột. Nhà nông có mấy loại con không thể không nuôi: Chó để giữ nhà (và cả để dọn vệ sinh cho em bé, làm thực phẩm khi cần...), mèo để bắt chuột, gà vịt để làm thức ăn và trâu bò vừa là sức kéo vừa là của cải lớn. Trong đó chó và mèo có vẻ thân thiện với người hơn, vì chúng khôn hơn đã đành, mà còn bởi chúng có điều kiện ở chung với người, chó ở trong nhà, còn mèo thì thậm chí là ngủ chung với chủ, coi cái giường của chủ là cái ổ, thậm chí là ổ đẻ của mình.

                                Ở thành phố thì công dụng bắt chuột của mèo ít hơn, vì phần lớn là nhà hộp, có chú chuột nào lạc vào, chỉ một chốc là bị người dồn bắt chết tươi ngay. Thì mèo lại nuôi làm cảnh. Nhà văn Võ Thị Hảo nuôi đến cả một bầy bảy tám con mèo trong nhà, đi về là quấn quýt chơi với nó. Một chị bạn tôi có con mèo giống Pháp nặng 15 cân, trắng tinh như thỏ bạch, hiền như... mèo, suốt ngày cuộn mình ngủ, thấy chủ về thì lững thững bước lại, khoanh mình vào lòng chủ và... ngủ tiếp. Mèo có dáng đi rất tiểu thư, đài các, cùng cỡ cân nặng như nhau, nhưng nếu là chó sẽ thấy ngay sự nặng nề úc núc, nhưng mèo thì vô cùng uyển chuyển mềm mại, có lẽ vì thế mà người ta thường gọi bồ là... mèo.

                                Mèo ít được dùng làm thức ăn như chó có lẽ vì nó nhỏ, chả bõ (ấy là nói mèo quê ta, chứ mèo ngoại như đã nói, có con đến đến và quyến chủ thì không thể bằng chó. Ở nông thôn, có việc là người ta đụng lợn, đụng chó, chứ không thấy đụng mèo. Còn khi có khách thì người ta ngả gà ngả vịt, dao thớt tùm lum ầm ĩ cũng không thấy nhắc đến chú mèo hiền lành nằm sưởi nắng ở gốc cau kia. Mèo có uy với chuột, là thần chết đối với chuột, nhưng cũng nhiều lúc bị chuột (thông qua người) giễu nhại, kiểu như: Con mèo mà trèo cây cau/ hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà/ chú chuột đi chợ đường xa/ mua mắm, mua muối giỗ cha chú mèo. Hoặc như bức tranh đám cưới chuột, cả một đoàn chuột béo nẫn hoành tráng bề thế hùng dũng rước nhau đi trước mặt một chú mèo đang ngơ ngẩn ngồi. Như bây giờ có khi ta gọi đấy là... chung sống hòa bình, hoặc như cân bằng sinh thái vân vân, nhưng ngày xưa các cụ nghĩ khác, ca ngợi chuột như một lực lượng phản kháng với... quà trên tay đi biếu mèo.

                                Thế nhưng bây giờ, mèo đang còn trở thành một thứ khá nổi tiếng, càng ra Bắc càng nổi tiếng, ấy là được chế biến làm món tiểu hổ. Cái nạn này đến mức có thời mất cân bằng sinh thái, chuột lổm ngổm trong nhà trợn mắt trêu ngươi người, còn ngoài ruộng thì xuất hiện rất nhiều nông dân trở thành các anh hùng diệt chuột, được báo đài nêu gương, được mời đi bắt hết chỗ này đến chỗ khác. Rồi các địa phương có phong trào phát động diệt chuột có thưởng, đến mức có bọn làm giả... đuôi chuột để lĩnh thưởng. Nhà ai nuôi được con mèo thì phải xích như xích chó, con mèo suốt ngày ru rú một chỗ, thấy chuột là... chạy văng xích, thế mà vẫn không yên, vẫn bị bắt trộm như thường.

                                Một trong những địa danh nổi tiếng về chế biến thịt mèo là Thái Bình. Tôi cam đoan ai đã ăn thịt mèo ở đây rồi, thì các loại thịt thịt mèo rồi phong lên gọi nó là “tiểu hổ”. Ở Thái Bình có cả những nhà hàng chuyên thịt mèo, cho lên thớt hàng mấy trăm con mỗi ngày, chiều khách đến mức, khách vào chỉ con nào mới bắt con ấy. Uỵch phát, xoẹt xoẹt thêm mấy phát, phù phù tí nữa, con mèo đã phanh thây vàng ruộm, và đầu bếp tay dao tay thớt cho vào xoong chảo, lửa lừ lừ nhoáng phát nữa là lên mâm, từ món nhanh đến món cuối cùng là xương hầm.

                                Ngày Tết tôi chả kể cụ thể cái cách chế biến thịt mèo thế nào cho nó thành “tiểu hổ”, sợ rồi lại dông cả năm. Thì đại loại người ta làm gần giống chó, nhưng quả là ngon hơn chó. Nó là món “liên hiệp quốc” bởi vì món gia vị không thể thiếu ăn kèm là rau má phải tầm từ Thanh Hóa. Chỉ Thanh Hóa, không được khác. Đấy là loại rau má còi, rễ dài bằng thân, lá nhỏ, tất cả rễ thân dài chừng mười phân, được rửa sạch, rồi quấn lại cho vừa một miếng cỡ đầu ngón tay cái, xếp vào đĩa rất đẹp. Già quá thì dai, mà non quá thì không bùi. Cái tang rau má ấy ăn kèm với thịt mèo hấp trộn vừng, thính, hoặc xào lăn nó mới lên hết chất... mèo. Tôi ăn một bữa ở đấy mà nhớ đời là vì chưa bao giờ thấy một bữa tiệc thịt mèo mà lại đông người đến thế, một trăm người. Hôm ấy tỉnh Thái Bình khai mạc một cái trại sáng tác cho các nhà văn khu vực đồng bằng sông Hồng. Mấy anh em phía Nam chúng tôi đang ở Hà Nội được giáo sư Nguyễn Xuân Kính nhân về Thái Bình cho quá giang xe đi chơi. Thế là được mời vào dự cái cuộc chiêu đãi ấy, trong một hội trường khách sạn, khăn ăn trắng toát, nhân viên áo mũ cũng trắng toát, tất cả trông như chuẩn bị ăn món tây. Mấy ông Thái Bình biết trong đoàn chúng tôi có người không ăn thịt mèo, cụ thể là nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng ở Bình Định và nhà văn Trần Thôi ở Vĩnh Long nên nói là ăn dê núi. Tôi nín thở chờ ông Nguyễn Thanh Mừng ăn, và ông gắp ăn ngon lành. Bàn ông có mấy em xinh đẹp nữa, chuyện nổ như pháo, các em gắp cho ông rồi cụng ly, ông hớn hở đáp từ. Nửa buổi thì bỗng... mặt ông ngẩn ra, ông quay ngang quay dọc, nhấp nhổm không yên. Tôi nhịn cười nói với sang: Mừng ăn thịt đồng loại thấy sao? Y cười như mếu: Chết em rồi...

                                Còn lần ăn thịt mèo đầu tiên của tôi lại cũng gắn với một... cô gái.
                                Cái thời ấy sinh viên Huế đói dài đói rạc, đói đến mức đến giờ ngồi nghĩ lại không hiểu tại sao mình lại có thể sống được, mà lại còn lên giảng đường ngồi nghe giảng hàng ngày, lại còn thích gái và mò đi tán gái nữa? Tán gái mà còn kén, ấy là không tán gái Tổng hợp là trường tôi học, không tán gái Y mà chỉ mò sang Sư phạm, vì sinh viên Sư phạm đẹp nhất trong hệ thống các trường, còn Y khoa và Tổng hợp bị chê quỷ Y khoa ma Tổng hợp. Có lẽ tại các em chỉ lo học, và vì không đẹp lắm nên không bị quấy rầy, mới có thời gian để thi và học trường khó, còn xinh đẹp suốt ngày bị trai tấn công thì thời gian đâu mà học, nên thi vào cái trường lấy điểm thấp hơn là sư phạm.

                                Hôm ấy, một cô bé học cùng khoa văn nhưng thua tôi hai lớp, vừa thở vừa khều tôi ra nói hấp hởi: Em bắt được con... mèo, tối anh làm thịt nhé. Ôi giời, thì ra cô bé này kể với người yêu, tay người yêu bèn chỉ cô này tìm tôi vì nghe nĩi tơi khéo tay làm bếp, tất cả các cuộc đi thực tập hay lao động của lớp của khoa tơi đều được cử vào tổ... bếp.

                                Tôi ngần ngừ rồi ra điều kiện: Tớ chỉ chế biến chứ không làm thịt. Chú mèo này tự nhiên chui vào phòng và cô bé chỉ việc... đóng cửa lại, sau đó cho vào một cái bao cát và dúi vào cái hộc giường sinh viên. Tôi bày cho mấy đứa này đào một cái hố, chôn con mèo xuống chứ mèo sống dai lắm, đúng mười giờ đêm thì đào lên vặt lông mổ bụng, lấy vở học mà thui, còn tôi chuẩn bị gia vị và chế biến. Đúng mười giờ mấy đứa lúi húi vụng trộm đào đào bới bới, vừa sờ thấy cái bao cát thì nghe một tiếng ngao rồi cái bao cát... rũ mình đứng dậy. Cả mấy đứa đờ ra vì sợ, trừ một thằng lớp Lý đang cầm trên tay thanh vạt giường để làm củi, thằng này được phân công kiếm củi nhưng bận lên thư viện nên đến giờ thì gỡ tạm hai thanh vạt giường thay thế. Nó vung thanh vạt giường lên hai lần thì cái bao cát cát cái đầu, chúng mày thấy không, thế nên ta chỉ làm một món, ấy là nấu nhựa mận giả cầy. Tao có củ sả mắm ruốc đây rồi, cứ thế mà nấu. Chỉ lấy thịt, còn đầu, chân, xương, lòng vất hết. Nhưng mấy đứa con gái không chịu: Phải nấu cháo, anh phụ trách món nhựa mận đi, tụi em phụ trách cháo. Thì ra khi chiều các nàng không ăn cơm, để dành cơm để giờ nấu cháo. Tôi quăng cái đầu và bốn cái chân còn nguyên lông lá cho các nàng, và dưới mờ ảo ánh trăng và dôn zốt hơi sương xứ Huế, mấy nàng sinh viên Văn khoa kiều diễm mơ mộng ngồi tỉ mẩn nhổ lông đầu và chân mèo, xong các nàng xì xụp nấu cháo, chỉ có muối chứ chả có gia vị rau thơm gì. Mà cũng may là có nồi cháo, vì cái món nhựa mận tôi nấu chỉ có tí, năm sáu đứa sinh viên đói chụm vào nhoáy cái hết luôn, thế là quay sang nồi cháo lõng bõng. Tôi vớt cái đầu mèo bỏ vào bát cho H, cô bé bắt mèo và là người cương quyết bảo lưu việc nấu cháo và cũng là người nhiệt tình nhất trong việc cặm cụi làm lông cái đầu và chân. Tưởng em sẽ... eo ôi, ai ngờ em bỏ bát xuống dùng hai tay miệt mài gặm, xé, bóc, gỡ, ngoáy, tỉ mẩn kỳ cho cái đầu chỉ còn mỗi hộp sọ trắng hếu. Bây giờ cô bé này trở thành một nhà báo có tiếng, tôi vẫn hay đọc các phóng sự nẩy lửa của em trên báo, chả hiểu có bao giờ em nhớ đêm thịt mèo “huyền diệu” vào lúc một hai giờ sáng ngày xưa?

                                Dân Việt ta ăn được nhiều món mà người khác không ăn, ví dụ như một nghìn con chim bồ câu hòa bình được huấn luyện công phu nuôi ở Hà Nội nhân đại lễ một nghìn năm thì đã bị sáu gã trai liên tục bắt trộm hơn bốn trăm con trong vòng một tháng, vừa ăn thịt vừa bán cho các quán nhậu. Rồi các quán thịt chó mở ra mọi chỗ, mọi nơi, đến nỗi có thời người ta phải gọi phía bờ đê bờ đê phải kể dù năm nay là năm tuổi của mèo, những nàng mèo yểu điệu thướt tha, dịu dàng cảnh vẻ, thanh thoát nhẹ nhàng, thân thiện với con người và cũng vô cùng được việc với con người. Thế mà hở ra một tí là biến thành “tiểu hổ đủ món”. Chao ơi, mới thấy loài người, ngẫm ra nhiều khi có cố đến mấy cũng không thoát được cái tội tổ tông mà thượng đế cố tình gieo vào để trừng phạt: thích ăn cho sướng, dù sướng để làm gì nhiều khi ăn xong vẫn ngơ ngẩn không biết...

                                Văn Công Hùng
                                Sống trên đời

                                Comment

                                Working...
                                X
                                Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom