• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Chuyện Thủ Huồng & nỗi sợ địa ngục…

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Chuyện Thủ Huồng & nỗi sợ địa ngục…

    Thủ Huồng (1) tên thật Võ Hữu Hoằng (? - ?), theo chuyện kể thì ông là người châu Đại Phố (tức Cù lao Phố, Biên Hòa), huyện Phước Chính, phủ Phước Long, nước Đại Nam (nay là Việt Nam).

    Chuyện Võ Hữu Hoằng, sơ lược như sau:

    Ngày xưa, khoảng năm 1755, ở châu Đại Phố có một người tên là Võ Hữu Hoằng.
    Ông xuất thân làm thơ lại. Trong hai mươi năm làm việc trong nha môn, ông đã thu tóm được nhiều tiền của. Sau khi vợ mất sớm lại không con, mà tiền bạc thì quá thừa thải, Thủ Huồng xin thôi việc về nhà.

    Thủ Huồng rất yêu vợ, cho nên khi nghe người mách rằng ở chợ Mãnh Ma (Quảng Yên) là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau, ông quyết đi tìm vợ. Gặp nhau, trong lúc trò chuyện, Thủ Huồng ngỏ ý muốn xuống âm phủ chơi và được vợ đồng ý. Ở cõi âm, ông tận mắt nhìn thấy những cực hình dành cho những kẻ phạm nhiều tội ác khi còn sống. Và ông cũng đã nhìn thấy một cái gông to, mà cai ngục cho biết là để dành cho ông...

    Khi trở lại cõi dương, Thủ Huồng đem toàn bộ tài sản dùng vào việc bố thí, xây dựng những công trình phúc lợi, đặc biệt là làm nhà để giúp dân nghèo dừng chờ nước triều ở ngã ba sông.

    Sách Đại Nam nhất thống chí chép việc này như sau : “Lúc ấy dân cư thửa thớt lại xa xôi, đò xa thuyền nhỏ, hành khách thường khổ sở về chuyện ăn uống. Có người nhà giàu ở tổng Tân Chánh là Võ Thủ Hoằng bó tre làm bè, dựng nhà, sắm đủ đồ dùng nấu nướng để hành khách tự ý lấy dùng, không phải trả tiền. Sau đó người buôn bán cũng đóng bè, bán thức ăn, nhiều đến hai ba cục bè. Họp thành chợ sông, vì thế chỗ này gọi là Nhà Bè...”

    Sau, Thủ Huồng được vợ đưa xuống cõi âm lần nữa, và thấy cái gông ngày cũ đã nhỏ lại rất nhiều. Từ đó, ông tiếp tục làm việc thiện, việc nghĩa cho đến khi mất.
    Khá lâu sau, có ông vua nhà Thanh (Trung Quốc) tên là Đạo Quang (1782-1850) lúc mới lên ngôi (1820) có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định. Số là khi mới sanh, trong lòng bàn tay vua đã có mấy chữ “Đại Nam, Gia Định, Thủ Hoằng”. Khi rõ chuyện, nhà vua có gửi cúng chùa Chúc Thọ (chùa Thủ Huồng) ở Biên Hòa một bộ tượng Phật Tam Thế bằng gỗ trầm hương.
    Do việc này, mà có người bảo rằng: “Nhờ thành thật hối lỗi, Thủ Huồng chẳng những làm tiêu tan cái gông đang chờ ông ở cõi âm, mà còn được đi đầu thai làm vua ở Trung Quốc”.

    Sách Biên Hòa sử lược kể hơi khác, vắn tắt:
    Có người tên Được, là một khách thương hồ. Lúc đến Phan Rang, gặp bão to làm đắm thuyền. Được trôi dạt vào bờ, đến chợ Mãnh Ma là nơi buôn bán giữa người sống và người chết. Tình cờ, Được gặp lại vợ Thủ Hoằng đã chết, được bà dẫn đi thăm địa phủ, và trông thấy cái gông “đang chờ Thủ Hoằng”. Trở lại cõi dương, Được thuật lại cho Thủ Hoằng, từ đó Hoằng hối cải... Sau một thời gian bố thí, Thủ Hoằng được vợ báo mộng cho biết là “cái gông đã tiêu dần…”. Khoảng năm 1820, ông mất.

    ***

    Ngày nay, ở Cù lao Phố còn có một ngôi chùa liên quan đến Thủ Huồng. Chùa này ban đầu có tên là chùa Chúc Đảo, sau đổi là Chúc Thọ (vì chữ “Đảo” tự dạng giống chữ “ Thọ” mà lại có ý nghĩa hơn) tọa lạc ở số 542A2, xã Hiệp Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Chùa được dựng vào thế kỷ 19, còn có tên là chùa Thủ Huồng, do tích ông Thủ Huồng sau khi được người vợ quá cố dẫn đi thăm âm phủ, đã thấy tội ác của mình nên đã bán cả gia sản để làm phước, xây chùa. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Chùa còn bảo tồn 3 pho tượng Phật cổ bằng gỗ và bộ tượng A-la-hán cao 0,74m bằng đất nung ở thế kỷ 19.
    Con rạch chạy ngang qua đường Tân Vạn vòng qua quốc lộ 1A đi Sài Gòn, do Thủ Huồng sai vét nên gọi là ''rạch Thủ Huồng''. Chiếc cầu đá trên đường gần sông Đồng Nai đi Tân Vạn cũng gọi cầu Thủ Huồng, vì nhờ ông mới có. Còn chỗ ngã ba sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, nơi mà Thủ Huồng cho kết bè nổi để cho khách thương hồ có nơi ăn nghỉ đợi chờ con nước, sau biến thành chợ trên sông. Do đó cái tên bến Nhà Bè, sông Nhà Bè, huyện Nhà Bè...chính là để ghi dấu "cái nhà bè" trên khúc sông vừa kể.

    Ở Biên Hòa còn lưu truyền câu ca:
    Ai ơi có đến Nhà Bè,
    Nhớ ơn nước ngọt, bè tre Thủ Huồng.


    Nhà giáo Nguyễn Tài Năng ở Phong Dinh (nay là Cần Thơ), trước 1975, có thơ:
    Luân hồi nhân quả trả vay luôn,
    Đáng kể làm gương có Thủ Huồng.
    Cho nợ nhiều lời, Diêm chúa giận,
    Hốt tiền kém nghĩa, thế nhân buồn.
    Bắc cầu, sửa lộ, ơn ngàn ức,
    Vét rạch, xây chùa, đức vạn muôn.
    Còn có Đạo Quang, Tam-Thế-Phật,
    Làm giàu chánh đáng, mới vuông tròn.


    Năm 1995, Chuyện Thủ Huồng, một lần nữa lại được nhắc trong bài nhàn đàm ''Sợ địa ngục'' của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

    Nhà văn viết, trích:
    Thuở nhỏ, tôi thường được nghe mẹ tôi kể cho nghe cảnh địa ngục trong các chuyện Phạm Công Cúc Hoa, Bồ Tát Mục Kiền Liên hoặc chỉ cho xem cảnh giới Thập Điện Diêm Vương trên vách các ngôi chùa và trên tranh dân gian...
    Tôi không biết mẹ tôi có tin như vậy không, nhưng chính bà đã xây dựng được cho tôi niềm tin rằng địa ngục có thật, và tôi rất sợ địa ngục.
    Lớn lên, những ý tưởng về địa ngục dần dần chuyển biến trong tôi thành niềm tin vào “thiên lý”, giúp tôi tránh được điều ác; mà nếu chỉ sợ tòa án hoặc công an thì có thể tôi vẫn cứ làm, bởi chắc chắn rằng ngoài tôi ra không ai bắt quả tang được việc làm kín nhẹm của tôi (như ăn hối lộ chẳng hạn). Thế nghĩa là nỗi sợ địa ngục đã ẩn sâu vào bản ngã, sẽ tạo được điều kỳ diệu gọi là “lương tâm”.

    Sau khi kể lại chuyện Thủ Huồng như trên, nhà văn viết tiếp:

    ...Những nhà bè nay không còn, nhưng cái tên Nhà Bè còn mãi trên bản đồ Sài Gòn. Chuyện cũ lưu truyền không rõ hư thực đến đâu. Tôi chỉ quan tâm một điều, rằng cái gì đã phát động một kẻ sâu dân mọt nước như Thủ Huồng dám đem hết tài sản cống hiến vào sự nghiệp từ thiện lớn lao như vậy, nếu đó không phải là nỗi sợ địa ngục?”

    Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn.
    Long Xuyên, tháng 3 năm 2009.
    Tham khảo:
    -Huỳnh Ngọc Trảng, ''Ngàn Năm Bia Miệng'', Nxb VH-TT Long An, 1984.
    -Lương Văn Lựu, ''Biên Hòa sử lược tập 2''. tác giả tự xuất bản theo sự kiểm duyệt và cho phép của Ty Thông Tin Biên Hòa ngày 9 tháng 12 năm 1971.
    -Hoàng Phủ Ngọc Tường tập I, Nxb Trẻ, 2002.
    Chú thích:

    (1) Theo Đại Nam nhất thống chí, ông có tên ''Võ Hữu Hoằng''. Nhưng dân chúng đọc trại ''Hữu'' thành ''Thủ'', ''Hoằng'' thành ''Huồng'', nên tên thật bị biến thành ''Võ Thủ Huồng'', gọi tắt là ''Thủ Huồng''. Theo sách ''Biên Hòa sử lược'' (quyển 2, tr. 273) thì nơi sinh sống của ông Huồng ở Cù lao Phố (những chứng tích liên quan đến ông hiện còn ở Biên Hòa). Sách ''Ngàn Năm bia miệng'' ghi ông là người ở Gia Định (sách dẫn ở mục tham khảo, tr. 11).
    Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.
    Similar Threads
  • #2

    Sự tích địa danh Nhà Bè

    Ở Biên Hòa còn lưu truyền câu ca:
    Ai ơi có đến Nhà Bè,
    Nhớ ơn nước ngọt, bè tre Thủ Huồng.

    Chú thích:

    (1) Theo Đại Nam nhất thống chí, ông có tên ''Võ Hữu Hoằng''. Nhưng dân chúng đọc trại ''Hữu'' thành ''Thủ'', ''Hoằng'' thành ''Huồng'', nên tên thật bị biến thành ''Võ Thủ Huồng'', gọi tắt là ''Thủ Huồng''. Theo sách ''Biên Hòa sử lược'' (quyển 2, tr. 273) thì nơi sinh sống của ông Huồng ở Cù lao Phố (những chứng tích liên quan đến ông hiện còn ở Biên Hòa). Sách ''Ngàn Năm bia miệng'' ghi ông là người ở Gia Định (sách dẫn ở mục tham khảo, tr. 11).






    Ngày xưa ở Gia Định có một người tên là Thủ Hoằng , dân chúng thường gọi là Thủ Huồng , xuất thân làm thơ lại .




    Trong hai mươi năm luồn lọt trong các nha , ty , hắn đã làm cho biết bao gia đình tan nát , biết bao người oan uổng . Nhờ đó hắn vơ vét biết bao tiền của .
    Vợ chết sớm lại không con , nên tiền bạc của hắn không biết tiêu đâu cho hết . Khi thấy cuộc sống quá thừa thãi , hắn bèn thôi việc về nhà sống đời trưởng giả .
    Một hôm có người mách cho Thủ Huồng biết chợ Mãnh Ma ở Quảng Yên là chỗ người sống và người chết có thể gặp nhau vào nửa đêm ngày mùng một tháng Sáu hằng năm .
    Thủ Huồng rất yêu vợ . Vợ đã chết ngoài mười năm nhưng hắn không lúc nào quên .
    Hắn quyết đi tìm vợ nên giao nhà cửa lại cho bà con coi dùm , rồi lên đường ra Quảng Yên .
    Khi gặp vợ , Thủ Huồng không dám hỏi vì thấy vợ ăn mặc rất đài các . Sau cùng, người đàn bà ấy cũng nhận ra được chồng .
    Thủ Huồng mừng quá vội dắt vợ ra một chỗ , kể cho vợ nghe cảnh sống của mình từ lúc âm dương cách biệt .
    Rồi hắn hỏi :
    - " Mình lâu nay làm gì ?"
    Đáp :
    - " Tôi làm vú nuôi trong cung vua. "




    Thủ Huồng muốn theo vợ xuống âm phủ chơi . Vợ đồng ý. Thủ Huồng cùng vợ đi qua mấy dặm đường tối mịt . Chả mấy chốc đã tới cõi âm .
    Hắn rùng mình khi lọt qua bao nhiêu cổng trước lúc vào trong Diêm Đình . Ở mỗi cổng đều có một tên quỷ gác , mặt mày gớm ghiếc dữ tợn . Nhờ có vợ nên chỗ nào cũng lọt qua được .
    Đến gian nhà bếp, vợ hắn bảo :
    - "Đây là nhà bếp , đằng kia là nhà ngục , trước mặt là cung hoàng hậu , chỗ tôi túc trực hàng ngày. Qua khỏi chỗ này là cung vua. Cứ ẩn tạm trong buồng vắng này vì không thể lên trên kia được."
    Chiều hôm đó , người vợ đi hầu hoàng hậu về trao cho Thủ Huồng một tờ lịnh được phép đi xem mọi nơi , trừ cung vua và cung hoàng hậu.
    Hắn dạo quanh đây đó , đến nhà ngục . Tiếng kêu khóc , tiếng thét la ở trong ngục vang dội làm cho hắn bồn chồn .
    Qua mấy nơi quỉ sứ mổ bụng , móc mắt , cắt tay hắn thấy nơi đây quả là nơi trả báo những tội lỗi của con người ở trần thế , đúng như lời đồn .
    Sau cái bàn xẻo thịt là một kho gông . Trong đó có một cái gông vừa to vừa dài.




    Thủ Huồng lân la hỏi người cai ngục :
    - "Thứ gông này để làm gì ? "
    Đáp :
    = "Để chờ một thằng ác nghiệt trên trần gian xuống đây. Bao nhiêu cái gông đều có chủ cả. Cứ xem gông to hay nhỏ thì biết tội ác của nó. "
    Thủ Huồng lại hỏi :
    - " Thế cái gông này là của ai vậy ?"
    Cai ngục giở cuốn sổ dày tra tên và chỉ vào hàng chữ đọc :
    - " Võ Thủ Hoằng , tục danh là Thủ Huồng , nguyên quán tại Đại Nam quốc , Gia Định tỉnh , Phúc Chính huyện…"
    Nghe nói tên mình , Thủ Huồng giật mình , mặt xám ngắt.
    Lát sau hắn lấy được bình tĩnh , hỏi tiếp :
    - "Hắn ở trần gian có tội gì ? "




    Cai ngục nhìn vào sổ nói :
    - " Khi làm thơ lại hắn bẻ mặt ra trái , làm bao nhiêu việc oan khốc , đến nỗi tội ác hắn chép kín cả mấy trang giấy đây . Năm Ất Sửu , hắn sửa hai chữ ngộ sát thành cố sát làm cho mẹ con Thị Nhãn bị chết , để cho người anh họ chiếm đoạt gia tà i. Việc này Thủ Huồng được mười nén vàng , mười nén bạc , một trăm quan tiền . Cũng trong năm đó hắn làm ông Ngô Lại ở thôn Bình Ca bị hai năm tội đồ chỉ vì trong nhà có cái áo vải vàng , để đoạt không của ông ta mười hai mẫu ruộng."
    Thủ Huồng sợ tái mặt , không ngờ nhứt nhứt mỗi việc , từ nhỏ đến lớn của mình trên thế gian dưới này đều rõ mồn một .
    Thủ Huồng hỏi sang chuyện khác :
    - "Thế vợ hắn có đeo gông không ông? "
    Đáp :
    - "Ồ, ai làm nấy chịu chớ . Vợ hắn nghe đâu là người tốt đã xuống đây rồi ."
    Thủ Huồng lại hỏi :
    - " Như hắn muốn hối cải có được không ? "
    Cai ngục đáp :
    -" Đã vay thì phải trả . Nếu hắn muốn thì phải đem những thứ của cải đã cướp được bố thí cho hết đi ."
    Từ biệt cai ngục với những nơi tra khảo tội nhơn khủng khiếp , Thủ Huồng không còn bụng dạ nào để đi xem nơi khác nữa .
    Vợ nghe chồng đòi về bèn đưa ra khỏi Diêm Đình và tiễn đến cuối đoạn đường tối tăm mù mịt..
    Lúc chia tay hắn bảo vợ :
    - " Tôi về trang trải công nợ , có lẽ ba năm nữa, tôi xuống . Mình nhớ lên đón tôi nghe ! "



    Về đến Gia Định , Thủ Huồng mạnh tay bố thí . Hắn tập họp người nghèo khó trong vùng lại phát cho họ tiền , lúa .
    Hắn đem ruộng đất của mình hiến cho làng , cho chùa , chia cho họ hàng thôn xóm .
    Hắn mời hầu hết sư sãi các chùa quanh vùng tới nhà mình cúng cơm tốn kém kể tiền vạn .
    Cứ như thế , ba năm Thủ Huồng tính ra đã phát tán được ba phần tư cơ nghiệp .
    Nhớ lời hẹn hắn khăn gói lên đường ra Bắc , đến chợ Mãnh Ma . Hắn lại được vợ đưa xuống cõi âm lần nữa .
    Lần này mục đích chính của Thủ Huồng là đến chỗ cũ xem lại cái gông .



    Tại nhà ngục , Thủ Huồng thấy quang cảnh như cũ , duy chỗ kho để gông thì có ít nhiều thay đổi .
    Bên cạnh những cái gông còn nguyên hình xưa , có những cái gông bé nay lại lớn lên .
    Đặc biệt cái gông dành cho chính hắn teo lại nhiều .
    Thủ Huồng lân la hỏi cai ngục :
    - " Cái gông để nơi đây , trước kia tôi nhớ hình như to lắm thì phải ?"

    Đáp :
    - " Đúng đấy! Có lẽ gần đây trên dương thế , thằng cha ấy biết chuộc lỗi , nên nó nhỏ lại . Nếu hắn cố gắng nữa thì rồi sẽ có phúc lớn ."
    Thủ Huồng trở lại trần gian , lại tiếp tục bố thí .
    Lần này hắn bán tất cả những gì còn sót lại , kể cả ngôi nhà để ở. Hắn đến Biên Hòa , dựng một ngôi chùa lớn để cúng Phật .
    Rồi hắn xuôi sông Đồng Nai để làm việc nghĩa cuối cùng .
    Từ Đồng Nai về Gia Định , đường sông Đồng Nai và sông Sài Gòn lúc đó còn hoang vu . Do vậy ghe thuyền qua lại , lỡ con nước phải dừng lại , không có quán xá , chợ búa nên rất bất tiện .
    Thủ Huồng quyết định ở lại đây.




    Hắn kết một cái bè lớn , trên bè dựng nhà , đủ chỗ nghỉ , có sẵn nồi niêu , đồ dùng , gạo củi và mắm muối . Những thứ ấy hắn có thể dùng để tiếp rước người qua lại , nhứt là những người khốn khó lỡ đường . Hắn cho họ tạm trú trên bè năm ba ngày mà không nhận của ai một cắc . Hắn làm công việc đó mãi cho đến ngày chết .


    Sau đó khá lâu , có một lần ông vua nhà Thanh (Trung Quốc) tên là Đạo Quang (1782-1850) lúc mới lên ngôi (1820) có cho sứ sang Việt Nam hỏi lai lịch một người ở Gia Định .
    Số là khi mới sanh , trong lòng bàn tay thái tử có mấy chữ " Đại Nam , Gia Định , Thủ Hoằng ", nên nhà vua cần biết lai lịch Thủ Hoằng .
    Vua Trung Quốc có cúng vào chùa Chúc Thọ ở Biên Hòa ba tượng Phật tam thế bằng gỗ trầm hương .



    Do việc đó người ta bảo:
    Thủ Huồng nhờ thành thật hối lỗi , chẳng những làm tiêu tan cái gông chờ hắn ở cõi âm , mà còn được cho đi đầu thai làm vua Trung Quốc.

    Ngày nay , ở cù lao Phố (tỉnh Đồng Nai) còn có một ngôi chùa , tương truyền do Thủ Huồng lập , mang tên chùa Thủ Huồng.


    Chùa Chúc Thọ (Thủ Huồng)


    Con rạch chạy ngang qua đường Tân Vạn vòng qua quốc lộ 1 , do chính Thủ Huồng vét nên gọi rạch Thủ Huồng .

    Chiếc cầu đá trên đường gần sông Đồng Nai đi Tân Vạn cũng gọi cầu Thủ Huồng , vì chính ông ta bắc cầu .



    Chỗ ngã ba sông Đồng Nai và sông Sài Gòn được gọi là sông Nhà Bè để ghi nhớ cái nhà bè của Thủ Huồng trên khúc sông đó .

    Nhà Bè nước chảy chia hai
    Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về...
    (Theo Ngàn Năm Bia Miệng, của Huỳnh Ngọc Trảng)


    Bàn thêm.
    Thủ Huồng là một tay đại gian đại ác (cái gông của y lớn hơn hết) mà cũng không phải là hoàn toàn xấu , đến mức không còn sửa được.
    Y còn ít nhiều điểm tốt:
    (1) Tri túc , biết đủ giàu không mù quáng chạy theo danh lợi đến mãn đời..
    (2) Vợ chết rồi cũng không ỷ của tự do sống buông thả, khác với thói đời năm thê bảy thiếp..
    (3) Can đảm mới dám thẳng tay bố thí để giải nghiệp.

    Trông gương này chúng ta đừng bao giờ mặc cảm rằng phàm phu tu không thành mà không dám tu , sợ uổng công , tiếc của.
    Cũng đừng chê ai quá tệ không thể độ được , không biết tìm trong họ còn có điểm nào tốt ngoài những thói hư tật xấu .

    Ta cũng nên nhớ Thánh xưa có nói :
    Thiên võng khôi khôi , sơ nhi bất lậu.
    (Lưới trời lồng lộng, thưa nhưng chẳng để lọt ai.)
    Bao nhiêu việc làm của Thủ Huồng đều được ghi rõ nơi âm cảnh đó.
    Ta đừng thấy làm quấy không bị phạt nhãn tiền mà coi thường luật công bình của trời đất.
    (Trích: Bồi Dưỡng Đức Tin của Ngọc Giáo hữu Bùi Văn Tâm.

    Tâm Hiền trích đăng
    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 05-03-2011, 12:23 AM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom