Lạc vào giọng Huế
Uyên Phương
Đối với một người tuổi trẻ lớn lên ở Miền Nam thì Huế là một "nước" xa xăm: "Ai ra xứ Huế thì ra (!)" chứ với Huế, tôi là một người khách lạ” không ra! “ Huế ở tận đâu đâu trong thơ, trong nhạc chứ Huế chẳng bao giờ có thực. Huế không ở trong tôi.
Lớn lên một chặng đời nữa, Huế lại ở gần tôi hơn thế nhưng vẫn xa nghìn dặm. Cả vùng Vân ở chỉ có một gia đình người Huế và bà mẹ trở thành "Bà Huế". Đó là một người phụ nữ khô khan, làm việc quần quật và ít khi trò chuyện với xóm giềng. Nhà Bà Huế nấp sâu trong vườn cây trái. Con cái trong nhà chỉ chơi với nhau và đứa nào cũng có đôi mắt đẹp nhưng luôn luôn có một vẻ nhìn thầm kín, riêng tư đầy bí mật. Lứa tuổi học trò, tôi lại càng xa Huế hơn vì tôi là người Thiên Chúa giáo, trong khi các bạn tôi ở nhà thờ gọi Huế là "kinh đô Phật giáo" với lịch sử bài Đạo của các vua quan triều Nguyễn và chống vị tổng thống Thiên Chúa giáo đầu tiên vào những năm 1963. Ấn tượng tuổi thơ như một vết hằn tâm hồn làm tôi ghét Huế và ghét nhất là giọng Huế.
Cả một khoảng đời dài, tôi vẫn thường đem đề tài "chó không răng mô!" để giễu giọng Huế. Bạo hơn một bước nữa, tôi lại nghịch ngợm phát âm những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã trong tiếng Huế thành dấu nặng để biến những câu nói bình thường thành thô thiển, ngô nghê; có khi hơi” tục” nữa là khác.
Trò vui "chửi cha không bằng pha tiếng" chắc hẳn sẽ kéo dài như một trò đùa dai không dứt, nếu tôi không gặp một người. Đó là một "chàng Huế" mà tôi xin tạm cúng mụ đặt tên cho chàng là "Huy".
Lần đầu gặp Huy trong một buổi nói chuyện về văn chương. Cái "dị ứng tiếng Huế" trong tôi có nhẹ nhàng đi đôi chút có lẽ vì thái độ nhã nhặn và cách nói văn vẻ nhưng cũng đầy khiêm tốn của chàng ta. Tôi hơi ngạc nhiên với chính mình. Âm vang giọng nói ấm áp làm cho nội dung những câu nói trở thành đầy diễn cảm. Mớ thổ âm "mô, tê, răng, rứa!" của chàng rất ít khi bò ra cản đường dòng tư tưởng đang trôi chảy. Cuối buổi sinh hoạt, tôi cố chen lên đằng trước "tặng" cho chàng dăm câu đổi dấu để chọc quê, nhưng Huy chỉ mĩm cười rất hiền tuồng như không để ý. Lần nầy tôi lại ghét đàn ông Huế vì họ nghèo nàn đến nỗi không biết tặng cho người đẹp vài câu nịnh đầm làm kỷ niệm. Thế rồi chia tay với đám đông.
Bẵng đi ba năm sau tôi mới gặp lại Huy trong một buổi sinh hoạt văn nghệ có tôi trình diễn. Đến khi tôi sắp xuất hiện trên sân khấu, Huy không có mặt. Người bạn trao cho tôi một mảnh giấy xin lỗi của Huy với câu kết luận nhắn gửi: " gắng hát cho thật hay em nhé!" Chữ "nhé" thường có vẻ cải lương và tiểu thuyết, nhưng phát ra từ một chàng Huế lại có một mãnh lực đầy quyến luyến lạ lùng. Tôi mang chữ "nhé" vào giấc ngủ. "Nhé" của Huế có phải là "nhé" của Sài Gòn, Hà Nội không hở Huy?!
Rồi thời gian cũng thờ ơ qua đi như những ngọn lá cuối mùa về xuôi không một tiếng động. Tôi liên lạc với Huy vì cảm nhận được trong tâm hồn của chàng Huế nầy có một thế giới đàn ông mà tôi chưa gặp. Huy thâm trầm, dễ mến nhưng hơi cao ngạo. Vẻ nhìn xa xăm của Huy có váng vất một chút kiêu xa, mõi mệt nhưng lại mời gọi lạ lùng. Tôi hỏi về vẻ lạ lùng trong ánh mắt, Huy nói ngày xưa thường nhìn đắm đuối giòng sông Hương một mình trôi chảy trong những sáng sớm và chiều hôm. Huy cũng có một nụ cười có sức đánh thức cảm quan người nghe, dù chỉ là qua điện thoại. Tôi hỏi về nụ cười, Huy bảo là ngày xưa Huy vẫn ráng cười trong cảnh khó khăn và mất mát của gia đình và quê hương.
Tôi hỏi Huy phải chăng người đàn ông Huế nào cũng có ánh mắt và nụ cười hao hao như thế, Huy nói là Huy không biết mà chỉ biết một điều là đàn ông Huế lãng mạn, nhưng vẫn thường gói tâm hồn lãng mạn trong mớ lá chính trị và văn chương, sự nghiệp.
Quen Huy, tôi dần dà quen với giọng Huế. Cảm mến Huy tôi cảm mến giọng Huế, một giọng Huế chỉ có "tam cung" trong "ngũ cung" của âm nhạc phương Đông, nhưng lại kết tụ nghìn cung trong suy tưởng.
Tôi vẫn thường hát, làm thơ và phổ nhạc như một "tài mọn riêng tay" của mình. Nếu mai kia khi tôi muốn sáng tác những bài ca giọng Huế, tôi có cần về lại ngắm giòng sông Hương đắm đuối của quê hương Huy? Và nếu tôi muốn làm những bài thơ trữ tình về Huế, tôi có cần bắt lại tiếng cười trong khổ đau và hạnh phúc mà Huy đã đi qua?
Những gì Huy đã đi qua, một thời đã mất. Tôi sẽ không quên, dù chưa tới Huế. Tôi đã quên Huy và tìm lại về mình qua những điệu hò mái đẩy và qua những câu Nam ai, Nam bình thất lạc. Huy ơi! Mình đã lạc nhau thật rồi. Lac vì ván đã đóng thuyền không còn vượt qua bao thác ghềnh ngăn sông cách núi, chứ đâu phải lạc nhau vì người nói tiếng Bắc, kẻ nói tiếng Huế; phải không Huy?
Uyên Phương
Đối với một người tuổi trẻ lớn lên ở Miền Nam thì Huế là một "nước" xa xăm: "Ai ra xứ Huế thì ra (!)" chứ với Huế, tôi là một người khách lạ” không ra! “ Huế ở tận đâu đâu trong thơ, trong nhạc chứ Huế chẳng bao giờ có thực. Huế không ở trong tôi.
Lớn lên một chặng đời nữa, Huế lại ở gần tôi hơn thế nhưng vẫn xa nghìn dặm. Cả vùng Vân ở chỉ có một gia đình người Huế và bà mẹ trở thành "Bà Huế". Đó là một người phụ nữ khô khan, làm việc quần quật và ít khi trò chuyện với xóm giềng. Nhà Bà Huế nấp sâu trong vườn cây trái. Con cái trong nhà chỉ chơi với nhau và đứa nào cũng có đôi mắt đẹp nhưng luôn luôn có một vẻ nhìn thầm kín, riêng tư đầy bí mật. Lứa tuổi học trò, tôi lại càng xa Huế hơn vì tôi là người Thiên Chúa giáo, trong khi các bạn tôi ở nhà thờ gọi Huế là "kinh đô Phật giáo" với lịch sử bài Đạo của các vua quan triều Nguyễn và chống vị tổng thống Thiên Chúa giáo đầu tiên vào những năm 1963. Ấn tượng tuổi thơ như một vết hằn tâm hồn làm tôi ghét Huế và ghét nhất là giọng Huế.
Cả một khoảng đời dài, tôi vẫn thường đem đề tài "chó không răng mô!" để giễu giọng Huế. Bạo hơn một bước nữa, tôi lại nghịch ngợm phát âm những chữ có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã trong tiếng Huế thành dấu nặng để biến những câu nói bình thường thành thô thiển, ngô nghê; có khi hơi” tục” nữa là khác.
Trò vui "chửi cha không bằng pha tiếng" chắc hẳn sẽ kéo dài như một trò đùa dai không dứt, nếu tôi không gặp một người. Đó là một "chàng Huế" mà tôi xin tạm cúng mụ đặt tên cho chàng là "Huy".
Lần đầu gặp Huy trong một buổi nói chuyện về văn chương. Cái "dị ứng tiếng Huế" trong tôi có nhẹ nhàng đi đôi chút có lẽ vì thái độ nhã nhặn và cách nói văn vẻ nhưng cũng đầy khiêm tốn của chàng ta. Tôi hơi ngạc nhiên với chính mình. Âm vang giọng nói ấm áp làm cho nội dung những câu nói trở thành đầy diễn cảm. Mớ thổ âm "mô, tê, răng, rứa!" của chàng rất ít khi bò ra cản đường dòng tư tưởng đang trôi chảy. Cuối buổi sinh hoạt, tôi cố chen lên đằng trước "tặng" cho chàng dăm câu đổi dấu để chọc quê, nhưng Huy chỉ mĩm cười rất hiền tuồng như không để ý. Lần nầy tôi lại ghét đàn ông Huế vì họ nghèo nàn đến nỗi không biết tặng cho người đẹp vài câu nịnh đầm làm kỷ niệm. Thế rồi chia tay với đám đông.
Bẵng đi ba năm sau tôi mới gặp lại Huy trong một buổi sinh hoạt văn nghệ có tôi trình diễn. Đến khi tôi sắp xuất hiện trên sân khấu, Huy không có mặt. Người bạn trao cho tôi một mảnh giấy xin lỗi của Huy với câu kết luận nhắn gửi: " gắng hát cho thật hay em nhé!" Chữ "nhé" thường có vẻ cải lương và tiểu thuyết, nhưng phát ra từ một chàng Huế lại có một mãnh lực đầy quyến luyến lạ lùng. Tôi mang chữ "nhé" vào giấc ngủ. "Nhé" của Huế có phải là "nhé" của Sài Gòn, Hà Nội không hở Huy?!
Rồi thời gian cũng thờ ơ qua đi như những ngọn lá cuối mùa về xuôi không một tiếng động. Tôi liên lạc với Huy vì cảm nhận được trong tâm hồn của chàng Huế nầy có một thế giới đàn ông mà tôi chưa gặp. Huy thâm trầm, dễ mến nhưng hơi cao ngạo. Vẻ nhìn xa xăm của Huy có váng vất một chút kiêu xa, mõi mệt nhưng lại mời gọi lạ lùng. Tôi hỏi về vẻ lạ lùng trong ánh mắt, Huy nói ngày xưa thường nhìn đắm đuối giòng sông Hương một mình trôi chảy trong những sáng sớm và chiều hôm. Huy cũng có một nụ cười có sức đánh thức cảm quan người nghe, dù chỉ là qua điện thoại. Tôi hỏi về nụ cười, Huy bảo là ngày xưa Huy vẫn ráng cười trong cảnh khó khăn và mất mát của gia đình và quê hương.
Tôi hỏi Huy phải chăng người đàn ông Huế nào cũng có ánh mắt và nụ cười hao hao như thế, Huy nói là Huy không biết mà chỉ biết một điều là đàn ông Huế lãng mạn, nhưng vẫn thường gói tâm hồn lãng mạn trong mớ lá chính trị và văn chương, sự nghiệp.
Quen Huy, tôi dần dà quen với giọng Huế. Cảm mến Huy tôi cảm mến giọng Huế, một giọng Huế chỉ có "tam cung" trong "ngũ cung" của âm nhạc phương Đông, nhưng lại kết tụ nghìn cung trong suy tưởng.
Tôi vẫn thường hát, làm thơ và phổ nhạc như một "tài mọn riêng tay" của mình. Nếu mai kia khi tôi muốn sáng tác những bài ca giọng Huế, tôi có cần về lại ngắm giòng sông Hương đắm đuối của quê hương Huy? Và nếu tôi muốn làm những bài thơ trữ tình về Huế, tôi có cần bắt lại tiếng cười trong khổ đau và hạnh phúc mà Huy đã đi qua?
Những gì Huy đã đi qua, một thời đã mất. Tôi sẽ không quên, dù chưa tới Huế. Tôi đã quên Huy và tìm lại về mình qua những điệu hò mái đẩy và qua những câu Nam ai, Nam bình thất lạc. Huy ơi! Mình đã lạc nhau thật rồi. Lac vì ván đã đóng thuyền không còn vượt qua bao thác ghềnh ngăn sông cách núi, chứ đâu phải lạc nhau vì người nói tiếng Bắc, kẻ nói tiếng Huế; phải không Huy?
Comment