
PHẠM THÁI (1777-1813)
Phạm Thái (Đan Phượng), người xã Yên thường, huyện Đông Ngàn (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội). Cha là Thạch trung hầu Phạm Đạt, có tham gia vào công cuộc Cần Vương, nhưng thất bại. Đến khi Phạm Thái trưởng thành, quyết nối chí cha, thường kết giao với những bậc nghĩa sĩ để mưu đồ khôi phục nhà Lê.
Ông tài kiêm văn võ, thích uống rượu ngâm thơ, vì là con bậc đại thần nên được gọi là cậu chiêu, lại hay say sưa túy lúy, nên mới có hiệu là Chiêu Lỳ. Lúc trẻ ông có bài thơ tự trào như sau:
Tự trào
Có ai muốn biết tuổi tên gì,
Vừa chẵn hai mươi, gọi chú Lỳ.
Năm bảy bài thơ ngâm lếu láo,
Một vài câu kệ tụng a ê!(1)
Tranh vờn sơn thủy màu lem luốc,
Bầu giốc càn khôn giọng bét be.
Miễn được ngày nào ngang dọc đã,
Sống thì nuôi lấy, chết chôn đi!
(1) do tham gia vào mưu đồ khôi phục nhà Lê mà có lúc ông bị truy nã gắt gao, phải cạo đầu, vào tu ở chùa Tiêu Sơn (huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) lấy đạo hiệu là Phổ Chiêu (có tài liệu viết là Phổ Chiếu) thiền sư để khỏi lộ tung tích.
Tự thuật
Dăm bẩy năm nay những loạn ly,
Cảm thương thân phận lỡ qua thì.
Ba mươi tuổi lẻ là bao tá,
Năm sáu đời vua thật chóng ghê!
Một tập thơ sầu ngâm đã chán,
Vài be ruột lạt uống ra gì.
Chết về tiên phật cho xong nợ,
Cái kiếp trần gian sống mãi chi!
Nhắc đến Phạm Thái, người ta thường nhắc đến mối tình với Trương Quỳnh Như. Quỳnh Như là em gái Trương Đăng Thụ. Một hôm, nhân phò giá hoàng phi Nguyễn Thị Kim lên Lạng Sơn để sang Trung Quốc theo Lê Chiêu Thống, họ Phạm gặp Trương Đăng Thụ, một người cùng chí hướng. Hai người bàn cách trừ Võ Văn Dũng để gây khó dễ cho nhà Tây Sơn. Không may lộ chuyện, Dũng sai thủ hạ là Phan Đình Hồng, bấy giờ làm hiệp trấn Lạng Sơn, tìm cách bỏ thuốc độc vào trà mà giết Thụ. Phạm Thái thế cô, chỉ còn biết đưa xác bạn về quê, tại đây, ông gặp được Trương Quỳnh Như là một người tài sắc song toàn. Đôi bên xướng họa rất tương đắc, dần dần yêu nhau sâu đậm. Phạm Thái đã tả mối tình của mình với Trương Quỳnh Như bằng mấy bài thơ:
Bài 1
Từ chốn thiềm cung trộm giấu hương,
Dễ xui tao khách mối sầu vương.
Gió thông réo rắt rong đàn oán,
Trăng hạnh chênh vênh rạng bóng dương,
Nếu phải tình duyên may chút phận,
Thì xin ân ái vẹn hai đường.
Phong lưu đôi lứa ai đà dễ,
Bụi tục chi cho bợn lóa gương!
Bài 2
Dẩy hoa, đun lá, bởi tay trời
Nghĩ lại tình duyên luống ngậm ngùi.
Bắc yến nam hồng, thư mấy bức
Đông đào, tây liễu, khách đôi nơi.
Lửa ân, dập mãi sao không tắt,
Biển ái, khơi hoài vẫn chẳng vơi.
Đèn nguyệt trong xanh, mây chẳng bợn,
Xin soi xét đến tấm lòng ai...
Cha Quỳnh Như mến tài học của Phạm Thái, lại biết ông từng hoạt động bí mật chung với con trai mình thì cũng có ý gả con cho. Tuy nhiên, mẹ Quỳnh Như lại không muốn cô lấy một “nhà sư phá giới” mà muốn cô lấy một công tử nhà giàu. Trương Quỳnh Như bị ép uổng, phẫn uất quyên sinh. Họ Phạm nghe tin, làm bài văn tế sau:
Văn tế Trương Quỳnh Như
Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu? Oan thác ấy bởi vì đâu? Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẩn trăng rằm!
Lại có điều đau đớn thế. Nhà huyên ví có năm có bảy, mà riêng mình nàng đeo phận bạc, thì lửa nguội nước vơi còn có lẽ.
Thương hại thay! Hoa có một cành, tuyết có một quãng, nguyệt có một vầng, mây có một đóa: thân là thân hiếm hoi chừng ấy, nỡ nào lấy đôi mươi năm, làm một kiếp, mà ngơm ngớm chốn non Bồng nước Nhược, chút gì không đoái đến cõi phù sinh!
Ví dụ mà tiên thù với tục, sao xưa kia vâng mệnh xuống trần chi? Nay đã nguyện một thân cho vẹn kiếp, thì ba vạn sáu ngàn ngày sống cho đủ lệ: nọ xuân huyên, này phu tử, góp với trần gian không chút hận, rồi sẽ rong chơi chín suối, cớ sao riêng bóng vội vàng chi?
Ôi! Chữ mệnh hẹp hòi, chữ duyên suồng sả, những như thân giá ấy, tình cảnh ấy, ngược xuôi kia cũng ngậm ngùi cho. Huống ta cùng nương tử, tuy chẳng thân kia thích nọ nhưng tình duyên ấy, cũng là một chút cương thường: dầu rằng kẻ ấy lạ người đây, song ân ái bấy lâu nay, đã biết bao nhiêu tâm sự.
Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi thời nên nấn ná nhân duyên: mình long đong thân gái liễu bồ, vì giận phận hóa ngang tàng tính mệnh.
Cho đến nỗi hoa rơi lá rụng, ngọc nát châu chìm: chua xót cũng vì đâu?
Nay qua nấm cỏ xanh, tưởng người phận bạc, sùi sụt hai hàng tình lệ, giãi bày một bức khốc văn, đốt xuống tuyền đài, tỏ cùng nương tử!
Đọc xong bài văn tế, họ Phạm còn có một bài thơ nối:
Trời xanh cao thẳm mấy tầng khơi,
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi!
Buồn đốt lò vàng hương nhạt khói,
Sầu nâng chén ngọc rượu không hơi.
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng,
Ải bắc hồng bay biển tuyệt vời.
Một mối chung tình tan mấy mảnh,
Suối vàng, ai nhắc hộ đôi lời!
Ông ngậm ngùi mãi về mối tình duyên lỡ dở này:
Đưa lời cho tới cung mây,
Sau này xin cởi cho đây với cùng!
Dây tơ hồng trách ai se mối,
Đến nửa chừng bỗng nới dần ra.
Căm vì một ả trăng già,
Trêu ngươi chi mãi chẳng tha, thế này...
Từ đó Phạm Thái sinh ra chán đời, vì chuyện tình duyên mà bỏ luôn chí lớn. Những lúc say sưa, ông lại lên giọng cao ngạo mà ngâm bài thơ yết hậu:
Sống ở nhân gian đánh chén nhè
Chết về âm phủ cặp kè kè...
Diêm vương phán hỏi rằng chi đó?
Be!
**************************
Tác phẩm của Phạm Thái :
- Chiến tụng tay hồ phú
- Sơ kính tân trang (Câu chuyện mới về lược và gương):
Ông có một số thơ Nôm như sau:
- Văn tế Trương Quỳnh Như
- Thơ họa 12 bài Trương Quỳnh Như.
Nguồn : wikipedia.
Comment