• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku - Matsuo Basho

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku - Matsuo Basho



    Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku

    nhật ký hành trình Matsuo Basho

    Lời nói đầu bản tiếng Anh The Narrow Road to Oku
    Donald Keene



    Matsuo Basho sinh năm 1644 tại thị trấn Ueno tỉnh Iga. Gia đình ông thuộc tầng lớp võ sĩ samurai, đẳng cấp thấp trong giới quí tộc nên một số người trong gia đình ông đã chọn nghề làm ruộng để kiếm sống. Dòng dõi samurai cũng tạo điều kiện cho Basho tụ họp với đám con cái của các nhà quí tộc trong vùng, thành viên của dòng họ Todo sống trong một lâu đài. Có thể, nhờ một số dịp thể hiện tài năng mà Basho có quan hệ với họ. Basho kết thân với Todo Yoshitada (Sengin) cậu bé lớn hơn Basho hai tuổi, cùng tiếp nhận sự huấn luyện văn thơ từ ông thầy Kitamura Kigin nổi tiếng về thi ca và phê bình nghệ thuật.

    Bài haiku sớm nhất của Basho sáng tác năm 1662 khi ông 18 tuổi. Bút danh đầu tiên của ông là Sobo. Như phần lớn văn nghệ sĩ kể cả triết gia thời đó, Basho được biết qua nhiều bút danh khác nhau trong suốt cuộc đời. Bút danh nổi tiếng nhất là “Basho”là một thứ cây trong vườn nhà ông: năm 1861 khi đến thành phố Edo, . Cây basho là một loại thuộc giống chuối không có trái (#) nhưng lại có ý nghĩa đặc biệt đối với nhà thơ: những phiến lá xanh rộng lớn của nó rất dễ bị gió xé rách tươm, một biểu tượng rõ nét đối với cảm xúc của thi nhân.

    Basho đầu tiên đến sống ở Edo (sau này là Tokyo) năm 1672. Không rõ vì sao ông chọn thành phố này. Có lẽ ông cảm thấy hình thành phong cách ở một thành phố như thế tốt hơn ở Kyoto hoặc Osaka- nơi có những cuộc đua tranh lớn lao của những nhà thơ chuyên nghiệp - khiến Basho mất mấy năm đi tìm trường phái thơ haiku của riêng ông. Việc khẳng định trường phái thơ cần thiết không chỉ vì nhu cầu giữ gìn phong cách nghệ thuật thi ca mà còn vì ông là một thầy giáo, ông sẽ dựa vào sự giúp đỡ của các học trò về tài chính và những trợ giúp khác. Ngay phần mở đầu tập văn “Oku no Hosomichi”, ông nhắc đến việc chuyển đến ngôi làng của Sugiyama Sampu, một thương gia giàu có, đã tái xác nhận làm một người bảo trợ hào phóng cho Basho khi ông cần tiền bạc. Năm 1680 Basho xuất bản một tuyển tập thơ của mình viết cho trẻ em học sinh, một dấu hiệu chứng tỏ phong cách sáng tác của ông đã xác lập chắc chắn.

    Năm 1684 Basho khởi hành chuyến đi, cơ hội cho tập văn đầu tiên trong bộ 5 tập. Tập văn này đóng một cột mốc trong nghề nghiệp của ông. Mục đích bề ngoài của chuyến đi là bày tỏ kính trọng đối với mẹ, bà chết ở Ueno năm trước, nhưng (vì ông không ngờ trước) sự trải nghiệm trong chuyến đi sẽ khơi nguồn cảm hứng cho ông . Những chuyến đi thăm nhiều thành phố thị trấn khác nhau đã làm cho trường phái thơ haiku của ông trở nên quen thuộc hơn với nhiều người, và lôi kéo các nhà thơ haiku trước đó đã hội nhập với những trường phái khác.

    Trong 5 tập nhật ký hành trình miêu tả những chuyến đi, tập cuối cùng là “Oku no Hosomichi” viết năm 1689 không chỉ là tập văn chương hay nhất của ông mà còn được coi là tập văn mẫu mực của nền văn học cổ điển Nhật. Mỗi người Nhật đã từng học trung học đều ít nhất đã đọc những đoạn trích từ tác phẩm này.

    Hầu hết các tác phẩm văn chương Nhật đều rất khó chuyển ngữ, ngay cả với những người đã có khả năng nắm vững ngôn ngữ đó. Xin dẫn ra hai ví dụ thường xuyên buộc người dịch phải bền bỉ chịu đựng: tiếng Nhật thiếu sự phân biệt “số ít” và “số nhiều”, lẫn lộn giữa “xác định” và “không xác định”, dịch giả phải quyết định xem thực ra tác giả có ý gì. Nếu tác giả còn sống, hoạ may ông ta có thể giúp được, nhưng cũng chưa chắc. Có lần tôi đang dịch câu Midori iro no sutokkingu của tác giả Abe Kobo, tôi hỏi ông ta câu văn này là “một hay nhiều cái bít tất màu xanh”?, ông ta chỉ mỉm cười và bảo rằng đó là việc của người dịch, không phải của ông.

    Vấn đề dịch “Oku no Hosomichi” từ tiếng Nhật cổ ra tiếng Nhật hiện đại hầu như cũng khó khăn như việc dịch nó sang các ngôn ngữ châu Âu.

    Nhưng hãy quay lại câu hỏi ban đầu: dịch cái tựa đề như thế nào ?

    Trước đây tôi đã từng đặt tên tác phẩm là “The Narrow Road of Oku” một cách an toàn nhưng bản dịch vẫn chưa rõ ràng. Basho tất nhiên có ý nói về con đường nhưng không chỉ con đường (nghĩa hẹp) vốn rất khó hình dung trong tác phẩm. “The Narrow Road into Oku” nghe có vẻ khá hơn, ngụ ý nhằm vào nơi đến của Basho là Oku- một cái tên chung chỉ phần tận cùng miền Bắc của đảo Honshu. “Oku” lại có nghĩa là “bên trong, bên trong bí ẩn” và ý nghĩ này cũng rất phù hợp, và cả hai nghĩa, về địa lý thì chỉ ra rằng cuộc lữ hành của Basho sẽ đưa ông đến phần đất sâu bí ẩn bên trong của đất nước, về tu từ thì gợi ra rằng hành trình của ông chẳng phải chỉ đi sâu vào bên trong thế giới (vật chất khách quan–ND) mà có thể hiểu là đi vào “thế giới nghệ thuật thơ haiku”. Chúng tôi chẳng bao giờ biết rằng cái nào thuộc về những ý tứ Basho đã nghĩ; có lẽ ông nhằm vào tất cả. Sự khó khăn khi dịch cái tựa đề là một ví dụ điển hình.

    Vạch ra những khó khăn này, tuy nhiên có thể gây mất phương hướng… Bất chấp những khó khăn đó, Oku no Hosomichi chẳng những được các học giả (những người thích thú những kiến thức thi ca bí hiểm) yêu thích mà còn cả những người đọc rất bình thường. Sự khó khăn khi đọc nếu thiếu người bình giải, tối thiểu là trong lần đọc đầu tiên, nhưng nó cũng tạo cho tác phẩm sự huyền diệu của ẩn dụ thi ca.

    Việc dịch những bài thơ haiku rải rác khắp trong tác phẩm còn khó hơn dịch những câu văn xuôi. Bởi vì bài thơ haiku rất ngắn, chỉ có 17 âm tiết kể tất cả các từ, và cần có sự tin cậy cao vào những gợi ý. Trong những cuốn nhật ký hành trình của Basho, lời văn xuôi nhiều khi giúp chỉ rõ nghĩa của bài thơ haiku, tuy nhiên cũng có sự đa nghĩa. Bài thơ đầu tiên của “Con đường hẹp đi Oku” là đặc biệt khó dịch:

    Kusa no to mo
    Sumikawaru yo zo
    Hina no ie

    . Một bản dịch sát nghĩa có thể là thế này “Một lứa tuổi trong đó người chủ căn nhà tranh cỏ thay đổi- một ngôi nhà búp bê”.

    Không ai có thể đoán ra ý nghĩa từ bản dịch như thế. Bài thơ nguyên tác hầu như rất khó hiểu, nhưng một khi ý nghĩa được giải thích, dù mang tính văn xuôi thế nào, người ta vẫn khâm phục cái ngôn ngữ tiết kiệm của Basho. Như chúng ta biết qua văn xuôi Basho, ông sắp sửa dời khỏi nơi trú ngụ bình thường (lều cỏ) nơi ông đã sống qua một thời gian. Người chủ mới, khác với Basho, ông ta có một gia đình và tính chất của căn nhà sẽ thay đổi với người chủ mới: Ngày 3 tháng Ba ngôi nhà được trang trí với một hàng búp bê tặng cho con gái nhân ngày “Hội con gái”..

    Chẳng phải tất cả thơ haiku đều khó hiểu, nhưng có bài thật khó mà đưa ra một lời dịch thay thế thích đáng. Mặt khác, bài haiku nằm trong tập văn “Oku no Hosomichi ” thuộc về những bài thơ hay nhất của Basho. Phần lớn những bài thơ đó, không thể nảy sinh trong đầu Basho chính xác nguyên dạng như chúng xuất hiện trong một tác phẩm hoàn chỉnh. Văn bản “Oku no Hosomichi ” mà chúng tôi có trong tay không phải do chính Basho viết xong 5 năm sau kể từ khi ông quay trở về từ Oku, và chúng tôi biết có nhiều dị bản, đặc biệt đối với những bài thơ haiku (trong tập nhật ký). Ông đã xem lại tác phẩm nhiều lần một cách chắc chắn trước khi nó đạt tới như văn bản hiện nay.

    Sự mến mộ lớn lao tập văn này tuỳ thuộc rất nhiều vào sự ưa thích những bài thơ haiku trong đó, nhưng lời văn xuôi cũng được ca ngợi không ít. Phần mở đầu và các phần tả những chuyến thăm của Bahso đến Matsushima và Kisakata là những đoạn hay đặc biệt nổi tiếng với người đọc, còn nhiều đoạn khác hầu như đều đẹp đẽ. Những đoạn văn khác ở mức độ khiêm tốn hơn. Basho khi quan sát truyền thống thơ renga (liên ca) bao gồm những đoạn mà chất thơ rõ ràng kém hơn thơ cũ hoặc mới, dường như để tránh làm kiệt quệ văn bản với một loạt đoạn văn ngắn như những viên ngọc không thể đập vỡ.

    Đã nhiều thế kỉ trôi qua, môt trong những nguyên nhân khiến người Nhật đi du lịch là đi để ngắm những bức thư pháp viết thơ và những nơi đã được nhắc tới trong thơ ca và nguyên nhân này chắc cũng là lí do rõ ràng khiến Basho làm những chuyến lữ hành dài . Basho ghi chép miêu tả về những nơi ông đến thăm, không chỉ những nơi đáng nhớ vì có truyền thuyết hoặc bài thơ cổ liên quan đến chúng, điều này đến lượt nó lại lôi cuốn được vô số người Nhật (kể cả người nước khác) đi du ngoạn và ngắm chúng bằng chính mắt mình.




    Google Map Hành trình của Basho (Click vào bản đồ cho phiên bản Live)



    Bản đồ các tuyến đường Matsuo Basho và đồng hành của mình là Sora đã qua trong Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku năm 1689

    Link






    Mặc dù Basho ghi chép rất ít về Sora người bạn đồng hành trong gần suốt chuyến đi, ông cũng không nhắc đến tên thực hoặc nghề nghiệp của mình hoặc lí do nào đã khiến ông đi lang thang, đã gây cảm hứng cho ông làm cuộc lữ hành dài lâu mà thỉnh thoảng phải chịu đựng nỗi đau đớn trên đường. Tuy vậy ông vẫn gián tiếp kể cho chúng ta khá nhiều về bản thân, và rõ ràng bức chân dung tự hoạ của Basho cũng xuất hiện trong “Oku no Hosomichi” có thể là lí do hấp dẫn nhất cho sự hâm mộ tác phẩm này.

    Tất nhiên Bahso nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng ông còn miêu tả rất nồng nhiệt những con người ông gặp trên đường đi, và cả những con người đã quá vãng, không ít hơn con người hiện tại, những người quá cố vẫn luôn luôn “sống” với ông. Những ấn tượng của ông dù được miêu tả trong thơ hay văn xuôi đều có khả năng vượt thời gian.

    Mặc dù nhiều phong cảnh trong số các bức tranh phong cảnh được Bahso miêu tả thật huyền diệu đã bị biến dạng trong những năm gần đây thì vẻ đẹp của chúng vẫn sống trong tập văn “Oku no Hosomichi” và sẽ tiếp tục khuấy động các thế hệ tương lai với ham muốn đi cùng Basho trên cuộc lữ hành của ông vào cõi sâu thẳm của thế giới thơ.

    Donald Keene



    Biên dịch: Phùng Hoài Ngọc



    *************************

    Xem thêm :

    NARROW ROAD TO THE DEEP NORTH (OKU NO HOSOMICHI) :
    Tokugawa Japan: Bashō Narrow Road to The Deep North - Asia for Educators - Video


    Đã chỉnh sửa bởi Visaolaithe; 23-06-2011, 11:00 PM.
    Similar Threads
  • #2

    Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku - Matsuo Basho



    " Dr. Donald Keene has generously given to me his permission to use his translation of the Basho's haiku. I will be showing my haiga of all the haiku in Narrow Road to Oku "

    KYOSHI KAKO




    Đã chỉnh sửa bởi Visaolaithe; 23-06-2011, 11:02 PM.

    Comment

    • #3

      Nẻo đường sâu thẳm lên miền Oku - Matsuo Basho


      Matsuo Basho



      Tháng và ngày là những lữ khách của muôn đời. Năm mới đến và đi là những chuyến đi dằng dặc. Những người mà cuộc sống của họ trôi nổi đó đây trên con thuyền hoặc trên lưng ngựa cứ mãi mãi du hành, và ngôi nhà của họ là bất cứ nơi đâu họ đến nghỉ chân. Rất nhiều người già trong số họ đã chết trên đường đi, và tôi cũng trải nhiều năm qua chịu sự khuấy động của những đám mây cô đơn trôi dạt với cơn gió và những suy tư liên miên rong ruổi.

      Năm ngoái tôi lang thang dọc theo những vùng duyên hải, đến mùa thu tôi quay lại căn nhà tranh của mình bên bờ sông và quét sạch mạng nhện. Dần dần năm ngoái cũng đóng lại. Khi mùa xuân đến và sương mù dày đặc bầu trời, tôi nghĩ đến việc vượt qua cửa ải Shirakawa để tiến vào vùng Oku núi rừng Đông bắc. Tôi dường như bị chế ngự bởi các vị Thần-lang-thang và họ đều chiếm lĩnh cảm xúc của tôi. Các vị Thần-bảo-vệ-trên-đường thì vẫy tay gọi và tôi không thể yên tâm vào công việc gì.

      Tôi khâu vá lại những chiếc quần và thay dây buộc trên chiếc nón tre. Để tăng cường sức khoẻ đôi chân, tôi “moxa” đốt hai đầu gối (như kiểu thầy thuốc Đông y điều trị: châm hương, hơ lá ngải cứu nơi đầu gối). Lúc ấy tôi chẳng nghĩ gì khác hơn là mong ngóng được ngắm vầng trăng ở Matsushita. Khi tôi bán căn nhà tranh và dời đến ở nhờ nhà Sampu chờ lên đường, tôi treo bài thơ này lên cây cột trong căn nhà cũ:

      kusa no to mo sumikawaru yo zo hina no ie

      Even a thatched hut
      May change with a new owner
      into a doll’s house

      túp lều cỏ
      thay chủ mới
      trở thành ngôi nhà xinh


      (Bài 1)

      Đây chỉ là phần đầu của bài thơ tám dòng.




      Đã chỉnh sửa bởi Visaolaithe; 20-06-2011, 06:28 PM.

      Comment

      • #4

        Mùa xuân ra đi

        Tôi khởi hành vào ngày 27 tháng 3 *, bầu trời buổi sớm mù sương. Từ sớm, vầng trăng tắt dần ánh sáng, nhưng cái đỉnh nhọn của núi Fuji (Phú sĩ) nhìn thật lộng lẫy. Mùa hoa anh đào đang nở rộ trên cành cây ở Ueno và Yanaka khuấy lên những ý nghĩ buồn bã trong tôi khi tự hỏi bao giờ mình có thể nhìn lại chúng. Những người bạn thân thiết nhất của tôi từ khắp nơi đã kéo đến nhà tôi đang ở với Sampu từ đêm trước để tiễn biệt tôi trên thuyền.


        Khi tôi rời khỏi thuyền ở một cái bến gọi là Senju, ý nghĩ về chuyến đi dài làm tôi xúc động mạnh. Tôi đứng đó trước ngã rẽ chia tay với cái thế giới nửa thực nửa hư, bất giác trào ra những dòng lệ phân ly:


        yuku haru ya tori naki uo no me wa namida


        Spring is passing by !
        Birds are weeping and the eyes
        Of fish fill with tears.

        Mùa xuân ra đi
        tiếng chim nức nở
        mắt cá lệ đầy
        Cá – mắt ngấn lệ
        (Bài 2)




        Tôi dời chân sau khi viết vần thơ này, bài thơ mở đầu cuộc hành trình, nhưng tôi không thể nhìn thẳng phía trước, vì cứ quay lại nhìn những bạn hữu còn đứng trên thuyền, nhìn chăm chăm cho đến khi chúng tôi không thấy bóng dáng nữa.

        Năm nay, năm thứ nhì của đời vua Genroku *1, một ý nghĩ bất ngờ chợt đến rằng tôi sẽ đi bộ suốt hành trình đến Oku xa xôi. Cũng chẳng lo chi nếu không may chuyến đi quá dài làm tôi bạc tóc trên đường, bởi tôi muốn xem tất cả những nơi tôi nghe tiếng từ lâu mà chưa bao giờ đến thăm được. Nó khiến tôi sẽ vẫn cảm thấy hạnh phúc nếu không thể sống mà về đến quê nhà. Trong cuộc ra đi mong manh hi vọng trở về, tôi cố gắng đeo đuổi lộ trình đến thị trấn Soka mà tôi nghĩ khó đạt tới trong ngày đầu lên đường.

        Cái đau khổ đầu tiên tôi chịu đựng là sức nặng của túi đeo trên đôi vai gày trơ xương. Tôi đã dự kiến trước khi lên đường không mang theo vật gì ngoài mấy bộ quần áo nhẹ như giấy che chở khỏi những đêm lạnh. Sau đó lại mang những thứ như áo choàng tắm, áo mưa, bút mực và các linh tinh khác là quà tặng của bạn mà tôi không thể từ chối hay quăng đi. Đó là những thứ phiền hà nặng nề trong chuyến đi và tôi cũng chẳng làm gì được với chúng nữa.

        Chúng tôi ghé thăm Đền thờ-không-cửa thuộc vùng Cauldron. Sora bạn đồng hành với tôi kể câu chuyện: “Vị thần của đền thờ này mệnh danh là hoàng tử của mùa hoa nở, đồng thời là vị thần núi Fuji. Ngôi đền được gọi là “không cửa” kể từ khi nữ thần bước vô trong tự nhốt mình, sau đó sinh ra công chúa “Ánh lửa” trong ngọn lửa bà thắp lên để chứng minh lòng trung thực của mình. Điều này giải thích vì sao các bài thơ về đền này hay nhắc tới “làn khói” *2. Nơi đây có tục lệ cấm ăn một loài cá tên là konoshiro*2.

        Đến ngày 30 tháng Ba, chúng tôi dừng lại dưới chân núi Nikko. Người chủ quán trọ nói với cho chúng tôi: “Tên tôi là Phật Gozaemon. Dân chúng gọi tôi là phật bởi vì tôi trung thực trong mọi việc tôi làm đến mức nếu bạn cần nghỉ ngơi một đêm xin mời thoải mái, tự nhiên như ở nhà”. Tò mò thấy một vị Phật xuất hiện trong thế giới hỗn loạn và mục nát này để che chở cho kẻ hành hương khất thực, tôi quan sát thái độ đối xử của ông chủ, và thấy rằng mặc dù anh ấy vô tư vụng về nhưng quả thực anh ấy chân thực, như lời Khổng tử là “khoẻ mạnh, giản dị và nói chậm như một con người sắp thành bậc thánh”. Trái tim trong sạch của anh ta thật đáng ngợi ca.

        Trong ngày đầu của tháng thứ 4 chúng tôi làm lễ cúng ở ngọn núi linh thiêng.Thời xưa tên của ngọn núi này là viết là Nikko, nhưng khi đại sư Kukai phát hiện ra ngôi đền ở đây thì đặt tên là đền Nikko hoặc “Ánh mặt trời”. Tôi băn khoăn rằng có phải người đã có thể nhìn suốt ngàn năm sau. Giờ đây ngôi đền có ánh sáng linh thiêng chiếu khắp đất nước, và những lời cầu nguyện chảy tràn khắp những góc hẻo lánh xa xôi nhất. Bốn giai cấp tầng lớp dân sống trong hoà bình và an ninh. Nhưng ở đây với lòng ngưỡng mộ tôi cần phải hạ bút*3 viết:

        ara touto aoba wakaba no hi no hikari

        How awe-inspiring!
        On the green leaves, the young leaves
        The light of the sun



        Đáng cảm phục làm sao
        Trên những lá xanh non tơ
        Ánh sáng mặt trời


        (Bài 3)




        Đỉnh núi Kurokami-yama (còn gọi là núi Tóc đen ) ẩn hiện trong sương mù và tuyết vẫn trắng phau. Sora viết bài thơ sau:

        sori sutete kurokami yama ni koromogae

        I shaved off my hair,
        And now at Black Hair Mountain
        It’s time to change clothes


        Tôi xuống tóc
        ở núi Tóc đen
        đến lúc thay y phục *4



        Dòng họ của Sora là Kawai, tên thực là Sogoro. Anh ta làm một căn nhà cạnh nhà tôi dưới những tàu lá chuối , và giúp kiếm củi, lấy nước cho cái bếp của tôi. Chuyến đi này anh vui vẻ hứng thú đi cùng tôi ngắm cảnh Matsushima và Kisakata, mặt khác anh cũng có ý chia sẻ khó khăn của chuyến đi với tôi. Buổi sớm hôm khởi hành, anh cạo trụi tóc và thay bộ đồ đen. Anh cũng “thay đổi” tính cách bằng sự đổi tên như môt ngụ ý đạo Phật. Đó là lý do tạo sao anh viết bài thơ về Núi-tóc-đen. Tôi cho rằng từ “thay y phục ” đặc biệt có hiệu quả.

        Chúng tôi leo trèo chừng một dặm lên ngọn núi, đến một cái thác nước cao khoảng trăm thước ào ạt đổ qua những phiến đá hàng ngàn lớp như mái nhà chảy xuống một cái hồ nước sắc lưu li. Tôi lách mình vào thạch động và có thể nhìn thấy cảnh thác nước từ đằng sau nên cái thác này được mang tên “Thác nhìn từ sau”:

        shibaraku wa taki ni komoru ya ge no hajime

        For a little while
        I’ll shut myself inside the falls-
        Summer retreat has begun *5

        Trong một lúc
        tôi dấu mình vào ngọn thác
        khoá tu mùa hè bắt đầu *5

        (Bài 4)




        Tôi có một người quen ở vùng Kurobane (cánh đen) thuộc Nasu và nghĩ rằng có thể đi tắt qua những cánh đồng mà đến được Nikko. Trời bắt đầu mưa và tối dần khi chúng tôi lội bộ, mắt chúng tôi dõi về một cái làng lờ mờ từ xa. Chúng tôi thuê một căn phòng trọ của một nông dân. Khi trời sáng dần, chúng tôi lại lên đường đi qua những cánh đồng. Chúng tôi thấy một con ngựa đang thả cỏ trên đồng và xin một người nông dân đang cắt cỏ giúp đỡ. Anh ta là một nông dân thô ráp quê mùa nhưng chẳng phải thiếu tình cảm. Anh nói “Để tôi tính, xem cách nào tốt nhất cho các ông. Những cánh đồng này đi tới có nhiều lối. Các ông du khách không biết đường, dễ bị lạc lắm. Tôi lo chuyện đó đấy... Thôi cứ cưỡi ngựa đi, đến khi nó dừng lại thì thả nó tự quay về”. Anh ấy cho chúng tôi thuê con ngựa.

        Hai đứa trẻ chạy theo sau ngựa. Một đứa con gái có tên Kasane (có nghĩa là đôi, kép). Cái tên kì lạ mà duyên dáng khiến Sora đọc lên bài thơ này:

        Kasane to wa yaenadeshiko no na narubeshi

        Double – that must be
        The name somebody gave to
        A double- petalled pink *6


        Kép- chắc hẳn là
        tên ai đó đặt cho
        màu hồng hoa cẩm chướng



        Đi một hồi lâu tới một cái làng, tôi thả con ngựa quay lại với một ít tiền buộc vào yên ngựa.



        ****************


        *1:Năm dương lịch là 1689

        *2:Một loài cá trích, khi nướng lên bay mùi giống như thịt người bị cháy khét (lúc hoả thiêu)

        *3 : Basho nói đến lăng mộ tướng quân Tokugawa ở Nikko và biểu lộ lòng biết ơn sâu sắc của ông về hoà bình và hưng thịnh mà gia đình này mang lại cho đất nước Nhật Bản. Trong bài thơ sau, “ ánh nắng mặt trời” gợi ý lời nguyện cầu bắt nguồn từ dân chúng Nikko.

        *4 : Đây là tục lệ ở Nhật thay trang phục mùa hè vào ngày 1 tháng 4, ngày đầu mùa hè theo lịch âm. Câu này có hai nghĩa: Sora cạo đầu để trở thành tu sĩ đạo Phật và cũng bỏ trang phục thường dân, mặc áo tu sĩ.

        *5 Khoảng thời gian 90 ngày (bắt đầu 16 tháng 4), giới tu sĩ tự nhốt mình trong một căn phòng nhỏ, chép lại bài thuyết pháp của Đức Phật và thực hiện những hoạt động tu hành khác. Basho khi mở đầu cuộc lữ hành có lẽ đã cảm thấy như là sự rút lui khỏi thế giới trần tục vậy.

        *6 Phụ nữ trẻ Nhật được ví như hoa cẩm chướng (yaenadeshiko)- loài hoa có vẻ trầm lặng khiêm tốn mà rất dễ thương, đặc biệt hấp dẫn khi mọc kép

        Comment

        • #5

          Con chim chiền chiện

          Chúng tôi ghé thăm ngôi nhà ông Joboji, phó thủ lãnh lâu đài vùng Kurobane. Ông chủ rất vui mừng vì cuộc thăm viếng bất ngờ, và chúng tôi trò chuyện rất nhiều suốt ngày đêm. Em trai ông ấy tên Tosui, thường đến thăm hỏi chúng tôi và còn mời chúng tôi đến nhà riêng . Chúng tôi còn được mời đến thăm mấy nhà bà con của anh nữa. Nhiều ngày như thế trôi qua. Một hôm chúng tôi đi dạo ngoài thị trấn, ngắm cảnh và tìm xem dấu tích nơi săn chó ngày xưa. Chúng tôi chui qua rừng tre ở Nasu, và viếng ngôi mộ cổ của tiểu thư Tamamo. Từ đó chúng tôi đi lễ ở đền thờ Hachiman. Tôi đặc biệt cảm động khi biết rằng đền thờ này rất linh thiêng nơi mà Yoichi đã cầu nguyện “đặc biệt với Sho Hachiman vị thần bảo hộ cho xứ sở chúng tôi” trước khi ông bắn mũi tên trúng vào cây quạt*[1].

          Trời tối rồi, chúng tôi quay trở về nhà Tosui. Có một ngôi chùa tu khổ hạnh của amabushi, còn gọi là Kommyoji gần đó. Tôi được mời vào, dâng lễ ở đaị sảnh của các sư tăng:


          In summer mountains
          I bow before his high clogs-
          My journey’s just begun

          Trong dãy núi mùa hè
          Tôi cúi lạy trước đôi giày gỗ
          Cuộc hành trình mới bắt đầu.*[2]

          (Bài 5)




          Dấu tích còn lại của căn lều trong đó thiền sư Butcho*[3] từng sống trong núi đằng sau ngôi chùa Ungan thuộc xứ này.

          It was a nuisance
          Even to tie together
          This little grass hut.
          Not five feet long or wide -
          If only it never rained !

          Thật khó khăn
          bụôc chặt cỏ kết thành
          túp lều nhìn quanh chưa đầy hai thước
          giá như trời đừng mưa.

          (Bài 6)

          Butcho có lần bảo tôi rằng ông đã viết bài thơ trên với mảnh than cây thông cháy trên một tảng đá.Tôi nghĩ tôi nên đi xem những gì còn lại trong căn lều của ông và đi, một tay chống gậy hướng về phía đền Ungan. Mấy người ngỏ ý dẫn đường cho tôi. Phần lớn họ còn trẻ đi thành đoàn vui vẻ lắm, trước khi chúng tôi nhìn thấy ngọn núi thì đã thấy mình đến chân núi rồi.
          Dãy núi kéo dài xa hút tầm nhìn hiện ra. Dọc theo đường thung lũng dẫn chúng tôi vào một khoảng rộng, rêu phủ đầy từ những cây thông và cây tuyết tùng. Bầu trời mặc dù mùa hè nhưng vẫn lạnh. Khi chúng tôi vượt qua mười cảnh quan nổi tiếng thì đi qua một cái cầu và bước vào cổng đền. Ngẩn ngơ không biết dấu tích của thiền sư Butcho ở đâu, tôi loay hoay trèo lên núi đằng sau đền, và ở đó tôi nhận thấy trên đỉnh một tảng đá, thấy một cái miễu nhỏ xây tựa vào một cái hang đá. Dường như tôi đang nhìn thấy hai chữ “Cửa ải chết” của Myo hoặc ngôi chùa đá của Houn hoshi *[4]

          Even woodpeckers
          Do not harm this little hut
          Perched in summer trees.

          Ngay đến chim gõ kiến
          không làm hại căn lều nhỏ
          đậu trên cây mùa hè.

          (Bài 7)




          Tôi để lại bài thơ tức cảnh này trên cột lều.

          Từ đây chúng tôi lên đường đi thăm “Những hòn đá đoạt sinh mạng” Tôi được đi bằng xe ngựa do quan phó thủ lãnh bố trí. Người đàn ông cưỡi ngựa nhờ tôi viết cho anh ta một bài thơ. “Chẳng biết viết cái gì tao nhã hợp ý muốn anh ta” tôi nghĩ ngợi, và viết:


          Lead the horses side ways
          Across the meadows- I hear
          A nightingale

          Đi theo ngựa
          vượt qua đám cỏ sình lầy - tôi nghe
          một con chim chiền chiện

          (Bài 8)



          “Những hòn đá giết người” (the Killing Stone ) nằm trên vùng đất cao, gần nơi một giếng nước nóng phun trào. Hơi khí chảy ra từ những hòn đá vẫn không tan mất chất độc của nó. Vì thế nhiều con ong, con bướm chết và nhiều thứ côn trùng cũng chết, xác chất thành đống đến nỗi tôi không thể nói màu của cát đá là gì.

          Cây liễu nơi có “dòng nước trong như kim cương”*[5] đứng trên một con đường nhỏ xuyên qua cánh đồng lúa gần làng Ashino.Về sự hoàn hảo của huyện này, một thư ký nào đó đã thường nói anh ta muốn chỉ cho tôi cây liễu đó và tôi cũng đã từng tò mò cây liễu đó bây giờ ở đâu. Hôm nay tôi đứng ngay dưới bóng mát chính cây liễu ấy.

          They sowed a whole field
          And only then did I leave
          Saigyo’s willow tree.

          Họ gieo mạ trên khắp cánh đồng
          và lúc đó tôi rời khỏi
          cây liễu của Saigyo.
          (Bài 9)




          Ngày lại ngày trôi qua trong sự bất ổn mơ hồ, nhưng khi chúng tôi tiến gần đến cửa ải Shirakawa tôi cảm thấy mình đã ổn định với tinh thần lữ khách. Bây giờ tôi đã hiểu vì sao các nhà thơ từng đi tìm kiếm cái gọi là “nói với ai đó ở kinh đô cảm giác của họ” khi vượt qua cửa ải này*[6].

          Shikarawa là một trong ba cửa ải nổi tiếng đi vào xứ bắc, nơi thu hút tâm trí bao người. Tôi cảm thấy mình nghe được những cơn gió mùa thu và nhìn thấy những chiếc lá phong thường được nhắc đến trong những bài thơ của họ và điều này còn cho ta cảm xúc trước những vẻ đẹp hơn những chiếc lá xanh non trên những cành cây trước mắt tôi. Màn lụa trắng lá cây roi ngựa hoà lẫn đám hoa hồng dại đang nở khiến tôi cảm giác mình đang vượt qua cửa ải trong tuyết trắng. Từ lâu một số người có lần bày tỏ lòng ngưỡng mộ với cửa ải này bằng cách đội ngay ngắn chiếc mũ tưởng niệm và thay trang phục hợp nghi thức hoặc tương tự - những điều đã được ghi lại với ngòi bút của Kiyosuke *[7].


          Sprigs of verbena
          Thrust in my cap- such will be
          My fancy attire.
          Sora

          Những cành hoa hồng dại nhỏ bé
          nhô ra trong nón
          bộ đồ thích thú của tôi




          *******************


          *[1] Basho nhắc lại một đoạn văn trong chương 11 của Truyện kể dòng họ Heike. Nasu no Yoichi được lễ phong là người bắn cung tài giỏi. được yêu cầu bắn trúng chiếc nón trên một con thuyền đang bơi cách xa 250 thước. Anh cầu nguyện ở chùa Hachiman, thề rằng nếu mũi tên của anh bắn trượt, anh sẽ tự sát. Những mũi tên của anh đã trúng giữa đích.


          *[2] Basho cầu nguyện trước bức tượng Enno Gyoji, (nhà tu thế kỉ 17 người đã đi gần khắp đất nước) cầu đôi chân khoẻ mạnh để đi tới miền viễn Bắc. En no Gyoja đuổi theo nhiều người khác để theo sau nhà tu lối khắc khổ shugendo, khi cách tu này của ông được mọi người biết.


          *[3] Một vị thiền sư (1643 ?-1715), thầy học của Basho

          *[4]Basho nhắc đến ngôi nhà ở ẩn của hai thầy tu người Trung Hoa. Genmyo (tên Trung Quốc là Yuan-mao) ở trong căn lều của ông 15 năm, chần chừ mãi chưa muốn rời bỏ ngôi lều cho đến lúc chết. Còn Houn (tên Trung Quốc là Fa-yun) sống ở căn nhà ông xây kề bên một tảng đá lớn

          *[5] Những lời này xuất hiện trong một bài waka (thể thơ thuần phong cách Nhật, chưa chịu ảnh hưởng thơ Trung Quốc) do Saigyo nhà tu (cũng là nhà thơ nổi tiếng) vốn được Basho rất khâm phục. Có lẽ là Basho dấn thân vào cuộc lữ hành đi miền Bắc năm1689 sau khi Saigyo đã chết cách đó 500 năm

          *[6] Câu này của nhà thơ Taira no Kanemori (chết năm 990). Bài thơ xuất hiện dưới dạng câu hỏi trong tuyển tập văn Shui Shu do hoàng đế bảo trợ xuất bản.

          *[7] Những chuyện hài hước xuất hiện trong Fukurozoshi, một tuyển tập truyện hài do Fujiwara no Kiyosuke (1104-1177) biên soạn.





          “Những hòn đá giết người” (the Killing Stone ) Sesshōseki : những khối đá trong suối nước nóng nơi đây ( dưới chân núi Chausudake, ở phía đối diện của thung lũng sông Abukuma, 18 dặm về phía bắc của Kurobane.) chứa khí sulphurous giết chết ong , bướm và các côn trùng chung quanh...

          Đã chỉnh sửa bởi Visaolaithe; 23-06-2011, 11:50 PM.

          Comment

          Working...
          X
          Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom