• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Có một thời để nhớ

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Có một thời để nhớ

    Cái Chết Của Người Lính
    Nếu phân loại theo giới tính của nhóm người trên chiếc ghe này, có thể nói tôi là một người đàn ông trẻ nhất trong nhóm, mặc dù lúc vượt biên tôi chi tròn trèm mười bốn tuổi. Hay nói cho đúng hơn nữa, có thể gọi tôi là một thằng con nít chưa hiểu sự đời. Thật sự mà nói, tôi chẳng hiểu sự đổi thay của chế độ như thế nào mà rất nhiều người bỏ nước ra đi. Với cá nhân tôi, tôi chỉ biết là tôi rất buồn khi bố mẹ gởi gắm tôi cho một người quen làm chuyến phiêu lưu này. Tôi phải bỏ quên tuổi thơ của tôi, những chiều đá banh, tắm sông, nghịch ngợm chọc phá và hái trộm xoài nhà ông Cả Đậu làng bên. Tôi chỉ có một cảm giác thích thú duy nhất là khi xuống tầu, tàu lướt sóng nhịp nhàng khi lên khi xuống mà tôi gọi là cưỡi ngựa trên biển.
    Nhưng cái cảm giác thích thú này chẳng duy trì trong tôi lâu được. Hơn cả tuần vật lộn với sóng biển, giữa phong ba bão táp, ói tới mật xanh, cái sống và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc, tôi đã nghĩ là bố mẹ tôi đem sinh mạng tôi đùa giỡn với tử thần.
    Chỉ mới ngày thứ hai trên biển, chú thím Bảy - người mà bố mẹ tôi gửi gấm tôi - đã nằm la liệt trên tàu. Chẳng ai còn ngó ngàng chăm sóc đến tôi. Tôi có cảm giác lạc lõng giữa một nhóm người xa lạ. Chiếc tầu thì quá chật. Tôi lâu nay đã quen chạy nhảy, nghịch ngợm, giờ bó gối trên chiếc tầu con chật hẹp tưởng chừng như con chim bị nhốt trong lồng. Tôi chỉ có một may mắn duy nhất là tiêu chuẩn thực phẩm phân phát cho tôi đầy đủ hơn mọi người khác bởi tôi còn quá nhỏ so với những người trên tầu.
    Ngày đầu tiên trên biển, cái thích thú cỡi tầu trên sông nước đã đè ép cái mệt nhọc, phiền muộn của tôi. Tôi reo mừng nhảy cỡn lên theo cái nhịp nhàng lướt sóng lên xuống của con tầu. Tôi đã tạm quên đám bạn bè cùng trang lứa, những ngày thả diều, đá bóng, bắt dế...ở quê nhà. Cứ nghĩ như một cuộc du ngoạn xa. Tôi vẫn chưa ý thức được rằng sự ra đi này như đi tìm sự sống trong cái chết. Và cái lạ lẫm thú vị trong tôi đã dần mất hẳn trong hành trình của những ngày cuối cùng.
    Tôi bắt đầu thấm nỗi cô đơn và sự nhớ nhung giữa gia đình. Tựa như con chim non vừa rời xa tổ ấm. Những đứa em của tôi, cu Vũ, bé Tý giờ này chắc đã ngủ yên bên mẹ. Tôi đã cảm thấy mệt mỏi và mất đi vẻ linh hoạt vỗn sẵn trong tôi. Tôi chẳng còn thấy thiết tha hay thú vị trong hành trình bắt buộc này khi cơn bão ập xuống trong ngày thứ ba trên biển. Mưa tầm tã như trút nước, sấm sét giông gió và cả một khoảng trời trên biển mù mịt mây xám.
    Tàu phải bỏ neo giữa biển như một chấp nhận, một chịu đựng không lối thoát. Tôi tưởng chừng như cái chết đang cận kề bên mình. Bão táp làm bầm dập tôi đến tả tơi. Ruột gan như lộn phèo và ói mửa tới cả mật xanh. Tôi ngất đi trong sự khiếp hãi kinh hồn này.
    Chẳng biết bao lâu thời gian đã qua, tôi tỉnh dậy. Nắng chiều chiếu trải rộng trên tầu. Tôi nhìn quanh. Mọi người trên tầu cũng tả tơi, rách nát như tôi. Tựa như tất cả từ cõi chết trở về. Tôi đưa mắt tìm chú thím Bảy. Hai người còn nằm thiêm thiếp mê mệt. Tôi gượng dứng dậy. Nhưng sức lực dường như tiêu tán đâu hết. tay châm run rẩy và tôi lại ngã nhào xuống.
    Tôi ngã vào vòng tay một người đàn ông. Anh ta chụp lấy tôi và dìu tôi ngồi lại xuống sàn. Ánh mắt và nụ cười đầy vẻ thân thiện. Tôi nhìn lại anh ta chỉ hơn tôi độ mười mấy tuổi. Làn da rám nắng. Khuôn mặt dày dạn nét phong trần. Tôi như có cảm giác an ủi và đỡ lạc lõng. Tôi đã có người để làm bạn, chuyện trò. Rồi từ hôm ấy, tôi thường xuyên lân la bên cạnh anh ở trên tầu.
    Tầu của chúng tôi đã lênh đênh trên biển sang ngày thứ bảy. Trận bão đi qua đã làm thiệt hại nặng nề con tầu. Máy hư, bánh lái gẫy. Tàu hết phương cứu chữa, chỉ còn theo sức gió trôi dạt. Thức ăn đã dần dần vơi và nước uống thì gần cạn. Mỗi người trên tầu bây giờ phải ăn cháo thật lỏng thay cơm và chỉ uống được một ngụm nhỏ nước mỗi ngày.
    Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng có lúc cái đói và cơn khát hành hạ tôi như lúc này. Tôi đang sức lớn mà tiêu chuẩn ăn chỉ vừa nhét đủ kẽ răng và nước uống thì chưa đủ thấm giọng. Đêm ngủ lại trăn trở theo tiếng reo của bao tử, tôi tưởng chừng như điên lên được. May mà có người anh tôi mới quen trên tầu, mà trong thân mật tôi quen gọi anh là anh cả. Anh tìm cách xin thêm phần ăn và nước uống cho tôi. Lắm khi thấy tôi quá đói, anh còn nhường luôn phần ăn của anh cho tôi nữa. Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn còn thấy thẹn thùng trong lòng. Bởi nhũng lần như vậy tôi chưa bao giờ biết từ chối. Tuổi tôi còn quá nhỏ, tôi chưa cảm nhận được cái hy sinh của người khác dành cho mình.
    Qua đi sóng gió bắt đầu cơn nắng cháy cả da. Mọi người chúng tôi được lên hết trên khoang để hưởng chút gió mát của biển. Tôi vẫn lân la theo bên cạnh anh. Anh thường đặt đầu tôi nằm trên đùi anh và kể chuyện của anh cho tôi nghe. Chuyện đời lính. Những lần đụng trận trên chiến trường. Những sự chia sẻ hy sinh của đồng đội. Tôi thấy mắt anh rực lửa và đanh lại. Rồi lần bỏ trận chiến chạy về phố thị Pleiku tìm người thân trong lửa đạn, vợ con anh đã thất lạc phương nào. Anh đã rong ruổi hàng bao năm để tìm tin tức nhưng vẫn hoài công. Nhìn gương mặt anh, nét chua xót ngậm ngùi trong tròng mắt cho tôi cảm nhận được cái đau đớn trong lòng anh. Cũng nhờ những câu chuyện ấy của anh đã đánh lừa ảo giác cho tôi vơi bớt cơn đói khát đang hành hạ.
    Ngày thứ mười trôi qua. Mọi người trên tầu gần như kiệt sức. Con tầu vẫn bồng bềnh trên nước chạy theo sức gió đẩy đưa. Chẳng còn biết số mạng mình đang đi về đâu. Chỉ còn chờ đội một may mắn nào đó xảy đến. Tôi thầm phục ý chí của anh cả. Anh vẫn tìm cách an ủi giúp đỡ mọi người. Rồi sang ngày thứ mười hai. Có vài người trên ghe đã kiệt sức không chịu đựng nổi đã bị chết. Cuối cùng một đời người không được trở về lòng đất mà phải đành gởi thây xuống biển cả.
    Bây giờ thì tôi đã thực sự kinh hoàng. Sự sợ hãi đã đi theo cả trong giấc ngủ. Tôi không ngớt mê sảng, cứ mơ thấy bố mẹ và các em tôi. Họ đang vẫy tay gọi tôi. Tôi lơ lửng bay theo mà chẳng thể nào bắt kịp. Anh cả vẫn bên cạnh tôi, mớm cho tôi từng thìa cháo, từng muổng nước.Tôi đã đến giai đoạn không còn cảm nhận sự đói khát nữa, mà chỉ còn mong cho sự chết đến sớm như là một giả thoát còn hơn cứ mãi như thế này.
    Chưa hết tai ương này lại đến tai ương khác. Nhưng có lẽ cái tai ương cuối cùng này đã kết thúc cái sự không may mắn của chúng tôi.
    ...Giữa lúc mọi người hoàn toàn tuyệt vọng thì có tiếng ghe máy tiến lại gần. Như được uống thuốc hồi sinh, mọi người cùng bật dậy. Kể cả tôi. Đến lúc đủ tỉnh táo để nhìn mọi vật chung quanh thì tôi đã suýt rú lên vì sợ hãi. Anh cả đã ôm choàng tôi lại và vỗ nhẹ vào vai trấn an tôi. Tôi nhìn thấy khoảng chừng năm tên cầm giáo mác, mã tấu đang đứng chung quanh trên tầu.
    Những khuôn mặt dữ dằn đến ghê sợ. Bọn chúng đang hò hét và ra dấu cho mọi người tháo nữ trang , tiền bạc giao nộp cho chúng. Chúng còn lục soát từng hang hốc, ngõ kẹt quanh tầu. Lúc này chẳng còn ai đủ sức lực để phản kháng. Cho đến khi chẳng còn tìm thấy được gì thêm chúng quan sát một lượt quanh tầu. Tầm nhìn của chúng chiếu vào hai cô gái chỉ hơn tôi độ mấy tuổi đang sợ hãi nép vào lòng mẹ. Chúng tiến đến và nâng mặt hai cô lên. Đầu tóc rũ rượi. Khuôn mặt còn đọng nét kinh hoàng. Nhìn hai cô gái đang sụp lạy như tế sao, chúng cười len ha hả.
    Cuối cùng chúng lôi hai cô gái đứng dậy như chuẩn bị đưa xuống tầu của chúng. Hai người mẹ sợ hãi nhưng vì tình thương con đã nhào tới ghì tay chúng. Có lẽ sợ mất thời gian, tên đứng cạnh tiện tay vung nhát mã tấu lên. Mọi người kinh hoàng đồng kêu rú lên. Nhát mã tấu ngọt xớt hớt một mảng trên đầu người đàn bà. Máu bắn lên có vòi. Người đàn bà chẳng kịp kêu lên một tiếng nào.
    Tôi run cầm cập trong vòng tay anh cả. Hình như tôi cảm thấy anh cùng độ rung như tôi. Tôi ngước nhìn anh. Khuôn mặt anh đanh lại và rực lửa. Tôi thấy lại lần thứ hai như lần anh kể chuyện lúc trạm trán trước quân thù. Nhưng lần này trước đám cướp biển, nhìn gương mặt anh như vậy tôi có linh không may lẫn khiếp sợ thực sự.
    Đúng như tôi dự đoán, khi nhìn người đàn bà giẫy giụa trước lúc xuôi tay, anh đẩy tôi ra khỏi lòng và bật dậy như chiếc lò xo. Anh lao đến bọn chúng và thuận tay giật được chiếc mã tấu trên tay đứa đứng gần nhất. Anh vung đao chém loạn xạ vào bọn chúng. Tôi cũng không tưởng tượng được đột nhiên anh lại khoẻ mạnh đến như vậy. Hai tên đứng bên cạnh anh không dự trù được trước phản ứng đột ngột của anh, lãnh trúng hai nhát vào đầu ngã nhào xuống biển. Ba tên còn lại buông tay hai cô gái và sửng sốt lùi lại thủ thế đứng nhìn anh.
    Lúc này anh cũng đã dừng tay lại và cắm thanh mã tấu xuống sàn tầu vịn tay thở dốc. Tôi biết rằng sức lực anh đã kiệt. Những ngày chịu đói khát trên biển đã bào mòn sức lực anh. Cái căm hận trước bạo lực chỉ là một chút kích thích ngắn hạn tăng sức mạnh cho anh trong những nhát dao đầu tiên mà anh đã trút hết trên hai tên cướp biển. Bây giờ súc lực anh đã tiêu tán hết.
    Có lẽ ba tên cướp biển đã nhìn thấy điều đó. Nhưng chúng cũng còn dè dặt và từ từ thủ thế tiến lại. Anh cũng run run rút thanh mã tấu lên cầm lại trên tay. Tên cướp đi đầu dừng lại một tích tắc rồi vung dao nhắm vào đầu anh chém tới. Anh ngã người ra sau né tránh. Vừa vặn lúc đó, có âm thanh của ghe máy nổ cách không xa lắm đang xé nước lao tới.
    Bọn cướp nhìn thấy và biết không còn đủ thời gian để trả đũa, nhưng trước khi nhảy lại xuống tầu bỏ chạy, chúng còn cố ném vụt những chiếc mã tấu vào người anh. Có một chiếc cắm phập vào nagy giữa ngực. Máu tuôn xối xả và anh đã ngã quị xuống sàn tầu.
    Chiếc tầu tuần dương của cảnh sát Thái Lan đã cứu chúng tôi nhưng không cứu sống được anh. Vết thương gần ngay giữa tim ra quá nhiều máu. Tôi nắm chặt tay anh và nhìn anh thoi thóp thở. Lần đầu tiên trong đời có lẽ đây là lần tôi biết cảm nhận cái đau đớn và biết khóc thật sự. Tôi muốn nói với anh thật nhiều điều những suy nghĩ của tôi dành cho anh. Nhưng tôi chỉ biết uất nghẹn. Anh đã tắt thở trước khi vào đến đất liền. Cái cuối cùng tôi còn được nhìn thấy ở anh là cái siết tay nhẹ và nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt anh trước khi nhắm mắt.
    Ngôi mộ anh được chôn trên đồi phía sau hàng rào của trại dành cho những người tị nạn. Ở nơi đây cũng có những ngôi mộ nằm san sát với nhau. Những xác người vượt biên trên biển trôi dạt vào đất liền.
    Tôi đã được nhận đi định cư ở Mỹ bởi tôi thuộc diện trẻ em dưới tuổi thành niên. Những ngày nằm đợi lên đường, nhớ anh tôi thường thích thơ thẩn ra thăm mộ. Tôi thích hái những hoa tím dại trên đồi đặt lên mộ anh như một ngậm ngùi, thương tưởng.
    Đã gần hai mươi năm qua. Tôi bây giờ đã thực sự trưởng thành. Chuyện vượt biển của ngày xưa chừng như nhạt nhòa. Duy chỉ còn hình ảnh của anh đọng mãi trong ký ức. Tôi có thể trả lời cho tôi được một điều đã ấp ủ mãi trong lòng. Cái giá của sự tự do mà mọi người phải đem sinh mạng mình thi gan cùng biển cả. Và với riêng cá nhân anh cả anh không nằm xuống trên chiến trường, nhưng anh đã trọn cái hy sinh đúng nghĩa cho đồng đội là những người vượt biển trên tàu, kể cả hai cô gái bé bỏng trước móng vuốt hung dữ của hải tặc.
    Tôi chỉ có mỗi một ân hận duy nhất là chưa được biết tên anh. Hình ảnh anh trong tôi là một anh hùng vô danh không tên tuổi. Cuối cùng tôi đã nghiệm ra ở anh một điều mà cho đền cuối đời chưa chắc tôi đã làm được:
    Đời sống thì ngắn ngủi. Duy những điều có ý nghĩa để lại cho đời mới thật sự bất tận. Phải vậy không anh?
    Nguyễn Thanh Hoài
    Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 15-04-2011, 03:03 AM.
    Similar Threads
  • #2


    Hải chiến Hoàng Sa trong ký ức một người lính

    Vào ngày 19/01/1974 tại quần đảo Hoàng Sa đã diễn ra một trận chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam cộng hòa và hạm đội Nam Hải của Trung Quốc. Theo tài liệu của Bộ Ngoại giao VNCH công bố cùng ngày này, thì 8 ngày trước, ngày 11/01/1974 Bắc Kinh đột nhiên lên tiếng đòi chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, mà Trung Quốc (văn kiện của Sài Gòn gọi là Trung Cộng) gọi là Tây Sa và Nam Sa.
    Tình hình quần đảo Hoàng Sa bắt đầu nóng lên kể từ ngày 16/01/1974. Được Hoa Kỳ báo động là hải quân và không quân Trung Quốc xuất phát từ đảo Hải Nam tiến chiếm Hoàng Sa, Sài Gòn yêu cầu Hạm đội 7 của Mỹ trợ sức nhưng Hải quân Mỹ từ chối.
    Theo tuyên cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam cộng hòa ngày 19/01/1974 thì Hải quân Việt Nam cộng hòa đưa 4 tàu quân sự đương đầu với 11 chiến hạm của Trung Quốc.
    Thoạt đầu, hải quân Việt Nam kêu gọi tàu Trung Quốc rút khỏi hải phận của Việt Nam. Với một lực lượng đông gấp ba lần, Trung Quốc cho đổ quân lên các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa và Duy Mộng và liên tục khiêu khích quay mũi tàu đâm vào chiến đỉnh Việt Nam.
    Sáng ngày 19/01/1974, một hộ tống hạm của Trung Quốc loại Kronstadt bắn vào khu trục hạm Trần Khánh Dư mang số HQ-04. Để tự vệ, các chiến hạm Việt Nam phản pháo gây hư hại cho hộ tống hạm Trung Quốc. Cuộc giao tranh tiếp diễn gây thiệt hại cho cả đôi bên.
    Tuyên cáo của Bộ Ngoại giao chính quyền Việt Nam cộng hòa so sánh hành động xâm phạm này của Bắc Kinh với những vụ thôn tính Tây Tạng, tấn công Ấn Độ và xâm chiếm Triều Tiên đe dọa hòa bình Đông Nam Á và thế giới.
    Còn theo hồi ký «Can trường trong chiến bại» của Phó Đô đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Vùng I Duyên hải thì diễn biến tại mặt trận có hơi khác một chút.
    Đích thân Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bằng giấy trắng mực đen với Tư lệnh Hải quân vùng I của miền Nam Việt Nam «bằng mọi cách» không để một tấc đất của tổ tiên mất vào tay giặc.
    Giai đoạn đầu, chỉ huy chiến trường là Đại tá Hà Văn Ngạc kêu gọi Trung Quốc rời khỏi hải phận Việt Nam nhưng hải quân Bắc phương vẫn tiếp tục áp sát vào đội hình của phía Việt Nam. Trong thế yếu, đánh thì chắc chắn là thua mà không đánh không được, vị chỉ huy Việt Nam đã quyết định ra tay trước bắn vào đài chỉ huy của soái hạm Trung Quốc. Trong trận đánh chớp nhoáng và không cân xứng này, hộ tống hạm Nhật Tảo bị đánh đắm, Hạm trưởng là Thiếu tá Hải quân Ngụy Văn Thà tử trận. Tổng cộng 58 quân nhân, gồm thủy thủ và lực lượng Biệt hải hy sinh tại Hoàng Sa.
    Nhân kỷ niệm 37 năm trận Hoàng Sa, mời quý thính giả nghe lại lời kể của một người lính biển xạ thủ trọng pháo Vương Văn Hà trên hộ tống hạm Nhật Tảo. Ông là pháo thủ bắn phát đạn đầu tiên vào đài chỉ huy của khu trục hạm Trung Quốc. Hiện ông định cư tại Paris. Bài phỏng vấn được phát lần đầu vào ngày 19/01/2010.
    Kỷ niệm của xạ thủ Vương Văn Hà được ghi lại trong bài «Kẻ sống sót trong trận chiến Hoàng Sa» đăng trên tạp chí Lướt sóng của Hội Hải Quân Việt Nam cộng hòa, California năm 2001.
    Mất Hoàng Sa là bước đầu dẫn đến một mất mát to lớn khác: ngày 14/03/1988 Trung Quốc chiếm Trường Sa cũng qua một trận đánh không cân xứng. 74 chiến sĩ của Quân đội Việt Nam đã hy sinh (theo nguồn báo Nhân dân ngày 28/03/1988).
    Kể từ đó đến nay, ngư dân Việt Nam thường bị biến thành mồi ngon cho các vụ bắn giết, hà hiếp, bắc cóc đòi tiền chuộc mạng tại vùng biển xanh ngàn đời của Việt Nam.
    Tú Anh



    Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 11-06-2011, 06:00 PM.

    Comment

    • #3

      "Đường lưỡi bò" phi lý
      Trận hải chiến bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 (04/07/2011)

      Sau khi quân Pháp rút khỏi Đông Dương, theo Hiệp định Genève 1954, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đảm nhiệm chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa cho đến khi Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực ngày 19-1-1974. Trận hải chiến bảo vệ quần đảo Hoàng Sa năm 1974 của Hải quân VNCH là một bằng chứng lịch sử rõ ràng cho thấy Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực để cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay VNCH đang thực thi chủ quyền lâu đời của Việt Nam theo luật pháp quốc tế và việc liên tục thực thi chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này là một hiển nhiên trong lịch sử.


      Sơ đồ trận hải chiến bảo vệ Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974
      Trên thực tế khi ra tiếp quản quần đảo Hoàng Sa tháng 4-1956 từ quân đội Pháp, Hải quân VNCH phát hiện Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép các đảo phía đông của quần đảo này. Kể từ đó cho đến khi diễn ra trận hải chiến 1974, vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam không còn bình yên truớc những diễn biến làm phức tạp tình hình từ phía Trung Quốc. Từ năm 1956, Hải quân VNCH đã phát hiện ngư dân Trung Quốc nhiều lần xâm nhập trái phép các đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa do chính quyền VNCH quản lý. Hiệp định Paris được ký kết ngày 27-1-1973, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Hạm đội 7- Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng rút quân và các thiết bị ra khỏi vùng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Kể từ đó, các hoạt động xâm nhập trái phép của Trung Quốc lên các đảo trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam ngày càng gia tăng.
      Để mở đầu cho kế hoạch gây chiến và đánh chiếm, ngày 11-1-1974 Trung Quốc đột ngột ra Tuyên bố phản đối việc chính quyền VNCH 4 tháng trước điều chỉnh sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy của Việt Nam và nhắc lại yêu sách vô lý của họ về chủ quyền trên toàn bộ các đảo và quần đảo ở Biển Đông, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa). Ngay lập tức, ngày 12-1-1974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc của chính quyền VNCH ra Tuyên bố bác bỏ yêu sách vô lý của Trung Quốc về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 16-1-1974, chính quyền VNCH tiếp tục ra Tuyên bố với những bằng chứng rõ ràng về pháp lý, địa lý, lịch sử minh chứng chủ quyền lâu dài và liên tục của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng trong ngày 16-1-1974, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16) khi đưa một phái đoàn ra quần đảo Hoàng Sa để khảo sát xây dựng sân bay thì phát hiện hai chiến hạm của Trung Quốc gần đảo Cam Tuyền và quân Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép, cắm cờ Trung Quốc tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng, Vĩnh Lạc... Nhận được tin báo khẩn cấp, Bộ Tư lệnh Hải quân VNCH điều thêm chiến hạm ra quần đảo Hoàng Sa để ngăn chặn các hoạt động xâm phạm chủ quyền Việt Nam trên vùng biển này của tàu chiến Trung Quốc với thái độ ôn hòa, kiềm chế. Cùng lúc đó, Trung Quốc cũng đã điều động một lực lượng tàu chiến hùng hậu tiến về phía quần đảo Hoàng Sa, trong đó có nhiều tàu đánh cá vũ trang và đổ bộ lên một số đảo trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam để cắm cờ. Một số tàu cá vũ trang của Trung Quốc còn bám theo các chiến hạm của Hải quân VNCH đang trên đường ra Hoàng Sa, cản trở hành trình của các tàu Việt Nam bằng những hành động khiêu khích.


      Bốn chiến hạm của Hải quân VNCH đã tham dự
      trận hải chiến Hoàng Sa bảo vệ chủ quyền của Việt Nam năm 1974
      (HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16)
      Ngày 17-1-1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4) đổ bộ một toán biệt hải lên đảo Vĩnh Lạc để nhổ cờ Trung Quốc. Toán đổ bộ còn phát hiện một số ngôi mộ giả mới đắp không hề có xương cốt với những tấm bia gỗ ghi chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước. Theo các nhân chứng, đêm 17 rạng sáng ngày 18-1-1974 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình gia tăng sự khiêu khích, các chiến hạm của họ bắt đầu tiến sâu vào vùng biển quần đảo Hoàng Sa. Các tàu chiến của Hải quân VNCH liên tục ra tín hiệu cảnh báo: "Đây là lãnh hải Việt Nam, yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay”. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả và cho rằng quần đảo Hoàng Sa là "lãnh hải” của Trung Quốc, họ lì lợm không rút lui theo yêu cầu và cảnh báo ôn hòa từ phía Việt Nam. Ngày 18-1-1974, chiến hạm HQ-4 tiến về phía đảo Cam Tuyền, đổ bộ một toán biệt hải lên đảo lúc 8 giờ sáng. Sau khi hạ cờ Trung Quốc, toán đổ bộ phát hiện những ngôi mộ giả do phía Trung Quốc mới đắp giống như trên đảo Vĩnh Lạc hôm trước. Đến 11giờ cùng ngày, nhận được tin báo có hai tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc đang xâm nhập trái phép và tiến về quần đảo Hoàng Sa, các tàu HQ-4 và HQ-16 của Hải quân VNCH ra ngăn chặn, dùng tín hiệu cảnh cáo và yêu cầu các tàu xâm nhập trái phép ngay lập tức phải rút ra khỏi vùng biển Việt Nam. Nhưng hai tàu cá vũ trang của Trung Quốc không chấp hành hiệu lệnh và cố tình khiêu khích, gây hấn. Tàu HQ-4 tiến thẳng đến gần một tàu cá Trung Quốc, nhìn thấy rõ thủy thủ đoàn trên tàu mặc đồng phục xanh dương đậm, có trang bị 2 súng đại liên và rất nhiều súng tiểu liên cá nhân. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc để xua đuổi và dùng loa phóng thanh hết cỡ yêu cầu họ ngay lập tức rút khỏi vùng biển Việt Nam. Phía Trung Quốc cũng ra sức đáp trả bằng những lời lẽ khiêu khích và gây hấn. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 dùng mũi ủi vào tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của Hải quân VNCH họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt tham gia xua đuổi tiếp các tàu cá vũ trang còn lại của Trung Quốc trong khu vực này. Buổi chiều cùng ngày, 3 chiến hạm của VNCH bao gồm tuần dương hạm Lý Thường Kiệt (HQ-16), khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5) được lệnh sắp đội hình hàng dọc tiến về đảo Duy Mộng. Khoảng 16giờ cùng ngày, có hai tàu chiến của Trung Quốc tiến ra khiêu khích, cắt đường ngang mũi các tàu HQ-4 và HQ-16. Do đội hình bị chia cắt, tàu của VNCH không thể tiến lên được, khoảng cách của hai bên rất gần nhau, các khẩu đại bác trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nhưng các tàu của VNCH được lệnh phải hết sức kiềm chế và phải cố gắng hết sức để thuyết phục phía Trung Quốc lui quân.
      Đêm 18 rạng sáng 19-1-1974, tàu chiến và tàu đánh cá Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng khiêu khích và ngày càng tiến đến gần quần đảo Hoàng Sa. Tàu HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang thật sáng trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trong khi đang bị hỏng một máy chính chưa kịp sửa chữa, đã nhận lệnh ra Hoàng Sa tham gia đội hình chiến đấu. Khoảng 6 giờ sáng ngày 19-1-1974, Tàu HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Theo ông Lữ Công Bảy, nguyên là thượng sỹ giám lộ có mặt trên chiến hạm HQ-4 trong trận hải chiến 1974, từ đài chỉ huy bằng ống nhòm, tàu HQ-4 đã phát hiện doanh trại mới toanh, có cột cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng tàu HQ-4 có dịp khảo sát đảo này không hề thấy), như vậy Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo mới đây. Đài chỉ huy đồng thời phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân rất đông lên phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc liên tục đổ người ào ạt lên các đảo của Việt Nam. Và họ đã nổ súng trước. Vào lúc 8 giờ 30 phút, một loạt đại liên và cối 82 của Trung Quốc đã bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sỹ tử vong và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam vẫn không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì đội hình người nhái Việt Nam đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm. Cùng lúc đó, xuất hiện hai chiếc tàu Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 ly và nhiều đại bác 37 ly ngay bên cạnh tàu HQ-4. Các họng súng đại bác của tàu Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4. Các tín hiệu bằng đèn cực kỳ khiêu khích của tàu Trung Quốc liên tục được chuyển tới tàu HQ-4. Khoảng 10 giờ, hai trục lôi hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 bắt đầu tách khỏi hai chiếc 274 và 271, chạy song song gần nhau và bất chợt cùng quay mũi trực chỉ HQ-10. Vẫn chưa có lệnh khai hỏa từ phía VNCH. Các tàu chiến của Trung Quốc từ từ tiến gần đội hình của VNCH, còn cách tàu HQ-10 chỉ khoảng 200 mét, tình hình hết sức căng thẳng. Khoảng 10 giờ 25 phút, bốn chiến hạm của Hải quân VNCH được lệnh nổ súng để tự vệ trước sự gia tăng gây hấn, khiêu khích và xâm chiếm trái phép ngày càng quyết liệt hơn của Trung Quốc. Những phát đạn đầu tiên của HQ-10 trúng ngay vào chiếc 389 của Trung Quốc làm nó bốc cháy, cùng lúc tàu HQ-16 cũng bắn thẳng vào chiếc 386 làm cho đài chỉ huy bị trúng đạn, hỏng hệ thống điều khiển bánh lái khiến nó cứ xoay vòng. Đang chiếm ưu thế, bất chợt khẩu 76,2 ly trên tàu HQ-10 bị trục trặc, thêm vào đó HQ-10 chỉ còn một máy chính nên xoay trở rất chậm trở thành mục tiêu dễ dàng của đối phương. Lợi dụng sự bất lợi đó, chiếc 389 đã tấn công tới tấp và HQ-10 trúng đạn. Không bỏ lỡ cơ hội, chiếc 389 của Trung Quốc tiến đến gần phía sau lái của HQ-10, nhưng bị các binh sỹ trên tàu HQ-10 chống trả dữ dội và điều khiển tàu đâm vào phần sau lái của chiếc 389, khiến chiếc này hư hỏng nặng và bị loại khỏi vòng chiến. Đây cũng là lý do khiến chiếc 396 phải ngưng chiến đấu với tàu HQ-16 để cấp tốc ứng cứu chiếc 389 và đưa chiếc này ủi lên bãi san hô để tránh bị chìm xuống biển. Tình trạng của tàu HQ-10 lúc này rất bi đát, hơn 70% chiến sỹ đã tử trận kể cả hạm trưởng. Các tàu Trung Quốc phản kích dữ đội. Cùng lúc đó Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm ở gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Các chiến sỹ còn trụ lại trên tàu HQ-10 đang bốc cháy vẫn tiếp tục nổ súng vào các tàu Trung Quốc, thu hút hỏa lực cho các đồng đội khác rút lui cho đến khi chìm hẳn xuống lòng Biển Đông của Tổ quốc. Sau khoảng hơn 45 phút giao chiến, theo tài liệu của Trung Quốc có các tàu của Trung Quốc mang số hiệu 274, 271, 389, 391 trúng đạn hư hỏng nặng; 281, 282 và 402, 407 hư hại trung bình. Theo tài liệu của VNCH, hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10) trúng đạn bị chìm, HQ-16 bị hư hại nặng, HQ-4 và HQ-5 bị hư hại nhẹ. VNCH có hơn 50 binh sỹ tử trận. Trung Quốc bắt giữ 48 binh sỹ VNCH và một người Mỹ, sau đó trao trả cho Việt Nam và Hoa Kỳ tại Hồng Kông.


      Hình ảnh chiếc trục lôi hạm 389 của Trung Quốc
      bị loại khỏi vòng chiến phải ủi vào bãi san hô để không bị chìm
      Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Hoàng Sa, chính quyền VNCH liên tục phát ra nhiều Tuyên bố phản đối hành động "xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” này của Trung Quốc và tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này. Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CMLTCHMNVN) cũng ra Tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường "về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ CMLTCHMNVN cũng đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của Việt Nam. Ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ CMLTCHMNVN đã lên tiếng bác bỏ các thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa và Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền Việt Nam, từ trước đến nay luôn do người Việt Nam quản lý.
      Nhóm PV Biển Đông
      [Kỳ 17: Cô Lin - "Mắt thần” của biển]
      [Kỳ 16: Trận chiến bảo vệ chủ quyền Trường Sa năm1988]
      [Kỳ 15: Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
      giai đoạn sau 1991]

      [Kỳ 14: Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
      giai đoạn 1975 - 1991]

      [Kỳ 13: Ký ức Hoàng Sa trong nhiều thế hệ người Việt Nam]
      [Kỳ 11: Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
      giai đoạn 1954-1975]

      [Kỳ10: Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
      giai đoạn 1945 -1954]

      [Kỳ 9: Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
      thời Pháp thuộc]

      [Kỳ 8: Hoàng Sa và Trường Sa trong thư tịch cổ Trung Hoa]
      [Kỳ 7: Hoàng Sa-Trường Sa: Tư liệu cổ phươngTây]
      [Kỳ 6: Hải đội Hoàng Sa thực thi chủ quyền]
      [Kỳ 5: Thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa
      của các triều đại Việt Nam ]

      [Kỳ 4: Chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
      trong thư tịch triều Nguyễn ]

      [Kỳ 3: Chủ quyền biển đảo của Việt Nam từ các bản đồ
      trong lịch sử]

      [Kỳ 2: Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa
      từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII]

      [Kỳ 1: Vài nét địa lý tự nhiên thuộc vùng biển Việt Nam]
      [url="http://daidoanket.vn/index.aspx?Menu=1501&chitiet=33629&Style=1"][COLOR=black]https://daidoanket.vn/404
      Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 09-07-2011, 03:17 AM.

      Comment

      • #4

        Nữ sinh Ngoại thương TP. HCM hùng biện về chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam
        - Trong cuộc thi Duyên dáng Ngoại thương 2010, rất nhiều khán giả trẻ đã xúc động về phần thi hùng biện của bạn Tú Trinh về “biển đảo của Tổ quốc” do Thành Đoàn và Hội sinh viên TP.HCM tổ chức.
        Sinh viên ‘khát’ kiến thức về biển đảo Việt Nam
        Với giọng điệu truyền cảm, Tú Trinh bắt đầu với giọng điệu hào hùng: “Đối với mỗi người bình thường như chúng ta, 20 năm có thể làm biết bao nhiêu điều. 20 năm để học tập, phấn đấu cho sự nghiệp. 20 năm để yêu nhau và xây dựng gia đình và còn nhiều, nhiều hơn thế nữa…”
        BẤM ĐỂ XEM CLIP
        Vẫn giọng sôi nổi: “Nhưng đối với những người chiến sĩ DK1 thì 20 năm là sống để bảo vệ thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Sống là để chiến đấu, sống là để chết cho quê hương. Những mất mát, hi sinh của các anh đôi khi chúng ta không thể nói bằng lời.
        Dân tộc Việt Nam anh hùng là thế đó, đất nước chúng ta luôn có những con người mà khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau là thế đó. Dường như trong một khoảng thời gian quá dài chúng ta đã lãng quên về Hoàng Sa, Trường Sa.
        Hoàng Sa là của Việt Nam. Trường Sa là của Việt Nam. Đó là lịch sử, đó là sự thật không thể nào chối cãi. Chúng ta có thể tự hào nói với cả thế giới về chủ quyền nhất quán trước sau như một của Việt Nam đối với Trường Sa, Hoàng Sa. Và tất nhiên chúng ta không cho phép những ai ngang nhiên dùng bản đồ hình “lưỡi bò” hòng thay đổi chủ quyền của Việt Nam.
        Khi đoàn chúng tôi đặt chân đến đảo Trường Sa lớn, được nhìn lá cờ Việt Nam bay phấp phới trên ngọn đá chủ quyền, trái tim chúng tôi như nghẹn lại xen lẫn với nỗi tự hào.
        (..)Cha ông ta đã đến đây, đã khai phá, đã đặt chủ quyền và đã ngã xuống vì mảnh đất này. Và thế hệ chúng ta hôm nay không cho phép mình được quyên điều đó. Hôm nay và mai sau chúng ta phải nhắc muôn đời về Hoàng Sa thiêng liêng, về Trường Sa thiêng liêng, về dải đất thuộc thịt của Việt Nam tại Biển Đông. (…)”
        “Việt Nam ơi, xin hãy nắm chặt tay” – là lời kết cho phần hùng biện được Ban tổ chức đánh giá cao.
        Văn Chung (Nguồn clip: Youtube)


        “Việt Nam ơi, xin hãy nắm chặt tay”
        https://daidoanket.vn/404
        Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 09-07-2011, 03:42 AM.

        Comment

        • #5



          Sương chiều đã bắt đầu giăng, tôi ngồi đấy cùng anh. Dáng người gày sọp nhưng rắn rõi của thể chất lính đã được thao luyện theo thời gian, đôi mắt chan chứa đưa về phía xa tít tắp của cánh rừng. Một nơi xa xăm. Có tiếng chim hót đâu đó lẫn khuất trong màn sương.


          Anh bỏ súng tựa vào phiến đá, cầm cây ghi ta chỉnh sửa lại dây đàn. Dạo phím. Giữa gió rừng vi vu. Anh hát - tôi nghe. "những ngày xưa thân ái". Giữa cánh rừng già. Khói thuốc bay giữa không gian mờ ảo. Đã từng nghe bài hát này – một bài hát “không hợp thời “. Ai đó nói rằng "phản động". Từ quá khứ xa xăm. Dội lại. Hôm nay giữa cánh rừng già, tôi ngồi nghe anh hát. Lâng lâng, cảm xúc khác. Thật lạ.
          Những ngày xưa thân ái anh gởi lại cho ai
          Gió mùa xuân êm đưa rung hàng cây lưa thưa
          Anh cùng tôi bước nhỏ áo quần nhăn giấc ngủ
          Đi tìm chim sáo nở ôi bây giờ anh còn nhớ ?


          Người lính trong đầu của thế hệ tôi. Bây giờ. Đều đi ra từ sách vở, tạp chí hay những thước phim để lại. Anh hùng qua các câu chữ văn thơ. Hào hùng trong những thước phim ngày cũ.
          Với ca từ, người lính trong tôi hiện lên cũng chỉ là những người lính Trường Sơn "ào ào lá đỏ" hay giữ biên cương mà "mẹ ơi có hay". Con nằm lại. Đất này.
          Anh giữ rừng. không giữ biên cương. Giữ lại những ký ức đẹp nhất của đời mình. Mơ mộng. Nòng súng nào ấm một tay ôm. Nghệ sĩ rừng xanh. Tôi đặt tên cho anh. Lãng tử giữa phố núi mịt mờ sương quanh năm tháng. Tự hỏi. Nơi anh sống giúp anh có được tâm hồn ấy. Sự lãng mạn sau những ngày chai sạn vì bom đạn và khói lửa chiến tranh.
          Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho ai
          Trăng mùa thu lên cao khóm dừa xanh lao xao
          Anh cùng tôi trốn ngủ ra ngồi trên lá đổ
          Trong bầy chim trắng hiền mơ một nàng tiên dịu hiền


          Tôi không được trốn ngủ cùng anh. Thầm tiếc. Khói thuốc đang bay hòa cùng sương giăng trên hai mái đầu một già một trẻ. Tôi và anh cùng "ngồi trên lá đổ". Mắt anh vẫn dõi về phía xa xôi của cánh rừng già, như đang "mơ một nàng tiên dịu hiền" của những âm bản vọng lại từ vách núi. Giấc mơ của người lính đã đi qua. Hai phần ba đời mình. Giờ trên phiến đá dạo lại phím đàn ghita hòa cùng sương khói. Tìm về. Những ánh lửa đêm cháy giữa rừng, anh em hát ca vang trời. Hoài niệm. Còn riêng tôi. Cố gắng kiếm tìm những kỷ niệm đẹp để được hoài niệm như anh.
          Thời gian qua mau tìm anh nơi đâu
          Tôi về qua xóm nhỏ con đò nay đã già
          Nghe tin anh gục ngã
          Dừng chân quán năm xưa
          Uống nước dừa hay nước mắt quê hương


          Âm sắc nặng hơn, giọng ca không hòa theo tiếng đàn nữa. Nghèn nghẹn. Chỉ còn vài sợi dây đàn đang rung khẽ. Lắng nghe cái "phiêu" của người ca sỹ, đang bay theo những ca từ. Đã qua một thời. Đồng đội. Không phải giữa rừng già. Ở chiến trường khói lửa, tanh mùi máu. Đầy khát khao chiến thắng.
          Anh trở lại rừng già. Bạn bè anh nằm lại đâu đó quanh đây.


          Những đường xưa phố cũ thôi nỡ đành quên sao
          Xin gọi lại tên anh giữa trời sao long lanh
          Anh giờ yên giấc ngủ tôi nằm nghe súng nổ
          Như lời anh nhắc nhở ôi câm hờn dâng ngập lối
          Tôi thầm nghĩ. Nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ có sáng tác bài hát này cho anh!?. Ca từ như đi ra từ cuộc đời của anh vậy. Sinh ra và lớn lên. Theo tiếng gọi của Tổ Quốc. Nhìn lại. Không còn ai. Ngậm ngùi.
          Quay về. Phố núi. Đón nhận anh. Như những người con nằm lại. Giữa thác đổ đại ngàn của rừng xào xạt lá. Tiếng chim hót trong màn sương giăng. Im bặt. Nhường cho lời ca. Có tiếng gió rít và cuốn vài chiếc lá rơi. Đồng ca.
          Những ngày xưa thân ái xin buộc vào tương lai
          Anh còn gì cho tôi tôi còn gì cho em
          Chỉ còn tay súng nhỏ giữa rừng sâu giết thù
          Những ngày xưa thân ái xin gởi lại cho em
          Kết thúc bài. Trời phũ màn đêm. giăng khắp rừng. Anh giục tôi về. Hối hả. Tạm biệt, cho hẹn ngày gặp lại. Không biết khi nào, tôi với anh. Mới quen nhau. Đồng cảm. Kẻ lang bạt gặp gã canh rừng, đam mê. Một thoáng bềnh bồng trong cõi đời mênh mông. Hình như. Nghe đâu đó. Đồng đội ngồi hát cùng anh. Thong dong.
          Thầm hỏi

          Đêm đêm nằm nghe súng nổ giữa rừng khuya thác đổ, anh còn nhắc tên tôi?
          Đêm đêm nhìn trăng sáng tỏ bên đồi hoa trắng nở, cuộc đời anh có vui ?

          Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 10-07-2011, 09:24 PM.

          Comment

          • #6


            Từ dạo đó làm người yêu của Lính
            Chiều tan trường tà áo trắng tung bay
            Nơi cổng rào bóng dáng của chàng trai
            Màu áo trận , trên tay cành Lan tím...
            Cả đám bạn nhìn em cười chím chím
            Em thẹn thùng bấu nhẹ vào tay anh
            Đưa mắt nhìn cả đám bạn tinh ranh
            Cứ trêu ghẹo...làm cho em mắc cở...
            Và bảo anh , sao không mang về hộ
            Tặng ở đây chúng bạn sẽ cười em
            Anh nhìn em với ánh mắt êm đềm
            "Anh còn bận hành quân cô bé ạ" !...
            "Lần sau về...anh sẽ tặng nhiều thêm"
            Nheo mắt nhìn em , anh cười thật hiền
            Người Lính chiến muôn đời vẫn lãng mạn
            "Yêu em hoài và yêu mãi ngàn năm"...
            "Người yêu nhỏ , hảy chờ anh em nhé"
            Khi thanh bình...chúng mình sẽ chung đôi
            Bỏ nhớ nhung bỏ hết những đơn côi
            Tay sông hồ đan tay người yêu nhỏ...
            Anh đi rồi...bụi mù bay trong gió
            Em đứng yên , nhìn bóng chiều qua
            Mấy đưa bạn cất giọng thật là to :
            "Ồ....Ông Lính...trả hồn Hồng Sang lại"...
            Hành quân...gì...mà sao lâu quá nhỉ !
            Để em chờ...nước mắt đọng bờ mi
            Một tuần qua...nhìn anh bước chân đi
            Cùng Lan tím...về nhà bao nhung nhớ...
            Nơi biên cương có bao giờ anh biết ?
            Chiều hậu phương có người khóc bơ vơ
            Giấy bút kia , cô bé vội làm thơ
            Vẫn mãi mãi...muôn đời...Yêu Lính Chiến....
            phong linh

            Người Yêu Của Lính - Hoàng Oanh - HNC

            Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 11-07-2011, 03:22 AM.

            Comment

            • #7

              Tâm Sự Thanh Loan "người yêu của Lính"

              Thanh Loan ngày xưa chốn hậu phương
              Nắn nót vần thơ gửi chiến trường
              Là tấm chân tình em gái nhỏ
              Ấm lòng chiến sĩ trấn biên cương

              Sở dĩ Thanh Loan thực hiện CD “Vẫn Thương Màu Áo Trận” là để tưởng niệm đến tất cả những ngườI lính đã hy sinh cho chúng ta có được sự hiện hữu tốt đẹp hôm nay trên xứ lạ quê người.
              Có rất nhiều bản nhạc, bài thơ nói về đời Lính. Tuy nhiên, theo Loan nghĩ thì có vẻ bóng bẩy và văn hoa quá. Thật ra đời lính phải luôn luôn đối đầu với những gian nan vất vả, mà ít được ai nhắc đến.
              “Tay ghì súng, nghe mùi tang tóc đâu đây!
              Trong tâm khảm của người lính luôn mong ước hậu phương được yên vui, mọi người dân có được những bữa cơm, giấc ngủ thật bình yên không bị quấy nhiễu bởi đạn pháo của quân thù. Để rồi những ngày dạo phố cùng người yêu bé bỏng không còn bị giới hạn vì giờ giới nghiêm. Niềm tâm sự của người lính quả thật rất đơn sơ!
              Ai đã từng gắn bó một thời với cuộc đời lính chiến, yêu màu áo trận, yêu đời trai thời lọan, đều cảm thấy một niềm hãnh diện trong tâm khảm.
              Suốt thời gian phục vụ trong quân ngũ, điều vui nhất của người lính là khi được nghỉ phép để về thăm gia đình.
              Đi lính mà có người yêu ở tận phương xa thì thật là thú vị!
              Có những khi dừng chân bên đồi vắng, người Lính thường mơ ước một vòng tay ấm áp, một ánh mắt trìu mến để sưởi ấm trái tim cô đơn nơi biên thùy lạnh giá.
              Từ thập niên 60 cho đến đầu thập niên 70, đó là thời gian mà hầu hết những nhạc sĩ, thi sĩ sáng tác đã để lại cho chúng ta những hình ảnh thật đẹp, một giang sơn gấm vóc: trai hùng gái lịch với những nét keo sơn gắn bó giữa hậu phương và tiền tuyến. Người Lính cảm thấy được an ủi khi biết rằng trong tâm tư của những người ở hậu phương luôn quan tâm đến họ.
              Thanh Loan được sinh ra trong một gia đình với thân phụ, các chú, các cậu, các bác đã từng là những cựu quân nhân, vì thế nên trong lòng Loan luôn luôn có được sự gần gũi, ưu ái đặc biệt đến những người mang tên LÍNH. Nếu chỉ chợt nhìn người Lính ở bên ngòai thì có vẻ dữ dằn, nhưng nếu hiểu được họ thì quả thật họ rất đáng yêu.
              Nếu một ngườI thương Lính, yêu Lính mà chưa bao giờ được hân hạnh làm ngườI yêu của Lính, thì cuộc đời mình quả nhiên là một sự thiếu sót lớn.
              Nơi ngườI lính...đó là bản chất nhân đạo của một con người, cái dữ của ngườI lính là để đối diện với quân thù, còn đối với những người thân thì họ là một người bạn tốt.
              Khi ngườI Lính gia nhập vào quân ngũ họ cùng chung một nguyện ước là hy sinh cuộc đời yên vui của mình cho cha, cho mẹ, cho anh em, hay cho người mình yêu được yên vui hạnh phúc.
              Thanh Loan vẫn luôn canh cánh bên lòng một nỗi buồn tha hương, những ân tình không sao đền đáp cho những người anh hùng đã hy sinh thân thế cho lý tưởng Tự Do.

              THANH LOAN
              Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 14-07-2011, 02:19 AM.

              Comment

              • #8

                Những cánh hoa thời loạn

                (tặng những người phụ nữ tôi kính mến)
                Tôi bước vào chương trình Asia số 66, chủ đề “Cánh Hoa Thời Loạn” bằng những xúc động lớn lao, ngay trong giai đoạn chuẩn bị. Nhất là kể từ hôm một nữ khán giả trẻ, cô Tăng Thị Ngọc Lan tìm đến trung tâm Asia để trao lại cho tôi những lá thư viết từ chiến trường cùng một số hình ảnh của người anh trai, cố thiếu tá Tăng Ngọc Nhã, tiểu đoàn trưởng 487 Địa Phương Quân, người đã anh dũng hy sinh tại chiến trường Bạc Liêu ngày 21 tháng Tư năm 1974.
                Cả đêm hôm ấy tôi cứ trằn trọc mãi và không thể nào nhắm mắt nổi. Đầu óc cứ bị ám ảnh bởi tấm hình chụp ngày tang lễ của thiếu tá Nhã hơn 36 năm về trước với hình ảnh người góa phụ trẻ chưa đầy 20 tuổi, khuôn mặt buồn vời vợi, ôm đứa con gái vừa mở mắt chào đời, chưa kịp nhìn thấy mặt cha. Bên cạnh là nét mặt khổ đau, chịu đựng của bà mẹ già đang nuốt lệ để tiễn đứa con trai yêu quý vừa đền xong nợ nước! Chiếc quan tài phủ lá cờ vàng cùng hàng chữ “ghi ơn” mờ nhạt, im buồn như bóng dáng của người em gái rụt rè đứng ở phía sau. Thật là một hình ảnh tàn nhẫn của chiến tranh, nó đã làm tả tơi bao cánh hoa trong thời ly loạn. Chỉ một tấm ảnh đó thôi người ta đã nhìn thấy cả 3 thế hệ để tang!

                Nhưng người lính nằm xuống trong cái “hòm gỗ cài hoa” được phủ cờ đó nghĩ gì? Chúng ta hãy đọc một đoạn của lá thư mà thiếu tá Nhã gởi về cho cô em gái lúc ông còn sống khi hay tin một người thân trong gia đình của ông vừa tử trận:
                Kontum 14 tháng 3, 1968
                Ngọc Lan em,
                Anh rất lấy làm đau buồn khi nhận được tin anh Phương đã đền xong nợ nước ...........
                Anh biết lúc này gia đình mình bị xúc động nhiều, em hãy thay anh khuyên nhủ ba má bớt sầu não, cầu nguyện cho linh hồn người đã ra đi, và hãnh diện cho gia đình mình, đã có người hy sinh vì tổ quốc, vì dân tộc...


                Dồn dập những ngày sau đó, hàng trăm hình ảnh cùng nhiều lá thư đầy kỷ niệm với những nét chữ đã hoen nhòa vì nước mắt, kèm theo bao tài liệu lịch sử quý giá và sống thật, đã được khán thính giả lần lượt gởi đến cho trung tâm Asia, mà tôi là người được hân hạnh trao cho trách nhiệm thực hiện những video clips để giới thiệu trong chương trình! Nhưng làm sao mà chỉ trong một vài phút tôi có thể diễn tả hết được những trang sử trác tuyệt của thời chinh chiến, nhất lại là những mẩu chuyện liên quan đến sự chịu đựng, cùng gương hy sinh và lòng quả cảm của những người phụ nữ Việt Nam thể hiện qua nhiều vai trò trong cuộc chiến dài nhất của lịch sử dân tộc. Vì thế tôi tự nhủ sau buổi thu hình mình sẽ phải viết và phải viết thật kỹ càng để ghi chép lại cho thế hệ mai sau biết được và hiểu được bao tấm gương hy sinh hào hùng của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cùng những “cánh hoa thời loạn”!
                Tôi sẽ phải kể cho các con tôi nghe câu chuyện của nữ quân nhân Nguyễn Thị Kim Lang, người đã bị xử bắn vì chống đối chế độ Cộng Sản vào ngày rằm tháng 7 năm 1975 tại sân vận động Gò Công trong lúc chị đang mang thai đứa con đầu lòng trong bụng! Tôi cũng sẽ không thể không nhắc đến chiến công hiển hách của nữ trung sĩ Ngô Thị Hồng Phượng tại Sóc Trăng trong trận Tết Mậu Thân 1968.
                Tôi sẽ phải nói đến hình ảnh can trường của nữ thiếu úy cảnh sát tên là Thái Kim Vân, người con gái độc thân, mới 22 tuổi đầu đã phải chịu lưu đầy trong các trại tù Việt Bắc, từ cải tạo cho đến hình sự với bản án chung thân khổ sai cũng chỉ vì chị đã hiên ngang và công khai lên tiếng tranh luận về những sai lầm của chủ nghĩa CS với các tên cai tù và cán bộ giảng huấn!


                Thiếu uý Thái Kim Vân
                Thậm chí ngay khi vừa được thả ra sau gần 3 năm “học tập cải tạo”, thiếu úy Thái Kim Vân đã lập tức tham gia vào các hoạt động phục quốc, mà hậu quả là những trận đòn chí tử khi chị bị CS bắt lại. Người con gái tuy có trái tim gan dạ, nhưng với thân xác nhỏ bé, cô đã gục ngã trước những cuộc tra tấn dã man. Hậu quả của những tháng năm bị biệt giam trong thùng sắt, vừa đói, vừa lạnh khiến thiếu úy Thái Kim Vân bị lao phổi nặng. Nhưng CS đã không săn sóc hay chữa trị, mãi cho đến khi người nữ tù nhân can trường đang thoi thóp chết thì tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International) mới biết đến và lên tiếng can thiệp mạnh mẽ, đồng thời với áp lực của nhiều cơ quan nhân đạo khác trên thế giới, CSVN đã phải trả tự do cho thiếu úy Thái Kim Vân sau hơn 18 năm giam giữ!
                Nhưng Trời Phật đã không phụ kẻ có lòng, trong lúc tả tơi vì bệnh hoạn, ai cũng sợ bị lây, không dám đến gần! Ngoại trừ người bạn tù, đại uý Nguyễn Thanh Nguyên, cựu SVSQ khoá 16 Võ Bị Đà Lạt, vì tội nghiệp nên thỉnh thoảng đem thức ăn và thuốc men đến chỗ cô bị biệt giam để thăm viếng và săn sóc. Rồi từ thương hại đến thương... yêu, sau gần hai mươi năm lao lý, Việt Cộng đã phải thả tất cả tù chính trị, họ thành hôn và được chính phủ Hoa Kỳ nhận định cư qua diện tỵ nạn đặc biệt, đợt Z-05. Thượng đế thật công bằng, ngài đã bù lại cho họ một đứa con gái thông minh, xinh xắn và giỏi giang. Cháu Tina Nguyễn năm nay mới 12 tuổi, nhưng đã là một học sinh xuất sắc nhất trường với những bằng khen từ tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, và còn là một nhạc sĩ nổi tiếng trong học khu nơi cháu đang sống hạnh phúc bên cha mẹ.

                Gia đình thiếu uý Thái Kim Vân hiện nay ở HK
                Thượng đế cũng không phụ lòng người “góa phụ ngây thơ”, nàng tên là Ngọc Di, 20 tuổi, mang bào thai 6 tháng được chồng vội vã đưa lên phi cơ để lánh nạn vào giờ phút lâm chung của thành phố Sàigòn. Cô con gái “di tản trong bụng mẹ” tên là Đan Vi giờ đã trở thành một bác sĩ nhãn khoa và cháu đã cùng người mẹ thủy chung, đồng thời cũng là vợ trung úy phi công Nguyễn Văn Lộc đi tìm xác chồng sau 33 năm biệt tín.

                Hình mẹ & con cô Ngọc Di, August, 1975

                Bác sĩ Nguyễn Lộc Đan Vi, 2001
                Hai người phụ nữ, một mẹ, một con miệt mài trong nước mắt hơn 10 năm trời. Cho đến một ngày cuối tháng 10, 2008 mới tìm được nắm xương tàn của chàng phi công cảm tử cùng người bạn tù, trung úy phi hành Lê Văn Bé, cả hai đã bị CS bắn chết trong lúc rủ nhau vượt ngục. 33 năm sau vợ con mới chính thức đội khăn tang và đau xót nhặt từng mảnh di hài với những dòng lệ khô trên khoé mắt.

                Hình mẹ & con cô Ngọc Di đang nhặt thi hài
                Ngày 3 tháng 11, 2008 mẹ con ngồi trên phi cơ ôm mỗi người một bình tro trở về Hoa Kỳ. Ngọc Di ôm xác chồng, cháu Đan Vi ôm bình tro chiến hữu của cha! Có người tò mò hỏi tại sao lại mang thêm di hài của người bạn tù vượt ngục? Ngọc Di trả lời “dạ tại khi còn sống nhà em vẫn thường nói, tâm nguyện của lính Không Quân là -không bỏ anh em, không bỏ bạn bè -”!
                Và còn nhiều nữa, nhiều nữa, tôi sẽ phải viết một cách thật chi tiết về sự hy sinh vô bờ của những “nữ điệp viên” Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, của người biệt đội trưởng tình báo Thiên Nga , cùng bao thiên hùng sử và lòng quả cảm của những “Vì Sao Mùa Quốc Hận”!

                Biệt đội tình báo Thiên Nga
                Có nhiều bạn trẻ sinh ra và lớn lên ở VN vẫn thường thắc mắc hỏi: “Ai gây nên cảnh chiến tranh?”. Làm tôi chợt nhớ đến câu nói thật thà và bình dị của nữ ca sĩ Sơn Ca khi trả lời lý do tại sao cô lại thích hát những nhạc phẩm ca ngợi hoà bình, cô nói: “Cũng như những người dân miền Nam VN thời bấy giờ, Sơn Ca rất mong chờ hoà bình sớm trở lại trên quê hương...”! Tuy nhiên, cô đã không quên nhắc nhở mọi người rằng chiến tranh là do Cộng Sản Hà Nội chủ trương dùng vũ khí để xâm chiếm hầu áp đặt thể chế Cộng Sản trên toàn đất nước. Còn quân dân miền Nam VN chỉ luôn luôn ở thế tự vệ và lúc nào cũng yêu chuộng hoà bình!
                Nhưng đã 35 năm qua, “hoà bình” đã đến trên quê hương ta, vậy tại sao những người phụ nữ VN vẫn khổ? Hàng ngàn, hàng vạn những “cánh hoa thời...bình” giờ phải hy sinh thân xác làm cô dâu bất đắc dĩ ở Đài Loan hay Hàn Quốc để nuôi sống gia đình. Bao trẻ thơ bị bán đi làm nô lệ tình dục, và “nỗi buồn chiến tranh” vẫn đè nặng xuống thân phận của người dân miền Nam. Các bạn trẻ ở trong nước hãy tìm đọc tập truyện cùng tên (Nỗi Buồn Chiến Tranh) của nhà văn cùng chế độ, Bảo Ninh. Ông viết: “Họ, những người chiến bại cùng giòng máu ấy - sau khi tiếng ồn ào của những cuộc xung sát đã im bặt - tiếp tục hứng chịu khổ nạn: khổ nạn hòa bình. Người lành lặn thoát chết thì đi ở tù, người tàn tật thì, cho đến bây giờ, 35 năm sau, vẫn còn là những công dân…không-có-hạng trên đất nước của mình! Và những người đã chết phải chết thêm một lần nữa! Kể cả những bức tượng!
                Sau chiến tranh, người chiến thắng vẫn tiếp tục tiến hành một cuộc chiến khác: cuộc chiến chống những người chiến bại... Đến bao giờ?!!!”
                NAM LỘC



                Khi cây cỏ không còn là màu xanh
                Khi mặt trời không còn tỏa ánh sáng
                Và biển xanh không còn con sóng vỗ
                Thì em ơi em có còn yêu anh..
                Khi Thu về không còn lá vàng rơi
                Khi Đông về không còn phủ tuyết trắng
                Và giòng sông không còn con nước chảy
                Thì em ơi, em có còn yêu anh ??
                Chợt nhiên trong khoảnh khắc thời gian
                Ta lạc mất nhau
                Anh không còn anh ngày hôm qua
                Và tình yêu chỉ là nước mắt khổ đau
                Thì em ơi, em ơi...
                Em có còn yêu anh ???
                ...(Ta có còn yêu nhau ... ơ ờ ờ )
                (Tác giả Trúc Hồ)
                Ca sĩ Lâm Nhật Tiến và Nguyễn Hồng Nhung trình bày

                Ngày đi thì gọi Việt gian
                Ngày về thì lại chuyển sang Việt kiều
                Chưa đi : Phản động trăm chiều
                Đi rồi thành khúc ruột yêu ngàn trùng!
                Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 14-07-2011, 03:44 AM.

                Comment

                • #9

                  Con gái quê tôi - Nhật Ngân
                  "Hòa bình", sao phụ nữ VN vẫn khổ ?

                  Tết Mậu Thân 1968, cộng quân đã bất chấp lệnh ngưng bắn, bất chấp truyền thống của dân tộc Việt Nam, ngang nhiên tung quân tấn công một loạt thành phố tỉnh lỵ trên toàn cõi Miền Nam. Những tưởng với yếu tố bất ngờ, với sự án binh bất động của nhiều đơn vị chủ lực của Mỹ, cộng quân sẽ có dịp làm mưa làm gió, chiếm đóng được Miền Nam. Thực tế, trái ngược với dự tính của CS, Tết Mậu Thân 1968 là thời điểm cộng quân bị tổn thất nhiều nhất trong một thời gian ngắn kỷ lục, và đó cũng là thời điểm giúp người Miền Nam nhìn rõ bộ mặt thật của những người cộng sản đội lốt "giải phóng". Đặc biệt, trong những ngày tháng nước sôi lửa bỏng của Xuân 1968, nhiều chiến sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã cống hiến công sức, xương máu, lập nên nhiều chiến công hiển hách, khiến kẻ địch phải giật mình kinh hoàng. Trong số những chiến công hiển hách đó, có nhiều chiến công, đã không hề được nhắc đến, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống âm thầm không một ai biết đến công trạng, nhiều tên tuổi tuy tạo ác mộng cho cộng quân suốt bao nhiêu năm, nhưng hầu như bị chìm vô quên lãng. Một trong những tấm gương hiển hách, từng tạo ác mộng cho cộng quân dịp Tết Mậu Thân 1968 là nữ trung sĩ Ngô Thị Hồng Phượng, người hiện đang định cư tại Villawood, NSW. Để tưởng nhớ tới người lính VNCH nhân dịp kỷ niệm ngày 19 tháng 6, sau đây, Sàigòn Times trân trọng giới thiệu cùng qúy độc giả chiến công ngoại hạng của nữ trung sĩ Ngô Thị Hồng Phượng cách đây 32 năm.
                  Đêm mồng một tết Mậu Thân, Phượng được phân công trực tại đại đội hành chánh tiếp vận 350 của cô ở Sóc Trăng trong khi đơn vị trưởng và đa số binh sĩ đều về nhà đón xuân với gia đình. Giữa lúc đang nô đùa cùng trẻ em trong làng nhân dịp đầu xuân, Phượng bỗng nghe tiếng súng nổ râm ran khắp nơi. Lập tức Phượng vội vàng quay trở lại đơn vị. Đằng sau căn cứ của đại đội 350 là hậu cứ của tiểu đoàn 67 an ninh phi trường, bên trái là trại an ninh quân đội, phía trước mặt căn cứ đại đội 350 là nơi đóng quân của trung đoàn 31 thuộc sư đoàn 21 bộ binh và liên đoàn 41 Biệt động quản(?). Phía bên trái là khu nghĩa địa chạy dài tiếp giáp với hàng rào của phi trường Sóc Trăng. Nhiều binh sĩ hành chánh trong hậu cứ của tiểu đoàn 67 và đại đội 350 là lính kiểng, là con em của những gia đình giàu có gửi gắm để khỏi phải ra trận, do đó có nhiều người chẳng hề biết sử dụng vũ khí.
                  Trong khi băng bó cho các binh sĩ bị thương, Phượng được nhiều người trong khu gia binh chạy về báo là Việt cộng đang tấn công vào hậu cứ của tiểu đoàn 67. Trong cơn nguy cấp giữa một đám binh sĩ chẳng hề có kinh nghiệm chiến đấu, và đám thân nhân của gia đình các binh sĩ đang kêu khóc vì hoảng sợ, Phượng cảm thấy mình có trách nhiệm nặng nề và phải làm một điều gì đó để cứu vãn tình hình. Lập tức cô nữ quân nhân thường ngày chỉ làm công việc hành chánh lo vấn đề lương bổng và tiếp liệu cho quân đội, bỗng thấy mình trở thành một viên chỉ huy tác chiến cương quyết. Phượng ra lệnh mở kho đạn và trang bị vũ khí cho tất cả binh sĩ có mặt, cấp tốc chỉ dẫn cách sử dụng vũ khí cho các binh sĩ hành chánh và bố trí hai người vào một lô cốt. Sau khi dùng loa kêu gọi các gia đình binh sĩ trong khu gia binh của tiểu đoàn 67 tập trung về vị trí an toàn trong căn cứ của đại đội 350, Phương ra lệnh cho hai cây trung liên từ hai phía trái và phải của đơn vị bắn ác liệt vào cộng quân đang tìm cách tấn công vào căn cứ của đại đội 350 từ phía hậu cứ tiểu đoàn 67 và từ phía nghĩa địa. Phượng cũng chẳng hiểu tại sao lúc đó tất cả các binh sĩ hiện diện đều răm rắp chấp hành mọi điều động của cô, coi cô là một chỉ huy thực sự của họ.
                  Vừa trấn an các binh sĩ đang run sợ vì đụng trận lần đầu tiên trong đời, Phượng vừa phải chạy như con thoi từ giao thông hào này qua giao thông hào khác để trông coi việc cung cấp đạn dược vừa động viên tinh thần của anh em binh sĩ. Khi phát hiện thấy nhiều cộng quân từ phía nghĩa địa đã tiến sát đến giao thông hào của đơn vị, đích thân Phượng đã dùng lựu đạn ném liên tục về phía cộng quân cho đến khi không thấy chúng tràn lên nữa. Trong khi đó các đơn vị bạn chung quanh đều phải đương đầu với các cuộc tấn công của cộng quân và hầu như không đơn vị nào tiếp cứu được đơn vị nào. Vì thế, mọi chiến sĩ có mặt bên cạnh Phượng đều coi Phượng là chỉ huy của các binh sĩ thuộc hậu cứ tiểu đoàn 67 và đại đội 350. Một lúc sau thiếu úy Nguyễn Gia H. gọi máy truyền tin yêu cầu gặp Phượng và bảo cô gọi xin phi pháo. Tuy nhiên trong tình trạng chiến đấu căng thẳng Phượng cho biết cô không có bản đồ và đã quên mất cách chấm tọa độ như thế nào. Cuối cùng chính thiếu úy H. đã đích thân gọi xin phi cơ yểm trợ để chia lửa với Phượng.
                  Khi các binh sĩ trong các giao thông hào đã lên tinh thần và cầm chân được cộng quân, Phượng lại phải chạy vào hầm trú ẩn để an ủi vợ con của các binh sĩ trong khu gia binh đang kêu khóc như ri vì sợ hãi. Kế đó, Phượng còn phải chạy xuống câu lạc bộ đang bốc cháy ngùn ngụt để tìm sữa cho những em bé đang kêu khóc vì đói. Khi bọn cộng quân đặt chất nổ phá hủy kho đạn của đơn vị, cũng Phượng là người duy nhất quyết định phải chạy vào cứu càng nhiều đạn dược càng tốt mặc dầu nhiều binh sĩ nhất mực ngăn cản cô. Cuộc chiến đấu bắt đầu lúc 1 giờ đêm mồng một tết cho đến rạng sáng ngày mồng hai thì tiếng súng giao tranh bắt đầu tạm lắng dịu và các đơn vị của tiểu đoàn 67, an ninh quân đội, thiết giáp và biệt động quân cũng đã làm chủ được tình hình và bắt tay được với nhau trong khu vực.
                  Trong khi thiếu úy H. vui mừng được gặp lại Phượng bình an vô sự và các binh sĩ của các đơn vị bạn vui vẻ chúc mừng thắng lợi của nhau thì bọn tàn quân Việt cộng trên một cao ốc gần phi trường tìm cách bắn lén vào phía các chiến sĩ của tiểu đoàn 67. Phượng đã cùng các chiến sĩ của tiểu đoàn này dùng M-79 bắn thẳng vào cao ốc bọn chúng đang trú ẩn và sau đó dũng cảm theo chân các binh sĩ này vừa bắn vừa tiến lên các cầu thang tái chiếm cao ốc, bắt giữ được ba tên Việt cộng cùng đường đang chui trốn dưới một chiếc bàn ăn. Khi bị bắt giữ ba tên này còn nhai trong miệng những miếng bánh chưng, bánh tét mà chúng vơ vét được của đồng bào trong đêm.
                  Khi nghe cộng quân vẫn còn chiếm giữ rạp hát lớn nhất tỉnh Sóc Trăng là rạp Hòa An và từ đó bắn vào các chiến sĩ quân lực VNCH, thiếu úy Nguyễn Gia H. đã mang đơn vị của anh đến giải tỏa. Phượng cũng hào hứng muốn theo chân đoàn quân, tuy nhiên lo ngại cho sự an nguy của Phượng, thiếu úy H. đã giao Phượng lại cho bố mẹ của anh quản lý. Nghĩ đến các chiến sĩ đang xung trận tại rạp hát Hòa An, Phượng ngồi không yên và tìm cách để đi đến đó bằng cách mang trên người càng nhiều thức ăn càng tốt cho các chiến sĩ của tiểu đoàn 67. Trên đường đi, vì mặc quân phục, Phượng đã bị bọn tàn quân Việt cộng nhắm bắn nhưng may mắn cô đã đến rạp hát Hòa An bình yên vô sự và tiếp tục chạy giữa làn đạn để đưa thức ăn đến cho từng chiến sĩ đang tìm cách đánh bật bọn cộng quân ra khỏi rạp hát Hòa An.
                  Đến 5 giờ chiều ngày mồng hai, phần lớn cộng quân đột nhập vào tỉnh lỵ Sóc Trăng đã bị tiêu diệt trong khi bọn tàn quân may mắn sống sót đã rút hết ra khỏi các tiểu khu và thị trấn. Khi đi thu dọn chiến trường Phượng và các binh sĩ dưới quyền chỉ huy của nàng trong đêm đã ngạc nhiên và vui sướng khi nhận ra 30 tên cộng quân đã bỏ xác tại trận ngay phía sau căn cứ của đại đội 350 và phía nghĩa địa, nơi Phượng đã ra lệnh cho hai cây trung liên bắn liên tục cũng như chính bản thân cô đã ném nhiều trái lựu đạn về phía cộng quân. Trong khi phía đơn vị của cô, chẳng có một binh sĩ nào hy sinh ngoại trừ một số binh sĩ của tiểu đoàn 67 bị những tên Việt cộng nằm vùng giả dạng làm người quen vào doanh trại chơi và đâm lén. Đa số những tên cán binh nằm chết phơi thây trước giao thông hào của đại đội 350 đều là những thanh niên còn rất trẻ, nhiều tên chỉ mặc độc có một chiếc quần xà lỏn và trong túi chỉ có một dúm thuốc rê với chiếc hộp quẹt dầu hôi rẻ tiền.
                  Là con gái cưng của một gia đình đại điền chủ miền nam theo Phật giáo, tuy nhiên Phượng đã được gia đình gửi vào học nội trú một trường dòng Thiên Chúa Giáo ở Sài gòn, theo truyền thống của những gia đình giàu có ở miền nam vào thời ấy. Cuối tuần khi được bà ngoại đón về quê ở Chương thiện chơi, Phượng thường được gặp những anh lính Cộng hòa, trên đường hành quân, ghé qua làng dừng chân trong giây lát. Hình ảnh những người trai thời loạn, xếp bút nghiên lên đường chiến đấu bảo vệ quê hương đã khiến Phượng hết lòng khâm phục, và hình ảnh những chàng trai hiên ngang trong những bộ quân phục hào hùng đã trở thành thần tượng in sâu vào tâm hồn của cô bé học trò.
                  Sinh năm 1950, năm 1966 Phượng vừa tròn 16 tuổi và đang học lớp đệ tam trường dòng. Không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi cho đến khi đủ tuổi gia nhập quân đội Phượng đã khai gian thêm cho mình hai tuổi và may mắn được nhận vào học trường đào tạo nữ quân nhân của quân lực VNCH ở Phú Thọ. Xuất thân từ một gia đình có truyền thống võ thuật, ngay từ khi còn nhỏ, Phượng đã là một cô bé hiếu động, can đảm và cương trực. Sau 3 tháng huấn luyện trong quân trường, do thành tích học tập xuất sắc, Phượng được cấp trên đề nghị giữ lại trung tâm làm huấn luyện viên. Nhưng cô nữ quân nhân trẻ tuổi từ chối vì chỉ muốn nhanh chóng được phân công về phục vụ tại các đơn vị, để có thể tận hưởng hương vị cuộc đời thật sự của một người lính.
                  Kết thúc khóa 1 đào tạo hành chánh tài chính, Phượng được phân công về làm việc tại đại đội hành chánh tiếp vận 350 đóng tại Ba Xuyên, trước gọi là tỉnh Sóc Trăng, chuyên trách việc phát lương cho binh sĩ và làm thủ tục hành chánh cho các gia đình thân nhân tử sĩ, quản lý việc phân phối quân nhu và quân dụng cho các đơn vị đóng trong tiểu khu. Ngày đầu tiên đến nhận nhiệm sở là một ngày không vui cho Phượng vì cô đã phải đối diện ngay lập tức với hành vi khả ố của viên sĩ quan chỉ huy là đại úy Hà Văn Liêu. Theo điều luật của quân đội, nữ quân nhân không được bỏ bất cứ vật dụng gì vào túi áo ngực và Phượng nghiêm chỉnh chấp hành. Tuy nhiên đại úy Liêu vẫn cứ một mực khẳng định rằng Phượng có cất giữ vật gì trong túi áo và quyết định khám xét túi áo ngực của cô. Thật ra viên sĩ quan này chỉ muợn cớ kiểm tra tác phong quân nhân để thực hiện những hành vi khả ố xách nhiễu tình dục. Ngay khi nhận biết được hành vi khả ố của viên sĩ quan, Phượng không nén được tức giận, đã vung tay đấm một cú đấm trời giáng vô mặt viên đại úy.
                  Cú đấm của một cô gái 16 tuổi đã được huấn luyện võ thuật ngay từ nhỏ khiến viên đại úy lãnh đủ. Một dòng máu chảy dài từ mũi và một bài học nhớ đời cho tay sĩ quan có máu ba lăm. Tuy nhiên sự kiện đáng tiếc nói trên cũng là một cái cớ để đại úy Liêu luôn tìm mọi cách thi hành kỷ luật Phượng về sau và khiến cho người nữ quân nhân trẻ tuổi, có khả năng và nhiệt tình phải mang biệt danh là "trung sĩ muôn năm" vì chẳng bao giờ có khả năng được đề bạt thăng tiến trong con đường binh nghiệp. Thay vì đối xử công bằng với Phượng, đại úy Liêu đã luôn luôn o ép cô nữ quân nhân thuộc cấp và từ chối không cho Phượng được nghỉ phép thường niên theo đúng tiêu chuẩn. Sau nhiều lần xin không được, vì tuổi trẻ cạn nghĩ và bồng bột Phương tự ý bỏ về Sài gòn và bị đại úy Liêu báo cáo đào ngũ. Khi quay trở lại đơn vị Phượng bị kỷ luật đưa đến tái huấn luyện tại một trung tâm dành cho lính ba gai trong quân đội.
                  Cũng trong thời gian làm việc tại tiểu khu Ba Xuyên, Phượng quen với một sĩ quan trẻ thuộc tiểu đoàn 67 bảo vệ an ninh phi trường Sóc Trăng đóng kế cận với đơn vị của cô. Sau khi đi học một khóa huấn luyện chống du kích ở Mã lai á về, viên thiếu úy trẻ Nguyễn Gia H. tối nào cũng chỉ huy đơn vị của mình tổ chức những cuộc hành quân bảo vệ vòng đai an ninh của phi trường Sóc Trăng nhằm chống lại những âm mưu và hoạt động phá hoại của bọn du kích Việt cộng. Vốn ham mê những hoạt động phiêu lưu, nguy hiểm, nhiều lần Phượng trút bỏ bộ quân phục nữ quân nhân và mặc vào bộ quân phục tác chiến theo viên sĩ quan trẻ tiến hành những cuộc hành quân truy lùng bọn du kích cộng sản. Chính trong những cuộc hành quân này, Phượng đã được thiếu úy H. hướng dẫn cách sử dụng vũ khí, cách chỉ huy hành quân, kể cả cách dùng bản đồ chấm tọa độ và gọi phi pháo. Tuy nhiên những chuyến đi hành quân như thế đã khiến cho Phượng gặp rắc rối rất nhiều với thượng cấp vì cô đã vi phạm kỷ luật quân đội khi rời bỏ đơn vị của mình để làm những việc không được cấp trên đồng ý. Đền bù lại tình yêu đã nảy nở giữa cô nữ quân nhân gan dạ và viên sĩ quan tình báo trẻ tài ba, và họ đã nên vợ thành chồng sau biến cố Tết Mậu Thân năm 1968.
                  Sau năm 1968 Phượng được thuyên chuyển về phục vụ tại sư đoàn 21 bộ binh dưới quyền chỉ huy của tướng Nguyễn Vĩnh Nghi và sau đó lại về phục vụ tại trung đoàn 31 thuộc sư đoàn này. Năm 1973 Phương xin giải ngũ và từ đó hạnh phúc với cuộc đời làm vợ và làm mẹ, trong khi chồng là thiếu úy Nguyễn Gia H., lúc này đã là đại úy phân chi khu trưởng tại Ba Xuyên.
                  Khi cộng quân tiến vào Sài gòn ngày 30.4.1975 và sau đó tiến chiếm các tỉnh lỵ khác thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nhiều sĩ quan của quân lực VNCH đã chọn cái chết oanh liệt ngay tại đơn vị chứ không chấp nhận đầu hàng cộng sản. Thiếu tá Nguyễn Gia H. phân chi khu trưởng thuộc tiểu khu Ba Xuyên cũng quyết định tử thủ với đơn vị của anh cho đến khi thất thế bị cộng quân bắt làm tù binh và mang đi biệt tích cho đến 10 năm sau. Trong ngôi nhà của mình, Phượng sống với ba đứa con thơ mà đứa lớn nhất là bé Hân chỉ mới có 7 tuổi và đứa nhỏ nhất mới có hai tuổi và hãi hùng đón nhận những tin tức kinh hoàng. Nhiều bà con xóm giềng đến nhà Phượng lánh nạn đã kể một đại úy tên Thơm đã bị những tên cán binh cộng sản xẻo thịt và xát muối ớt vào những vết thương để tra tấn. Cuối cùng chúng đã dùng lưỡi lê của tiểu liên AK-47 đâm viên đại úy một nhát từ sau lưng ra trước ngực ngã sấp chết tức tưởi ngay trước mặt vợ con.
                  Sáng sớm ngày 1.5.1975 một tiểu đội cộng quân trên một chiếc GMC cướp được của quân lực VNCH đổ xịch trước nhà của Phượng. Trong khi đám thuộc hạ bao vây chung quanh căn nhà, tên chỉ huy Dương Phước Tranh cùng với một số tên khác ập vào nhà và bắt Phượng trói ké lại và đẩy cô đứng sát vào tường trước cặp mắt kinh hoàng của ba đứa con thơ. Lăm lăm một cuốn sổ ghi tên những đối tượng gọi là có nợ máu với nhân dân trong tay, tên Tranh hạch hỏi Phượng nơi cất giấu vũ khí, điện đài và tài tiệu mật của chồng cô. Trước đó Phượng đã giấu vũ khí và máy truyền tin xuống chiếc ao cá đàng sau nhà. Một tay dí khẩu K-54 vào đầu Phượng, một tay dí sát cuốn sổ ghi danh sách nợ máu vào mặt Phượng, tên Tranh hằn học bảo: "Chính mi là mụ Phượng Mậu Thân. Chính mụ là nhân vật đầu sổ, cách mạng cần thanh toán nợ máu."
                  Cho đến lúc đó Phượng mới hiểu rằng thành tích chiến đấu của cô trong đêm mồng một tết Mậu Thân đã khiến bọn Việt cộng kiêng dè đến nỗi chúng đặt tên cô là "Phượng Mậu Thân" và cho cô vào sổ đen của bọn chúng.
                  Thấy đám Việt cộng đối xử thô bạo với mẹ, chú bé út mới có hai tuổi chạy lại ôm chân Phượng đang bị trói đứng sát chân tường trong khi chú bé thứ hai mếu máo van xin tên Tranh đừng giết chết mẹ nó. Tên Tranh nhảy xổ lại và nắm lấy đứa con trai út của Phương và ném lên nền nhà một cách hung bạo khiến đứa bé bị bể đầu gối máu chảy dầm dề. Đứa con trai thứ hai thấy vậy bèn nhảy vào ôm em liền bị tên Tranh đá túi bụi. Quá đau lòng, Phượng quên hẳn mình đang bị trói, lao đến lấy thân mình che chở cho hai con. Nổi cơn điên, tên Tranh nắm lấy Phượng và đẩy cô ngã chúi vào một góc tường khiến cả chiếc bình lọc nước bằng sành ngã theo. Một mảnh bình vỡ cắt đứt sợi dây trói tay Phượng và cắt đứt một phần cánh tay cô khiến máu phun có vòi. Xoay sang đứa con gái lớn là bé Hân tên Tranh thấy cô bé đang nhìn hắn một cách giận dữ liền tiến đến và hét lớn: "Mày thách thức tao hả?" rồi hắn tát bé Hân một cái rõ mạnh đến nỗi cả tuần sau dấu tay thô bạo của tên cộng sản ác ôn vẫn còn in lằn lên trên má của bé Hân. Tiếp đó tên Tranh vừa cười đểu vừa nói: "Tụi mày đừng lo không có ai nuôi. Sau khi tao cho mẹ mày về chầu trời tao sẽ cho cả chúng mày đi theo luôn".
                  Lúc đầu tên Tranh định để cho Phượng chảy máu đến chết, nhưng sau khi hàng xóm đang bu lại coi la ó phản đối và bảo tên Tranh rằng Phượng là một người tốt, phải đưa cô đi bệnh viện, tên Tranh mới hậm hực cho phép hàng xóm thuê xe lôi đưa Phượng đến bệnh viện. Tại bệnh viện chúng bảo cô là "ngụy quân có nợ máu" không được vào phòng cấp cứu và để mặc cho máu chảy đọng thành vũng ngay chỗ Phượng ngồi. Một lúc sau một bác sĩ được cộng sản tạm dùng đi qua, lập tức đưa Phượng vào phòng cấp cứu bất chấp sự phản đối của đám cộng quân. Sau khi nối lại dây thần kinh và băng bó tử tế, vị bác sĩ cho phép Phượng về nhà. Tại nhà, bọn tên Tranh tuyên bố tịch thu nhà của Phượng sau khi cho người mò tìm thấy súng mà Phượng ném xuống trước đó. Chúng cho phép mẹ con Phượng sống đêm cuối cùng trong ngôi nhà và sáng sau bọn chúng lại đến buộc bốn mẹ con ra đi chỉ được mặc một bộ áo quần trên người. Khi nhìn thấy trên tai của bé Hân có chiếc khoen nhỏ bằng vàng, một tên Việt cộng đã giật lấy khiến tai của bé Hân rách và chảy máu ròng ròng.
                  Hàng xóm ai cũng lấy làm thương cảm và mang thức ăn ra cho mấy mẹ con nhưng chẳng có ai dám để mẹ con Phượng vào nhà. Trước hoàn cảnh bi thương đó Phượng chẳng còn biết đi đâu hơn là đến chùa xin tá túc. Vài ngày sau bà ngoại của Phượng ở Chương Thiện hay tin liền về Sóc Trăng vào chùa gặp mấy mẹ con và thuê xe đưa cả nhà về lại ngôi nhà vừa bị tịch thu. Tại đây bà cụ yêu cầu được gặp bọn cộng sản chóp bu trong địa phương và cho chúng biết rằng năm 1945 gia đình bà đã cống hiến toàn bộ ruộng đất cho Việt Minh để kháng chiến chống Pháp, bản thân bà cũng từng là một cán bộ phụ nữ từng nuôi giấu những tên như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và bà sẽ ra tận trung ương để kiện tới cùng những ai muốn lấy nhà của con bà.
                  Bọn chính trị viên khu vực chống chế rằng Phượng có nhiều nợ máu với nhân dân, nhưng bà cụ bảo cho chúng biết Phượng chỉ là một nữ quân nhân chuyên phát lương và còn ba đứa con dại phải nuôi. Thấy bà cụ làm dữ và biết rằng bà từng có công với Việt Minh, bọn Việt cộng tại địa phương đành bị khuất phục và cho phép Phượng với mấy đứa con được vào tạm trú trong ngôi nhà của chính mình. Thật ra bà ngoại của Phượng là một phụ nữ yêu nước từng góp công góp của cho Việt Minh đánh Pháp, nhưng khi phát hiện ra bộ mặt thật của chúng bà cụ đã dứt khoát đoạn tuyệt với cộng sản và khuyến khích con cái tham gia quân lực VNCH. Chính bà cụ đã từng bảo cô rằng ăn cây nào phải rào cây ấy. Đã ăn cơm của quốc gia thì phải trung thành với quốc gia và kiên quyết chống cộng đến cùng.
                  Thời gian sau đó Phượng bị bắt đi học tập cải tạo dành cho hạ sĩ quan hai tuần, mặc dầu cô chỉ là lính văn phòng và đã giải ngũ từ năm 1973. Tiếp đến chính quyền địa phương hăm dọa, khủng bố tinh thần của cả mấy mẹ con và buộc cô phải đi lao động không công làm thủy lợi. Kể từ ngày 30.4.1975 cuộc sống của Phượng đã biến thành địa ngục trần gian. Nỗi lo lắng cho số phận của người chồng đã bị bắt đi biệt tích, nỗi lo lắng mấy đứa con còn trứng nước thơ ngây và những đòn đàn áp tinh thần dữ dội của cộng sản đã khiến cho thần kinh của Phượng luôn luôn trong tình trạng căng thẳng như một sợi dây đàn. Lúc nào Phượng cũng có cảm giác là sự hiểm nguy, sự chết chóc có thể xảy đến cho mẹ con nàng bất cứ lúc nào. Tình hình đó kéo dài khiến Phượng ngày càng suy kiệt về thể chất lẫn tinh thần. Cuối cùng không thể chịu đựng hơn được nữa bà ngoại Phượng đã giúp Phượng mang con trốn về Sài Gòn sống qua ngày. Năm 1984 Phượng vượt biên và đến định cư tại Úc.
                  32 năm sau sự kiện tết Mậu Thân năm 1968, người nữ quân nhân tên Ngô Thị Hồng Phượng 50 tuổi, lúc này sống tại Úc, đã trở thành một phụ nữ luống tuổi, tóc đã lấm chấm bạc và những nét nhăn hằn trên khóe mắt, bệnh hoạn sau nhiều năm bị khủng bố tinh thần. Tuy nhiên khi nói đến cuộc đời sôi động của một nữ quân nhân quân lực VNCH năm xưa, giọng nói của chị vẫn tràn trề một niềm tự hào vô bờ bến, khuôn mặt của chị bừng lên niềm hứng khởi kỳ lạ khi nhắc đến đồng đội và những sự kiện anh hùng của thời xa xưa. Tuy nhiên cho đến hiện nay giấc ngủ của chị vẫn thường xuyên bị làm rối loạn bởi những cơn ác mộng nặng nề. Hình ảnh tên Tranh dí khẩu K-54 vào đầu chị; hình ảnh đứa con út bị vỡ đầu gối máu me lênh láng; hình ảnh đứa con gái bị giật chiếc khoen đến rách lỗ tai vẫn tiếp tục làm chị hoảng sợ, kêu thét vùng vẫy trong những giấc mơ.
                  Chị cho biết khi nhìn khẩu súng trong tay tên Tranh, chị chỉ muốn chết một cách oanh liệt như gương của hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị, nhưng nhìn ba đứa con thơ, lòng yêu con đã khiến chị phải bấm bụng chịu nhục để sống vì chúng. Mặc dầu đã phải chịu đựng biết bao khổ ải và đau đớn về thể xác cũng như tinh thần, người nữ quân nhân năm xưa vẫn giữ tấm lòng yêu quân ngũ không hề phai nhạt. Khi được hỏi nguyện vọng cuối cùng của chị là gì, chị Phượng với một cặp mắt long lanh cảm xúc, cho biết, chị chỉ muốn khi mình nằm xuống sẽ được tẩm liệm trong bộ quân phục của nữ quân nhân quân lực VNCH và người ta sẽ đưa chị đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một chiếc quan tài phủ lá cờ vàng ba sọc đỏ. Dưới bóng ngọn cờ oanh liệt đó chị Phượng đã sống những tháng năm đẹp nhất của cuộc đời, cuộc đời của một nữ quân nhân quân lực VNCH dũng cảm.

                  Người con gái Việt Nam bây giờ

                  Con gái quê tôi bây giờ tựa cánh bèo trôi
                  Tan tác như mây dạt trôi khắp bốn phương trời
                  Còn đâu một thời ước mơ sao không đưa lối
                  Còn đâu một thời thơ mộng hoa bướm chung vui
                  Con gái quê tôi âm thầm lệ ướt từng đêm
                  Ôi kiếp tha hương le loi đất khách quê người
                  Giờ trông quê nhà ngút xa khuất mờ sương khói
                  Nghe lòng xót xa trông mối tơ vò ngổn ngang
                  Ôi người con gái Việt Nam
                  Bây giờ chốn kín tuổi xuân quê người, ai biết ai hay?
                  Ôi người con gái Việt Nam.
                  Bây giờ xác thân rã rời, bên người nước mắt rơi rơi
                  Con gái quê tôi, bao người được thấy mùa xuân ?
                  Tan hết binh đao mà sao chưa thấy nụ cười
                  Ngày qua lại ngày, áo cơm, héo gầy thân xác
                  Thì thôi một lần cũng đành nhắm mắt đưa chân
                  Con gái quê tôi bây giờ tội lắm người ơi
                  Chân bước ra đi mà đâu hay bên hay bờ
                  Chỉ xin ơn trời xót thương dẫn đường đưa lối
                  Bến đục bến trong thôi cũng ơn trời mà thôi
                  (Nhật Ngân)
                  Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 15-07-2011, 07:22 PM.

                  Comment

                  • #10

                    Lễ tưởng niệm liệt sỹ chống Trung Quốc


                    Cuộc chiến ngắn ngủi nhưng gây tổn thất
                    Một lễ tưởng niệm chiến sỹ Việt Nam hy sinh trong các cuộc chiến với Trung Quốc vừa được tổ chức tại TP Hồ Chí Minh.
                    Thông báo của nhóm nhân sỹ trí thức TP HCM do sử gia lão thành Nguyễn Đình Đầu ký tên cho hay đây là "lễ tưởng niệm đồng bào chiến sỹ hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, phía Tây Nam và ở Hoàng Sa,Trường Sa".
                    Lễ tưởng niệm được tổ chức tại CLB Phaolô Nguyễn Văn Bình tại 43 Nguyễn Thông, Quận 3, vào sáng thứ Tư 27/07, nhằm Ngày Thương binh Liệt sỹ Việt Nam.
                    Đây có lẽ là buổi tưởng niệm đầu tiên đối với các liệt sỹ người Việt của cả hai chế độ và trong các cuộc chiến với Trung Quốc.
                    Được biết trong buổi lễ có sự tham gia bà quả phụ Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo của hải quân Việt Nam Cộng hòa đã anh dũng tử nạn trong cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974.
                    Sau trận chiến đó, mà 58 lính VNCH hy sinh, Trung Quốc đã chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
                    Những người có mặt trong lễ tưởng niệm cũng tỏ lòng tri ân với các liệt sỹ đã ngã xuống trong trận chiến bảo vệ Trường Sa năm 1988, trong chiến tranh biên giới Tây Nam với Khmer Đỏ và trong cuộc chiến tranh ngắn ngủi nhưng đẫm máu với Trung Quốc hồi tháng 2/1979.
                    Con số thương vong
                    Trong khi đó, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy gửi cho BBC từ Hà Nội một số thông tin mới liên quan con số thương vong của quân đội Trung Quốc trong cuộc chiến biên giới 1979.
                    Ông Dy cho hay: "Mặc dù được bưng bít, che giấu trong một thời gian dài, nhưng vài năm gần đây một số phương tiện truyền thông chính thống của Trung Quốc và của người Trung Quốc tại nước ngoài đã dần hé lộ những tổn thất về nhân mạng của quân đội nước này".
                    Ông nói Mạng Thiết huyết quân sự Trung Quốc ngày 10/1/2008 đã viết: "Trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam năm 1979, chính thức đánh trận chỉ có hơn hai tuần lễ, từ 17/2 đến 5/3, mà Trung Quốc đã tổn thất hai, ba vạn quân sĩ, trung bình mỗi ngày chết hai, ba ngàn người".
                    Theo ông Dương Danh Dy, mạng này nói trong chiến tranh hiện đại, "cái giá phải trả đó là một con số thiên văn".
                    Bản Tổng kết công tác tác chiến đánh trả tự vệ Việt Nam do Cục Hậu Cần Quân khu Côn Minh biên soạn thì cho hay từ 17/2 đến 5/3/1979 tổng cộng quân Giải phóng và dân công hỏa tuyến đã hy sinh là 6.954 người, bị thương hơn 14.800 người.
                    Một nguồn tin từ Đài Loan đưa ra con số cao hơn: Trung Quốc bị chết 26.000 người, bị thương 37.000 người.
                    Ông Dương Danh Dy nhận xét: "Chỉ cần đọc những hàng chữ trên, chúng ta có thể thấy ngay một điều: Ai đã cho ai một bài học?"


                    Mỗi người chỉ có một đời để sống và một lần để chết
                    Hãy sống trong liêm sĩ và chết trong niềm kính trọng
                    Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 27-07-2011, 12:27 AM.

                    Comment

                    • #11

                      Lễ tưởng niệm các liệt sỹ Việt Nam của cả hai chế độ trong các cuộc chiến chống Trung Quốc kể từ năm 1974 tới nay đã diễn ra ở thành phố Hồ Chí Minh vào ngày Thương binh liệt sỹ 27/7.
                      Trong số những người tới dự có bà Huỳnh Thị Sinh, quả phụ của Thiếu tá Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo của hải quân Việt Nam Cộng hòa, người nằm trong số 58 binh lính hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa với hải quân Trung Quốc hồi năm 1974.
                      Nguyễn Hùng của BBC đã hỏi chuyện bà Sinh ngay sau khi bà tham dự buổi lễ tưởng niệm đầu tiên cho chồng bà từ năm 1975.
                      Khi Thiếu tá Ngụy Văn Thà rời nhà đi công tác trong những ngày giáp Tết Quý Sửu hồi năm 1974, ông ôm hôn và tạm biệt vợ con như các chuyến đi trước đó.
                      Nhưng bà Huỳnh Thị Sinh, vợ ông, nói ông có vẻ bịn rịn hơn bình thường.
                      Ông, bà Sinh và ba cô con gái, khi đó lên ba, sáu và chín tuổi sống trong một căn hộ chung cư trên tầng hai ở đường Lý Thường Kiệt.
                      Căn hộ có một chiều 12 mét và một chiều 3,5 mét. Bà Sinh nói vì "không có tiền nên mới phải ở vậy".
                      Bà nhớ lại buổi chia tay chồng: "Trước khi ông đi, ông cứ đi ra lại đi vô.
                      "Rồi ông đứng dưới đường nói 'tàu đang vô dầu, sửa chưa xong".
                      Đó là cuộc nói chuyện cuối cùng giữa Thiếu tá Thà, 31 tuổi và bà Sinh,26.
                      Trong trận hải chiến một, hai ngày sau đó, chiến hạm Nhật Tảo - HQ10 của ông được cho là đã đã bắn hỏng một trong số các tàu của hải quân Trung Quốc nhưng HQ10, vốn chưa sửa xong hỏng hóc và chỉ còn một máy hoạt động, phải hứng những làn mưa đạn.
                      Theo lời kể của những người sống sót, máu các chiến sỹ loang đỏ trên boong, và Hạm trưởng Thà đã tử trận khi đạn bắn trúng đài chỉ huy.
                      Sau khi trận hải chiến ban đầu bất phân thắng bại, hai tàu chiến tăng viện của Trung Quốc đã tới Hoàng Sa và bắn chìm chiến hạm Nhật Tảo, hậu thân của tàu vớt mìn Hoa Kỳ USS Serene.
                      Xác của hạm trưởng Thà cùng hàng chục binh sĩ đã ra đi cùng chiến hạm vào lòng biển.
                      Đau buồn
                      Nói chuyện với BBC hôm 27/7, bà Sinh nói:
                      "Cái chuyến công tác sau cùng mà ông Thà đi, ổng đâu có nói đi để đánh nhau với Trung Quốc hay là cái gì đâu. Cũng bình thường như mình nghĩ ông ấy đi công tác hàng tháng vậy thôi.
                      "Có khi ông ấy đi một tháng ông ấy về mười ngày rồi ông ấy lại đi nữa. Mà có khi ông ấy đi hai, ba tháng ông ấy mới về một lần. Mình cũng nghĩ ông ấy đi công tác vậy thôi.
                      "Ông ấy nói chuyến công tác này ông ấy đi Đà Nẵng đó.
                      "Mà tôi không biết làm sao, qua ngày sau thấy báo tin là ổng chết, đánh nhau với Trung Quốc.
                      "Trời ơi, lúc đó tôi cũng đau buồn lắm. Chứ cũng đâu biết sao bây giờ. Tôi hết hồn luôn đó."
                      "...Lúc đó mấy cháu nó còn nhỏ quá. Cháu nhỏ nhất là ba tuổi, còn cháu lớn hình như nó biết.
                      "Nó ra ngoài cầu thang nó ngồi... nó buồn lắm.
                      "Lúc đấy nó cũng học lớp hai, lớp ba rồi... nó đọc báo nó thấy, nó hỏi tôi.
                      "Thì tôi cũng kể cho nó là ba nó chết vậy đó thôi."
                      Mất xác
                      Bà Sinh nói bà nhớ chính quyền thông báo cho bà vào ngày 27 Tết Quý Sửu.

                      Thiếu tá Ngụy Văn Thà và hàng chục đồng đội đã chết mất xác cùng chiến hạm Nhật Tảo
                      "Lúc chồng tôi mất thì Bộ Tư lệnh Hải quân cũng có tới nhà tôi làm lễ truy điệu.
                      "Tại vì ảnh chết không có xác, chỉ có làm lễ thôi.
                      "Lúc đó nghe ông Tư lệnh ông ấy nói chết... mất xác luôn rồi.
                      "Tại vì chồng tôi chết trên chiếc tàu, mà tàu nó chìm xuống là mất xác luôn rồi.
                      "Hổng có đem xác về được mà cũng hổng có nơi chôn cất gì hết, chỉ có làm lễ truy điệu và mình để cái ảnh của anh lên để thờ vậy thôi.
                      "Hàng năm đúng ngày đó làm đám giỗ vậy à."
                      Tưởng niệm
                      Bà quả phụ nói kể từ tháng Một năm 1974 cho tới khi Sài Gòn sụp đổ hồi tháng Tư 1975, bà được nhận tiền "cô nhi quả phụ" của chính quyền Việt Nam Cộng hòa để bà và ba con có thể sinh sống.
                      Sau khi Việt Nam thống nhất, các khoản trợ cấp không còn nữa.
                      Bà đi làm hợp tác xã và ở vậy nuôi ba cô con gái.
                      Hiện bà Sinh đang ở nhờ nhà người em gái do người ta đã phá chung cư cũ của bà đi để xây mới nhưng việc xây dựng còn chưa bắt đầu.
                      Bà nói với BBC bà rất vui khi đi dự buổi lễ tưởng niệm những liệt sĩ hy sinh khi chiến đấu chống Trung Quốc.
                      "Cái đó thì tôi hổng dám nghĩ tới.
                      "Mấy anh ở bên đây muốn làm sao thì cũng được.
                      "Làm được như vậy cho mình thì mình cũng mừng lắm.
                      "Mấy anh cũng nghĩ tới vậy thì mình cũng cảm ơn".
                      Chồng bà Sinh nằm trong số 58 người lính Việt Nam Cộng hòa hy sinh trong trận hải chiến mà Trung Quốc đã chiến thắng và chiếm toàn bộ đảo Hoàng Sa hồi năm 1974.
                      Kể từ đó tới nay, ngoài cuộc chiến biên giới đẫm máu năm 1979, hải quân Trung Quốc cũng bắn chết 64 lính Việt Nam ở Trường Sa hồi năm 1988 và chiếm bãi đá Gạc Ma từ tay Việt Nam.
                      Hồi cuối tháng Năm và trong tháng Sáu, chính quyền Hà Nội đã ngầm cho phép một số cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc diễn ra sau khi Bắc Kinh cho tàu gây hấn với tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam ở khu vực đảo Trường Sa.
                      Tuy nhiên, một số cuộc biểu tình trong tháng Bẩy đã bị trấn áp dưới sức ép của Trung Quốc và ý muốn kiểm soát tối đa của chính quyền Việt Nam.
                      BBC


                      Sau khi Thiếu tá Ngụy Văn Thà tử trận, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã truy tặng Đệ ngũ Đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu và truy phong ông lên hàm Trung tá Hải quân.
                      Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 29-07-2011, 06:52 PM.

                      Comment

                      • #12

                        Câu chuyện về buổi lễ tưởng niệm nhân “Ngày Thương Binh Liệt Sĩ Việt Nam,” do một số nhân sĩ, trí thức phối hợp với “Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình” tổ chức tại Sài Gòn hôm 27 tháng 7 vừa qua, được các cơ quan truyền thông quốc tế phổ biến rộng rãi, và gây sự chú ý đặc biệt trong dư luận.

                        Trong hình là sử gia Nguyễn Ðình Ðầu phát biểu trong một buổi hội thảo về Hoàng Sa Trường Sa hồi tháng 9 năm 2009. Ông là một trong những người đứng ra tổ chức buổi lễ tưởng niệm liệt sĩ VN tại Sài Gòn ngày 27 tháng 7 vừa qua. (Hình: VNExpress)
                        Buổi lễ đặc biệt ở chỗ, lần đầu tiên trong lịch sử, “buổi lễ tưởng niệm chung các chiến sĩ hai miền Nam Bắc đã bỏ mình trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988.”
                        Sử gia Nguyễn Ðình Ðầu, năm nay 91 tuổi, là một trong những người khởi xướng lễ tưởng niệm này.
                        Một nguồn tin của Người Việt cho biết, tham gia buổi lễ tưởng niệm, ngoài hơn 50 nhân sĩ trí thức và người trẻ tham dự, còn có “rất đông an ninh, khoảng 20 người.”
                        Hình trên, bà Quả phụ Ngụy Văn Thà hôm Thứ Tư 27-7-2011 được mời dự lễ vinh danh tử sĩ VNCH trận Hoàng Sa 1974. Đây là lần đầu tiên có buổi lễ công khai vinh danh tử sĩ VNCH ở VN.
                        Tin cho hay, buổi lễ có sự hiện diện của bà Huỳnh Thị Sinh, quả phụ của cố Hải quân Thiếu tá VNCH Ngụy Văn Thà, hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo, tức HQ-10, người đã oai hùng tuẫn tiết theo tàu trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 18 tháng 1, 1974.
                        Sự xuất hiện của bà quả phụ Ngụy Văn Thà đúng là đã làm cho mọi người xúc động. Vì từ trước đến giờ trên các cơ quan thông tin báo chí không nêu là bà vẫn còn ở Sài Gòn, ai cũng nghĩ rằng chắc bà đã đi nước ngoài rồi.
                        Trả lời phỏng vấn của đài RFI, bà Huỳnh Thị Sinh cho biết là “suốt bao nhiêu năm nay, không ngờ ngày hôm nay lại được quan tâm.”
                        Tiếp xúc với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại, cựu Phó Ðề Ðốc Hải Quân VNCH, ông Hồ Văn Kỳ Thoại, người trực tiếp chỉ huy trận hải chiến Hoàng Sa vào tháng 1, 1974, cho biết: “Chúng tôi lúc nào cũng tưởng nhớ đến anh em chiến sĩ đã bỏ mình trong trận chiến vì chủ quyền của quốc gia. Tôi nghĩ rằng bất cứ ai là người Việt cũng có quyền tự hào về trận hải chiến lịch sử này, trong đó các chiến sĩ VNCH đã anh dũng hy sinh để bảo vệ lãnh thổ Việt Nam.”
                        Ông nói thêm: “Sự kiện các sự hy sinh của họ được nhắc đến trong buổi lễ tưởng niệm tại Sài Gòn khiến tôi rất vui và vô cùng xúc động, và tôi nghĩ đây là một biến chuyển tích cực.”
                        Ðược hỏi về nhận định của ông trước sự kiện nhà cầm quyền Hà Nội không làm khó dễ ban tổ chức, ông Hồ Văn Kỳ Thoại nói: “Tuy nhìn chung thì tôi thấy đây là một sự kiện vui, nhưng cũng cảm thấy niềm vui không được trọn vẹn, vì nếu nhà cầm quyền và người dân Việt Nam cùng có cử chỉ này thì hay hơn nhiều. Khi cử chỉ này được các vị nhân sĩ khởi xướng, thì người ta không thể không tự hỏi là không biết Hà Nội có muốn như vậy không, hay là bị đặt vào thế kẹt?”
                        Một sinh viên tên Duy Nguyễn, người từng tham dự nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc, có mặt tại lễ tưởng niệm, nói với báo Người Việt là anh “đánh giá cao” việc các nhân sĩ trí thức Việt Nam làm buổi tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ nhân ngày 27 tháng 7.
                        “Buổi lễ này đã tạo ra một diễn đàn giúp cho những người quan tâm bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình về hiện tình đất nước, và đã khích lệ được lòng yêu nước,” sinh viên Duy Nguyễn khẳng định.
                        Về quan ngại là nhà nhà cầm quyền có thể sẽ cản trở buổi lễ vì e ngại có biểu tình hay biểu dương để phản kháng Trung Quốc, sử gia Nguyễn Ðình Ðầu, chia sẻ với đài RFA: “Buổi lễ này hoàn toàn có tính cách nghi lễ cầu siêu tôn vinh những người đã hy sinh vì tổ quốc hay là nạn nhân chiến cuộc. Theo tôi biết sẽ không có sự biến chuyển sang mít tinh biểu tình…”
                        Những trí thức nổi tiếng như sử gia Nguyễn Ðình Ðầu, Giáo Sư Tương Lai, Nguyễn Phương Tùng, các văn nghệ sĩ như nhà thơ Ðỗ Trung Quân, Nguyễn Duy… tham gia buổi lễ đã giơ cao các khẩu hiệu như “Ủng hộ kiến nghị 10 tháng 7, 2011 của nhân sĩ, trí thức gởi Quốc Hội và Bộ Chính Trị,” “Phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc xâm phạm biển, đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam,” “Hòa bình và công lý cho Biển Ðông,” “Yêu cầu nhà cầm quyền không đàn áp biểu tình yêu nước của nhân dân.”
                        Sinh viên Duy Nguyễn cho biết, việc các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong cuộc hải chiến Hoàng Sa năm 1974 được nhắc đến là một “nhấn mạnh rằng dù ở ý thức hệ nào, thì những chiến sĩ hy sinh vì đất nước sẽ muôn đời được ghi nhớ,” và với anh đây là “một sự kiện trong một chuỗi sự kiện có vẻ tốt.”
                        Dẫn giải “chuỗi sự kiện” này, anh Duy đơn cử việc hải chiến Hoàng Sa năm 1974 giữa VNCH với Trung Quốc được nhắc đến tại Hội Nghị An Ninh Hàng Hải Biển Ðông ở Washngton, DC, vào cuối tháng 6 như một minh chứng cho chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo này, cũng như việc tờ báo Ðại Ðoàn Kết, trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, đã có hai bài viết nhắc tới trận hải chiến này.
                        * Sự kiện hiếm có
                        Trong bài viết có tên “Lễ tưởng niệm liệt sĩ chống Trung Quốc,” BBC giải thích sự kiện đặc biệt này trong câu viết: “Ðây có lẽ là buổi tưởng niệm đầu tiên đối với các liệt sĩ người Việt của cả hai chế độ và trong các cuộc chiến với Trung Quốc” để “bảo vệ biên giới phía Bắc, phía Tây Nam và ở Hoàng Sa, Trường Sa.”
                        Sự kiện này được xem là “đặc biệt,” “hiếm có” là vì từ sau biến cố 1975, đây là lần đầu tiên, tại Việt Nam, tên của các chiến sĩ quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh vì tổ quốc trong trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 được nhắc đến, và được vinh danh cùng với các liệt sĩ của quân đội phía Bắc đã ngã xuống trong cuộc chiến Trường Sa năm 1988.
                        Trả lời câu hỏi của phóng viên Nam Nguyên/RFA là có phải đây là một hình thức “vinh danh những người đã chết vì bảo vệ lãnh thổ Việt Nam không phân biệt là quốc gia hay cộng sản” không, sử gia Nguyễn Ðình Ðầu, phát biểu: “Ðúng như thế, những người đã hy sinh rồi thì không nên phân biệt ý thức hệ hay về phương diện chính trị. Nhưng thế nào cũng có tác động về phương diện chính trị.”
                        Cụ Nguyễn Ðình Ðầu giải thích: “Những chiến sĩ bên này hay bên kia nhưng đều là bảo vệ đất đai của tổ quốc. Chúng tôi cũng cầu nguyện và tôn vinh cả những đồng bào nạn nhân của những lực lượng thù địch ngoại bang chống phá Việt Nam.”
                        Khi được yêu cầu đánh giá “chuỗi sự kiện” nêu trên, sinh viên Duy Nguyễn tỏ ra dè dặt: “Ðây có thể là một điều rất tốt, nếu chúng ta xem nó là một tiến bộ về nhìn nhận khách quan, hay xa hơn là việc minh bạch hóa một cách công minh về lịch sử đất nước, còn ngược lại thì hoàn toàn không tốt, nếu chỉ đơn thuần là một giải pháp mang tính toán chính trị thời điểm. Và ở thời điểm này, e rằng chưa thể xác quyết!”
                        Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 28-07-2011, 07:30 PM.

                        Comment

                        • #13


                          NGƯỜI ANH HÙNG HỌ NGỤY
                          Người yêu nước không thể nào là ngụy
                          Người chết vì nước như anh không thể nào là ngụy
                          Nhưng anh :
                          Là Ngụy Văn Thà
                          Anh- hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo
                          Lao thẳng vào tàu giặc cướp
                          Tên anh còn mãi với Hoàng Sa
                          Biển vật mình thét đại bác
                          Giặc bủa vây chiến dịch biển người
                          Lửa dựng trời dìm tàu giặc
                          Máu anh cùng đồng đội ngời ngời
                          Ôm chặt tàu
                          Ôm chặt đảo
                          Anh hóa thành Tổ Quốc giữa trùng khơi
                          Gió mùa đông bắc gào khóc
                          Ngụy Văn Thà
                          Mãi mãi neo tàu vào quần đảo
                          Tổ Quốc ngoài Hoàng Sa
                          Trận chiến ba mươi phút
                          Tượng đài anh là phong ba
                          Đỉnh sóng khói hương nghi ngút
                          Biển để tang anh bằng sóng bạc đầu



                          Quần đảo nhấp nhô mộ phần liệt sĩ
                          Linh hồn anh hú gọi đất liền
                          Ngụy Văn Thà
                          Tên anh không phải bài ca
                          Tên anh là lời thề độc :
                          - Phải giành lại Hoàng Sa
                          Sóng vẫn vồ lấy đảo…
                          (Trần Mạnh Hảo)
                          Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 28-07-2011, 07:41 PM.

                          Comment

                          • #14


                            Ngụy Văn Thà (1943–1974) là một sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng Hòa, Thuyền trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10, tử trận trong hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 và được truy phong hàm Trung tá Hải quân.
                            Ông sinh ngày 16 tháng 1 năm 1943 tại Trảng Bàng, Tây Ninh. Ở độ tuổi trưởng thành, ông gia nhập lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng hòa và theo học khóa 12 Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam Cộng hòa tại Nha Trang. Ông tốt nghiệp khóa Đệ nhất Song ngư, ngành Chỉ huy vào tháng 3 năm 1964 với cấp bậc thiếu úy.
                            Sau khi tốt nghiệp, ông thực tập trên hải vận hạm LST-1166/MSS-2 Washtenaw County thuộc Hạm đội 7 của Hoa Kỳ. Trong thời gian phục vụ trên một số chiến hạm của Hạm đội Hải Quân Việt nam Cộng Hòa, ông lần lượt đảm nhận các chức vụ:
                            Ông được chính phủ Việt Nam Cộng hòa tặng thưởng 13 huy chương đủ loại, trong số đó có Đệ ngũ Đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu.
                            Trận đánh cuối cùng
                            Ngày 18 tháng 1 năm 1974, hộ tống hạm Nhựt Tảo HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà chỉ huy đang tuần tiễu tại vùng biển Đà Nẵng thì được lệnh hành quân trực chỉ Quần đảo Hoàng Sa, tiếp ứng lực lượng hải đội Việt Nam Cộng hòa tại đây. Bấy giờ, tàu HQ-10 đang có một máy chính và radar hải hành đang ở trạng thái hư hỏng không sử dụng được[1].
                            Lúc 10 giờ 22 phút sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974, trận giao chiến giữa lực lượng Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc đã nổ ra. Phía Trung Quốc, hai chiến hạm Trung Quốc mang số 389 và 396 đồng loại tấn công thẳng vào soái hạm của Việt Nam Cộng hòa là chiếc tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16. HQ-10 lập tức can thiệp, pháo kích dữ dội, bắn trúng đài chỉ huy của tàu 389 và làm cháy phòng máy khiến 389 bị hư hại nặng, không thể điều khiển được nữa. Các tàu Trung Quốc 389 và 396 chuyển làn nhắm vào HQ-10 và phản pháo. HQ-10 bị bắn trúng tháp pháo và buồn điều khiển, làm thuyền trưởng và thuyền phó Nguyễn Thành Trí bị thương nặng, tay lái không còn điều khiển được nữa và HQ-10 cũng bị rơi vào tình trạng bị trôi dạt như 389.
                            Trước tình hình tàu bị hư hại nặng, thuyền trưởng Ngụy Văn Thà ra lệnh cho thủy thủ đoàn dùng bè đào thoát, nhưng một số pháo thủ và ông tiếp tục ở lại bắn vào tàu Trung Quốc. Cả hai 389396 đều bị HQ-10 bắn hư hại nặng; 389 dạt vào một bãi san hô, và 396 bị HQ-10 bắn trúng hầm máy không còn khả năng chiến đấu.
                            Tới 11 giờ 49 phút, khi các chiến hạm khác của Việt Nam Cộng hòa đã rút khỏi vùng giao chiến, hai chiến hạm Trung Quốc là 281282 tiến vào vùng Hoàng Sa và tập trung hỏa lực bắn vào HQ-10. Hộ tống hạm Nhựt Tảo chìm cùng thuyền trưởng và một số thủy thủ ở vị trí cách 2,5 hải l‎ý về hướng Nam bãi ngầm Sơn dương (Antelope Reef), lúc 14 giờ 52 phút ngày 19 tháng 1 năm 1974.

                            Sau khi Thiếu tá Ngụy Văn Thà tử trận, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã truy tặng Đệ ngũ Đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành dương liễu và truy phong ông lên hàm Trung tá Hải quân.
                            Đề nghị vinh danh
                            Hiện nay nhiều người Việt trong và ngoài nước đang đề nghị chính phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nên vinh danh ông cùng 73 tử sĩ khác đã hy sinh trong trận hải chiến Hoàng Sa. Những người đề nghị cho rằng dù là quân đội Việt Nam Cộng Hòa hay Cộng Sản thì sự hy sinh trong khi bảo vệ tổ quốc, chống trả lại sự xâm lăng của ngoại bang cần thiết phải được vinh danh và đó cũng là một tín hiệu tích cực cho sự hòa giải dân tộc.
                            Tưởng niệm 35 năm trận đánh Hoàng Sa
                            Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 29-07-2011, 06:50 PM.

                            Comment

                            • #15

                              34 năm nhìn lại
                              "Người xưa có bíêt ngày nay nhỉ
                              Hưng phế tại người hay hóa công"
                              ( thơ Thanh Phượng )
                              " Xét lịch sử xưa, dân nào khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng bước tới con đường vui vẻ . Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan, giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay một người, hay một chính phu? muốn làm sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi đường."
                              Phan Chu Trinh

                              Đã chỉnh sửa bởi Mayvienxu; 10-08-2011, 03:26 AM.

                              Comment

                              Working...
                              X
                              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom