• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Thương Nhớ Hoàng Lan

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Thương Nhớ Hoàng Lan







    Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?" Nghe chuyện đời cha tôi, thầy bảo: "Hãy nhớ ngày này. Nếu có cơ duyên, mười năm sau ta sẽ trở lại." Trở về thầy bỏ tăng viện, lên một ngọn núi hẻo lánh trong rú xa, dựng mấy nếp nhà cổ. Từ ấy, thầy ẩn tu, hiếm khi xuống núi.

    o O o

    Lớn lên, tôi giống cha như đúc và rất được mẹ yêu chiều. Cha tôi mắt sáng, mũi cao, tiếng nói trầm ấm, tính tình hiền hòa trung thực. Khi còn là một chú tiểu đầu để chỏm, người đã nổi tiếng thông minh, mười lăm tuổi chép rành kinh chữ Hán. Rồi vì học giỏi, được cử làm giáo sư ở trường Trung học Bồ Ðề, một trường phổ thông tư thục của Giáo hội. Lúc người sắp được phong Ðại Ðức thì gặp cô bé nữ sinh tinh nghịch, có đôi mắt hút hồn, đôi môi đầy đam mê và cái tính thích gì thì làm cho bằng được. Ban đầu, cô bé chỉ định quấy phá chơi để thử bản lĩnh của thầy. Nhưng rồi tình yêu là lửa, chính người muốn đốt lại cháy. Cả chùa ngẩn ngơ khi người thanh niên đạo hạnh vòng tay thưa trước sư cụ trụ trì:

    - Yến bệnh nặng đã bốn tháng rồi, sợ rằng cô ấy chết. Thầy dạy con tu hành để cứu chúng sinh. Nay con có thể cứu một sinh linh, sao lại khước từ

    Cha tôi rời chùa, cô Yến khỏi bệnh rồi hai người thành vợ thành chồng. Ông bà tôi để lại một ngôi nhà, cha tôi cho dỡ đi, xây vào chỗ đó một ngôi chùa tư. Ðã không bỏ đời theo đạo được, thì ông đem đạo về giữa đời. Sau khi đã có con, ông vẫn ăn chay, mặc áo nâu và tụng kinh sớm chiều. Có lần mẹ tôi đi chợ mua một xâu ếch, những con ếch theo phản xạ cứ chắp hai chân trước vái lia lịa. Một bà đi ngang bảo mẹ tôi:

    - Mấy con ếch lạy khéo không thua thầy M.H.

    Rồi bà cười hả hả:

    - Ði tu mà chẳng chót đời, làm thân con ếch cho người lột da.

    Tính mẹ tôi mau nước mắt, cứ vừa đi vừa khóc thút thít cho đến lúc tới nhà. Tối đó bà kèo nhèo mãi, năn nỉ mãi cha tôi tội gì không để tóc, ngả mặn, làm người trần cho sướng cái thân. Tu kiểu này, người ta nói không chịu nổi. Cha tôi chỉ cười, dường như chẳng để tâm. Cả đời người không tranh giành với ai mà như có phép thần thông, chạm vào đâu thì phất lên đến đó. Cơ sở làm hương trầm của người càng phát triển, mẹ tôi càng béo đẹp ra thì lời đàm tiếu của thiên hạ càng rần rần. Cuối cùng, chẳng hiểu vì sao, mẹ bỗng đột ngột bỏ đi mất tăm...

    Cô ruột tôi giận lắm bảo:

    - Mẹ mi là con yêu tinh, khi trước đã phá đời tu của cha mi, chừ lại phá luôn đời tục của ổng

    Ai cũng khuyên đăng báo tìm nhưng cha tôi chỉ nói:

    - Ðừng!

    Ông không trách móc gì, nhưng có lẽ ông buồn, tiếng tụng kinh đêm khuya nghe chừng khắc khoải. Chao ôi, với những con thuyền khắc khoải ấy, kiếp nào cha mới đến Tây Phương?

    Cơ sở làm hương từ đó phó mặc cho cô tôi. Cô tôi cho chặt cây, nhổ cỏ, sửa sang lại cho khu vườn sáng sủa:

    - Thiệt là hư sự, ai đời lập chùa mà lại trồng hoàng lan trong sân. Mùi hoàng lan là mùi ma, hèn chi ma chướng nó phá cho như thế ni.

    Tôi dân dấn nước mắt nhìn người ta chặt cây hoàng lan, cành lá vứt bừa bãi trên mặt đất. Ngày xưa, gội đầu xong mẹ tôi thường hái hoa giấu vào bối tóc cho thơm. Bây giờ người đã đi, hoa cũng không còn...

    Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo:

    - Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?

    Tôi chỉ lắc đầu...

    o O o
    Nơi thầy tôi ẩn tu là Bích Vân am - am Mây Biếc. Mười năm khai sơn, thầy đã cùng đồ đệ trồng hơn hai chục mẫu bạch đàn và ba ngàn giò phong lan đủ loại. Các sư huynh dạy tôi chăm hoa, tưới cây mỗi sáng. Buổi chiều đi học ở trường Nam Giao. Năm mười lăm tuổi, tôi bắt đầu chướng tính. Sư huynh hạch tôi:

    - Bạch thầy, Ðăng Ninh trốn học, la cà ở quán cà-phê Tím. Người quanh đó ai cũng chê cười, họ nói cô ruột Ninh làm hương giàu có, cúng dường nhiều tiền nên thầy thả cho Ninh tha hồ tự tung tự tác.

    Tôi ức, lầm lì không nói, thầy cũng không quở. Tính thầy rất nghiêm, không mấy khi la rầy mà đồ đệ ai nấy tuân lời răm rắp. Chỉ riêng với tôi, không hiểu sao thầy đặc biệt khoan thứ. Sợ thầy phạt, đợi lúc sắp vào tụng kinh, tôi biện bạch:

    - Bạch thầy, ngày xưa cha con thường bảo: tu trên núi dễ, tu giữa chợ mới là khó. Không ở giữa đời làm sao hiểu đời đục mà tránh?

    Thầy hỏi:

    - Ai bảo con là đời đục? Ðời không đục, không trong.

    Tôi hụt hẫng, không hiểu ý thầy định nói gì?

    Tu trên non bây giờ thật ra cũng không phải dễ. Thầy tôi tránh đời vào núi sâu, nhưng rồi vườn lan Mây Biếc nổi tiếng quá nên người trần lại kéo lên thưởng ngoạn. Thứ bảy, chủ nhật, học trò đạp xe lác đác trắng trên con đường mòn tới thảo am. Mấy cô nữ sinh nhỏ tuổi mê hoa ngẩn ngơ ngắm bông súng tím trong hồ, chạy vào đến tận hiên, chỗ thầy ngồi viết sách. Thầy không quở, cũng không ngẩng lên nhìn. Một cô bé chạy đến gần tôi, nhìn làn sương li ti mà tôi đang xịt lên những chồi đang đơm nụ. Cô hỏi tôi tên hoa, tôi giảng:

    - Ðây là giống Tiểu Hồ điệp, nghĩa là bươm bướm nhỏ. Em thấy không, trông xa chấp chới như đàn bướm cải mầu vàng.

    Cô chìa hai bàn tay với những ngón búp măng, hứng sương. Tôi cau mày:

    - Này, đừng nghịch.

    Cô bé cứ đùa với những bụi nước, chẳng để ý lời tôi.

    - Anh cứ tưới đi, em cũng là Lan.

    Tôi cáu, xịt cho nước rơi ướt cả tóc, cả áo cô bé. Mấy cô bạn cười rúc rích, khi về có cô còn nói vọng lại:

    - Con Lan hên quá, gặp chú tiểu vừa đẹp trai, vừa quậy.

    Tôi tủm tỉm cười. Sư huynh tôi cáu kỉnh:

    - Mấy con Thị Mầu đời nay quá quắt lắm. Bay không biết quyến rũ sư tăng là tội đọa địa ngục hử?

    Tôi cự:

    - Người ta chỉ đùa thế, có gì mà gọi là quyến rũ.

    Từ đó, vài ba hôm một lần, Lan lại đến giúp tôi tưới hoa. Tôi dạy cho cô biết về phong lan, đấy là cả một thế giới còn đa dạng hơn thế giới người. Phượng Vĩ đỏ rực, Tuyết Ðiểm thì trắng, Vũ Nữ thì như đang múa trước gió. Lan phụng phịu:

    - Hoa nào cũng có tên riêng, chỉ em không có.

    Tôi nhìn khuôn mặt cô, đôi mắt trong trẻo với cái miệng cười hồn nhiên như trẻ thơ. Vậy tôi đặt cho cô một cái tên. Tên cô là Tinh Khôi.

    Thầy biết tình thân giữa tôi và Lan. Sư huynh không vui lòng, thầy chỉ bảo:

    - Không can gì.

    - Bạch thầy, người này có bạn thì người kia có bạn, rồi con gái kéo đến đầy thảo am, còn cái thể thống gì nữa?

    Thầy gật đầu. Chiều lại, tôi mài mực hầu thầy, thầy đem cho tôi xem bộ tranh mười bức vẽ mục đồng chăn trâu:

    - Ðây là thập mục ngưu đồ, cũng là quá trình tu học của một con người. Trâu không là trâu, mà chính là cái tâm ta đó

    Tôi động lòng, hỏi:

    - Bạch thầy, con xem bức vẽ cuối cùng, không còn trâu chẳng còn người, chỉ còn trăng soi. Vậy cớ gì phải sống trong dây trói. Ngày xưa Tuệ Trung Thượng Sĩ là bậc ngộ đạo mà không kiêng rượu thịt, vì chay mặn chỉ là hình tướng bên ngoài, không can hệ đến sự giác ngộ bên trong.

    Thầy cười:

    - Ðúng, con ạ, với bậc đắc đạo là thế. Nhưng khi ta còn là một người phàm, thì cũng như con trâu kia, phải có sợi dây buộc, có người chăn dắt. Ðến khi cái tâm vững rồi, sáng rồi mới có thể như trâu đen thành trâu trắng, không ràng không buộc, chẳng những nhởn nhơ trên cỏ xanh mà còn bay lên đến chín tầng mây.

    Tôi vái thầy mà thưa:

    - Con hiểu rồi, nhưng nhà chùa chẳng thể xua đuổi ai. Từ mai con xin thôi không giữ vườn lan nữa.

    Mấy hôm sau, Lan thấy sư huynh ra tưới vườn, còn tôi thì chẻ củi.

    - Anh không thích phong lan nữa sao?.

    - Không. Muôn hồng nghìn tía, chẳng qua cũng chỉ để nhìn trong chốc lát. Một đời tôi chỉ riêng nhớ hoa hoàng lan.

    Tôi giảng cho cô bé biết hoa hoàng lan cánh mảnh mai, vàng như mầu chim hoàng yến. Thuở trước, cứ sắp rằm, mồng một, các bà hàng hoa lại đến mua, họ gói hoa trong lá chuối, từng gói nhỏ xinh xinh tỏa thơm ngây ngất. Lan bảo:

    - Thích ghê, em chưa thấy bao giờ.

    Ừ, loài cây ấy có lẽ giờ đây đã tiệt giống rồi hay sao, nhiều lần theo sư huynh đi chợ mua bông chuối, tôi để ý tìm mà không thấy nữa. Tôi lớn lên lòng bâng khuâng như thiếu vắng một thứ gì, cứ mơ hồ nhớ nhớ, thương thương...

    Cuối năm, anh em tôi kẻ kéo, người đẩy, chở phong lan xuống phố đổi gạo. Ông chủ tịch hội hoa cảnh hài lòng lắm khi thấy những giò mũm mĩm với chồi xanh đầy nụ. Ba bao gạo lớn được bưng ra.

    - Cha ơi, con có làm một ít bánh trái cây để cúng dường.

    Tôi nghe tiếng quay lại, sững người vì thấy Lan. Ông chủ tịch âu yếm bảo:

    - Cúng dường thì phải cung kính. Con phải tự lên chùa lạy Phật mà dâng.

    Tôi hãi hồn, vội nói:

    - Thôi thôi, khỏi phiền nữ thí chủ. Nhận ngay ở đây.

    Lan bật cười, lại cái cười tinh khôi. Rồi Lan nhìn tôi buồn thiu:

    - Sao lâu nay anh không ra vườn? Em lên chùa, biết anh trong bếp mà mấy chú không cho vào. Riết rồi em buồn không muốn đến nữa.

    o O o
    Mấy buổi sau, tôi theo các bạn cùng lớp vào quán. Lan ngồi ở đó, sau chiếc bàn con bên cửa sổ. Các bạn tôi ai cũng nhìn về phía Lan còn cô bé chẳng nhìn ai, cứ lặng lẽ một mình. Ngồi ở một bàn xa mà tôi như thấy cả bầu trời hoàng hôn tím, tím ngát ngoài kia đang in trong đôi mắt Lan. Mãi đến khi chúng tôi ra về, Lan mới ngoái nhìn, ánh mắt thơ ngây mà não nùng. Bỗng dưng đỏ mặt, rồi tôi thấy hoảng sợ vì mình đã đỏ mặt...

    Một người con gái chiều nào cũng ngồi ở quán Tím, chẳng bao lâu đã thành đề tài để bọn con trai bàn tán.

    Con Lan sữa tươi trông xinh vậy chứ nó mắc bệnh, bệnh sợ đàn ông. Ðếch thằng nào đến gần được, nó tránh như tránh tà.

    Không phải đâu, nó giữ giá để chờ lấy Việt kiều, thằng Hùng ở Cali về ngày nào cũng trực ở nhà nó.

    Giữ giá cái gì, nó ưa thằng Quắn chạy bàn ở cà-phê Tím. Tao thấy nó ngồi một bàn với thằng Quắn, khóc rưng rức.

    Tôi im lặng, một lát sau mới bảo:

    - Khó tin.

    - Ở đời chuyện gì mà chẳng có thể xảy ra. - Bạn tôi nói, vẻ ông cụ non - Chiều qua chính mắt tao thấy nó chạy ra sau quầy đưa bức thư cho thằng Quắn.

    Ðạp xe về đã đến quá lăng Tự Ðức, tự nhiên tôi bứt rứt không chịu được. Tôi quay xe, đạp về nhà Lan. Mưa phùn lướt thướt trên con đường về Bao Vinh xa tắp. Mẹ Lan hỏi:

    - Nhà chùa có việc gì mà nhắn cháu lên? Thấy Quắn về nhắn, tôi cho cháu đi ngay rồi.

    Tôi tái mặt, không kịp chào, đạp xe đi như tên bắn. Tim tôi dội thình thịch vì âm vang những lời của sư huynh khi Lan mới lên thảo am lần đầu:

    - Cô gái này đẹp đẽ thanh tú nhưng đuôi mắt dài quá, môi mỏng, cổ cao, tai nhỏ. Ðấy là tướng hồng nhan mệnh yểu...

    Trời nhập nhoạng tối, tới Nam Giao. Nhìn dáo dác hai bên đường, tình cờ thấy Quắn và Lan cùng ngồi trong quán ốc. Quắn gọi rượu, đang ép Lan uống. Lan lắc đầu. Quắn cố nài. Tôi đi vào, đấm mạnh vào mũi Quắn.

    - Ðồ lừa đảo. Từ nay chừa cái thói dỗ gái đi.

    Quay sang Lan, tôi nạt:

    - Ði về!

    Không biết Lan có bị một thứ thuốc mê gì không, mặt ngây ngây như bị bỏ bùa. Tôi chở Lan đi. Quắn biết tôi có võ Thiếu lâm nên đành chịu phép, hậm hực, chùi máu mũi nhìn theo, cái nhìn của con thú mất mồi...

    Trên đường về, Lan tỉnh lại, gục mặt vào lưng tôi khóc:

    - Em nhờ Quắn chuyển đến anh nhiều thư, anh có nhận được không?.

    Tôi cau mặt:

    - Em khờ lắm, sao lại đi với thằng Quắn?.

    - Quắn bảo em uống vài chén cho ấm rồi lên đàn Nam Giao chờ Ninh đến.

    - Em đừng quên, tên em là Tinh Khôi. Ðừng dại dột để bọn lưu manh làm nhơ bẩn.

    Nước mắt Lan chảy thấm qua chiếc áo lam của tôi, thấm vào đến da thịt. Dừng xe, tôi ngồi xuống vệ cỏ bên đường. Lan ngồi bên tôi.

    - Ðêm nào cũng nằm mơ thấy anh dắt em đi thăm vườn phong lan. Mình về trồng lan trong sân nhà em đi, có thích hơn không?.

    Tôi không trả lời, ngắt những cọng cỏ, vò nát trong đôi tay run run. Trên kia, trăng sáng quá, tròn và rực rỡ như chiếc mâm vàng giữa trời. Bỗng nhiên lòng tôi miên man nhớ những câu chuyện cha tôi vẫn kể ngày xưa...

    - Em có thích nghe chuyện cổ tích không?.

    - Thích.

    Tôi kể cho Lan nghe chuyện người tử tù đội chiếc mâm vàng đầy nước đi từ cổng hoàng cung vào trước ngai vua mà không sánh ra ngoài một giọt, Lan nghi ngờ:

    - Sao có người làm được như thế?.

    Tôi gật đầu:

    - Ngày ấy, nhà vua cũng đã hỏi như vậy. Vị thiền sư trả lời: “Bệ hạ đã hứa nếu y làm được thì sẽ tha tội chết. Vì lẽ sống chết của y, nên dù việc khó vô cùng mà y vẫn chăm chăm làm bằng được. Nay nếu bệ hạ cầu giải thoát cũng như người này cầu sống, thì việc tu hành dù khó mấy cũng có thể vượt qua.”

    Lan ngước nhìn tôi, lần đầu tiên tôi nhận ra trong hai cái giếng êm như nhung của mắt cô bé những tia sáng ương ngạnh lạnh lùng.

    - Em hiểu rồi. Anh xem tu hành là chuyện sinh tử của anh. Vậy nếu em lại xem anh là chuyện sinh tử của em thì sao? Anh và em, ai đi trọn đường, ai bỏ cuộc?.

    Tôi bảo:

    - Em nói gì thế? Chuyện sống chết mà nghe cứ như là trò chơi sấp ngửa của trẻ con.

    Lan cười... Bàn tay nhỏ nắm lấy tay tôi, ngón thon vuôn vuốt như cánh hoa ngậm sữa. Vẻ đẹp này có phải phù du? Vẻ đẹp này là sắc hay là không? Chỉ thấy ngợp vì trăng. Trăng sáng quá.

    - Thôi, về đi em.

    Tôi đạp xe, trước mặt tôi chập chờn lấp lóa những con đường. Những mê lộ giữa đạo và đời, giữa ma và Phật...

    o O o
    Việc lộn xộn ở quán ốc chẳng mấy ngày đã đồn đến chùa. Cô tôi biết, tốc lên ngay. Tôi bảo:

    - Cô đừng lo. Chẳng có chuyện gì đâu.

    - Không có lửa, sao có khói, ¡n ốc, đánh lộn, giành gái. Thế còn gì là tu hành? Tau mà gặp con ma nữ đó, tau tước từ dưới tước lên.

    Tôi ngẩn người một lúc rồi hiểu ra, không nín được cười. Cô bực tức:

    - Cháu tưởng chuyện gì cũng cười là xong sao?

    Quả là chuyện không thể cười mà xong. Mấy hôm sau, gia đình Lan mời tôi về.

    Con ma nữ đã uống hai mươi viên thuốc ngủ, may sao nhà biết được chở đi cấp cứu. Mẹ Lan chắp tay lạy tôi như lạy Bồ Tát:

    - Bác biết tính con Lan lắm, từ nhỏ nó đã nói là làm, đã làm là làm tới cùng. Sợ e cứu thoát lần này, nó lại tự sát lần nữa. Con cứu nó cho bác đi con.

    Tôi cuống quýt:

    - Bác bảo con làm sao được?.

    - Con cứ giả vờ ừ đi, bây giờ nó mới lớn, tính còn ngông cuồng, vài ba năm nữa chững chạc rồi tự nhiên nó hiểu ra.

    Ông chủ tịch hội hoa cảnh mắt đỏ au, nhìn tôi chờ đợi một lúc rồi bảo vợ.

    - Nói như bà cũng khó. Chú Ninh đây tướng mạo khôi ngô, trước sau rồi sẽ có phước được che lọng vàng. Lẽ nào vì con mình mà để người ta mang tai mang tiếng.

    Tôi thở dài:

    - Cháu đi tu không phải là mong lọng vàng che đầu. Chỉ vì nguyện giữ thân trong sạch để tụng cho mẹ cháu một nghìn lần kinh Thủy Sám.

    Nhớ tới mẹ, tôi bất giác đau đớn trong lòng, đứng dậy đi...

    Tôi về chùa, từ ấy không đi đâu. Thầy bảo:

    - Sao con bỏ học?.

    Tôi nói:

    - Suối ở xa, con muốn ra triền núi đào giếng.

    Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy:

    - Bạch thầy.

    Thầy tôi bảo:

    - Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.

    Tôi nói:

    - Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An.

    Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi:

    - Tâm không an, có cầu cũng vô ích.

    Tôi gật đầu thú nhận. Bao nhiêu đêm, cứ chợp mắt là thấy Lan hiện ra, mảnh dẻ, thanh thoát, đầu đội chiếc mâm vàng sóng sánh nước đi thẳng đến bờ vực. Tôi nghe tiếng thét của nàng vang động cả giấc mơ, nàng nhào xuống rơi thẳng vào không gian mênh mông như chiếc lá lìa cành trước gió.

    - Thầy ơi, nếu vào Niết bàn mà phải đạp lên một chiếc lá, Phật có làm không? Xin thầy cho con hay, trời đất nặng hơn hay chiếc lá nặng hơn?.

    Thầy nhìn vào mắt tôi:

    - Chỉ có con tự trả lời được thôi. Ngày mai con hãy về, cứ nhìn thẳng vào nghiệp duyên mà tự quyết định lòng mình.

    Tôi lắc đầu:

    - Thầy quên sao? Con đã thề khi nào đào xong giếng mới xuống núi.

    o O o
    Ra xuân, đường lên núi khô ráo. Hai tay tôi ướt bùn đỏ, những giọt nước đầu tiên đã ứa ra từ lòng đất sâu. Tôi chạy về chùa, định vào trình thầy nhưng người đang làm lễ. Có người thí chủ dâng hương trong bệ Phật, mùi trầm mới thơm thơm trong không gian.

    Ðang dội nước rửa tay, tôi nghe có người bước đến.

    - Chú Ninh!.

    Tôi ngẩng lên. Mẹ của Lan.

    - Bác lên chùa cầu cho em đi bình an. Có cái này, em nó gửi lại....

    Bà đưa cho tôi một cái túi nhỏ, rồi vừa quay đi vừa đưa khăn lau mắt.

    Những dòng chữ trong thư, mảnh mai và run run như những cánh lan.

    “Bốn trăm ngày chờ anh ở quán Tím, cuối cùng em cũng hiểu ra là mình thua cuộc. Ðã đi mà chẳng tới, lẽ ra thì phải chết. Nhưng em chết thì anh làm sao yên lòng đi trọn con đường tu. Vì vậy, em đã quyết định lấy chồng xa xứ. Trong cái túi này là cây hoàng lan con, em nguyện tìm cho anh bằng được rồi mới ra đi. Em vẫn nhớ lời anh nói, một đời anh chỉ thích hoàng lan...

    Người ta cứ bảo là em khôn, lấy ông Việt kiều đi Tây đi Mỹ cho sướng chứ theo chi chú tiểu trọc đầu. Nhưng đi Tây đi Mỹ không phải là chí nguyện của em. Lấy một người mình không thương, đến một nơi xa lạ với em còn khổ hơn là chết. Xin anh hãy tụng cho em một lần kinh cầu siêu thoát, một lần thôi....”

    Bất giác, tôi òa khóc. Nước mắt theo nhau lăn trên má tôi như ép cho hết những dòng tục lụy cuối cùng.

    - Cứ khóc đi con! - Thầy vỗ về khi thấy tôi luống cuống che mặt - Thầy chưa nghe nói gỗ đá thành Phật bao giờ.

    Tôi nức nở:

    - Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?

    Thầy bảo:

    - Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?

    Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.

    Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

    Tôi cầm lòng, thôi thương, thôi nhớ.

    Trần Thùy Mai
    Đã chỉnh sửa bởi M Mít Đặc; 12-02-2011, 10:09 PM.
    Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.
    Similar Threads
  • #2

    NGƯỜI NGÀY XƯA

    ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi M Mít Đặc View Post







    Năm tôi mười tuổi, có vị Ðại Ðức trên núi về thuyết pháp ở chùa Diệu Dế. Tôi đi theo cô tôi đến nghe. Khi trở về tôi xin xuất gia. Cha tôi bảo:

    - Kinh sách ở đây, chuông mõ ở đây, con còn đi đâu?

    Tôi chỉ lắc đầu...

    o O o

    Tôi tự đày mình trong những nhát cuốc trên sỏi đá, đêm về tụng kinh, vẫn đôi khi chợt nghe tiếng mình khắc khoải. Có lúc nửa đêm chợt tỉnh, thấy thầy ngồi bên giường, lâm râm niệm chú. Tôi hốt hoảng vùng dậy:

    - Bạch thầy.

    Thầy tôi bảo:

    - Con giật mình, nói mê luôn, hất tung cả chăn.

    Tôi nói:

    - Con tỉnh rồi. Rước thầy đi nghỉ, con xin ra bệ Phật niệm Cầu An.

    Thầy lặng lẽ một lúc, rồi bảo tôi:

    - Tâm không an, có cầu cũng vô ích.

    Tôi nức nở:

    - Bạch thầy, thầy có cho con trồng cây hoàng lan không?

    Thầy bảo:

    - Cỏ cây vô tội, sao mình không thể bao dung?

    Rồi một tay dắt tôi, một tay cầm túi cây đến bên góc vườn, thầy tự mình trồng xuống.

    Tôi tưới cây bằng nước giếng chùa. Hoàng lan lớn lên, năm này qua năm khác, nở hoa vàng mong manh. Mong manh như tất cả những gì đẹp trên thế gian.

    Tôi cầm lòng, thôi thương, thôi nhớ.



    NGƯỜI NGÀY XƯA

    Thích Nữ Trí Hải

    (Phóng tác một mẫu truyện Liêu Trai do Hòa Thượng Trí Thủ kể)

    Sinh là anh học trò nghèo kiết xác, tha phương cầu học . Anh ở trọ trong một ngôi chùa, ngày đêm dùi mài kinh sử để ứng thi . Quan huyện sở tại cũng là người xứ khác bổ nhiệm đến, thường lui tới chùa vì quan rất mộ đạo . Quan có một cô con gái tuổi độ trăng tròn, nhan sắc mỹ miều diễm lệ . Một hôm nhân ngày lễ Vu Lan, cô gái theo cha đến chùa . Vừa trông thấy người ngọc, Sinh ôm lòng thầm yêu trộm nhớ . Nhưng chàng đã có vợ con ở quê nhà, lại thuộc gia đình nghèo khó, mà nàng thì đang độ xuân xanh, lá ngọc cành vàng . Chuyện lương duyên thật khó nỗi ước mơ . Mối tình bị chướng duyên ngăn trở càng thêm nồng nàng thắm thiết, mặc dầu chưa một lời trao đổi, tình yêu chỉ đơn phương . Chàng đành nuốt nước bọt ngâm câu "tình tuyệt vọng" :

    "Lòng ta chôn một khối tình
    Tình trong giây phút mà thành thiên thu" .



    Nàng thoáng hiện tới chùa một lần rồi không bao giờ trở lại . Con "người gieo thảm" đó để lại trong lòng Sinh một mối tương tư cay đắng, vì không thể nào trăm năm tính chuyện vuông tròn . Hình ảnh nàng đang ám ảnh Sinh một cách mãnh liệt, thì bỗng một hôm, chàng nghe tin nàng đã chết . Ôi ! Rõ thật là : "Ngày xuân xanh sơ ngộ để thiên thu" .

    Mới thấy nàng có một lần, nhưng Sinh lăn khóc thảm thiết khi hay tin nàng lìa trần . May thay, tục lệ lúc bấy giờ ưa chôn người chết ở nguyên quán, nên quan huyện ướp xác quàng thây nàng tại ngôi chùa Sinh trú ngụ, chờ ba năm sau sẽ đưa về cố quận . Từ đó Sinh được đêm ngày gần gũi người đẹp trong quan tài . Mối tình si vẫn nồng đượm, có lẽ còn mặn mà hơn xưa, bởi lẽ giờ đây không còn gì ngăn cách . Cái chết xóa tan mọi bất bình đẳng giữa con người, phá đổ mọi ranh giới tài sản, địa vị, giai câp... Mỗi bửa ăn, Sinh đặt một mâm cơm trên nắp quan tài cúng cho hương linh hưởng xong, chàng mới chịu hạ xuống ăn . Chàng kể lể với người trong quan tài như sau :

    "Ối nàng ơi ! Âm dương đôi ngã, nàng có thấu cho lòng tôi không ? Khi nàng còn sống, nàng là lá ngọc cành vàng, tôi chỉ là một kẻ thư sinh bần hàn ăn nhờ ở đậu, có khi nào đài gương soi đến đậu bèo ! Nhưng tôi yêu nàng tha thiết, tình riêng luống ra ngẩn vào ngơ . Hình bóng nàng đậm nét trong tim tôi . Bây giờ nàng nằm đó, tôi đứng đây, cách nhau có một tấm ván quan tài, chỉ trong gang tấc vậy mà thành ra biết mấy trùng quan san ! Ôi ! Sao con tạo khéo trêu người dường bấy ! Khi tôi được hân hạnh gần gũi nàng, thì nàng đã hóa ra người thiên cổ, thành cái xác không hồn ! Ước sao nàng hãy sống lại, tôi xin đổi bất cứ gì để đôi ta được tái ngộ trên dương trần ! Xin nàng chứng giám cho lòng tôi" .

    Bửa ăn nào cũng vậy, việc cúng cơm và đọc văn tế than khóc người đẹp trở thành một tục lệ bất biến trong đời chàng thư sinh . "Hữu cầu tất ứng", lời cầu nguyện của chàng chẳng bao lâu cảm ứng được vong hồn người chết . Một đêm nàng hiện về thỏ thẻ :

    "Cảm tấm tình si của chàng, em đã xin với Diêm vương cho em được tái sinh vào ngôi nhà số 555, đường Nguyễn văn Trổi, thành phố Hồ Chí Minh . Mười lăm năm sau đúng vào ngày rằm tháng bảy, chàng hãy đến tìm em ở đó, chúng ta sẽ gặp gỡ để vầy mối lương duyên . Nhưng chàng ôi, Diêm vương có ra một điều kiện . Muốn tái sinh, em phải nhờ người thân chí thành tụng một tạng kinh Kim Cương thì mới được như ý . Vậy, nếu chàng có lòng, xin hãy tụng kinh cho em" .

    Sinh tỉnh dậy mừng rỡ, ghi rõ ngày tháng đã hẹn lên vách, ghi luôn cả địa chỉ mới của cô gái . Từ đó chàng xếp bút nghiên, chuyên chú tụng kinh Kim Cương đến sáu ngàn lần như nàng dặn, phải hết mất ba năm . Năm đó chàng đã bốn mươi lăm tuổi, còn những mười hai năm nữa mới gặp lại người đẹp ngày xưa ! Sinh vẫn ôm lòng chờ đợi, hình ảnh yêu kiều của nàng mỗi ngày một đậm trong trí tưởng của chàng .

    Về phần cô gái, quả nhiên thần thức cô đã thác sinh vào một gia đình thường dân ở địa chỉ trên, để đáp lại tấm tình si của anh học trò . Cô mang hình dáng một cô gái nhu mì dễ yêu, nhưng không có gì gọi là cá lặn chim sa cho lắm . Mối tình đeo đẳng từ lúc còn nằm trong quan tài, khiến tiềm thức cô vẫn một mực đợi chờ anh chàng thư sinh mặt trắng . Với tình yêu mới nở, cô tưởng tượng hình dung của anh chàng ít ra cũng bằng chàng Kim :
    "Phong tư tài mạo tuyệt vời
    Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa" .



    Ngày tháng thoi đưa, sắp đến ngày hẹn . Chàng thư sinh bây giờ tuổi đã xấp xỉ lục tuần, râu tóc hoa râm, sám mặt phong trần vì nỗi đời mưa nắng . Nhưng mối tình thì vẫn tươi trẻ như thuở ban đầu, vì nó vô hình vô tướng nên không có già bệnh như cái thể xác của anh . Tình yêu đã không đổi, nên hình ảnh nàng trong tim anh không chút đổi thay, đó là nét đẹp đắm nguyệt say hoa của một lần sơ ngộ . Anh yêu, là yêu cái hình bóng của nàng thì đúng hơn . Vì nếu nàng còn sống thì chắc chắn bây giờ nàng cũng không còn như hình bóng anh tôn thờ .

    Cái ngày hẹn hò đã đến . Anh chàng thắng bộ y phục mới tinh, chải lại mái tóc nửa đen nửa bạc không biết bao nhiêu lần, cố che dấu càng nhiều tóc bạc càng hay . Anh cũng kgông quên bôi dầu láng mượt như thời trang dạo đó . Nhưng làm gì thì làm, không thể hóa trang cái già thành trẻ . Không thể nào xóa hết những vết hận năm tháng khắc sâu trên vừng tráng nhăn nheo .
    "Phong trần đến cả sơn khê
    Tang thương đến cả hoa kia cỏ này" .



    Huống chi là con người, dù nó có nỗ lực bao nhiêu để xóa bỏ vết tích thời gian trên thân thể . Nhưng tâm hồn của chàng, mối tình si của chàng không chịu già theo tuổi tác, mà nó vẫn là mối tình đầu của tuổi đôi mươi, của cái lần sơ ngộ . Cho nên anh chàng hăng hái, hăm hở thuê xe tắc xi đến địa chỉ nàng hẹn để gặp lại tình xưa . Phần nàng cũng vậy, con tim rộn rã với tình yêu, với mộng đẹp và với hình ảnh chàng thư sinh khả ái . Chắc hẳn mặt chàng phải đẹp như mối tinh cùa chàng ! Chắc hẳn chàng phải tươi trẻ như hoa xuân phong nhụy ! Ôi, cảm động làm sao se là cái phút giây gặp gở ! Ngàn năm hồ dễ đã ai quên .

    ... Mỗi người sống trong tâm tưởng hình ảnh tuyệt vời của người kia, và của mối tình, tưởng tượng đến cái lúc gặp gỡ mà suýt chết ngất người vì sung sướng . Chiếc xe tắc xi đã dừng lại trước một ngôi nhà chung cư dơ dáy . Nàng con gái đã ra đứng tựa cửa trông chờ . Mà nào thấy đâu bóng hình "hoàng tử của lòng em" ? Chỉ là một cụ già trông càng già hơn do bởi nỗ lực làm cho có vẻ trẻ . Cô gái buột miệng hỏi :
    - Ông kiếm ai ?

    - Xin lỗi, cho tôi hỏi thăm nhà tiểu thư...

    - Ông là ai ?

    - Tôi là thư sinh ở trọ chùa Bà đầm . Xin cô cứ thưa với tiểu thư như vậy .

    Cô gái òa khóc, nói trong tức tưởi :


    - Không phải, không phải ! Trời ôi ! Chàng đã phụ tình, đã lừa dối ta ! Chàng đã si mê người khác, nên đưa ông già này đến thay ! Chàng lừa dối ta ! Thật chàng khinh ta quá mức !

    Nàng ôm mặt bỏ chạy một mạch vào nhà trong . Cụ thư sinh lủi thủi lê bước trên đường về . Chàng như bừng tỉnh cơn trường mộng : hình ảnh cô tiểu thư đã chết thật rồi, nhờ chàng vừa tai nghe mắt thấy . Vâng, nhờ thấy người con gái sống, mà chàng chết được trong tim hình ảnh người con gái chết . Bấy lâu hồn ma vẫn sống mãnh liệt trong lòng chàng dưới hình ảnh một cô nương hoa nhường nguyệt thẹn . Nhưng bây giờ, sau mười lăm năm chờ đợi, chàng chỉ bắt gặp một cô gái nhan sắc tầm thường như trăm ngàn cô gái khác, nào có gì đâu ? Chàng trở về, giở lại kinh Kim Cương ra tụng, đến câu kết :
    "Hết thảy pháp hữu vi
    Như mộng, huyễn, bào, ảnh
    Như sương, như chớp lóe
    Hãy quán chiếu như thế" .


    Chàng tỉnh ngộ, thầm nhủ : "Cám ơn nàng . Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT . Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng . Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy : Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp . Nhan sắc nàng, cái nhan sắc mà mười lăm năm nay ta từng say đắm, đã không thực, huống chi là hình ảnh, hoài niệm về nhan sắc ấy . Cái thực đã không thực, huống hồ là mộng tưởng trong tâm" .


    Trích "Đường Vào Nội Tâm" của Thích Nữ Trí Hải .
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom