• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Giỗ trận Đống Đa - Hoàng Yên Lưu

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Giỗ trận Đống Đa - Hoàng Yên Lưu

    Giỗ trận Đống Đa - Hoàng Yên Lưu





    Những năm cuối của thế kỷ 18, lịch sử chống xâm lăng của Việt Nam diễn ra những trang oanh liệt. Tại miền Nam trận đánh Rạch Gầm-Xoài Mút năm 1785 đã phá tan mấy vạn binh và 300 chiến thuyền của đạo quân xâm lược tới từ Vọng Các. Còn ở Bắc Hà thì chiến thắng Kỷ Dậu (1789) đại phá quân Thanh còn vang dội tới muôn đời sau. Cả hai chiến công đều do Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải đất Quy Nhơn lập ra.
    Mùa xuân đã tới nơi quê hương, năm mới đã qua được mấy ngày, không mấy ai không nhớ tới trang sử vẻ vang Hoàng Đế Quang Trung đại phá hai mươi vạn binh Thanh. Đống Đa còn đó, Sông Nhị còn kia, chứng tích lịch sử làm niềm tự hào dân tộc phấn chấn, tinh thần chống ngoại xâm thêm sôi sục, lòng kỳ vọng vào thế hệ tương lai dâng cao như nhà thơ Vũ Hoàng Chương từng viết vào một mùa xuân trong thập niên 50 của thế kỷ trước:



    Tháng giêng kỷ niệm Đống Đa
    Sông Đằng kỷ niệm tháng ba mấy lần.
    Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân
    Cánh tay Đế Nguyễn, Vương Trần nào ai?

    Muốn rõ hơn về thiên sử vàng đại phá quân xâm lược từ phương Bắc tràn xuống của Hoàng đế Quang Trung chúng ta có thể đọc lại mấy dòng sử do Học giả Hoàng Xuân Hãn tóm lược trong phần chú thích Đại nam Quốc sử diễn ca về nhà Nguyễn Tây Sơn.
    Thiên bi hùng sử khởi từ Quang Trung, với vai trò Bắc Bình Vương ra Bắc chấn chỉnh cơ nghiệp nhà Lê rồi rút về Nam để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An. Vua Lê lúc ấy là Lê Chiêu Thống bất tài, vô chí, bị phe phù Trịnh khuynh loát nên phải vời Chỉnh ra Bắc phụ tá. Nhân cơ hội giúp vua dẹp Trịnh Bồng, Chỉnh tỏ ra chuyên quyền và kiêu ngạo.
    Nguyễn Huệ nhận thấy cơ nguy này, vào năm 1787 phải sai Võ văn Nhậm ra Bắc diệt Chỉnh. Chỉnh đưa vua chạy trốn nhưng rồi bản thân bị bắt, còn vua thì từ đấy lưu lạc tứ phương. Nhậm có công nên hống hách, có ý chống lại Phú xuân, khiến Nguyễn Huệ lại phải ra Bắc lầân nữa (1788) và diệt Nhậm, rồi quay về Phú Xuân để Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm ở lại coi Bắc Hà phụ tá mộât hoàng thân nhà Lê trong vai trò giám quốc.
    Hoàng Xuân Hãn ghi lại vị vua cuối cùng của nhà Lê mạt là Chiêu Thống đã xoay xở ra sao từ lúc rời Thăng Long trên bước đường sa cơ thất thế: “Vua Chiêu Thống sau đó ẩn náu ở vùng Lạng giang. Bà thái hậu (mẹ vua) đem hoàng tử chạy sang Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây nước Tàu.
    Quan Tàu đem việc trình tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn sĩ Nghị. Sĩ Nghị tâu với vua Càn Long nhà Thanh.
    Vua nhà Thanh muốn nhân cơ hội chiếm lấy nước ta, nên mượn tiếng giúp vua Lê Chiêu Thống cử Tôn Sĩ Nghị đem quân bốn tỉnh miền Nam nước Tàu (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu) chia làm ba đạo kéo sang (các đường Tây Bắc, đường Cao Bằng và đường Lạng Sơn).
    Đại quân Tôn Sĩ Nghị theo đường Lạng Sơn đánh thẳng tới Kinh Bắc, phá trại của tướng Tây Sơn là Nội hầu Phan văn Lân và kéo đến Bồ đề (Gia lâm).
    Ngô văn Sở không địch nổi, rút quân về giữ ở Tam Điệp, phân giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh Hóa.
    Tôn Sĩ Nghị tới Kinh Bắc, vua Chiêu Thống đem rượu thịt ra đón chào và khao quân.
    Sĩ Nghị vào Đông đô tuyên đọc sắc của vua nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam quốc vương, rồi ban thưởng cho các tướng sĩ...
    Tưởng nhà Lê lại lên, nhiều người quay về theo vua Chiêu Thống. Nhưng vua không dùng ai chỉ dựa vào nhà Thanh.
    Văn thư nhà vua đều đề niên hiệu Càn Long (nhà Thanh) và mỗi buổi chầu xong, vua lại đi bộ sang dinh Sĩ Nghị để chầu chực. Sĩ Nghị xử lại rất khinh bạc... Quân Thanh đóng ở Thăng Long kiêu ngạo và nhũng nhiễu nhân dân.
    Nguyễn Huệ ở Phú Xuân biết vậy liền tự xưng là Quang Trung Hoàng đế (ngày 25 tháng Một, năm Mậu Thân, 1788) rồi tự mình thống lĩnh quân thủy bộ ra đánh giặc Thanh.
    Vua Quang Trung ra đến Nghệ An cho quân nghỉ mười ngày, kén thêm binh tất cả là 10 vạn quân và 100 con voi.
    Ngày 20 tháng Chạp, vua ra hội với Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm ở núi Tam Điệp cho quân ăn Tết trước và hẹn mồng Bảy tháng Giêng sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
    Vua chia quân thủy bộ theo năm đường tiến ra Bắc, ngày 30 Tết cất binh.
    Vua thân đốc quân trung ương phá vỡ nghĩa binh của nhà Lê ở sông Giản Thủy (cũng gọi là Quyết Giang thuộc Ninh Bình và Hà Nam) bắt sống quân Tàu ở Phú Xuyên, vây rồi phá tan đồn giặc ở Hà Hồi và Ngọc Hồi, thuộc phủ Thường Tín (Hà Đông) ngày 05 tháng Giêng.
    Quân các đạo khác cũng toàn thắng. Nhiều tướng nhà Thanh tử trận, trong đó có Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa (gần Nam Đồng, nay là ngoại ô Hà Nội), bị vây phải thắt cổ tự tử.
    Tôn Sĩ Nghị nghe tin vội vàng cùng vua Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Bắc Ninh. Khi qua sông Nhị Hà rồi, Tôn Sĩ Nghị sai phá cầu vì sợ Tây Sơn đuổi kịp. Quân Tàu tranh nhau sang sông, cầu đổ, sa xuống sông chết đuối đầy sông.
    Trưa mồng 05 tháng Giêng Quang Trung vào Thăng Long, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Vua sai quân đuổi theo quân nhà Thanh đến cửa Nam quan. Dân Tàu ở bên kia cửa quan, khiếp sợ bỏ chạy, hàng trăm dặm không có tiếng người”. (Hoàng Xuân Hãn)

    Tuy là lời thuật ngắn gọn, nhưng những dòng trên đã cho ta thấy tài điều binh khiển tướng của Hoàng đế Quang trung và khí thế kiêu hùng và dũng cảm của quân Nam đã đè bẹp tinh thần ngạo mạn của cường địch, phá tan giặc thù không còn một mảnh giáp, trong một trận đánh chớp nhoáng nhưng muôn phần kịch liệt.
    Hào khí của Quang Trung và hùng khí của Nam quân cùng với lòng yêu nước của toàn dân, đã được nhiều nhà thơ ca tụng trong đó có Vũ Hoàng Chương với Bài Ca Bình Bắc.
    Thi tài họ Vũ có tuổi trẻ gắn liền với Thăng Long và sau 1954, nhân dịp xuân về, nơi lữ thứ là Sài Gòn ngày cũ, nhớ Núi Nùng Sông Nhị, nhớ chiến công hiển hách của tiền nhân, mong mỏi “giấc mơ hồi hương” thành sự thực đã cảm khái viết Bài Ca Bình Bắc:

    Kể từ đấy
    Mặt trời mọc ở phương Đông, ngùn ngụt lửa,
    Mặt trời lặn ở phương Đoài, máu chứa chan,
    Đã sáu mươi ngàn lần...
    Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần
    Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc
    Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam
    Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn...
    Hãy dừng lại Thời gian
    Trả lời ta - Có phải
    Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải,
    Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
    Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại
    Mà chí lớn dọc ngang
    Mà nghiệp lớn huy hoàng
    Vẫn ngàn thu còn mãi
    Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn?
    Ôi Người xưa Bắc Bình Vương
    Đống Đa một trận trăm đường giáp công
    Đạn vèo năm cửa Thăng Long
    Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng.

    Chừ đây lại đã Xuân sang
    Giữa cố quận một mùa Xuân nghịch lữ
    Ai kia lòng có mang mang
    Đầy vơi sầu xứ - hãy cùng ta
    ngẩng đầu lên, hướng về đây tâm sự
    Nghe từng trang lịch sử thét từng trang

    Một phút oai thần dậy sấm
    Tan vía cường bang
    Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
    Cao chót vót năm màu mây chiêm ngưỡng
    Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
    Và khoảnh khắc
    đổ xuôi chiều vươn ngược hướng
    Bao trùm lên đầu cuối Thời Gian.
    Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
    Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
    Một bành voi che lấp mấy ngai vàng.

    Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
    Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
    Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang.
    Ngọn kiếm trỏ, bao cánh tay hăng hái.
    Ngọn cờ vung, bao tính mệnh sẵn sàng.
    Người cất bước, cả non sông một dải
    Vươn mình theo - dãy Hoành Sơn mê mải
    Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng.
    Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
    Chín con rồng bơi ngược Cửu long giang
    Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
    Khí thế kia làm rung động càn khôn.
    Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
    Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn.
    Gươm thiêng cựa vỏ,
    Giặc không mồ chôn.
    Voi thiêng chuyển vó,
    Nát lũy, tan đồn
    Ôi một hành ca hề, gào mây, thét gió,
    Mà ý tưởng, lòng quân hề, bền sắt, tươi son.

    Hưởng ứng sông hồ giục núi non
    “Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn
    Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
    Tan tác xương thù, ngựa đá bon.

    Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn,
    Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân
    Vinh quang hẹn với phong trần
    Đống đa gò ấy, mùa Xuân năm nào.

    Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
    Sầu Xuân vời vợi
    Xuân tứ nao nao
    Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào,
    Ngập giấc Xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái
    Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao
    Chí khí cũ gầm trong da thịt mới
    Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao,
    Đèo Tam Hiệp hề, lệnh truyền vang dội
    Sóng Sông Mã hề, ngựa hí xôn xao
    Mặt nước Lô Giang hề, lò trầm biếc khói,
    Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao...
    Rằng: “Đây bóng kẻ anh hào
    Đã về ngự trên ngã ba thời đại”
    Gấm vóc giang san hề, còn đây một dải
    Thì nghiệp lớn vẻ vang
    Thì mộng lớn huy hoàng
    Vẫn ngàn thu còn mãi...
    Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn!

    Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn,
    Lũ chúng ta trên ngã ba đường
    Ghi ngày Giỗ Trận
    Mơ Bắc Bình Vương
    Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn
    Mười ngả tâm tư hề, một nén tâm hương
    Đồng thanh rằng: “Quyết noi gương!”

    Để một mai bông thắm, cỏ xanh rờn
    Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt.
    Mừng đất trời gió bụi tan cơn
    Chúng ta không hổ với người xưa
    Một trận Đống Đa nghìn thu oanh liệt
    Vì ta sau trước lòng kiên quyết
    Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn.

    Sự kiện sử thường khô khan nhưng bức tranh lịch sử vẽ bằng màu sắc hoặc thêu, hoặc dệt bằng chữ gấm, lời hoa, bằng nhịp điệu trầm hùng, thì lại trở thành một công trình sống động lôi cuốn người chiêm ngưỡng.
    Qua những dòng trong Bài ca Bình Bắc người đọc như đang chứng kiến tận mắt chân dung vĩ đại của Quang Trung trên bành voi trận, khí thế cuồn cuộn dâng tận Ngưu, Đẩu của núi sông và của dân tộc, tất cả hăm hở theo bóng “cờ đào” của người “áo vải” đất Quy Nhơn ra trận diệt ngoại xâm. Ở thiên anh hùng ca này còn thấy rõ nỗi lòng của thế hệ sau: sùng bái anh hùng cứu quốc và quyết tâm duy trì truyền thống dũng cảm bảo vệ tự do của dân tộc.
    Sau Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo tới Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, chúng ta khó tìm thêm một thiên cổ hùng văn nào ngoài Bài Ca Bình Bắc.
    Similar Threads
  • #2



    Văn thơ của chúng ta nói về đại thắng năm Kỷ Dậu (1789) khá nhiều. Tuy nhiên, tác phẩm xưa nhất ca tụng chiến công này và người anh hùng áo vải đất Quy Nhơn Hoàng đế Quang Trung:

    Mà nay áo vải cờ đào
    Giúp dân, giúp nước biết bao nhêu tình

    phải kể là Ai tư vãn (bài khóc vua Quang Trung của Ngọc Hân Công chúa) và Hoàng Lê Nhất Thống Chí, do nhiều người trong dòng họ Ngô ở Tả Thanh Oai, Hà Đông, thường được gọi chung là Ngô gia văn phái trứ tác (có thuyết cho rằng do Ngô Thời Chí và Ngô Thời Du là tác giả. Lại có thuyết lập luận do Ngô Thời Nhiệm, một kẻ sĩ từng được Quang Trung tín nhiệm, chấp bút phần đầu còn phần sau có thể do Ngô Thời Chí viết tiếp). Hoàng Lê Nhất Thống Chí được viết bằng chữ Hán và được coi là một bộ tiểu thuyết lịch sử trường thiên có giá trị nhất trong văn học cổ điển Việt Nam.


    Về thơ ca, có nhiều bài thơ cổ và thơ mới ca tụng chiến thắng Đống Đa và anh hùng Nguyễn Huệ, chúng chỉ xuất hiện khi nhà Nguyễn, kẻ thù của Tây Sơn đã suy vong.
    Kỳ trước chúng ta đã thưởng thức Bài Ca Bình Bắc của Vũ Hoàng Chương. Nhà thơ họ Vũ, thành danh ở Hà Nội trước 1945 và trước 1954, không phải một lần thấy cảnh nhớ người, xúc động trước chiến thắng Kỷ Dậu mà nhiều lần ông đã ca tụng ngày Giỗ Trận Đống Đa. Lòng của kẻ sĩ đa tài đa cảm đã trang trải với những dòng hùng hồn sau đây trong bài Trả ta sông núi:

    Chống ngoại địch, gươm mài quyết chiến
    Voi Quang Trung thẳng tiến kinh kỳ
    Phá Thanh binh, trận Thanh Trì
    Sông Hồng khoảnh khắc lâm ly máu hồng.
    Núi dậy sấm cho sông lòe chớp
    Cờ Tây Sơn bay rợp Bắc Hà.
    Xác thù xây ngất Đống Đa
    Bụi trường chinh hãy còn pha chiến bào.

    Phần dưới đây, chúng ta thử tìm nguồn cảm hứng dạt dào, miên trường bất tuyệt của người cầm viết trước chiến thắng Đống Đa (1789) trong khoảng thời gian trên hai trăm năm từ cuối thế kỷ 18, sang thế kỷ 19, vượt thế kỷ 20 và bước sang tân thiên niên kỷ với mốc thứ nhất chính là Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Ai tư vãn và mốc thứ hai là thơ mới với Vũ Hoàng Chương (Bài Ca Bình Bắc), Đằng Phương (Xuân chiến thắng) và Nguyễn Huy Tưởng (Xuân chiến sĩ).
    Trước hết là Hoàng Lê Nhất Thống Chí, qua bản dịch của nhiều tác giả (Ngô Tất Tố, Cát Thành, Kiều Thu Hoạch), một áng văn chương cổ, đã cực tả trận chôn vùi xác giặc vào mùa xuân năm Kỷ Dậu:

    “Vua Quang Trung bèn sai mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó là ngày 30 tháng Chạp. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng:
    - Ta với các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 lập tức lên đường, hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!
    Sau đó nhà vua truyền lệnh: Các viên tướng ở trung quân thuộc về doanh vua sai phái là Đại tư mã Sở; Nội hầu Lân đốc xuất tiền quân làm tiên phong; Hám hổ hầu đốc xuất hậu quân làm đốc chiến; Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đốc xuất tả quân, trong đó gồm có thủy quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt đông; còn Lộc thì đi gấp lên các hạt Lạng Sơn, Phượng Nhãn, Yên Thế để chặn đường về của quân Thanh; Đại đô Bảo, Đô đốc Long đốc xuất hữu quân, trong đó gồm quân voi và quân kỵ mã; Long xuyên qua huyện Chương Đức, theo đường đến thẳng làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì để đánh ngang vào đồn quân Điền Châu; Bảo thì thống đốc quân voi ngựa do đường Sơn Minh ra làng Đại Áng huyện Thanh Trì để tiếp ứng cho cánh hữu.
    Cả năm đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra Bắc.
    Khi quân ra đến sông Gián, nghĩa binh (của Lê Chiêu Thống) trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo, tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống được hết, không để tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin, nên những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi đều không biết gì cả.
    Nửa đêm ngày mồng 3 tháng Giêng, năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí giới đều bị quân Nam lấy hết.
    Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai chục bức. Đoạn kén hạng lính khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn; hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại mình.
    Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.
    Quân Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.
    Trước đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông thấy, càng thêm hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt thấy quân voi từ Đại Áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn xuống đầm Mực, làng Quỳnh Đô, quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người.
    Giữa trưa hôm ấy vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo đại quân vào thành, chiếc chiến bào màu đỏ của nhà vua đã bị nhuộm đen vì khói thuốc súng.
    Nguyên trước đó, Đô đốc Long đốc xuất hữu quân đã đem binh đến đóng ở làng Nhân Mục huyện Thanh Trì. Lúc vua Quang Trung đang đánh với quân Thanh ở Ngọc Hồi, thì sáng hôm ấy Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức. Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành.
    Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở thành Thăng Long tuyệt nhiên không nghe tin cấp báo gì cả cho nên trong ngày tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc. Nào hay, cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi. Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cáo cấp. Thật là: “Tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui dưới đất lên”. Bọn ấy lại nói:
    - Quan quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. Ở đây cách đồn Ngọc Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới.
    Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ, lập tức sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp dẫn viên hàng tướng Tây Sơn là Phan Khải Đức đem nghĩa binh tới cứu; lại sai hai mươi lính kỵ mã ở dưới trướng của mình cùng đi với Nghiệp, và dặn họ rằng:
    - Trong khoảng chốc lát, phải tiếp tục báo tin về ngay.
    Ý của Nghị chỉ lo có một mặt đó, không ngờ lại có mặt khác ập tới. Canh tư đêm ấy, chợt nghe ở phía tây bắc thành, tiếng súng nổ đùng đùng không ngớt. Nghị vội sai người cỡi ngựa ra xem, thì nghe báo tin đồn quân Điền Châu tan vỡ, quân Tây Sơn đã vào cửa ô, đốt giết lung tung, khói lửa bốc lên đầy trời rồi.
    Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhắm hướng bắc mà chạy. Quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhĩ Hà (sông Hồng) vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”.

    Cảnh trên, dưới ngòi bút thần, mô tả chiến trường như vẽ, như một đoạn phim quay tại mặt trận hết sức linh động.
    Tuy nhiên nó vẫn chưa nhiều chất thơ. Với lời hô “Tinh thần độc lập nêu cao-Sài lang kia núi sông nào của ngươi?” kỳ này chúng ta trở lại bài Xuân chiến thắêng của Đằng Phương. Đây là tác phẩm ca tụng chiến công bình Thanh của Quang Trung nhiều người biết hơn cả vì đã từng được chọn làm bài học thuộc lòng trong bộ tân quốc văn dành cho cấp tiểu học lần đầu tiên xuất bản trước 1954 ở Hà Nội.

    Cây cỏ đua nhau giỡn nắng hồng
    Dưới làn mưa bụi phủ non sông.
    Trên cành, đỏ thắm đào muôn cánh
    Lơi lả nô đùa với gió đông.

    Cùng vượt lên trên những xóm làng
    Như tranh nhau đón chúa xuân sang.
    Những cành nêu uốn mình trong gió
    Rộn rã tư bề pháo nổ vang.

    Trong lúc người nô nức thưởng xuân
    Trên đường ra Bắc, những dân quân
    Gội sương gió lạnh, dầm mưa bụi.
    Lặn lội đêm ngày chẳng nghỉ chân.

    Họ đã băng qua vạn núi rừng
    Chiếc bao quân dụng chĩu trên lưng.
    Trên vai tê buốt, đôi đòn cáng
    Nghiêng ngả theo chân bước ngập ngừng.

    Họ vẫn luôn luôn nở nụ cười
    Mặc dầu nhung phục đẫm mồ hôi.
    Chen vào tiếng trống, lời ca hát
    Thỉnh thoảng vang lên, dậy núi đồi.

    Họ theo tiếng gọi của non sông,
    Theo ngọn cờ linh sắc thắm hồng.
    Lời dụ uy nghiêm và mạnh mẽ
    Của Quang Trung vẳng dội trong lòng.

    Đang lúc đoàn binh tướng Mãn Thanh
    Vui cùng rượu ngọt, gái xuân xanh.
    Thì muôn pháo lịnh tưng bừng nổ
    Rồi tiếng quân reo dậy khắp thành.

    Quân ải Phú Xuyên vội lạy hàng,
    Hà Hồi tiếp vỡ, Ngọc Hồi tan.
    Và quân tướng Việt cùng hăm hở
    Tràn đến Thăng Long tựa thác ngàn.

    Sĩ Nghị đang đêm trốn khỏi thành,
    Sông Hồng cuốn xác vạn binh Thanh.
    Chiến bào đẫm máu, Ngô Văn Sở
    Truyền lịnh bêu đầu Hứa Thế Hanh

    Dưới nắng hồng, quân sĩ ngất ngây
    Tung hô chủ tướng, tiếng vang dầy.
    Quang Trung vui vẻ nhìn trong gió
    Cờ Việt huy hoàng phất phới bay.

    Xuất hiện gần như đồng thời với bài Xuân chiến thắng là bài Xuân chiến sĩ của Nguyêãn Huy Tưởng (1912-1960) sáng tác vào xuân Quý Mùi (1943). Tác giả đã vẽ lại ngày hội huy hoàng khi Quang Trung đại đế kéo binh vào Thăng Long. Bằng những câu chải chuốt về nghệ thuật, truyền chân về sự kiện, nhà thơ đã tô son hình ảnh bậc đại anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, nói lên được tinh thần vì nước hy sinh của binh sĩ Tây Sơn, đồng thời là sự thảm bại của quân tướng “thiên triều” và truyền thống bất khuất cũng như niềm hãnh diện của dân tộc:

    Mồng năm ấy, trưa điểm tô như hội,
    Gột tanh hôi, thành cổ đóùn anh hùng.
    Trên bành voi, chân chủ ngự oai phong
    Áo chiến đỏ, sa trường pha sắc tối.

    Đoàn cứu quốc theo Vua vào đất đế
    Nét võ vàng nhưng mắt dũng tia sao
    Trên kỳ đài cờ nước lại bay chào
    Cung điện thánh dậy lời ca chiến sĩ.

    Hoàng Yến Lưu

    Comment

    • #3


      Tái tạo hình ảnh vua Quang Trung Nguyễn Huệ lên ngôi tại Núi Bân, Huế
      Tác giả Lưu Ly
      Ngô Ngọc Du là một nhà thơ đương thời, đã ghi lại không khí tưng bừng của ngày chiến thắng oanh liệt đó trong một bài thơ:

      Giặc đâu tàn bạo sang điên cuồng
      Quân vua một giận oai bốn phương
      Thần tốc ruỗi dài xông thẳng tới,
      Như trên trời xuống dám ai đương
      Một trận rồng lửa giặc tan tành,
      Bỏ thành cướp đó trốn cho nhanh
      Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến,
      Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
      Mây tạnh mù tan trời lại sáng
      Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
      Chen vai khoác cánh cùng nhau nói:
      "Kinh đô vẫn thuộc núi sông ta"
      Đã chỉnh sửa bởi Hương Bình; 26-02-2011, 11:09 AM.

      Comment

      • #4

        Sau Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo tới Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, chúng ta khó tìm thêm một thiên cổ hùng văn nào ngoài Bài Ca Bình Bắc.

        Bài Ca Bình Bắc
        Thơ Vũ Hoàng Chương
        Kể từ đấy
        Mặt trời mọc ở phương Đông, ngùn ngụt lửa.
        Mặt trời lặn ở phương Đoài, máu chứa chan.
        Đã sáu mươi ngàn lần...
        Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần
        Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc
        Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam
        Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn...
        Hãy dừng lại thời gian
        Trả lời ta -- Có phải
        Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải,
        Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
        Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại Mà chí lớn dọc ngang
        Mà nghiệp lớn huy hoàng
        Vẫn ngàn thu còn mãi
        Vẫn ngàn thu người áo vải đất Qui Nhơn?
        Ôi người xưa Bắc Bình Vương
        Đống Đa một trận trăm đường giáp công
        Đạn vèo năm cửa Thăng Long
        Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng.
        Chừ đây lại đã xuân sang
        Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ
        Ai kia lòng có mang mang
        Đầy vơi sầu xứ -- Hãy cùng ta
        Ngẩng đầu lên, hướng về đây tâm sự
        Nghe từng trang lịch sử thét từng trang
        Một phút oai thần dậy sấm
        Tan vía cường bang
        Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
        Cao chót vót năm màu mây chiêm ngưỡng
        Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
        Và khoảnh khắc
        Đổ xuôi chiều vươn ngược hướng
        Bao trùm lên đầu cuối Thời Gian.
        Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
        Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
        Một bành voi che lấp mấy ngai vàng.
        Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
        Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
        Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang.
        Ngọn kiếm trỏ, bao cánh tay hăng hái
        Ngọn cờ vung, bao tính mệnh sẵn sàng.
        Người cất bước, cả non sông một dải
        Vươn mình theo -- dãy Hoành Sơn mê mải
        Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng.
        Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
        Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang!


        Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
        Khí thế kia làm rung động càn khôn.
        Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
        Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn.
        Gươm thiêng cựa vỏ,
        Giặc không mồ chôn.
        Voi thiêng chuyển vó,
        Nát lũy, tan đồn
        Ôi một hành ca hề, gào mây, thét gió,
        Mà ý tướng, lòng quân hề, bền sắt, tươi son.
        Hưởng ứng sông hồ giục núi non
        «Thắt vòng vây lại» tiếng hô ròn
        Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
        Tan tác xương thù, ngựa đá bon.

        Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn,
        Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân
        Vinh quang hẹn với phong trần
        Đống Đa gò ấy, mùa xuân năm nào.
        Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
        Sầu xuân vời vợi
        Xuân tứ nao nao
        Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào,
        Ngập giấc Xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái
        Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao
        Chí khí cũ gầm trong da thịt mới
        Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao,
        Đèo Tam Điệp hề, lệnh truyền vang dội
        Sóng Sông Mã hề, ngựa hí xôn xao
        Mặt nước Lô Giang hề, lò trầm biếc khói,
        Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao...
        Rằng: «Đây bóng kẻ anh hào
        Đã về ngự trên ngã ba thời đại»
        Gấm vóc giang san hề, còn đây một dải
        Thì nghiệp lớn vẻ vang
        Thì mộng lớn huy hoàng
        Vẫn ngàn thu còn mãi...
        Ôi ngàn người áo vải đất Qui Nhơn!
        Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn,
        Lũ chúng ta trên ngã ba đường
        Ghi ngày giỗ Trận
        Mơ Bắc Bình Vương
        Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn
        Mười ngã tâm tư hề, một nén hương
        Đồng thanh rằng: «Quyết noi gương!»
        Để một mai bông thắm, cỏ xanh rờn
        Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt.
        Mừng đất trời gió bụi tan cơn
        Chúng ta sẽ không hổ với người xưa
        Một trận Đống Đa ngàn thu oanh liệt
        Vì ta sau trước lòng kiên quyết
        Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn
        Vũ Hoàng Chương


        Comment

        • #5

          Dòng máu Việt cuộn trào Hồn Nước Việt
          Kiêu dũng ngàn xưa, bất diệt ngàn sau
          Mỗi chúng ta bất luận sống nơi đâu
          Đều khao khát dưỡng nuôi hồn đất Mẹ
          Đều khao khát một Việt Nam hưng thịnh
          Sử Nhac Việt Nam Quang Trung Nguyễn Huệ
          Đã chỉnh sửa bởi HoaiVienPhuong; 01-03-2011, 12:16 AM.

          Comment

          Working...
          X
          Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom