
Ngày 25-5-2011, tại thủ đô Tokyo, Nhật Bản đã diễn ra Lễ trao Giải thưởng châu Á lần thứ 16 - Nikkei Asia Prizes. Nhà văn Bảo Ninh là một trong số những người được nhận giải thưởng cao quý này.
Hội đồng xét duyệt trao giải đánh giá nhà văn Bảo Ninh là người có những đóng góp lớn trong lĩnh vực văn học với thiên tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” xuất bản năm 1991.
Cuốn tiểu thuyết này đã được dịch, giới thiệu tại Nhật Bản liên tiếp trong hai năm 1997, 1999 và được Nhật Bản coi là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học thế giới về chiến tranh.
Tiểu thuyết 'Nỗi buồn chiến tranh' của Bảo Ninh xuất bản lần đầu tiên năm 1990 tại NXB Hội Nhà văn với tên gọi 'Thân phận của tình yêu'.
Tác phẩm sau đó nhanh chóng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, mà bản dịch Anh ngữ 'The Sorrow of War' của Phan Thanh Hảo và 'Frank Palmos' ra năm 1994 có lẽ là dịch bản đầu tiên. Nó được đón đọc và đánh giá cao ở nhiều nước, đặc biệt ở Mỹ, phía bên kia cuộc chiến
***

Nhà văn Bảo Ninh và cuốn "Nỗi buồn chiến tranh" bản tiếng Anh
Nỗi buồn chiến tranh, cuốn tiểu thuyết của một cựu chiến binh miền Bắc - Bảo Ninh, là tác phẩm văn chương đặc biệt. Nhân vật chính tên Kiên trở về sau chiến tranh, luôn “trăn trở với những cảnh bạo tàn mà anh từng chứng kiến”.
Sau khi cuốn sách xuất hiện tại Mỹ, một nhà phê bình văn học viết:
“Cơn chấn động đầy bạo lực của chiến tranh đã tạo ra những cơ hội đau đớn cho nhiều tiểu thuyết vĩ đại chào đời. Cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất nói về trải nghiệm trong Chiến tranh thế giới I là Mặt trận phía tây yên tĩnh, do một người Đức viết. Cuốn sách không chỉ là thông điệp đối với những người đồng hương của tác giả, mà đối với bất cứ ai tham chiến.
Nỗi buồn chiến tranh có thể không phải là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất của chiến tranh Việt Nam, nhưng câu chuyện đầy sức mạnh về những cuộc đời bị chiến tranh hủy hoại đã nhận được nhiều sự khen ngợi quốc tế và dường như là một thông điệp có sức thuyết phục cả đối với người Mỹ lẫn những người đồng bào của Bảo Ninh”.
Nhà phê bình này chưa gặp Bảo Ninh bao giờ. Chính vì thế, ông cũng không biết rằng nhận xét của mình chính xác đến nhường nào. Sau khi đọc Nỗi buồn chiến tranh, tôi đã gặp Bảo Ninh để trao đổi về động cơ thôi thúc ông viết cuốn sách ấy.
Sinh trưởng tại Hà Nội, thuở nhỏ, Ninh đã chứng kiến trận ném bom đầu tiên. Trải nghiệm đó nung nấu trong con người ông ước nguyện phụng sự đất nước. Năm 1969, ở tuổi 17, ông tình nguyện nhập ngũ. “Tôi thấy mình có nghĩa vụ cầm súng dù mới mười bảy tuổi. Đất nước đang bị chia cắt - niềm tự hào dân tộc tổn thương nghiêm trọng. Chúng tôi phải chiến đấu để thống nhất đất nước - thanh niên tập hợp dưới ngọn cờ dân tộc”, ông chia sẻ.
Sau ba tháng huấn luyện, Bảo Ninh được điều vào Nam. Khi đến Tây Nguyên, Ninh được phân công ở trong một tổ ba người - trực thuộc một đội chiến đấu mười hai người. Ninh cho biết ông rất nể phục một số đơn vị Lục quân Mỹ, chẳng hạn Sư đoàn kỵ binh bay số 1, đơn vị mà “chúng tôi luôn muốn tránh”; các đơn vị khác không thiện chiến bằng hoặc có hoạt động dễ dự đoán.
Đơn vị của Ninh hoạt động ở khu vực Pleime, nơi có khoảng 200 quân Mỹ đang chốt trên một vùng đất cao. Vành đai phòng ngự của Mỹ được đánh dấu bởi các hố cá nhân. Ban ngày, tiểu đội Ninh định vị chính xác các hố cá nhân. Khi màn đêm buông xuống, bốn tổ vào vị trí chiến đấu. Khi bắt đầu quen với bóng đêm, các binh sĩ định vị lại mục tiêu tấn công của tổ mình. Bài học chiến đấu đầu tiên của Ninh là “lính Mỹ rất dễ mất cảnh giác”. Một lính Mỹ bất cẩn đã tạo sơ hở để tiểu đội tiếp cận mục tiêu. Nấp trong hố cá nhân, anh này châm thuốc hút. Ninh rút ra bài học chiến đấu thứ hai: “Trong chiến đấu, hút thuốc ban đêm là tự sát”. Ngay lúc ấy, viên chỉ huy chĩa súng về phía điếu thuốc đang cháy rực trên môi người lính - và khai hỏa. Khi quả đạn nổ, các thành viên khác của tiểu đội đồng loạt xả súng.
Đây không phải là lần đầu tiên tiểu đội Ninh lợi dụng sự mất cảnh giác của lính Mỹ. Một sớm nọ, tiểu đội ngạc nhiên phát hiện lính Mỹ tụ họp ngoài trời, quỳ trước một người đang đứng giảng giải điều gì đó. Nhóm của Ninh hiếm khi bắt được một “mục tiêu tập thể” như vậy. Họ xả súng. Về sau, ông mới biết rằng nhóm lính kia đang hành lễ vào chủ nhật. Ông thấy thật là nghiệt ngã khi người ta bị giết chết trong lúc đang cầu Thượng đế che chở. Chuyện này ban đầu khiến Ninh trăn trở, nhưng rồi ông đã chấp nhận nó. “Chiến tranh là tàn bạo và bất hợp lý”, ông kết luận.
Khi được hỏi rằng cuốn sách nào có ảnh hưởng lớn đối với tác phẩm của mình, Ninh đã kể về một cuốn sách ông đọc thời chiến tranh, sau một cuộc kỳ ngộ. Năm 1973, đơn vị đọ súng với quân VNCH. Khi trận đánh kết thúc, Ninh và đồng đội lục soát trên chiến trường. Ninh lục ba lô một người lính VNCH tử trận để tìm thức ăn. Trong số những vật dụng mà ông tìm thấy, có một cuốn sách. Ông nhét sách vào túi. Đến lúc có thời gian đọc, Ninh thấy thật là trớ trêu khi cuốn sách mà ông có được sau một trận đánh đẫm máu lại truyền tải thông điệp phản chiến mạnh mẽ. Cuốn sách gây cho ông cảm xúc mãnh liệt, để về sau ông viết Nỗi buồn chiến tranh.
Khi được hỏi nhan đề cuốn sách, Ninh nói rằng đó là Mặt trận phía tây yên tĩnh!
Cuộc chiến kết thúc, Ninh được tiếp xúc với nhiều tác phẩm, cả phim ảnh lẫn văn chương, đề cập tới chiến tranh Việt Nam và người lính chiến ở cả hai phía. Ông nhận thấy bộ phim Trung đội của Mỹ khá hay, nhưng không công bằng khi miêu tả lính miền Bắc là những người tàn bạo. Ninh tin rằng cả hai phía đều có những cá nhân độc ác, nhưng tập thể thì không.
Ở trang bìa cuốn Nỗi buồn chiến tranh (bản tiếng Anh - ND), có đoạn giới thiệu về Bảo Ninh: “Thời chiến tranh Việt Nam, ông phục vụ tại Lữ đoàn Thanh niên 27 anh hùng. Trong năm trăm người lên đường ra mặt trận cùng đơn vị năm 1969, ông là một trong mười người sống sót”.
Bảo Ninh nói rằng lời giới thiệu có thể là một sự cường điệu xuất phát từ óc tưởng tượng của nhà xuất bản. Ninh xác nhận khoảng ba tới bốn trăm thanh niên trong vùng nhập ngũ cùng lúc, nhưng ông không rõ bao nhiêu người sống sót trở về.
Ở cả Kiên và Bảo Ninh, người ta có thể nhận thấy những tác động của chiến tranh lên cuộc đời của họ. Sau quãng đời tuổi trẻ hồn nhiên bị tước đoạt, họ trở về nhà để nhặt nhạnh và chắp ghép lại từng mảng cuộc sống. Câu chuyện này không quá lạ lẫm đối với phần đông người Mỹ trở về từ cuộc chiến ấy. Trở lại đời thường sau chiến tranh, cựu chiến binh cả hai phía đều có những ước nguyện và nỗi niềm tương đồng - đó là nhiệm vụ chu toàn cuộc sống cho bản thân và gia đình; đó là được sống trong hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc.
“Chiến tranh luôn tàn bạo và phi lý, nhưng có lẽ “nỗi buồn chiến tranh” lớn nhất mà chúng ta nhận thấy sau cuộc chiến, đó chính là giữa ta và kẻ thù giống nhau tới nhường nào”, Ninh đúc kết.
Chan-tran-chi-thep-Mot-noi-buon-chien-tranhTin, ảnh clip video tin

Người Mỹ nghĩ gì về: Nỗi buồn chiến tranh
.............................................
NBCT được liên hệ, đối chiếu với A Rumor of War của Philip Caputo, Paco’s Story của Larry Heinemann, If I Die in a Combat Zone và The Things They Carried của Tim O’Brien.
Tim O’Brien có một nhận định rất đúng cho ông, cho Bảo Ninh, và cho những tác phẩm viết về chiến tranh của các cựu binh từ cả hai phía:
“Các truyện về chiến tranh thực chất không phải bao giờ cũng viết về chiến tranh. Chúng không viết về bom đạn và mưu lược quân sự. Chúng không viết về chiến thuật, chúng không viết về các hố cá nhân và lều trại. Truyện chiến tranh, giống như bất kỳ truyện hay nào, rốt cuộc là viết về trái tim con người”.
Cảm nhận về một nền văn hóa khác tồn tại ở Việt Nam được thể hiện trong NBCT cũng đã được độc giả Mỹ chú ý. Susan L., một nữ quân nhân, đọc cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh rất chú ý đến vai trò phụ nữ trong chiến tranh, và thấy ra sự khác biệt văn hóa của hai đất nước qua việc thể hiện hình ảnh người phụ nữ ở vai trò đó.
Bà viết: “Văn hóa phương Tây không thường mô tả phụ nữ là người bảo vệ quê hương mình và là chiến binh cho đất nước mình. Với tư cách một phụ nữ và là một phụ nữ làm lính tôi cảm thấy thân thuộc với những phụ nữ trong truyện này.
Một bạn đọc khác lại quan tâm đến NBCT ở khía cạnh các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam như tình cảm cha con, việc chôn cất và tưởng nhớ người chết. Thái độ của Kiên đối với người cha họa sĩ, khi còn nhỏ anh không hiểu cha mình, không đồng cảm được với cảnh ngộ của ông, mãi sau này đi lính về anh mới hiểu ra và thương xót. Điều này cung cấp cho độc giả Mỹ thấy mối quan hệ cha con, rộng ra là quan hệ giữa các thế hệ, trong gia đình Việt Nam.
Việc những người lính tử trận biến thành những hồn ma lang thang ám ảnh Kiên, cũng thể hiện một nét văn hóa tâm linh Việt Nam đối với độc giả Mỹ.
Đặt trong khung cảnh cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh, những khía cạnh này được độc giả Mỹ cảm nhận day dứt là cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm đã hủy hoại hệ thống giá trị của văn hóa Việt Nam. Đất nước, làng mạc, gia đình bị tan hoang trong chiến tranh.
Sau chiến tranh, văn hóa lối sống của người Việt Nam phải xây dựng lại. Và nhân vật Kiên cho thấy hoàn cảnh khó khăn của người dân Việt Nam trước, trong và sau chiến tranh là thế nào.
Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh không phải dễ đọc, ngay cả đối với độc giả Mỹ. Lối viết theo “dòng ý thức” của nhân vật Kiên, đảo lộn trình tự thời gian, chắp nối, đứt đoạn sự kiện, lồng “truyện trong truyện”, đã khiến nhiều người khó theo dõi nội dung tác phẩm.
Hầu hết các bài viết điểm sách, phê bình NBCT ở Mỹ đều nói tới điều này. Một số người còn nói thẳng là họ đã tính bỏ sách xuống sau vài trang đầu, nhưng rồi cố đọc và càng đọc thì mới càng thấy lôi cuốn, thấy hay.
............................................
Tóm lại, NBCT đến Mỹ là đã mang người lính ở hai bên chiến tuyến đến gần nhau, giúp hai bên hiểu nhau, nhìn nhau thấy cùng là con người, cùng chung thân phận người lính, khắc phục tâm lý một thời đối lập “họ” và “chúng ta”. NBCT khám phá cho nước Mỹ thấy một Việt Nam rất riêng về dân tộc và văn hóa và cũng rất chung về con người với những đức tính và phẩm chất phổ quát.
Đánh giá cao nhất NBCT ở Mỹ có lẽ là ý kiến của Leif A. Torkelsen (Columbus, OH United States) khi ông cho đây là cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay nhất thế kỷ XX.
Torkelsen viết: “Liệt kê đầy đủ các phẩm chất của sách này ở đây là không thể. Liên quan đến văn học Việt Nam, đây là một tác phẩm ngoại hạng so với tất cả các tác phẩm khác cùng lĩnh vực. Liên quan đến văn học chiến tranh thì chỉ có Phía Tây không có gì lạ là may ra có thể so sánh được. Bảo Ninh đã viết nên bản tụng ca đẹp đẽ đầy ám ảnh về sự trong trắng bị mất đi trong dòng xoáy chiến tranh. Tuổi trẻ, tình yêu và nghệ thuật đều được mô tả kỹ lưỡng dưới ánh của ẩn dụ tối hậu đối với cuộc sống là chiến tranh.
Hỗ trợ cho cách trình bày chủ đề không gì so sánh nổi của cuốn sách là thứ văn xuôi tuyệt vời của tác giả. Cuốn sách được viết bằng một văn phong nên thơ nhưng súc tích, nó là một mô hình tiết kiệm. Mỗi dòng của cuốn tiểu thuyết tương đối ngắn này chất chứa vẻ đẹp thẩm mỹ và chiều sâu tinh thần. Cuốn sách tràn đầy những suy tư thấu suốt về Việt Nam cũng như về tâm hồn con người. Đây là một trải nghiệm đọc không thể bỏ qua”.
Hà Nội 2008 - 2010
Comment