Nobel văn học 2011: một nhà thơ giản dị
Khi tên của chủ nhân giải Nobel văn học 2011 được công bố, cả khán phòng ồ lên: Tomas Tranströmer - cái tên ấy đã trở nên quen thuộc với độc giả Thụy Điển và thế giới từ hơn 30 năm qua.
Những tiếng ồ lên ấy không phải vì ngạc nhiên mà vì cảm thấy được an ủi. Tomas Tranströmer năm 2004 nhân dịp xuất bản tập Den stora gåtan gồm 45 bài haiku
Dù danh tiếng và tầm ảnh hưởng của mình đã vượt ra khỏi biên giới Thụy Điển, dù đã nhận nhiều giải văn học quốc tế, dù tác phẩm đã được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới, Tomas Tranströmer - một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của thời đại - dường như bị Viện Hàn lâm Thụy Điển lãng quên.
Chàng sinh viên làm thơ
Năm 1954, cách đây 57 năm, chàng trai trẻ 23 tuổi Tomas Tranströmer xuất bản tập thơ đầu tay với cái tên giản dị 17 dikter (17 bài thơ). Chỉ bốn năm sau, khi ra mắt tập thơ thứ hai Hemligheter på vägen (Bí mật trên đường), Tomas Tranströmer đã tạo được bản sắc riêng và nhanh chóng được chú ý. Những bài thơ của ông tỏa sáng với sự giản dị hiếm có, nhận thức tinh tế, ấn tượng thân thiết và ẩn dụ phong phú. Lúc ấy, Tomas Tranströmer còn là sinh viên ngành tâm lý học tại Đại học Stockholm.
Sự thành công quá sớm này là một trong những nguyên nhân khiến Tomas Tranströmer bị những nhà thơ trẻ hơn phê phán là thiếu dấn thân. Tomas Tranströmer trả lời họ theo cách riêng của mình: ông tiếp cận và giáo hóa các tội phạm trẻ, giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, người khuyết tật bằng kiến thức tâm lý chuyên ngành.
Nhà thơ của thời đại
Sự giản dị trong tác phẩm của Tomas Tranströmer là một thủ pháp nghệ thuật có thể “đánh lừa” những độc giả “nhẹ dạ” vì những gì bình thường đều trở nên phi thường trong ngôn ngữ của nhà thơ. Tương tự những họa phẩm thuộc trường phái siêu thực, sự cô đọng đặc biệt trong thơ Tomas Tranströmer được thể hiện qua các hình tượng, các cám dỗ siêu hình, sự im lặng và màu trắng.
Tomas Tranströmer cũng có nhiều thử nghiệm về vần điệu, ngắt câu và thơ văn xuôi. Mörkerseende (Tầm nhìn trong đêm - 1970) và trường ca Östersjöar (Baltic - 1974) là hai trong số các tập thơ nổi tiếng của ông được nhà thơ Mỹ Robert Bly dịch sang tiếng Anh.
Sau cơn đột quỵ khiến ông bị liệt và mất khả năng nói vào năm 1990, nhà thơ được Hội đồng Bắc Âu trao giải cho tập För levande och döda (Cho người sống và cho kẻ chết - 1989). Nhà thơ sáng tác chậm dần, đôi khi ngừng hẳn vì phải đấu tranh giữa sự sống và cái chết. Tuy nhiên, các tập haiku của ông vẫn ra mắt độc giả: Sorgegondolen (Chiếc thuyền tai họa - 1996), Diktsamling (Đoản thi - 2001), Den stora gåtan (Đại ẩn ngữ - 2004).
Tomas Tranströmer xứng đáng nhận giải Nobel văn học vì ông là một nhà thơ lớn như nhận xét của Peter Englund - thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy Điển: “Qua những hình ảnh cô đọng và trong mờ, Tranströmer đã mở ra cho chúng ta một cách nhìn mới về hiện thực. Ông viết về những vấn đề lớn: về cái chết, lịch sử, ký ức, thiên nhiên. Bạn không bao giờ cảm thấy nhỏ bé sau khi đọc thơ của Tomas Tranströmer”.
CÔNG KHANH (Theo Le Monde)
*********************
Tomas Tranströmer sinh năm 1931 tại Stockholm, hiện đang sống trên một hòn đảo, lánh xa thế giới và các phương tiện truyền thông đại chúng. Ông là nhà tâm lý học chuyên nghiệp cho đến năm 1990, khi một chấn thương cột sống khiến ông bị liệt nửa người. Tuy nhiên, ông đã xuất bản ba tập thơ, trong đó có 45 bài haiku trong thời gian này.
Tomas Tranströmer là nhà thơ Thụy Điển đương đại nổi tiếng nhất và được dịch nhiều nhất. Trước khi nhận giải Nobel văn học, ông đã nhận nhiều giải thưởng của các quốc gia khác nhau, trong đó có giải Pétrarque (Đức, 1981) và giải Neustadt International (Mỹ, 1990). Năm 1997, thành phố Västeraas - nơi ông từng sống trong 30 năm - đã lập ra giải thưởng văn học mang tên ông.
Theo Ủy ban Nobel, Tomas Tranströmer được vinh danh vì “thông qua sự cô đọng và những hình ảnh, ông đã đem đến cho độc giả một cách tiếp cận mới với hiện thực”.
Những bài thơ của Tomas Tranströmer từng được dịch và in ở Việt Nam (Toàn tập thơ - Mười một tập do Nguyễn Xuân Sanh dịch, NXB Văn Học phát hành năm 2000).
Thơ của Tomas Tranströmer được dịch ở Việt Nam - Ảnh: sachxua.net
Những nét gạch xóa của lửa
Trong những tháng tối tăm này, đời anh chỉ tỏa sáng
Khi anh yêu em. Như con đom đóm chói chang rồi tắt ngóm,
Chói chang rồi tắt ngóm - đôi khi chúng ta cũng có thể đi theo
con đường của nó
Trong đêm giữa các cây ôliu.
Trong những tháng tối tăm này, đời anh bị xô giạt và ì trơ,
Tuy cả người anh đi thẳng đến với em.
Ban đêm, bầu trời gào thét.
Không cho ai biết, chúng ta rút sữa từ hoàn vũ, để sống còn.
Nguyễn Xuân Sanh dịch (Từ bản tiếng Pháp)
(Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 208 - 06 - 2006)