Giỗ trận Đống Đa - Hoàng Yên Lưu
Những năm cuối của thế kỷ 18, lịch sử chống xâm lăng của Việt Nam diễn ra những trang oanh liệt. Tại miền Nam trận đánh Rạch Gầm-Xoài Mút năm 1785 đã phá tan mấy vạn binh và 300 chiến thuyền của đạo quân xâm lược tới từ Vọng Các. Còn ở Bắc Hà thì chiến thắng Kỷ Dậu (1789) đại phá quân Thanh còn vang dội tới muôn đời sau. Cả hai chiến công đều do Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải đất Quy Nhơn lập ra.
Mùa xuân đã tới nơi quê hương, năm mới đã qua được mấy ngày, không mấy ai không nhớ tới trang sử vẻ vang Hoàng Đế Quang Trung đại phá hai mươi vạn binh Thanh. Đống Đa còn đó, Sông Nhị còn kia, chứng tích lịch sử làm niềm tự hào dân tộc phấn chấn, tinh thần chống ngoại xâm thêm sôi sục, lòng kỳ vọng vào thế hệ tương lai dâng cao như nhà thơ Vũ Hoàng Chương từng viết vào một mùa xuân trong thập niên 50 của thế kỷ trước:
Tháng giêng kỷ niệm Đống Đa
Sông Đằng kỷ niệm tháng ba mấy lần.
Đầu mùa xuân, cuối mùa xuân
Cánh tay Đế Nguyễn, Vương Trần nào ai?
Muốn rõ hơn về thiên sử vàng đại phá quân xâm lược từ phương Bắc tràn xuống của Hoàng đế Quang Trung chúng ta có thể đọc lại mấy dòng sử do Học giả Hoàng Xuân Hãn tóm lược trong phần chú thích Đại nam Quốc sử diễn ca về nhà Nguyễn Tây Sơn.
Thiên bi hùng sử khởi từ Quang Trung, với vai trò Bắc Bình Vương ra Bắc chấn chỉnh cơ nghiệp nhà Lê rồi rút về Nam để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Nghệ An. Vua Lê lúc ấy là Lê Chiêu Thống bất tài, vô chí, bị phe phù Trịnh khuynh loát nên phải vời Chỉnh ra Bắc phụ tá. Nhân cơ hội giúp vua dẹp Trịnh Bồng, Chỉnh tỏ ra chuyên quyền và kiêu ngạo.
Nguyễn Huệ nhận thấy cơ nguy này, vào năm 1787 phải sai Võ văn Nhậm ra Bắc diệt Chỉnh. Chỉnh đưa vua chạy trốn nhưng rồi bản thân bị bắt, còn vua thì từ đấy lưu lạc tứ phương. Nhậm có công nên hống hách, có ý chống lại Phú xuân, khiến Nguyễn Huệ lại phải ra Bắc lầân nữa (1788) và diệt Nhậm, rồi quay về Phú Xuân để Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm ở lại coi Bắc Hà phụ tá mộât hoàng thân nhà Lê trong vai trò giám quốc.
Hoàng Xuân Hãn ghi lại vị vua cuối cùng của nhà Lê mạt là Chiêu Thống đã xoay xở ra sao từ lúc rời Thăng Long trên bước đường sa cơ thất thế: Vua Chiêu Thống sau đó ẩn náu ở vùng Lạng giang. Bà thái hậu (mẹ vua) đem hoàng tử chạy sang Long Châu thuộc tỉnh Quảng Tây nước Tàu.
Quan Tàu đem việc trình tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn sĩ Nghị. Sĩ Nghị tâu với vua Càn Long nhà Thanh.
Vua nhà Thanh muốn nhân cơ hội chiếm lấy nước ta, nên mượn tiếng giúp vua Lê Chiêu Thống cử Tôn Sĩ Nghị đem quân bốn tỉnh miền Nam nước Tàu (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu) chia làm ba đạo kéo sang (các đường Tây Bắc, đường Cao Bằng và đường Lạng Sơn).
Đại quân Tôn Sĩ Nghị theo đường Lạng Sơn đánh thẳng tới Kinh Bắc, phá trại của tướng Tây Sơn là Nội hầu Phan văn Lân và kéo đến Bồ đề (Gia lâm).
Ngô văn Sở không địch nổi, rút quân về giữ ở Tam Điệp, phân giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh Hóa.
Tôn Sĩ Nghị tới Kinh Bắc, vua Chiêu Thống đem rượu thịt ra đón chào và khao quân.
Sĩ Nghị vào Đông đô tuyên đọc sắc của vua nhà Thanh phong cho Chiêu Thống làm An Nam quốc vương, rồi ban thưởng cho các tướng sĩ...
Tưởng nhà Lê lại lên, nhiều người quay về theo vua Chiêu Thống. Nhưng vua không dùng ai chỉ dựa vào nhà Thanh.
Văn thư nhà vua đều đề niên hiệu Càn Long (nhà Thanh) và mỗi buổi chầu xong, vua lại đi bộ sang dinh Sĩ Nghị để chầu chực. Sĩ Nghị xử lại rất khinh bạc... Quân Thanh đóng ở Thăng Long kiêu ngạo và nhũng nhiễu nhân dân.
Nguyễn Huệ ở Phú Xuân biết vậy liền tự xưng là Quang Trung Hoàng đế (ngày 25 tháng Một, năm Mậu Thân, 1788) rồi tự mình thống lĩnh quân thủy bộ ra đánh giặc Thanh.
Vua Quang Trung ra đến Nghệ An cho quân nghỉ mười ngày, kén thêm binh tất cả là 10 vạn quân và 100 con voi.
Ngày 20 tháng Chạp, vua ra hội với Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm ở núi Tam Điệp cho quân ăn Tết trước và hẹn mồng Bảy tháng Giêng sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
Vua chia quân thủy bộ theo năm đường tiến ra Bắc, ngày 30 Tết cất binh.
Vua thân đốc quân trung ương phá vỡ nghĩa binh của nhà Lê ở sông Giản Thủy (cũng gọi là Quyết Giang thuộc Ninh Bình và Hà Nam) bắt sống quân Tàu ở Phú Xuyên, vây rồi phá tan đồn giặc ở Hà Hồi và Ngọc Hồi, thuộc phủ Thường Tín (Hà Đông) ngày 05 tháng Giêng.
Quân các đạo khác cũng toàn thắng. Nhiều tướng nhà Thanh tử trận, trong đó có Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa (gần Nam Đồng, nay là ngoại ô Hà Nội), bị vây phải thắt cổ tự tử.
Tôn Sĩ Nghị nghe tin vội vàng cùng vua Lê Chiêu Thống chạy trốn sang Bắc Ninh. Khi qua sông Nhị Hà rồi, Tôn Sĩ Nghị sai phá cầu vì sợ Tây Sơn đuổi kịp. Quân Tàu tranh nhau sang sông, cầu đổ, sa xuống sông chết đuối đầy sông.
Trưa mồng 05 tháng Giêng Quang Trung vào Thăng Long, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Vua sai quân đuổi theo quân nhà Thanh đến cửa Nam quan. Dân Tàu ở bên kia cửa quan, khiếp sợ bỏ chạy, hàng trăm dặm không có tiếng người. (Hoàng Xuân Hãn)
Tuy là lời thuật ngắn gọn, nhưng những dòng trên đã cho ta thấy tài điều binh khiển tướng của Hoàng đế Quang trung và khí thế kiêu hùng và dũng cảm của quân Nam đã đè bẹp tinh thần ngạo mạn của cường địch, phá tan giặc thù không còn một mảnh giáp, trong một trận đánh chớp nhoáng nhưng muôn phần kịch liệt.
Hào khí của Quang Trung và hùng khí của Nam quân cùng với lòng yêu nước của toàn dân, đã được nhiều nhà thơ ca tụng trong đó có Vũ Hoàng Chương với Bài Ca Bình Bắc.
Thi tài họ Vũ có tuổi trẻ gắn liền với Thăng Long và sau 1954, nhân dịp xuân về, nơi lữ thứ là Sài Gòn ngày cũ, nhớ Núi Nùng Sông Nhị, nhớ chiến công hiển hách của tiền nhân, mong mỏi giấc mơ hồi hương thành sự thực đã cảm khái viết Bài Ca Bình Bắc:
Kể từ đấy
Mặt trời mọc ở phương Đông, ngùn ngụt lửa,
Mặt trời lặn ở phương Đoài, máu chứa chan,
Đã sáu mươi ngàn lần...
Và từ đấy cũng sáu mươi ngàn lần
Trăng tỏ bóng nơi rừng cây đất Bắc
Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam
Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn...
Hãy dừng lại Thời gian
Trả lời ta - Có phải
Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải,
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn?
Ôi Người xưa Bắc Bình Vương
Đống Đa một trận trăm đường giáp công
Đạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng.
Chừ đây lại đã Xuân sang
Giữa cố quận một mùa Xuân nghịch lữ
Ai kia lòng có mang mang
Đầy vơi sầu xứ - hãy cùng ta
ngẩng đầu lên, hướng về đây tâm sự
Nghe từng trang lịch sử thét từng trang
Một phút oai thần dậy sấm
Tan vía cường bang
Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng
Cao chót vót năm màu mây chiêm ngưỡng
Dài mênh mông vượt khỏi lũy Nam Quan
Và khoảnh khắc
đổ xuôi chiều vươn ngược hướng
Bao trùm lên đầu cuối Thời Gian.
Bóng ấy đã ghi sâu vào tâm tưởng
Khắc sâu vào trí nhớ dân gian
Một bành voi che lấp mấy ngai vàng.
Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải
Muôn chiến công, một chiến công dồn lại
Một tấm lòng, muôn vạn tấm lòng mang.
Ngọn kiếm trỏ, bao cánh tay hăng hái.
Ngọn cờ vung, bao tính mệnh sẵn sàng.
Người cất bước, cả non sông một dải
Vươn mình theo - dãy Hoành Sơn mê mải
Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng.
Cũng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại
Chín con rồng bơi ngược Cửu long giang
Người ra Bắc, oai thanh mờ nhật nguyệt
Khí thế kia làm rung động càn khôn.
Lệnh ban xuống, lời lời tâm huyết
Nẻo trường chinh ai dám bước chân chồn.
Gươm thiêng cựa vỏ,
Giặc không mồ chôn.
Voi thiêng chuyển vó,
Nát lũy, tan đồn
Ôi một hành ca hề, gào mây, thét gió,
Mà ý tưởng, lòng quân hề, bền sắt, tươi son.
Hưởng ứng sông hồ giục núi non
Thắt vòng vây lại tiếng hô giòn
Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa
Tan tác xương thù, ngựa đá bon.
Sim rừng, lúa ruộng, tre thôn,
Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân
Vinh quang hẹn với phong trần
Đống đa gò ấy, mùa Xuân năm nào.
Nhớ trận Đống Đa hề thương mùa xuân tới
Sầu Xuân vời vợi
Xuân tứ nao nao
Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào,
Ngập giấc Xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái
Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao
Chí khí cũ gầm trong da thịt mới
Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao,
Đèo Tam Hiệp hề, lệnh truyền vang dội
Sóng Sông Mã hề, ngựa hí xôn xao
Mặt nước Lô Giang hề, lò trầm biếc khói,
Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao...
Rằng: Đây bóng kẻ anh hào
Đã về ngự trên ngã ba thời đại
Gấm vóc giang san hề, còn đây một dải
Thì nghiệp lớn vẻ vang
Thì mộng lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi...
Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn!
Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn,
Lũ chúng ta trên ngã ba đường
Ghi ngày Giỗ Trận
Mơ Bắc Bình Vương
Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn
Mười ngả tâm tư hề, một nén tâm hương
Đồng thanh rằng: Quyết noi gương!
Để một mai bông thắm, cỏ xanh rờn
Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt.
Mừng đất trời gió bụi tan cơn
Chúng ta không hổ với người xưa
Một trận Đống Đa nghìn thu oanh liệt
Vì ta sau trước lòng kiên quyết
Vàng chẳng hề phai, đá chẳng sờn.
Sự kiện sử thường khô khan nhưng bức tranh lịch sử vẽ bằng màu sắc hoặc thêu, hoặc dệt bằng chữ gấm, lời hoa, bằng nhịp điệu trầm hùng, thì lại trở thành một công trình sống động lôi cuốn người chiêm ngưỡng.
Qua những dòng trong Bài ca Bình Bắc người đọc như đang chứng kiến tận mắt chân dung vĩ đại của Quang Trung trên bành voi trận, khí thế cuồn cuộn dâng tận Ngưu, Đẩu của núi sông và của dân tộc, tất cả hăm hở theo bóng cờ đào của người áo vải đất Quy Nhơn ra trận diệt ngoại xâm. Ở thiên anh hùng ca này còn thấy rõ nỗi lòng của thế hệ sau: sùng bái anh hùng cứu quốc và quyết tâm duy trì truyền thống dũng cảm bảo vệ tự do của dân tộc.
Sau Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo tới Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, chúng ta khó tìm thêm một thiên cổ hùng văn nào ngoài Bài Ca Bình Bắc.
Comment