Về đêm, thỉnh thoảng tôi lang thang trên những con đường của Huế, nhìn những ngôi biệt thự, ẩn kín sau những vòm cây mà bóng tối làm nổi bật những ô ánh sáng chui qua cửa sổ của những ngọn đèn như gợi nhớ cho tôi những kỉ niệm, lịch sử của một thời oanh liệt.
Mỗi ngôi biệt thự là một thế giới riêng tư, bí mật, ở đó chỉ có chủ nhân, những người trong gia đình cùng sống, cùng chia sẻ, cùng cảm nhận. Họ chôn dấu, không bao giờ hé lộ.
Tôi thích những ngôi nhà vườn, những ngôi biệt thự ẩn kín sau vòm cây xa xa đó. Những ngôi biệt thự có chiều sâu, không gian thăm thẳm và tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
Một lần, tôi cùng nhóm bạn đi du lịch Bà Nà Đà Nẵng, trên đường lên dốc, độ cao cả ngàn mét, xe du lịch dừng chân bên một triền núi, chúng tôi vào thăm ngôi biệt thự Hoàng Lan, khoảng không gian của Hoàng Lan rộng trên hecta, có độ dốc thoai thoãi. Trong sân vườn, trước và sau của ngôi biệt thự, cỏ dại mọc xanh um, những cây kiền kiên, cây mít, những cây cao chót vót, những bụi dương xĩ mọc đầy ngôi biệt thự. Chúng tôi bước vào nhà, phòng khách rộng, trong tường có lò sưỡi. Bộ ghế salon gỗ bọc nệm da nâu, lâu lắm rôi, rách tươm vẫn còn giữ. Tôi cố gắng tìm dấu vết hiện hữu còn lưu lại, những người ngày xưa, cùng sống, cùng trãi qua những thời khắc hạnh phúc, đau khổ, bây giờ ở đâu, về đâu?
Từ phòng khách là một hành lang đi xuyên suốt mà hai bên tã, hữu là phòng ngủ, cửa đóng kín, tôi tò mò ngước mắt nhìn vào bên trong, xem còn gì, nhưng căn phòng để trống. đi hết hành lang, ta gặp nhà bếp, phòng ăn, rộng, và kín, hệ thống bồn rữa không còn, ngày ấy không hiểu, người ta nấu bếp bằng gì? khí ga? Bếp dầu? cũi?
Một mái che chạy dài đâu 10 mét là kho chứa đồ và bên góc đối diện là chuồng gà, vịt.
Ngôi biệt thự này, có thể ngày xưa là của một ông toàn quyền người Pháp nào đó, xây dựng và dùng để nghỉ cuối tuân.
Tất cả đều hoang vắng, không một bóng người và trên đường đi nghỉ mát Bà Nà, biệt thự Hoàng Lan bị bỏ hoang. Khách qua đường, có thể vào thăm, nhìn lại dấu xưa, một thời vang bóng, một chút cảm xúc, ngậm ngùi, xao xuyến.
Sau này, tôi được biết ngôi biệt thự đó, ông nhà nước đã treo bảng, thông báo bán đấu giá.
Mỗi lần về Huế, lúc có giổ, chạp, tôi đi thăm bà con, bạn bè, ấy cũng là lúc tôi sống lại với kỉ niệm, một thời tuổi trẻ dại khờ.
Con đường Chi lăng nằm bên tã ngạn sông Hương, chạy dài từ cầu Gia Hội cho đến cuối đường là bến đò chợ Dinh. Tại phần đất ấy, trên mép bờ sông Hương có ngôi biệt thự, đối diện nhà tôi.
Ngôi biệt thự đó là một phần tuổi thơ của tôi. Những ngày tôi không đi học. Tôi trãi qua thời gian của tôi ở đó: Những lúc câu cá dưới bến, những lúc leo cây hái ổi cùng những trò chơi trốn bắt mà các lùm cây, bụi cỏ là những điểm tựa an toàn cho tôi chui rúc.
Chủ nhân ngôi biệt thự là chú Hượt, con trai thứ hai của ông Bộ, cũng ở sát bên phần đất kế tiếp. Chú Hượt vắng nhà thường xuyên, ít khi tôi thấy mặt, sau này tôi biết được chú là Trưởng ty cảnh sát tỉnh Khánh Hòa.
Gọi là ngôi biệt thự thì cũng không đúng lắm. Ngôi nhà liên hoàn chiều sâu (tính luôn khu vườn) cả 100 mét, nhà trước là mặt tiền, đối diện nhìn ra đương Chi lăng, như là một căn nhà phố, gồm căn nhà chính vách ciment lợp ngói, liền với nhà dưới, là nhà bên hông là một quán bán hàng, nối liền, chạy dài ra sau gồm nhà bếp, nhà ăn, sâu hun hút.
Nhà sau được liên hoàn với nhà trước. Đây là một nhà rường, bằng gỗ lim, gỗ trắc, lợp ngói. Ngôi nhà này dùng để thờ những người đã chết, bà con ruột thịt. Mái nhà hình chữ A, sà xuống thấp, đứng trên bậc thềm, có thể đưa tay đụng ngói. Tôi thích nhất bộ bàn ghế, tủ thờ toàn bằng gỗ trắc, khảm xà cừ, những con cong, con phượng và hai bức hoàng phi gợi nhớ tiền nhân.
Tôi tò mò nhìn vào bàn thờ, trên đó tôi thấy chân dung bán thân một người phụ nữ trẻ đẹp, tóc bối ra đằng sau, cổ cao, đôi mắt to đen, sáng quắc, khuôn mặt toát ra vẻ đài các diễm lệ nhưng man mác buồn. Có lần tôi tò mò hỏi cha tôi về ảnh người phụ nữ này thì được biết đó là người vợ trước của chú Hượt, đã chết sớm vì bệnh hiểm nghèo.
Một lần, qua chơi với đứa bạn trong xóm, tôi được ông Bộ dặn là không được vào nhà thờ vì trong đó hồn ma người phụ nữ trên bàn thờ bước xuống bắt giữ, sẽ bệnh mà chết. Tôi nghĩ đó là ông Bộ dọa để chúng tôi sợ.
Tuy vậy, tôi vẫn thích nghỉ chân dưới mái hiên và để được chiêm ngưỡng chân dung người phụ nữ đẹp vắn số.
Tại sao nàng chết? Nàng chết quá sớm! Tôi ngậm ngùi nhìn chân dung nàng và ước mong sao nàng có thể từ trong ảnh bước xuống, nhìn tôi, nở một nụ cười.
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tàng y lại để dành hơi”
Từ nhà thờ nhìn ra là sân vườn, rộng bao la, bát bát ngát, đi hết vườn là đến bến, có những tấng cấp bước xuống là giòng sông Hương hiền hòa. Nhìn ra xa xa là những chiếc thuyền ghe dang lướt nhẹ trên sông. Trên bến mát rượi. Những tàng lá của cây sung, bụi tre tre tõa bóng che hết ánh nắng mặt trời cho ta một cảm giác mát mẽ, dịu dàng biết bao!
Chính bến nước này, là nơi gia đính vẫn thường giặt rửa. Những chiều mùa hè, trời nóng oi bức, tôi và người anh kế vẫn thường băng qua đường, đi ngã rẽ, bên hông, xuống bến để tắm tại đây.
Thích nhất là những lần tôi thả cần câu để câu cá, thường là cá bóng hay cá ngạnh. Có lúc chúng tôi đưa tay mò xuống các kẽ đá, thính thoảng bàn tay chạm được một vật gì lạ, chúng tôi túm lấy. Có khi là một con rạm, có khi là một con tôm càng lớn. Những lần như thế chúng tôi sung sướng biết bao nhiêu.
Ngoài việc bắt rạm, câu cá, khi chán, chúng tôi đi lách vào các bụi cây hái quả, những cây cà chua đầy trái chín đỏ ối, có những lúc còn leo lên cây đào, ăn chán, hái một ít, tụt xuống, làm trò chơi buôn bán, …
Chuyện kể về gia đình chú Hượt cũng ly kì. Hai anh em chúng tôi vẫn thường qua nhà chú để chơi đùa. Gia đình chú không săn sóc cây cối nhưng ông Bộ, người cha trực tiếp trồng và thuê người đến chăm bón. Hai anh em chúng tôi được ông Bộ xem như người nhà nên chuyện chúng tôi qua chơi là bình thường.
Tôi chỉ biết một số rất ít về người vợ đã yên nghỉ của chú Hượt, ngày đó tôi còn nhỏ, ít quan tâm đến chuyện người lớn . Riêng người vợ sau của chú, duyên dáng, bặt thiệp.Bà thuộc phụ nữ ít học, chồng đi làm xa, ở nhà nuôi con và có vẻ cam phận, thỉnh thoảng nàng cũng thường hay qua nhà tôi chuyện trò cùng với bà chị dâu của tôi, một đôi khi vừa nói chuyện vừa đùa dỡn với bà nội tôi.
Lâu lâu, vài ba tháng, chú Hượt lại về, bên nhà đầy ắp tiếng cười. Chú đưa vợ, con đi chơi, dạo phố, mua sắm. Tôi còn nhớ mãi cảm giác những trái thanh long ăn lần đầu tiên, vị ngọt ngọt lạt lạt kèm theo sự mát dịu êm êm vào cơ thể làm tôi nhớ mãi.
Có thể nói trong 2 người con của ông Bộ, Chú Hượt là người có tính cách khác hẳn ông anh. Chú nói năng nhẹ nhàng, lịch sự, hỏi thăm từ người này đến người khác. Nụ cười luôn nở trên môi. Lối cư xử, tiếp cận của chú với mọi người làm ta có thể đoán được chú là người có vị trí quan trọng trong xã hội.
Có một điều, tôi vẫn không hiểu là tại sao người phụ nữ, bà vợ chú Hượt lại chấp nhận số phận nghiệt ngã, ở nhà một mình, vò võ nuôi 2 đứa con trai?
Có thể nàng cũng ghen, nhưng cuộc sống ẩn kín của những gia đình danh gia vọng tộc, có vị trí trong xã hội làm cho nàng âm thầm chịu đựng?
Cả một ngôi biệt thự rộng lớn như vậy, chỉ có nàng và 2 đứa con trai còn nhỏ ở trong đó. Đó là một thế giới im lìm, tĩnh lặng. 3 người sinh hoạt trong ngôi biệt thự như 3 chiếc bóng.
Chính vì thế, mỗi khi chúng tôi trãi qua những thời khắc vui đùa trong vườn, trong nhà chái của ngôi biệt thự thì nàng vui hẳn lên. Đôi mắt nàng sáng ngời, nụ cười, tiếng nói dí dõm. Chúng tôi rũ 2 đứa con trai của nàng (Sơn anh và Sơn em) ra vườn chơi đánh căn hoặc chơi ô.
Mỗi lần, khi trở về, tôi đi xuyên nhà dưới, qua phòng ăn, tôi thấy nàng lui cui làm bếp. Tôi hình dung, bửa ăn lại chỉ có 3 mẹ con. Người chồng, người cha luôn vắng mặt. Tôi thoáng thấy trong khuôn mặt nàng nỗi phiền muộn muôn thuở.
- Răng chú ít về nhà rứa cô?
Nàng trả lời chua chát:
- Chú bỏ cô rồi!
- Không mô cô, chú sẽ về với cô.
Nàng ngước mắt nhìn tôi, trong đôi mắt của nàng, tôi đọc thấy niềm hy vọng mong manh. Lúc bấy giờ, tôi chỉ khoảng 12 tuổi, nhưng tôi vẫn cảm nhận được vẻ đẹp trong đôi mắt đen sâu thẳm ấy. Nàng mặc chiếc áo chemise trắng, mịn, mỏng bình dị, mắt tôi thoáng một giây lướt nhìn nàng, ngực nàng căng, phập phòng,. Nàng bẹo má tôi:
- Ở lại ăn cơm với hai đứa nghe!
- Con phải về, chú con la.
Nàng đưa mắt nhìn tôi cười buồn.
Thế rồi, một hôm, tôi phát hiện thấy người phụ nữ ấy có thai. Lúc đầu, tôi nghĩ đó là chuyện bình thường. Nàng có chông, có con. Có gì đâu để ngạc nhiên. Nhưng rồi người ta bàn tán, xì xầm nhiều về cái thai trong bụng của nàng.
Bấy giờ, tôi nhớ lại. Lâu lắm rồi, xem chừng đã trót năm, chú Hượt đâu có về Huế. Ông ở mãi trong Nha Trang. Và có lẽ người ta bàn tán xì xào là vì từ gia đình người anh chồng, bà chị dâu lắm mồm!
Cuốc sống buồn bã, cô đơn của nàng. Tuổi thanh xuân của nàng trôi qua trong sự tĩnh lặng của ngôi biệt thự, phải chăng là một định mệnh oan khiên?
Có ai hiểu được nỗi cô độc của nàng mà hằng đêm nàng đã đấu tranh một cách mãnh liệt những đòi hỏi của bản năng, của dục tình. Nàng còn quá trẻ và nàng chỉ là một con người bình thường, nàng cần một sự cân bằng về đời sống tâm sinh lý.
Sau này tôi đã hiểu được lờ mờ về sự cố xảy ra với nàng. Nàng đã giết thời gian, giết nỗi buồn bằng những lần tiêu khiển: Đỗ xăm hường! Một trò chơi tiêu biểu cho chế độ thi cử của Nhà Nguyễn. Những lần đỗ xăm hường suốt sáng đã dẫn đến hậu quả, nàng đã ngã vào vòng tay một ông đại úy bảo an tuổi đã lục tuần.
Les jeux sont faits!
Tất cả mọi chuyện đều trôi qua, được giải quyết một cách thầm lặng trong ngôi biệt thự.
Nàng lại sinh, con trai, nàng tiếp tục nuôi con. Tiếp tục cuộc sống thầm lặng.
Chú Hượt về , hình như để giải quyết chuyện gia đình.
Một năm sau, tôi thấy ngôi biệt thự đã được bàng giao cho người cháu ruột gái, con ông anh của chú Hượt.
Và nàng, nàng đã ra đi một cách lặng lẽ không ai hay biết, không một lời từ giã với hàng xóm, láng giềng.
Tôi đoán vụ việc đã được đưa ra tòa án xử. Nàng giữ quyền nuôi 3 đứa con, với một số tiền trị giá bằng một phần của ngôi biệt thự.
15 năm sau, năm 1980, thời kỳ bao cấp bi đát, tôi gặp nàng tại Đà Nẵng, trong một ngôi nhà ọp ẹp. Nàng đã già hẳn, da nhăn, má tóp, nhưng đôi mắt của nàng vẫn còn long lanh, ẩn chứa một niềm đam mê tuyệt vọng. Nàng sống trong nghèo khổ. Các con nàng, đứa đầu đạp xích lô.
Và tôi, tôi cũng hơn gì nàng, từ một GS dạy triết, tôi trở thành một anh thợ hàn khung xe đạp, rôi đi bỏ bánh đậu xanh cho người ta bán, …
Nàng hỏi thăm về tôi, cuộc sống gia đình. Tôi chua chát kể lại cuộc sống bế tắc của tôi. Nàng nhìn tôi:
“Cuộc sống của tôi bây giờ chỉ còn chờ chết thôi T à, các con tôi thất nghiệp, làm đủ thứ nghề, không giải quyết được gì. Âu cũng là số phận!”
Tôi hỏi thăm về chú Hượt, về gia đình của chú ở Nha Trang. Nàng căm thù: “Đừng bao giờ nhắc đến ông ấy nứa T, cô căm thù ông ta, vã lại bây giờ ông ta cũng bệnh tật liên miên, sau khi đi học tập về. Bà vợ ông ta cũng bệnh nữa. Không còn gì nữa đâu”.
Năm 1996, khi trở về Huế, tôi được ông anh kể lại, chú Hượt về thăm. Ông có qua nhà, uống cà phê. Ông bị huyết áp nặng. Tuổi của ông đã ngót 80. Ít năm sau, tôi nghe tin ông qua đời, rôi vợ ông ở Nha Trang cũng chết vì ung thư.
Riêng cuộc sống của nàng, sau này, gia đình ra sao, quái lạ mặc dù ở Đà Nẵng, tôi vẫn không một tin tức về nàng.
Tôi nghĩ rằng nàng đã chết.
Vĩnh biệt nàng, người phụ nữ tội nghiệp!
Vĩnh biệt ngôi biệt thự buồn bã!
(Đà Nẵng, 20/7/2010)A
Mỗi ngôi biệt thự là một thế giới riêng tư, bí mật, ở đó chỉ có chủ nhân, những người trong gia đình cùng sống, cùng chia sẻ, cùng cảm nhận. Họ chôn dấu, không bao giờ hé lộ.
Tôi thích những ngôi nhà vườn, những ngôi biệt thự ẩn kín sau vòm cây xa xa đó. Những ngôi biệt thự có chiều sâu, không gian thăm thẳm và tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
Một lần, tôi cùng nhóm bạn đi du lịch Bà Nà Đà Nẵng, trên đường lên dốc, độ cao cả ngàn mét, xe du lịch dừng chân bên một triền núi, chúng tôi vào thăm ngôi biệt thự Hoàng Lan, khoảng không gian của Hoàng Lan rộng trên hecta, có độ dốc thoai thoãi. Trong sân vườn, trước và sau của ngôi biệt thự, cỏ dại mọc xanh um, những cây kiền kiên, cây mít, những cây cao chót vót, những bụi dương xĩ mọc đầy ngôi biệt thự. Chúng tôi bước vào nhà, phòng khách rộng, trong tường có lò sưỡi. Bộ ghế salon gỗ bọc nệm da nâu, lâu lắm rôi, rách tươm vẫn còn giữ. Tôi cố gắng tìm dấu vết hiện hữu còn lưu lại, những người ngày xưa, cùng sống, cùng trãi qua những thời khắc hạnh phúc, đau khổ, bây giờ ở đâu, về đâu?
Từ phòng khách là một hành lang đi xuyên suốt mà hai bên tã, hữu là phòng ngủ, cửa đóng kín, tôi tò mò ngước mắt nhìn vào bên trong, xem còn gì, nhưng căn phòng để trống. đi hết hành lang, ta gặp nhà bếp, phòng ăn, rộng, và kín, hệ thống bồn rữa không còn, ngày ấy không hiểu, người ta nấu bếp bằng gì? khí ga? Bếp dầu? cũi?
Một mái che chạy dài đâu 10 mét là kho chứa đồ và bên góc đối diện là chuồng gà, vịt.
Ngôi biệt thự này, có thể ngày xưa là của một ông toàn quyền người Pháp nào đó, xây dựng và dùng để nghỉ cuối tuân.
Tất cả đều hoang vắng, không một bóng người và trên đường đi nghỉ mát Bà Nà, biệt thự Hoàng Lan bị bỏ hoang. Khách qua đường, có thể vào thăm, nhìn lại dấu xưa, một thời vang bóng, một chút cảm xúc, ngậm ngùi, xao xuyến.
Sau này, tôi được biết ngôi biệt thự đó, ông nhà nước đã treo bảng, thông báo bán đấu giá.
Mỗi lần về Huế, lúc có giổ, chạp, tôi đi thăm bà con, bạn bè, ấy cũng là lúc tôi sống lại với kỉ niệm, một thời tuổi trẻ dại khờ.
Con đường Chi lăng nằm bên tã ngạn sông Hương, chạy dài từ cầu Gia Hội cho đến cuối đường là bến đò chợ Dinh. Tại phần đất ấy, trên mép bờ sông Hương có ngôi biệt thự, đối diện nhà tôi.
Ngôi biệt thự đó là một phần tuổi thơ của tôi. Những ngày tôi không đi học. Tôi trãi qua thời gian của tôi ở đó: Những lúc câu cá dưới bến, những lúc leo cây hái ổi cùng những trò chơi trốn bắt mà các lùm cây, bụi cỏ là những điểm tựa an toàn cho tôi chui rúc.
Chủ nhân ngôi biệt thự là chú Hượt, con trai thứ hai của ông Bộ, cũng ở sát bên phần đất kế tiếp. Chú Hượt vắng nhà thường xuyên, ít khi tôi thấy mặt, sau này tôi biết được chú là Trưởng ty cảnh sát tỉnh Khánh Hòa.
Gọi là ngôi biệt thự thì cũng không đúng lắm. Ngôi nhà liên hoàn chiều sâu (tính luôn khu vườn) cả 100 mét, nhà trước là mặt tiền, đối diện nhìn ra đương Chi lăng, như là một căn nhà phố, gồm căn nhà chính vách ciment lợp ngói, liền với nhà dưới, là nhà bên hông là một quán bán hàng, nối liền, chạy dài ra sau gồm nhà bếp, nhà ăn, sâu hun hút.
Nhà sau được liên hoàn với nhà trước. Đây là một nhà rường, bằng gỗ lim, gỗ trắc, lợp ngói. Ngôi nhà này dùng để thờ những người đã chết, bà con ruột thịt. Mái nhà hình chữ A, sà xuống thấp, đứng trên bậc thềm, có thể đưa tay đụng ngói. Tôi thích nhất bộ bàn ghế, tủ thờ toàn bằng gỗ trắc, khảm xà cừ, những con cong, con phượng và hai bức hoàng phi gợi nhớ tiền nhân.
Tôi tò mò nhìn vào bàn thờ, trên đó tôi thấy chân dung bán thân một người phụ nữ trẻ đẹp, tóc bối ra đằng sau, cổ cao, đôi mắt to đen, sáng quắc, khuôn mặt toát ra vẻ đài các diễm lệ nhưng man mác buồn. Có lần tôi tò mò hỏi cha tôi về ảnh người phụ nữ này thì được biết đó là người vợ trước của chú Hượt, đã chết sớm vì bệnh hiểm nghèo.
Một lần, qua chơi với đứa bạn trong xóm, tôi được ông Bộ dặn là không được vào nhà thờ vì trong đó hồn ma người phụ nữ trên bàn thờ bước xuống bắt giữ, sẽ bệnh mà chết. Tôi nghĩ đó là ông Bộ dọa để chúng tôi sợ.
Tuy vậy, tôi vẫn thích nghỉ chân dưới mái hiên và để được chiêm ngưỡng chân dung người phụ nữ đẹp vắn số.
Tại sao nàng chết? Nàng chết quá sớm! Tôi ngậm ngùi nhìn chân dung nàng và ước mong sao nàng có thể từ trong ảnh bước xuống, nhìn tôi, nở một nụ cười.
“Đập cổ kính ra tìm lấy bóng.
Xếp tàng y lại để dành hơi”
Từ nhà thờ nhìn ra là sân vườn, rộng bao la, bát bát ngát, đi hết vườn là đến bến, có những tấng cấp bước xuống là giòng sông Hương hiền hòa. Nhìn ra xa xa là những chiếc thuyền ghe dang lướt nhẹ trên sông. Trên bến mát rượi. Những tàng lá của cây sung, bụi tre tre tõa bóng che hết ánh nắng mặt trời cho ta một cảm giác mát mẽ, dịu dàng biết bao!
Chính bến nước này, là nơi gia đính vẫn thường giặt rửa. Những chiều mùa hè, trời nóng oi bức, tôi và người anh kế vẫn thường băng qua đường, đi ngã rẽ, bên hông, xuống bến để tắm tại đây.
Thích nhất là những lần tôi thả cần câu để câu cá, thường là cá bóng hay cá ngạnh. Có lúc chúng tôi đưa tay mò xuống các kẽ đá, thính thoảng bàn tay chạm được một vật gì lạ, chúng tôi túm lấy. Có khi là một con rạm, có khi là một con tôm càng lớn. Những lần như thế chúng tôi sung sướng biết bao nhiêu.
Ngoài việc bắt rạm, câu cá, khi chán, chúng tôi đi lách vào các bụi cây hái quả, những cây cà chua đầy trái chín đỏ ối, có những lúc còn leo lên cây đào, ăn chán, hái một ít, tụt xuống, làm trò chơi buôn bán, …
Chuyện kể về gia đình chú Hượt cũng ly kì. Hai anh em chúng tôi vẫn thường qua nhà chú để chơi đùa. Gia đình chú không săn sóc cây cối nhưng ông Bộ, người cha trực tiếp trồng và thuê người đến chăm bón. Hai anh em chúng tôi được ông Bộ xem như người nhà nên chuyện chúng tôi qua chơi là bình thường.
Tôi chỉ biết một số rất ít về người vợ đã yên nghỉ của chú Hượt, ngày đó tôi còn nhỏ, ít quan tâm đến chuyện người lớn . Riêng người vợ sau của chú, duyên dáng, bặt thiệp.Bà thuộc phụ nữ ít học, chồng đi làm xa, ở nhà nuôi con và có vẻ cam phận, thỉnh thoảng nàng cũng thường hay qua nhà tôi chuyện trò cùng với bà chị dâu của tôi, một đôi khi vừa nói chuyện vừa đùa dỡn với bà nội tôi.
Lâu lâu, vài ba tháng, chú Hượt lại về, bên nhà đầy ắp tiếng cười. Chú đưa vợ, con đi chơi, dạo phố, mua sắm. Tôi còn nhớ mãi cảm giác những trái thanh long ăn lần đầu tiên, vị ngọt ngọt lạt lạt kèm theo sự mát dịu êm êm vào cơ thể làm tôi nhớ mãi.
Có thể nói trong 2 người con của ông Bộ, Chú Hượt là người có tính cách khác hẳn ông anh. Chú nói năng nhẹ nhàng, lịch sự, hỏi thăm từ người này đến người khác. Nụ cười luôn nở trên môi. Lối cư xử, tiếp cận của chú với mọi người làm ta có thể đoán được chú là người có vị trí quan trọng trong xã hội.
Có một điều, tôi vẫn không hiểu là tại sao người phụ nữ, bà vợ chú Hượt lại chấp nhận số phận nghiệt ngã, ở nhà một mình, vò võ nuôi 2 đứa con trai?
Có thể nàng cũng ghen, nhưng cuộc sống ẩn kín của những gia đình danh gia vọng tộc, có vị trí trong xã hội làm cho nàng âm thầm chịu đựng?
Cả một ngôi biệt thự rộng lớn như vậy, chỉ có nàng và 2 đứa con trai còn nhỏ ở trong đó. Đó là một thế giới im lìm, tĩnh lặng. 3 người sinh hoạt trong ngôi biệt thự như 3 chiếc bóng.
Chính vì thế, mỗi khi chúng tôi trãi qua những thời khắc vui đùa trong vườn, trong nhà chái của ngôi biệt thự thì nàng vui hẳn lên. Đôi mắt nàng sáng ngời, nụ cười, tiếng nói dí dõm. Chúng tôi rũ 2 đứa con trai của nàng (Sơn anh và Sơn em) ra vườn chơi đánh căn hoặc chơi ô.
Mỗi lần, khi trở về, tôi đi xuyên nhà dưới, qua phòng ăn, tôi thấy nàng lui cui làm bếp. Tôi hình dung, bửa ăn lại chỉ có 3 mẹ con. Người chồng, người cha luôn vắng mặt. Tôi thoáng thấy trong khuôn mặt nàng nỗi phiền muộn muôn thuở.
- Răng chú ít về nhà rứa cô?
Nàng trả lời chua chát:
- Chú bỏ cô rồi!
- Không mô cô, chú sẽ về với cô.
Nàng ngước mắt nhìn tôi, trong đôi mắt của nàng, tôi đọc thấy niềm hy vọng mong manh. Lúc bấy giờ, tôi chỉ khoảng 12 tuổi, nhưng tôi vẫn cảm nhận được vẻ đẹp trong đôi mắt đen sâu thẳm ấy. Nàng mặc chiếc áo chemise trắng, mịn, mỏng bình dị, mắt tôi thoáng một giây lướt nhìn nàng, ngực nàng căng, phập phòng,. Nàng bẹo má tôi:
- Ở lại ăn cơm với hai đứa nghe!
- Con phải về, chú con la.
Nàng đưa mắt nhìn tôi cười buồn.
Thế rồi, một hôm, tôi phát hiện thấy người phụ nữ ấy có thai. Lúc đầu, tôi nghĩ đó là chuyện bình thường. Nàng có chông, có con. Có gì đâu để ngạc nhiên. Nhưng rồi người ta bàn tán, xì xầm nhiều về cái thai trong bụng của nàng.
Bấy giờ, tôi nhớ lại. Lâu lắm rồi, xem chừng đã trót năm, chú Hượt đâu có về Huế. Ông ở mãi trong Nha Trang. Và có lẽ người ta bàn tán xì xào là vì từ gia đình người anh chồng, bà chị dâu lắm mồm!
Cuốc sống buồn bã, cô đơn của nàng. Tuổi thanh xuân của nàng trôi qua trong sự tĩnh lặng của ngôi biệt thự, phải chăng là một định mệnh oan khiên?
Có ai hiểu được nỗi cô độc của nàng mà hằng đêm nàng đã đấu tranh một cách mãnh liệt những đòi hỏi của bản năng, của dục tình. Nàng còn quá trẻ và nàng chỉ là một con người bình thường, nàng cần một sự cân bằng về đời sống tâm sinh lý.
Sau này tôi đã hiểu được lờ mờ về sự cố xảy ra với nàng. Nàng đã giết thời gian, giết nỗi buồn bằng những lần tiêu khiển: Đỗ xăm hường! Một trò chơi tiêu biểu cho chế độ thi cử của Nhà Nguyễn. Những lần đỗ xăm hường suốt sáng đã dẫn đến hậu quả, nàng đã ngã vào vòng tay một ông đại úy bảo an tuổi đã lục tuần.
Les jeux sont faits!
Tất cả mọi chuyện đều trôi qua, được giải quyết một cách thầm lặng trong ngôi biệt thự.
Nàng lại sinh, con trai, nàng tiếp tục nuôi con. Tiếp tục cuộc sống thầm lặng.
Chú Hượt về , hình như để giải quyết chuyện gia đình.
Một năm sau, tôi thấy ngôi biệt thự đã được bàng giao cho người cháu ruột gái, con ông anh của chú Hượt.
Và nàng, nàng đã ra đi một cách lặng lẽ không ai hay biết, không một lời từ giã với hàng xóm, láng giềng.
Tôi đoán vụ việc đã được đưa ra tòa án xử. Nàng giữ quyền nuôi 3 đứa con, với một số tiền trị giá bằng một phần của ngôi biệt thự.
15 năm sau, năm 1980, thời kỳ bao cấp bi đát, tôi gặp nàng tại Đà Nẵng, trong một ngôi nhà ọp ẹp. Nàng đã già hẳn, da nhăn, má tóp, nhưng đôi mắt của nàng vẫn còn long lanh, ẩn chứa một niềm đam mê tuyệt vọng. Nàng sống trong nghèo khổ. Các con nàng, đứa đầu đạp xích lô.
Và tôi, tôi cũng hơn gì nàng, từ một GS dạy triết, tôi trở thành một anh thợ hàn khung xe đạp, rôi đi bỏ bánh đậu xanh cho người ta bán, …
Nàng hỏi thăm về tôi, cuộc sống gia đình. Tôi chua chát kể lại cuộc sống bế tắc của tôi. Nàng nhìn tôi:
“Cuộc sống của tôi bây giờ chỉ còn chờ chết thôi T à, các con tôi thất nghiệp, làm đủ thứ nghề, không giải quyết được gì. Âu cũng là số phận!”
Tôi hỏi thăm về chú Hượt, về gia đình của chú ở Nha Trang. Nàng căm thù: “Đừng bao giờ nhắc đến ông ấy nứa T, cô căm thù ông ta, vã lại bây giờ ông ta cũng bệnh tật liên miên, sau khi đi học tập về. Bà vợ ông ta cũng bệnh nữa. Không còn gì nữa đâu”.
Năm 1996, khi trở về Huế, tôi được ông anh kể lại, chú Hượt về thăm. Ông có qua nhà, uống cà phê. Ông bị huyết áp nặng. Tuổi của ông đã ngót 80. Ít năm sau, tôi nghe tin ông qua đời, rôi vợ ông ở Nha Trang cũng chết vì ung thư.
Riêng cuộc sống của nàng, sau này, gia đình ra sao, quái lạ mặc dù ở Đà Nẵng, tôi vẫn không một tin tức về nàng.
Tôi nghĩ rằng nàng đã chết.
Vĩnh biệt nàng, người phụ nữ tội nghiệp!
Vĩnh biệt ngôi biệt thự buồn bã!
(Đà Nẵng, 20/7/2010)A