• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Có một thời để nhớ

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Có một thời để nhớ

    Cái Chết Của Người Lính
    Nếu phân loại theo giới tính của nhóm người trên chiếc ghe này, có thể nói tôi là một người đàn ông trẻ nhất trong nhóm, mặc dù lúc vượt biên tôi chi tròn trèm mười bốn tuổi. Hay nói cho đúng hơn nữa, có thể gọi tôi là một thằng con nít chưa hiểu sự đời. Thật sự mà nói, tôi chẳng hiểu sự đổi thay của chế độ như thế nào mà rất nhiều người bỏ nước ra đi. Với cá nhân tôi, tôi chỉ biết là tôi rất buồn khi bố mẹ gởi gắm tôi cho một người quen làm chuyến phiêu lưu này. Tôi phải bỏ quên tuổi thơ của tôi, những chiều đá banh, tắm sông, nghịch ngợm chọc phá và hái trộm xoài nhà ông Cả Đậu làng bên. Tôi chỉ có một cảm giác thích thú duy nhất là khi xuống tầu, tàu lướt sóng nhịp nhàng khi lên khi xuống mà tôi gọi là cưỡi ngựa trên biển.
    Nhưng cái cảm giác thích thú này chẳng duy trì trong tôi lâu được. Hơn cả tuần vật lộn với sóng biển, giữa phong ba bão táp, ói tới mật xanh, cái sống và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc, tôi đã nghĩ là bố mẹ tôi đem sinh mạng tôi đùa giỡn với tử thần.
    Chỉ mới ngày thứ hai trên biển, chú thím Bảy - người mà bố mẹ tôi gửi gấm tôi - đã nằm la liệt trên tàu. Chẳng ai còn ngó ngàng chăm sóc đến tôi. Tôi có cảm giác lạc lõng giữa một nhóm người xa lạ. Chiếc tầu thì quá chật. Tôi lâu nay đã quen chạy nhảy, nghịch ngợm, giờ bó gối trên chiếc tầu con chật hẹp tưởng chừng như con chim bị nhốt trong lồng. Tôi chỉ có một may mắn duy nhất là tiêu chuẩn thực phẩm phân phát cho tôi đầy đủ hơn mọi người khác bởi tôi còn quá nhỏ so với những người trên tầu.
    Ngày đầu tiên trên biển, cái thích thú cỡi tầu trên sông nước đã đè ép cái mệt nhọc, phiền muộn của tôi. Tôi reo mừng nhảy cỡn lên theo cái nhịp nhàng lướt sóng lên xuống của con tầu. Tôi đã tạm quên đám bạn bè cùng trang lứa, những ngày thả diều, đá bóng, bắt dế...ở quê nhà. Cứ nghĩ như một cuộc du ngoạn xa. Tôi vẫn chưa ý thức được rằng sự ra đi này như đi tìm sự sống trong cái chết. Và cái lạ lẫm thú vị trong tôi đã dần mất hẳn trong hành trình của những ngày cuối cùng.
    Tôi bắt đầu thấm nỗi cô đơn và sự nhớ nhung giữa gia đình. Tựa như con chim non vừa rời xa tổ ấm. Những đứa em của tôi, cu Vũ, bé Tý giờ này chắc đã ngủ yên bên mẹ. Tôi đã cảm thấy mệt mỏi và mất đi vẻ linh hoạt vỗn sẵn trong tôi. Tôi chẳng còn thấy thiết tha hay thú vị trong hành trình bắt buộc này khi cơn bão ập xuống trong ngày thứ ba trên biển. Mưa tầm tã như trút nước, sấm sét giông gió và cả một khoảng trời trên biển mù mịt mây xám.
    Tàu phải bỏ neo giữa biển như một chấp nhận, một chịu đựng không lối thoát. Tôi tưởng chừng như cái chết đang cận kề bên mình. Bão táp làm bầm dập tôi đến tả tơi. Ruột gan như lộn phèo và ói mửa tới cả mật xanh. Tôi ngất đi trong sự khiếp hãi kinh hồn này.
    Chẳng biết bao lâu thời gian đã qua, tôi tỉnh dậy. Nắng chiều chiếu trải rộng trên tầu. Tôi nhìn quanh. Mọi người trên tầu cũng tả tơi, rách nát như tôi. Tựa như tất cả từ cõi chết trở về. Tôi đưa mắt tìm chú thím Bảy. Hai người còn nằm thiêm thiếp mê mệt. Tôi gượng dứng dậy. Nhưng sức lực dường như tiêu tán đâu hết. tay châm run rẩy và tôi lại ngã nhào xuống.
    Tôi ngã vào vòng tay một người đàn ông. Anh ta chụp lấy tôi và dìu tôi ngồi lại xuống sàn. Ánh mắt và nụ cười đầy vẻ thân thiện. Tôi nhìn lại anh ta chỉ hơn tôi độ mười mấy tuổi. Làn da rám nắng. Khuôn mặt dày dạn nét phong trần. Tôi như có cảm giác an ủi và đỡ lạc lõng. Tôi đã có người để làm bạn, chuyện trò. Rồi từ hôm ấy, tôi thường xuyên lân la bên cạnh anh ở trên tầu.
    Tầu của chúng tôi đã lênh đênh trên biển sang ngày thứ bảy. Trận bão đi qua đã làm thiệt hại nặng nề con tầu. Máy hư, bánh lái gẫy. Tàu hết phương cứu chữa, chỉ còn theo sức gió trôi dạt. Thức ăn đã dần dần vơi và nước uống thì gần cạn. Mỗi người trên tầu bây giờ phải ăn cháo thật lỏng thay cơm và chỉ uống được một ngụm nhỏ nước mỗi ngày.
    Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có lúc cái đói và cơn khát hành hạ tôi như lúc này. Tôi đang sức lớn mà tiêu chuẩn ăn chỉ vừa nhét đủ kẽ răng và nước uống thì chưa đủ thấm giọng. Đêm ngủ lại trăn trở theo tiếng reo của bao tử, tôi tưởng chừng như điên lên được. May mà có người anh tôi mới quen trên tầu, mà trong thân mật tôi quen gọi anh là anh cả. Anh tìm cách xin thêm phần ăn và nước uống cho tôi. Lắm khi thấy tôi quá đói, anh còn nhường luôn phần ăn của anh cho tôi nữa. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn thấy thẹn thùng trong lòng. Bởi nhũng lần như vậy tôi chưa bao giờ biết từ chối. Tuổi tôi còn quá nhỏ, tôi chưa cảm nhận được cái hy sinh của người khác dành cho mình.
    Qua đi sóng gió bắt đầu cơn nắng cháy cả da. Mọi người chúng tôi được lên hết trên khoang để hưởng chút gió mát của biển. Tôi vẫn lân la theo bên cạnh anh. Anh thường đặt đầu tôi nằm trên đùi anh và kể chuyện của anh cho tôi nghe. Chuyện đời lính. Những lần đụng trận trên chiến trường. Những sự chia sẻ hy sinh của đồng đội. Tôi thấy mắt anh rực lửa và đanh lại. Rồi lần bỏ trận chiến chạy về phố thị Pleiku tìm người thân trong lửa đạn, vợ con anh đã thất lạc phương nào. Anh đã rong ruổi hàng bao năm để tìm tin tức nhưng vẫn hoài công. Nhìn gương mặt anh, nét chua xót ngậm ngùi trong tròng mắt cho tôi cảm nhận được cái đau đớn trong lòng anh. Cũng nhờ những câu chuyện ấy của anh đã đánh lừa ảo giác cho tôi vơi bớt cơn đói khát đang hành hạ.
    Ngày thứ mười trôi qua. Mọi người trên tầu gần như kiệt sức. Con tầu vẫn bồng bềnh trên nước chạy theo sức gió đẩy đưa. Chẳng còn biết số mạng mình đang đi về đâu. Chỉ còn chờ đội một may mắn nào đó xảy đến. Tôi thầm phục ý chí của anh cả. Anh vẫn tìm cách an ủi giúp đỡ mọi người. Rồi sang ngày thứ mười hai. Có vài người trên ghe đã kiệt sức không chịu đựng nổi đã bị chết. Cuối cùng một đời người không được trở về lòng đất mà phải đành gởi thây xuống biển cả.
    Bây giờ thì tôi đã thực sự kinh hoàng. Sự sợ hãi đã đi theo cả trong giấc ngủ. Tôi không ngớt mê sảng, cứ mơ thấy bố mẹ và các em tôi. Họ đang vẫy tay gọi tôi. Tôi lơ lửng bay theo mà chẳng thể nào bắt kịp. Anh cả vẫn bên cạnh tôi, mớm cho tôi từng thìa cháo, từng muổng nước.Tôi đã đến giai đoạn không còn cảm nhận sự đói khát nữa, mà chỉ còn mong cho sự chết đến sớm như là một giả thoát còn hơn cứ mãi như thế này.
    Chưa hết tai ương này lại đến tai ương khác. Nhưng có lẽ cái tai ương cuối cùng này đã kết thúc cái sự không may mắn của chúng tôi.
    ...Giữa lúc mọi người hoàn toàn tuyệt vọng thì có tiếng ghe máy tiến lại gần. Như được uống thuốc hồi sinh, mọi người cùng bật dậy. Kể cả tôi. Đến lúc đủ tỉnh táo để nhìn mọi vật chung quanh thì tôi đã suýt rú lên vì sợ hãi. Anh cả đã ôm choàng tôi lại và vỗ nhẹ vào vai trấn an tôi. Tôi nhìn thấy khoảng chừng năm tên cầm giáo mác, mã tấu đang đứng chung quanh trên tầu.
    Những khuôn mặt dữ dằn đến ghê sợ. Bọn chúng đang hò hét và ra dấu cho mọi người tháo nữ trang , tiền bạc giao nộp cho chúng. Chúng còn lục soát từng hang hốc, ngõ kẹt quanh tầu. Lúc này chẳng còn ai đủ sức lực để phản kháng. Cho đến khi chẳng còn tìm thấy được gì thêm chúng quan sát một lượt quanh tầu. Tầm nhìn của chúng chiếu vào hai cô gái chỉ hơn tôi độ mấy tuổi đang sợ hãi nép vào lòng mẹ. Chúng tiến đến và nâng mặt hai cô lên. Đầu tóc rũ rượi. Khuôn mặt còn đọng nét kinh hoàng. Nhìn hai cô gái đang sụp lạy như tế sao, chúng cười len ha hả.
    Cuối cùng chúng lôi hai cô gái đứng dậy như chuẩn bị đưa xuống tầu của chúng. Hai người mẹ sợ hãi nhưng vì tình thương con đã nhào tới ghì tay chúng. Có lẽ sợ mất thời gian, tên đứng cạnh tiện tay vung nhát mã tấu lên. Mọi người kinh hoàng đồng kêu rú lên. Nhát mã tấu ngọt xớt hớt một mảng trên đầu người đàn bà. Máu bắn lên có vòi. Người đàn bà chẳng kịp kêu lên một tiếng nào.
    Tôi run cầm cập trong vòng tay anh cả. Hình như tôi cảm thấy anh cùng độ rung như tôi. Tôi ngước nhìn anh. Khuôn mặt anh đanh lại và rực lửa. Tôi thấy lại lần thứ hai như lần anh kể chuyện lúc trạm trán trước quân thù. Nhưng lần này trước đám cướp biển, nhìn gương mặt anh như vậy tôi có linh không may lẫn khiếp sợ thực sự.
    Đúng như tôi dự đoán, khi nhìn người đàn bà giẫy giụa trước lúc xuôi tay, anh đẩy tôi ra khỏi lòng và bật dậy như chiếc lò xo. Anh lao đến bọn chúng và thuận tay giật được chiếc mã tấu trên tay đứa đứng gần nhất. Anh vung đao chém loạn xạ vào bọn chúng. Tôi cũng không tưởng tượng được đột nhiên anh lại khoẻ mạnh đến như vậy. Hai tên đứng bên cạnh anh không dự trù được trước phản ứng đột ngột của anh, lãnh trúng hai nhát vào đầu ngã nhào xuống biển. Ba tên còn lại buông tay hai cô gái và sửng sốt lùi lại thủ thế đứng nhìn anh.
    Lúc này anh cũng đã dừng tay lại và cắm thanh mã tấu xuống sàn tầu vịn tay thở dốc. Tôi biết rằng sức lực anh đã kiệt. Những ngày chịu đói khát trên biển đã bào mòn sức lực anh. Cái căm hận trước bạo lực chỉ là một chút kích thích ngắn hạn tăng sức mạnh cho anh trong những nhát dao đầu tiên mà anh đã trút hết trên hai tên cướp biển. Bây giờ súc lực anh đã tiêu tán hết.
    Có lẽ ba tên cướp biển đã nhìn thấy điều đó. Nhưng chúng cũng còn dè dặt và từ từ thủ thế tiến lại. Anh cũng run run rút thanh mã tấu lên cầm lại trên tay. Tên cướp đi đầu dừng lại một tích tắc rồi vung dao nhắm vào đầu anh chém tới. Anh ngã người ra sau né tránh. Vừa vặn lúc đó, có âm thanh của ghe máy nổ cách không xa lắm đang xé nước lao tới.
    Bọn cướp nhìn thấy và biết không còn đủ thời gian để trả đũa, nhưng trước khi nhảy lại xuống tầu bỏ chạy, chúng còn cố ném vụt những chiếc mã tấu vào người anh. Có một chiếc cắm phập vào nagy giữa ngực. Máu tuôn xối xả và anh đã ngã quị xuống sàn tầu.
    Chiếc tầu tuần dương của cảnh sát Thái Lan đã cứu chúng tôi nhưng không cứu sống được anh. Vết thương gần ngay giữa tim ra quá nhiều máu. Tôi nắm chặt tay anh và nhìn anh thoi thóp thở. Lần đầu tiên trong đời có lẽ đây là lần tôi biết cảm nhận cái đau đớn và biết khóc thật sự. Tôi muốn nói với anh thật nhiều điều những suy nghĩ của tôi dành cho anh. Nhưng tôi chỉ biết uất nghẹn. Anh đã tắt thở trước khi vào đến đất liền. Cái cuối cùng tôi còn được nhìn thấy ở anh là cái siết tay nhẹ và nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt anh trước khi nhắm mắt.
    Ngôi mộ anh được chôn trên đồi phía sau hàng rào của trại dành cho những người tị nạn. Ở nơi đây cũng có những ngôi mộ nằm san sát với nhau. Những xác người vượt biên trên biển trôi dạt vào đất liền.
    Tôi đã được nhận đi định cư ở Mỹ bởi tôi thuộc diện trẻ em dưới tuổi thành niên. Những ngày nằm đợi lên đường, nhớ anh tôi thường thích thơ thẩn ra thăm mộ. Tôi thích hái những hoa tím dại trên đồi đặt lên mộ anh như một ngậm ngùi, thương tưởng.
    Đã gần hai mươi năm qua. Tôi bây giờ đã thực sự trưởng thành. Chuyện vượt biển của ngày xưa chừng như nhạt nhòa. Duy chỉ còn hình ảnh của anh đọng mãi trong ký ức. Tôi có thể trả lời cho tôi được một điều đã ấp ủ mãi trong lòng. Cái giá của sự tự do mà mọi người phải đem sinh mạng mình thi gan cùng biển cả. Và với riêng cá nhân anh cả anh không nằm xuống trên chiến trường, nhưng anh đã trọn cái hy sinh đúng nghĩa cho đồng đội là những người vượt biển trên tàu, kể cả hai cô gái bé bỏng trước móng vuốt hung dữ của hải tặc.
    Tôi chỉ có mỗi một ân hận duy nhất là chưa được biết tên anh. Hình ảnh anh trong tôi là một anh hùng vô danh không tên tuổi. Cuối cùng tôi đã nghiệm ra ở anh một điều mà cho đền cuối đời chưa chắc tôi đã làm được:
    Đời sống thì ngắn ngủi. Duy những điều có ý nghĩa để lại cho đời mới thật sự bất tận. Phải vậy không anh?
    Nguyễn Thanh Hoài
    Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 15-04-2011, 03:03 AM.
    Similar Threads
  • #16

    Chuyện của một binh nhì VNCH từng giữ đảo Hoàng Sa

    QUẢNG NAM - Gặp ông trong một buổi chiều mùa Hè ở xã Bình Tú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, trong căn nhà cũ kỹ, mùi ẩm mốc và những tiếng dế ám gợi một thời xa xôi nào đó của chủ nhân, người đàn ông gần tuổi bát thập cùng những khoảnh khắc lúc nhớ, lúc quên đang đuổi nhau trên vầng trán đã ngả màu nắng úa…


    Ông là một cựu quân nhân VNCH, người lính Hoàng Sa, mang số 477, Tiểu Ðoàn 123, Tiểu Khu Quảng Nam.
    Câu chuyện của một đời người, của những tháng năm oanh liệt và tuổi già gian nan, cơ cực… Những tháng năm xa xưa như một lời ru an ủi thực tại.
    Tên ông là Nguyễn Ðức, năm nay 75 tuổi, có 5 người con gái, 5 người con rể và một người vợ cùng tuổi với ông. Một cuộc sống trầm trầm, chậm chậm cùng những bữa cơm đạm bạc, sáng sáng vác cuốc ra đồng, chiều chiều hun khói… nhớ chiến chinh!
    Nói nghe cứ như thơ nhưng đó là sự thật, một sự thật đôi khi có chút phũ phàng và đau đớn ở một người đàn ông và một người đàn bà đã bước sang bên kia con dốc cuộc đời nhưng lại vất vả quanh năm suốt tháng làm lụng kiếm cơm, thậm chí giúp đỡ cho con gái, con rể vì họ cũng khó khăn, gian nan chẳng kém gì ông.
    Thời chinh chiến…
    Sau vài cốc trà, vài chung rượu, câu chuyện giữa chủ nhà và khách giảm dần khoảng cách, ông Ðức trở nên nói cười sinh động, không còn ngần ngại như ban đầu.
    Ông kể: “Ðó là năm 1974, Tháng Giêng, tôi nhớ chính xác là vậy. Nhưng cũng là Tháng Chạp của năm Kỷ Sửu, năm đó tôi sinh đứa con gái thứ ba. Gia đình tôi nghĩ rằng tôi đã mất tích, nhưng không phải thế, tôi được chuyển sang Trung Quốc, ăn Tết ở đó hai ngày và chuyển thẳng sang Hồng Kông, ở đó, quả thật là quá giàu, mình không ngờ…”
    Nhấp một ngụm rượu, nheo mắt trầm ngâm, ông kể tiếp câu chuyện đời lính đảo của mình.
    “Năm đó, tụi Trung Quốc nó đánh chiến thuật ‘biển người,’ kinh thật, đúng là những con người dã man, chỉ có quân dã man mới đem nướng binh sĩ theo chiến thuật này, cứ hết lớp này đến lớp khác xông lên đảo theo một đường thẳng, lúc đó chúng tôi ở trên đồi, ngồi trong lô cốt, cơ số đạn chúng tôi có thể nướng số lượng quân gấp mười lần tụi Trung Quốc đang tiến lên… Nhưng rồi!”
    Ông lắc đầu, thở dài,
    “Mọi chuyện chỉ là bàn cờ thôi, lúc đó chúng tôi được nghe rõ mồn một lời của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, bởi bên quân đội kết hợp với đài khí tượng, dùng sóng radio liên lạc với Tổng Thống Thiệu. Khi chỉ huy là sư đoàn trưởng báo cáo tình hình tụi lính Trung Quốc đang tiến lên đảo, tôi nghe đúng hai chữ của tổng thống là ‘chơi tới!’, vậy là chúng tôi nổ súng, tụi nó rụng như sung, đạn chúng tôi còn rất nhiều. Nhưng rồi ông cố vấn, ông này…”
    “Ông cố vấn người Mỹ nói sao đó với chỉ huy trưởng, sau đó có lệnh đầu hàng, chúng tôi buộc phải cởi áo trắng cắm làm cờ và chạy lên phía rừng, thả súng chờ họ tới bắt. Cuối cùng bị bắt sang Trung Quốc, chuyện là vậy, ông cố vấn Mỹ khi sang Trung Quốc thì không thấy đâu nữa, chỉ có chúng tôi gồm 43 người, kể cả chỉ huy.”
    “Họ cho chúng tôi ăn Tết bằng đậu phộng rang và kẹo bánh… Nói chung là cho đến bây giờ tôi cũng không hiểu vì sao lại có chuyện tự dưng đang thắng lại chuyển sang bại… Ðang đánh lại đầu hàng và vì sao chúng tôi được đối xử không tệ trong nhà tù?!”
    “Sau thời gian ở Hồng Kông, máy bay đưa chúng tôi về Sài Gòn, lúc này thì đảo Hoàng Sa đã hoàn toàn rơi vào tay Trung Quốc. Tự dưng nghĩ đến những đêm đi câu cá nhám, đi tìm trứng nhiếp (rùa biển), nhớ đến vẻ lãng mạn như thơ của Hoàng Sa, tôi thấy buồn! Thế rồi năm 1975…!”
    Một cuộc đời khác, khắc nghiệt và đen đủi…
    Ông Ðức không nằm ở hàng ngũ sĩ quan, thời VNCH, ông ba lần thay đổi binh chủng, cuối cùng, làm lính đảo với cấp bậc Binh nhì, sau đó bị bắt sang Trung Quốc, đưa sang Hồng Kông rồi trở về Sài Gòn, được tiếp đón như một quân nhân thắng trận, sau đó thời cuộc thay đổi, miền Nam rơi vào tay Bắc Việt…
    Ông về làm ruộng, tránh được cái nạn đi trại cải tạo. Nhưng với ai thì trại cải tạo là nơi cận kề cái chết, khắc nghiệt, man rợ… Với ông, ông lại thèm, lại tiếc nuối… giá như mình được đi cải tạo thì hay hơn, vì ít ra sau ba bốn năm đi cải tạo, còn có cơ hội sang sống ở một nước dân chủ như Mỹ, được tự do, không kéo dài sự đau khổ như ông.

    Ông Nguyễn Ðức và vợ tại nhà riêng ở Bình Tú, Thăng Bình, Quảng Nam. Ông nói: “Không có gì đau khổ hơn cảnh con mình học giỏi mà không được thi vào đại học vì cha của nó bị xếp vào dạng ‘lính ngụy’, ‘quân bán nước’, rồi cái thời mình đi vỡ hoang, ui cha, không có thời nào mà cận kề cái chết hơn những năm nhà nước đưa mình đi khai hoang, vỡ đất như những năm 1980 thế kỷ trước! Cứ thỉnh thoảng nghe ầm, bạn mình nằm phơi ruột! Cực và đau khổ không gì kể xiết!”
    “Ðó là chưa nói đến cho đến bây giờ, mình vẫn còn mang mặc cảm kẻ bại trận, mình chẳng biết chơi với ai cả, con mình thì học hành không tới đâu, đứa đầu tới lớp 12 không được thi vào đại học, mấy đứa sau thấy khổ quá, bảo rằng ‘học cho lắm cũng mắm với dưa, học vừa vừa cũng dưa với mắm’, tụi nó rủ nhau đi làm thuê, bây giờ đứa nào may mắn thì làm công nhân, lương tháng cao nhất cũng chừng ba triệu đồng, sống sao cho được một khi còn nuôi con, tiết kiệm phòng đau ốm, phải trái với xóm làng và những thứ khác…” Câu chuyện của ông cứ kéo dài cho đến tận đêm khuya. Chẳng biết nên kết thúc như thế nào.
    Chút ‘lửa’ còn sót lại
    Tuy phải mang căn bệnh hở van tim vì từng lao động quá nặng nhọc, suy kiệt và nghèo khổ bởi không có thu nhập nào khác ngoài đôi bàn tay còn làm thì còn ăn, hết làm nổi thì chỉ còn bám víu vào cuộc sống nghèo khổ của các con mình… Nhưng ông Ðức vẫn có một cái nhìn khá tĩnh tại và can trường trước đời sống, ung dung, tự tại vượt qua bệnh tật và khốn khó với hy vọng đời ông, đời cha thất bại thì đời con cháu sẽ làm lại từ đầu, bằng mọi giá các cháu của ông phải học hành đến nơi đến chốn.
    Ở độ tuổi gần 80, mỗi sáng lại vác cuốc ra đồng làm thuê kiếm tiền (ruộng của ông đã bị tịch thu, sung vào đất công ở những năm 1980, gia đình ông còn vỏn vẹn 420 mét vuông, chỉ đủ để có lúa cho hai vợ chồng già ăn mỗi ngày 2 bữa), nghe con cháu khó khăn thì mang tiền san sẻ học phí…
    Lưng mỗi ngày một còng thêm, vẫn cứ làm, cứ vui cười và hy vọng… Nghe hơi hiếm, nhưng đó là chuyện có thật của một người lính già!
    Trời đã khuya, lúc chia tay, ông Ðức bùi ngùi đứng lên tạm biệt chúng tôi, và bỗng dưng nổi hứng, hát một bài thật hùng tráng.
    Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 12-08-2011, 07:27 PM.

    Comment

    • #17

      Nhớ ơi là nhớ "Mây hoài phương"

      Nhớ ơi là nhớ!
      Đêm lắng xuống chìm vào lòng đất lạnh
      Nỗi nhớ nào làm vang vọng trong tim
      Năm canh dài, đêm trăn trở dài thêm
      Như vô tận… trăng mềm soi bóng ngã
      Sáng rất lạnh, lá thu rơi lả tả
      Anh nhớ em, anh nhớ quá em ơi
      Hồn thẫn thờ theo từng chiếc lá rơi
      Nhớ tiếng nói, nhớ giọng cười, ánh mắt
      Ôi nỗi nhớ làm gan bào, ruột thắt
      Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!
      Yên Sơn

      Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 22-08-2011, 05:53 PM.

      Comment

      • #18

        Người Mang Tên Cô Đơn


        Người Mang Tên Cô Đơn
        (tiếng vọng) Cô đơn... cô đơn
        Thôi đừng gọi tên tôi
        Ðể tôi đi cho đẹp lòng người
        (tiếng vọng) Cô đơn... cô đơn
        Thôi đừng gọi tên tôi
        Thiết tha chi nữa mà chào mời
        Còn được gì ngoài bạn bè giờ quá xa xôi
        Ðứa đầu ghềnh đứa cuối chân trời
        Về rồi đi như sương như khói
        Còn được gì ngoài cuộc tình vừa dứt đêm qua
        Sau vài lời chia tay nhạt nhòa
        Đưa một người về cõi xót xa
        Ðã bảo đừng trở lại
        Tình chẳng thành
        Ðừng đánh mất tương lai nhau
        Nói mãi đã nghe chưa!
        Ðược rồi để tôi đi
        Như định mệnh từng cuốn xô theo chân người
        Ðầy mang kiếp cô đơn
        Một lần về từ lệ hồng đẫm ướt cơn mê
        Thương tình người dáng dấp não nề
        Chuyện nghìn đêm trăng sao băng vỡ
        Một lần về từ cuộc tình vừa mới thăng hoa
        Ta còn gì sau đêm ngọc ngà
        Ðể đền bù từ mai xót xa...

        Comment

        • #19

          Cao Xuân Huy – Người ở lại Thuận An

          Cao Xuân Huy – Người ở lại Thuận An
          * Trân trọng giới thiệu cây bút Đỗ Xuân Tê và bài viết – có lẽ cuối cùng – về nhà văn người lính Cao Xuân Huy, sau khi thân xác bọt bèo của nhà văn đã tan trong biển lửa, chỉ còn lại chút tro tàn nằm ở một nơi bình yên nhất , dù rằng hương hồn ông vẫn mãi mãi ở lại Thuận An, cùng với những đồng đội quả cảm năm nào. T.Vấn
          Hồi kèn truy điệu cho Người ở lại Thuận An
          Cao xuân Huy đã trở về cát bụi. Thân xác ông đã được hỏa thiêu sau một tang lễ vừa trang nghiêm theo nghi lễ quân cách vừa thân mật đơn giản như một cuộc chia tay trong đó có đông đủ thân nhân, đồng đội, bạn bè, bạn văn, bạn làm báo và độc giả của ông.
          Hiếm thấy một người vướng vào nghiệp văn bút, báo bổ tại một vùng đất vốn được đồng hương gọi đùa là ‘gió tanh mưa máu’, nhưng lại được quí mến gần gũi tâm đắc, rồi đến lúc đau yếu nhắm mắt xuôi tay lại được nhiều người nhiều giới chia buồn phúng điếu đưa tiễn bằng lời nói bằng bài viết trên các phương tiện truyền thông hải ngoại tựu chung tỏ lòng thương tiếc sâu sắc một con người mà hồi sinh thời rất can trường trong chiến đấu, nghiêm túc trong công việc nhưng lại ‘hết mình’ trong cuộc chơi với những người vốn biết và giao lưu với ông.
          Cuộc đời Cao xuân Huy mà người ta quen gọi là ‘ông Gẫy Súng’ cũng khá lạ kỳ. Nhờ vào lính mà sau này mới trở thành nhà văn, rồi từ tác phẩm đầu tay Tháng Ba Gẫy Súng người ta mới biết ông qua danh xưng ‘nhà văn’ hơn là …’nhà binh’. Với ai khác được gọi là nhà văn chắc phải hãnh diện về thiên chức của nó, nhưng oái oăm thay ông vẫn không chịu nhận mình là nhà văn và cứ xin coi ông là ‘người lính’, môt người lính quay sang cầm bút sau khi gẫy súng để tường thuật những sự việc do chính ông trải nghiệm, đặc biệt ở thời điểm cuối cùng của cuộc chiến. Bằng ngòi bút ông viết lại một cách trung thực như những gì nó đã xảy ra, không hư cấu không vẽ vời không tô hồng không đánh bóng. Khi một người lính nói sự thật theo bản chất ‘nói thẳng như lính’ thậm chí kèm theo cả ngôn ngữ chửi thề, thì những điều ông kể ra cùng với tài viết văn tiềm ẩn tự phát chẳng ai dạy nhưng trời cho đã được người ta nhanh chóng tin ông và chấp nhận ông để từ đây giới văn bút coi ông là nhà văn, độc giả gọi ông là nhà văn, dù sau này có nghiêng về làm báo và hai mươi lăm năm sau mới ra một đầu sách mới, nhưng chỉ một Tháng Ba Gẫy Súng tên tuổi ông đã thành danh và ‘lừng lững’ đi vào dòng văn học sử hải ngoại như một bạn văn ca ngợi mới đây.
          Những gì về sự nghiệp văn bút và chủ biên văn học của Cao xuân Huy đã và sẽ còn được nhiều người viết và nhắc nhớ. Tháng Ba Gẫy Súng sẽ được đánh giá như một tập hồi ký sử thi chứng nhân cho ngày tàn của cuộc chiến, nó sẽ được độc giả trân trọng như Mùa Hè Đỏ Lửa của Phan Nhật Nam và một số bút ký chiến tranh nổi bật của số ít tác giả miền Nam, thậm chí kể cả Nỗi Buồn Chiến tranh của Bảo Ninh nếu không ngại phân biệt về mặt quan điểm.
          Ở đây người viết chỉ để ý một khía cạnh là không hiểu vì sao mà Cao xuân Huy cứ trăn trở chuyện xin coi ông là người lính thay vì nhà văn. Tất nhiên có những nguyên ủy của nó, mà dễ hiểu nhất thì vẫn tại vì bản thân ông…là lính! Hãy nghe ông tự sự từ đáy lòng mình về tình yêu của ông với đời quân ngũ,
          tôi yêu đơn vị tôi, tôi yêu màu mũ, màu áo tôi, tôi yêu thuộc cấp tôi và tôi kính trọng thượng cấp tôi. Tôi bình thản chấp nhận mọi thói hư tật xấu của thượng cấp và thuộc cấp, và chính tôi cũng có quá nhiều thói hư tật xấu.”
          Đơn vị ông là Tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, màu mũ là màu xanh của binh chủng, màu áo là màu rằn ri tựa như dấu in cọp biển, thuộc cấp là lính thuộc đại đội ông khoảng trên dưới một trăm, thượng cấp thì quá nhiều vì cấp bậc của ông chỉ là trung úy đại đội phó. Dù thượng cấp hay thuộc cấp ông vẫn yêu họ như chính mình, dù ai xấu ai tốt thì ông cũng chẳng hơn ai và chẳng dám đoán xét ai. Vào lính ở tuổi hai mươi trong một đợt tuyển quân cao điểm hồi Mậu Thân 68, trải qua các chiến trường từ Cà mâu đến miền giới tuyến, cuối cùng trụ lại làm anh lính gác giặc theo tuyến phòng thủ bảo vệ cố đô sau Hiệp định Paris trải dài từ sông Thạch Hãn qua Phá Tam giang xuống tận Thuận an và gẫy súng tại đây sau một cuộc rút quân hỗn lọan.
          Trở lại chuyện của ông quả ít ai có tâm hồn luôn thiết tha với màu cờ sắc áo, sau khi gẫy súng bị bắt làm tù binh ông vẫn mặc đồ trận, người ta cũng chẳng cấp bộ đồ tù chỉ yêu cầu cởi bỏ lon lá, sau này ra hải ngoại có dịp ông vẫn mặc quân phục, vẫn đeo huy hiệu của binh chủng mình, nhưng chỉ mang bảng tên trên ngực ghi HUY 4, có nghĩa là tên & đơn vị của ông, đến khi vào quan tài thì cũng được liệm nguyên bộ đồ này. Con số 4 luôn theo chân ông, ông sống chết với nó suốt bảy năm quân ngũ, một đơn vị tác chiến cấp tiểu đoàn nhưng đã lừng danh bốn vùng chiến thuật, chính đơn vị này là đơn vị đầu tiên đã chạm trán quân chính qui Bắc Việt tại chiến trường Bình Giả miền Đông năm 1964, mở đầu cho cuộc thư hùng của những trận đánh lớn sau này. Cũng đơn vị ông trở thành mũi nhọn trong trận tái chiếm Cổ thành mùa hè 72 khiến đội quân đối nghịch khi rút về bên kia sông Thạch Hãn lúc đi đủ chục lúc về còn ba. Nói vậy chứ tổn thất trả giá cho những lần quyết tử cũng là những con số chóng mặt, chính tôi đã mục kích khăn sô trắng đầu các cô nhi quả phụ trong trại gia binh cạnh hậu cứ tiểu đoàn của ông tại Vũng Tàu để thấy cái khắc nghiệt của chiến tranh và sự hy sinh cao độ của các đồng đội của ông suốt chiều dài cuộc chiến. Tôi thiết nghĩ chính vì cứ trăn trở bởi những hình ảnh này mà Trung úy Huy người may mắn sống sót sau những trận để đời đã không ngoảnh mặt quên đi quá trình chiến đấu để nhận những phong vị khác xem ra cao trọng hơn cho tên tuổi của mình.
          Dù gẫy súng ông vẫn chết với tư cách một người lính, xứng đáng được đồng đội phủ cờ hôm tang lễ vừa qua vì thực chất ông không thuộc diện đầu hàng buông súng. Ông bị gẫy súng trong tư thế đang chiến đấu và chịu làm tù binh khi các cấp chỉ huy của ông không thể xoay chuyển được chiến trường. Ông trở thành một trong những ‘người ở lại Thuận An’ và trở thành chứng nhân cho bi kịch thời đại của một cuộc rút quân Waterloo thu nhỏ tại cửa biển oan nghiệt này vào một ngày tháng ba, ‘tháng ba gẫy súng’, dự báo cho một ‘tháng tư tan hàng’, xóa sổ tức tưởi một đạo quân được coi là chiến đấu rất can trường trong quân sử Việt.

          Cửa biển Thuận an, một địa danh không xa lạ gì với người dân xứ Huế,và anh em chúng tôi khi được lệnh tăng phái từ Phủ đầu Rồng để bảo vệ cố đô, nhưng không ngờ vào thời điểm sắp tàn cuộc chiến thì Thuận an trở thành chứng tích của những cái chết vô nghĩa trong thảm cảnh gẫy súng nửa đường. Biển Thuận an trăng sáng thuở nào vẫn mang vị mặn nhưng không phải của muối, biển mặn vì máu. Máu của những người lính trẻ đã chết oan vì các tư lệnh của họ đã bỏ cuộc, đã bỏ chạy trước khiến họ phải chân đất chạy ra cửa Thuận an, con đường độc đạo ra biển để chờ tàu xuôi Nam, trốn chạy những người anh em cùng màu da nhưng khác máu từ phương Bắc đang rượt đuổi theo họ. Nhiều kiểu chết nhiều cách chết, vừa tự xử bằng lưỡi lê, lựu đạn, vừa trúng thương bằng tăng bằng súng của đối phương, vừa bỏ thây vì sóng cao biển rộng nhưng phải đọc tác phẩm của Cao xuân Huy mới cảm nhận sâu sắc tấn bi kịch ‘mang con bỏ chợ’ của những lãnh đạo miền Nam và nét hào hùng của những người lính quyết tử theo màu cờ sắc áo.
          Khốn khổ thay cho những người lính về từ địa ngục sau khi kẹt lại Thuận an lại bị dồn vào các trại tù cải tạo chờ đợi biến cố họ không mong vào cuối tháng tư rồi sống tiếp trong cảnh ‘đáy địa ngục’ sau 75, trong đó có người lính Cao xuân Huy.
          Cao xuân Huy, người ở lại Thuận an. Nhờ ‘Ông Gẫy Súng’ mà người ta mới thấy hết nét bi thương của những ngày tháng Ba, nhờ ông mà những đồng đội nằm lại vĩnh viễn trên cửa Thuận an mới có cơ hội ‘lên tiếng’. Chúng tôi trân trọng ông về điều này và xin vinh danh ông với tư cách nhà văn song hành với danh xưng người lính. Xin ông cứ nhận ông là nhà văn vì chính ông là một nhà văn đích thực, một nhân chứng chỉ biết nói sự thật, và sự thật thì sống mãi ngàn thu.
          Đỗ xuân Tê
          Ai dành đâu mà ông lấn trước
          Cuối đường thì cũng gặp nhau thôi
          Nơi đó, khà khà, khoan quá chén,
          Chờ ta cạn với, Tháng Ba đời.
          Xuống dưới gặp chưa, thời trận mạc,
          Anh em đỏ lại máu sa trường?
          Nâng giùm cốc Kon Tum, Quảng Trị
          Nhớ gì nơi bỏ lại máu xương?
          Thế nhé, nghỉ đi thằng ông nội,
          Chuyện người để lại kiếp người lo.
          Vũ khí trong lòng nay đã đủ,
          Thôi, cần chi súng tháng ba xưa.
          Ông ác! để lại đời nước mắt
          Mà cứ tô hô ngoác miệng cười
          Súng Gãy đã thành pho tượng cổ
          Đầm đìa giấy mực ngược dòng trôi.
          11/2010
          Ông đã sống như một CON NGƯỜI , nên khi ông ra đi, mọi người đã tiễn ông như tiễn một CON NGƯỜI
          Cao Xuân Huy- Sống như một con người, chết như một con người

          Comment

          • #20

            Chuyện Chưa Ai Biết

            Chuyện Chưa Ai Biết


            " Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngũ,
            Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào"!

            Kẻ tha hương không đủ thì giờ và tâm trí trong ngày trở về để đi hết chiều dài đất nước như ước vọng cuối đời: tìm về nơi chôn nhau cắt rún, nhìn lại ngôi trường xưa với những giấc mộng vàng thời niên thiếu , ghé thăm núi Ngự quấn khăn tang hay nhìn dòng Hương giang khóc sướt mướt của những ngày chiến chinh máu lửa. Nổi tự tình về quê hương đành nén lại trong lòng, bởi ngổn ngang bao điều thúc bách. Ô hay , đau thương từ quá khứ như còn đâu đây , thoảng trên con hẽm về khuya khua đôi nạn gỗ hay bên túp lều không đủ che nắng trú mưa. Và hơn hết mọi nẻo đường đất nước, một mảnh đất không xa phố thị bao nhiêu, nhưng xa hẳn thế giới đua chen, cần những bước chân ghé thăm và những nén hương lòng thắp lên...
            Trước đây mỗi lần đi qua khu vực này, tôi thường lái xe chậm lại để dán mắt vào kiến trúc qui mô và nghệ thuật của nghĩa trang, và khi nhìn tác phẩm THƯƠNG TIẾC, lúc nào tôi cũng thấy bức tượng Người Lính sống động. Người LÍNH ngồi lặng lẽ bên đường như một nhân chứng âm thầm của cuộc chiến. Trong tư thế nuối tiếc Đồng Đội, anh như còn nhắc nhở khách đi đường về một thế giới thầm lặng khuất sau ngọn đồi. Nhưng nay tác phẩm đầy huyền thoại đã biến mất không một đấu tích để lại. Tôi nghe nói, người công sản đã đổ hận thù lên cả NGƯỜI LÍNH bằng đồng, một tác phẩm điêu khắc hiếm có , bằng cách đập phá bệ tượng, giật sập và kéo lê bức tượng qua nhiều nơi.
            Toàn cảnh đã đổi thay. Con đường dẫn vào nghĩa trang bị che khuất bởi hai dãy nhà mới cất, chỉ còn vài cây bạch đàn không biết sống sót từ ngày cũ hay ai đã trồng lên sau này. Khi chiếc xe chầm chậm đi vào con đường nhựa và bắt đầu lên dốc thì khung cảnh quen thuộc bất ngờ hiện ra trước mắt tôi : Cổng TAM QUAN và đền TỬ SĨ.
            Từ cổng Tam Quan, hai con đường hai bên ôm lấy ngọn đồi theo mô hình con ONG mà ngày xưa nhà thiết kế đã chọn lựa .

            CON ONG KHÔNG THỜ HAI CHÚA,
            NGƯỜI LÍNH CHỈ CHẾT CHO MỘT NGỌN CỜ .

            Hai hàng chữ hai bên cổng đã tróc sơn , nhìn thật rõ mới đọc được:

            VÌ NƯỚC HY SINH - VÌ DÂN CHIẾN ĐẤU.

            Tôi bước lên từng bậc thang phủ đầy rêu phong mà tưởng như đi giữa những cặp mắt thật xa xưa mà rất gần gũi ở quanh đây đang nhìn tôi. Tôi đang gặp lại những đồng đội của mình. NGHĨA TRANG QUÂN ĐỘI BIÊN HOÀ : Nghĩa trang của những NGƯỜI LÍNH đã chết cho Quê Hương Việt Nam.Tôi sắp bước lên những bậc thang cuối cùng để đặt chân vào Đền TỬ SĨ, ngự trên đỉnh đồi, ngày nào là nơi tôn nghiêm Vị Nguyên Thủ Quốc Gia thường đến hành lễ trong các dịp lễ Chiến Sĩ Trận Vong, ngày Quân Lực , ngày QUỐC KHÁNH.

            Nghĩa trang Quân Đội Biên Hoà , sẽ trở thành Nghĩa Trang Quốc Gia như kế hoạch của Chính Phủ trước đây, vẫn còn đó nhưng khắp nơi đều một cảnh làm se thắt lòng người viễn xứ. Rừng bia mộ mênh mong nằm xen lẫn với cỏ cây u tùm, phân chia từng lô bởi những con đường đất. Rải rác đó đây là những ụ đất, những hố sâu, những cây cau su mới trồng lẫn trong những đám cỏ đuôi chồn mọc cao. Một số ngôi mộ đã được dọn sạch sẽ, còn lại là những ngôi mộ hoang ngập trong cỏ dại không nhang không khói, có lẽ ba mươi năm nay , chưa một ai đến viếng. Đã có những con người từ tâm đến đây sửa sang, nhưng vẫn chưa làm nghĩa trang bớt hoang phế. Có vẻ như người ta sắp làm một cái gì đó trên mảnh đất này. Hầu hết những ống cống trên đường bị lấy đi không được lấp đất lại, tựa như dấu đùn của thú rừng ăn đêm. Nhiều tấm bia bị đập bể, có những phần mộ bị dời vị trí. Một sự phá hoại qui mô đầy tính thù hận. Đột nhiên mắt tôi rưng rưng niềm phẩn uất.

            Người cộng sản đang chiêu dụ người Việt Hải ngoại về xây dựng đất nước, mời mọc đầu tư, cổ xuý hoà giải, vậy mà họ đang tiếp tục gieo rắc hận thù trên cả của những người đã nằm xuống. Người chết đã không được yên ổn dưới lòng đất. Nghĩa tử là nghĩa tận. Mồ mã các chiến binh cộng sản khắp nơi được sơn phết cẩn thận, mồ mã nơi đây bị dày xéo thật tàn nhẩn. Người cán binh cộng sản, người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà , họ là ai ?Tất thảy là những người con dân Việt bất hạnh, là nạn nhân của một chủ thuyết điên cuồng, phải được chia sẽ từng mảnh đất chôn cất, chia sẽ từng nén nhang và cả lời nguyện cầu được bình an dưới lòng đất hay thanh thản nơi một thế giới nào đó không binh đao và oán thù...

            Chiều xuống nghĩa trang không một bóng người, chỉ nghe tiếng chim kêu áo não trên một cành cây gần đó và tiếng đa đa khàn khàn từ những lùm cây trên sườn đồi khiến cảnh chiều thêm quạnh hiu. Xa xa một làn khói xám xịt lên cao từ một lò gạch, uốn éo theo chiều gió, ngập ngừng không biết tan về đâu. Những ngôi mộ như hớn hở đi vào ống kính ,cả cỏ dại cũng lắc lư nhảy múa hưởng ứng công việc của tôi. Tôi cẩn thận thu cận ảnh vài tấm bia . Khi quay ống kính về phía ngôi tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI sừng sững trước mặt, tôi thật sự xúc động, cảm thấy mọi thứ trong nghĩa trang đều sống động như đang đồng cảm với tôi về cuộc viếng thăm bất ngờ này. Nhìn rõ những hình ảnh trên Màn hình, tôi bỗng rùng mình. Nghĩa trang đang thở từ lòng đất. Từng tấm bia lướt qua trong máy đang gởi lời chào thân ái. Tôi tin những cặp mắt vô hình đang đồng loạt nhìn tôi. Phải chăng đây là khoảnh khắc giao cảm hiếm có với những NGƯỜI LÍNH VÔ DANH ngày xưa đã hy sinh mạng sống của mình , ngày nay họ trở thành những vị anh hùng trong lòng Dân Tộc.

            Đâu đây như có tiếng chân đều nhịp của tháng ngày thao trường đổ mỒ hôi để chiến trường bớt đổ máu. Chúng ta đang sống lại trong hàng ngũ ? Những ngày xưa thân ái anh gửi lại nơi đây. Anh về qua xóm nhỏ, tình quê hương đậm đà. Anh về Thủ đô, lòng em rộn rã. Những địa danh bỗng hiện ra, những trân đánh như còn sôi động đâu đây. Máu ai nhuộm thắm ngọn đồi chiến lược ? Bàn tay nào giương cao lá cờ tung bay trên cổ thành ?Anh đã hiến trọn tuổi thanh xuân của mình để bảo vệ mãnh đất Miền Nam. Thế rồi Anh ngã xuống, thế rồi tôi buông súng. Anh cô đơn nơi hoang địa, tôi lầm lũi cảnh tha hương.

            Bao nhiêu năm chiến tranh chỉ có một ngày đáng nhớ. Chỉ có một ngày đáng nhớ nhưng không thể viết thành lời. Không thể viết thành lời, bởi vì thảm kịch phân ly đã vượt khỏi biển khơi. Người mằn đó không buồn lên tiếng. Những kẻ bạc mệnh đã hiến cho lịch sử những giọt máu đào quí giá . Một thế giới câm lặng nhưng lại cho ta biết bao điều suy nghĩ về sinh ký tử qui của con người, về tình tự Dân tộc muôn thuở của Quê hương. Thế mà con người lại điên cuồng sáng chế ra những chủ thuyết để sát hại ngay chính đồng bào mình. Thế giới vô sản lại hô hào đoàn kết lại để chết cho một thiểu số người . Sự dối trá và tàn ác được vinh danh như một tiêu chuẩn của đạo đức.

            Ôi quê hương ta không dám hồi tưởng lại quá khứ, e không còn nước mắt để khóc cho những đau thương của Dân tộc . Ta không dám mơ ước một ngày mai rạng rỡ, khi vẫn còn những ngày hôm nay đen tối. Kẻ nơi cỏi âm, người còn dương thế, không còn khoác chiến y, nhưng nổi lòng về đất nước vẫn còn trong mạch sống. Mạch sống vẫn còn tuôn chảy, dù những năm tháng cuối đời có thể đếm được rồi, bởi mạch sống vẫn còn trung thành với quá khứ, phải lan rộng ra như một dòng nước thuỷ chung cho thế hệ ngày mai. Lịch sử đang phơi bày trước mắt, không cầu kỳ hay bóp méo, như dấu tích đập phá trên bia mộ cùng khắp nghĩa trang, như ngôi tháp Nghĩa Dũng Đài hùng vĩ đứng giữa trời kia, như ngôi đền Tử Sĩ chứng nhân trên đồi cao, như bầu trời lồng lộng, như cỏ cây đang lây động theo nhịp thở của Anh từ lòng đất
            Anh nằm đó, nghìn thu giấc ngú
            Nhưng sao trong gió ta nghe có tiếng thì thào.
            Ngôi Đền TỬ SĨ, ngọn tháp NGHĨA DŨNG ĐÀI, Vành khăn tang, rừng mộ bia, những con đường đất đỏ còn đó. Nghĩa trang vẫn còn đó, dù trong hoang tàn. Những NGƯỜI LÍNH VIỆT NAM CỘNG HOÀ đã nằm xuống, nhưng mãi mãi vẫn sống trong tim những người VIỆT NAM hằng yêu thương Đất Nước và Giống Nòi.
            Cho dẫu hôm nay hay mai sau thân xác người lính VNCH đã chôn vùi vĩnh viễn theo lòng đất Mẹ ..Nhưng mãi mãi hình bóng những người lính VNCH và chiến tích oai hùng lừng lẫy một thời để báo vệ miền nam VN "lưu danh thiên cổ"
            Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 09-12-2011, 02:54 AM.

            Comment

            • #21

              video clip hay qua , thương quá , buồn quá , đau lòng quá...những người lính trẽ mãi không già....
              <Nếu con luôn để cả thế giới đánh giá mình, con sẽ luôn thất vọng>

              Comment

              Working...
              X
              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom