• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Tính “vô tư” của người Sài Gòn

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Tính “vô tư” của người Sài Gòn

    Tính “vô tư” của người Sài Gòn



    Hồi nhỏ, tình cờ tôi được đọc bài “Gì cũng cười” trong mớ sách “tàn dư của Mỹ-Ngụy để lại”, vàng ố, mốc meo và bám đầy bụi thời gian:


    Xe cộ lưu thông vô tư giữa Sài Gòn.


    “An Nam ta có một thói lạ là gì cũng cười. Người ta khen cũng cười, chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, quấy cũng hì, phải cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang. Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền. Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy, không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi... Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác... thực không có gì tức bằng cái tức phải đối đáp với những kẻ nghe mình nói chỉ lấy tiếng hì hì mà đáp...” Sau này, tôi mới biết đoạn văn trên là của học giả Nguyễn Văn Vĩnh.

    Lúc đó, tôi chỉ thấy đoạn văn này hay hay, châm biếm tật xấu của người Việt mà đọc lên thấy mắc cười, làm cho chính người trong cuộc bị chê cũng không nổi giận được. Cứ tưởng đó là thói quen dễ tính của một dân tộc quen sống lạc quan, yêu đời, tự do giữa bạt ngàn mênh mông rừng biển, sông hồ. Bây giờ, sau hơn 30 nhìn lại, chẳng những dân ta “gì cũng cười” được, mà còn nổi tiếng “vô tư” nhất thế giới nữa.

    Ở đây tôi chỉ nói đến những cái “vô tư” chết người mà người thực hiện lại không biết mình đang “vô tư”, hoặc có biết nhưng cho là chuyện nhỏ nhặt không đáng quan tâm, chớ tôi không nói đến những kẻ đang “vô tư” một cách cố ý giết chết sông Ðồng Nai, sông Thị Vải, “vô tư” tàn phá rừng đầu nguồn, “vô tư” xây đập thủy điện tràn lan gây lũ lụt vùng hạ lưu nhưng cứ cố cãi bừa, v.v.

    Ra đường, hễ ngồi lên xe là người ta bóp còi inh ỏi một cách “vô tư” bất kể đường sá đang chật cứng người và xe. Ai cũng cố gắng tranh thủ chen chúc nhau để nhích lên từng centimet đường, chật chội như vậy, đến còi hụ của xe cấp cứu cũng đành bó tay đứng im, chẳng hiểu xe máy, taxi, du lịch bóp còi để làm gì, để khoe cho người xung quanh biết xe mình có còi chăng? Cá biệt, có người vào khu vực chợ Tân Ðịnh, không gửi xe máy vào bãi xe, mà ngồi luôn trên xe lạng vào các sạp quanh chợ mua hàng. Trong chợ đi bộ đã khó, phải né tránh nhau, nhưng có ông vẫn “hiên ngang” bóp còi xe rú lên từng hồi chẳng khác nào quát vào mặt người đi chợ tránh đường cho ông chạy xe. Một bà khác tức giận chửi với theo: “Thằng cha đó bộ điên hay sao mà vô đây bóp còi um sùm nhức hết cả đầu. Trong chợ chớ có phải ngoài đường đâu mà bóp còi”.

    Tôi để ý thấy tất cả các con đường có bảng cấm đi ngược chiều, người đi đường sẽ “vô tư” biến nó thành đường hai chiều nếu không có mặt cảnh sát giao thông, thậm chí có người chạy xe máy ngược chiều còn phóng nhanh, nẹt pô xe kêu ầm ĩ, phun khói mịt mù. Ðường Trần Quốc Toản (quận 3) có bảng cấm đường một chiều, ban ngày nếu không có cảnh sát giao thông nó là đường hai chiều. Tầm 6 giờ chiều trở lên đến 9 giờ tối, nó biến thành đường 4-5 chiều, đặc biệt ngay ngã 3 Trần Quốc Toản-Huỳnh Tịnh Của thì mạnh ai nấy rẽ tá lả không theo quy luật, trật tự gì hết.

    Theo quy định, khi dừng đèn đỏ, nếu đường không cấm rẽ phải thì phải dừng xe sau vạch ngang trắng và cách lề đường ít nhất nửa mét để những xe có nhu cầu rẽ phải có lối rẽ, không cần phải dừng lại chờ đèn xanh. Tuy nhiên, rất nhiều người “vô tư” dừng xe sát lề đường. Có người chạy xe phía sau, thấy người đàng trước dừng xe chừa cái khoảng trống nửa mét đó, bèn vội vàng lấn tới “ém” luôn vô đó chớ không chịu đậu dừng sau lưng người khác. Xe sau chạy tới nữa, muốn quẹo nhưng bị vướng buộc phải dừng lại, rồi xe tiếp theo cũng vậy, thành ra xe cộ vướng dồn cục, đáng lẽ không kẹt xe cũng thành ra kẹt xe một cách vô lý vì tính “vô tư” xem thường luật giao thông của dân ta.

    Chưa hết, trên mặt đường gần các ngã ba, ngã tư, trước trường học, công viên, siêu thị... người ta thường kẻ các vạch sọc trắng lớn song song liên tiếp dành cho người đi bộ băng qua đường (gọi là vạch ngựa vằn), các phương tiện giao thông đi đến vạch ngựa vằn phải tự động giảm tốc độ. Thế nhưng, rất nhiều người “vô tư” thích băng qua đường chỗ nào là băng qua, chớ không chịu khó đi thêm chục bước đến vạch ngựa vằn. Thậm chí, người và xe “vô tư” đi qua đi lại vạch trắng kẻ liên tục (thay thế cho dãy phân cách) như đó là chỗ “vườn không nhà trống”.

    Bạn đi ngang Lăng Ông Lê Văn Duyệt (khu Bà Chiểu) sẽ thấy ban ngày ban mặt mà dân ta “vô tư” “xả nước cứu thân” ở hàng rào xung quanh lăng mặt đường Phan Ðăng Lưu. Kể cả phụ nữ có chị cũng “vô tư” không kém mấy ông, có điều các chị ngồi khuất sau mấy bồn hoa (trơ trụi) bằng xi măng. Ðiều tệ hại là bồn hoa thấp lè tè nó chỉ che được có chút xíu phía trước, phía sau trống lổng, đi đường từ xa nhìn tới tha hồ “tọa xa quan bàn tọa” không chút gì cản trở hết.

    Còn một thứ “vô tư” khác nữa là một khi bạn đã ngồi trên xe bốn bánh thì bạn “có quyền” vất rác ra cửa sổ xe cho rác “vô tư” rơi xuống đường. Nói đi cũng phải nói lại, trên phương tiện công cộng như xe taxi, xe buýt không hề có giỏ rác cho hành khách dùng khi cần, không vất xuống đường chả lẽ cứ cầm mãi trên tay, mà dân ta lại không có thói quen cầm rác đi xuống xe tìm thùng rác vất vào như bọn Tây.

    Trời nóng quá, theo thống kê mới nhất Sài Gòn hiện nay bị mất 50% cây xanh so với trước năm 1975, mà đường bê-tông nhựa nóng, nhà cao tầng, lô cốt mọc lên gấp bội. Không khí sạch và gió hình như ngày càng hiếm hoi. Vậy là chiều chiều, người dân quanh khu vực cầu Hoàng Hoa Thám quận Phú Nhuận (mới khánh thành) kéo nhau ra ngồi trên cầu hóng mát. Người thì ngồi uống nước mía, ăn bắp luộc, khoai nướng, người ngồi chảy đầu nhổ tóc, vợ chồng nhà nọ bưng cơm ra ngồi ăn ngon lành... Sau đó thì tất cả phế phẩm đều được “vô tư” tuôn hết xuống sông. Chả trách nước sông đen sì sì, buổi trưa nước ròng lòi bãi sình bốc mùi thúi không chịu nổi.

    Có không ít người “vô tư” chơi thời trang quần đùi mình trần chạy xe máy ào ào ngoài đường phố để “chống nóng”.

    Mới tầm 7 giờ tối, đi ngang công viên Gia Ðịnh (quận Gò Vấp) bạn sẽ “vô tư” rửa mắt với hàng trăm cặp ngồi trên xe máy “vô tư” yêu nhau dù họ chỉ cách lề đường chục mét.

    Ðàng sau nhà tôi ở, có vợ chồng nghệ sĩ hài Việt kiều nọ thuê nhà ở cùng con gái và mấy chị em nhà vợ. Lúc nào xuống bếp tôi cũng phải nghe nữ nghệ sĩ nọ và các chị em gái “vô tư” oang oang chuyện gia đình của họ. Chẳng lẽ mình phải viết mảnh giấy: “Tôi không có nhu cầu nghe chuyện gia đình của nghệ sĩ O. và H. Làm ơn nói vừa đủ nghe” rồi ném sang?

    Nói chung, cái sự “vô tư” của đám thường dân ít khi “gây hậu quả nghiêm trọng” như đám quan chức, nhưng cũng không kém phần làm cho không khí Sài Gòn thêm bức bối, làm cho những người xung quanh bị hưởng “vô tư” trở thành xì-trét suốt ngày. Vậy chớ mở miệng ra nói cũng không đâu đến đâu, họ lại “nhăn răng hì một tiếng” là xong, mọi chuyện vẫn y như cũ, biết đến bao giờ dân ta mới chịu bớt “vô tư”?

    Tạ Phong Tần
    Similar Threads
  • #2

    Gì cũng cười (Nguyễn Văn Vĩnh)

    Hồi còn đi học chú có đọc bài "Gì cũng cười" (Nguyễn Văn Vĩnh), bây giờ xem lại càng thêm thấm thía...

    An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy ũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang.
    Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền. Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi.
    Ví dù được y như vậy, thì ra nước An Nam ta cả dân là người hiền. Nếu thế tôi đâu dám đem lời phường chèo mà nhủ người nhếch mép bỏ tính tự nhiên mà làm bộ đứng đắn lại, nghiêm nhìn những cuộc trẻ chơi.
    Nhưng mà xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cái láo xược khinh người; có câu chửi người ta; có nghĩa yên trí không phải nghe hết lời người ta mà gièm trước ý tưởng người ta; không phải nhìn kỹ việc người ta làm mà đã chê sẵn công cuộc người ta.
    Thực không có tức gì bằng cái tức phải đối đáp với những kẻ nghe mình nói chỉ lấy tiếng cười hì hì mà đáp. Phản đối không tức, kẻ bịt tai chẳng thèm nghe cũng không tức đến thế...
    Ừ, mà gì bực mình bằng rát cổ bỏng họng, mỏi lưỡi, tê môi, để mà hỏi ý một người, mà người ấy chỉ đáp bằng một tiếng thì khen chẳng ơn, mắng chẳng cãi, hỏi chẳng thưa, trước sau chỉ có miệng cười hì hì, thì ai không phải phát tức.
    Ta phải biết rằng, khi người ta nói với ta, là để hỏi tình ý ta thế nào. Ai nói với mình thì mình phải đáp. Tuỳ ý mình muốn tỏ tình ý cho người ta biết thì nói thực; không hiểu thì hỏi lại; mà không muốn nói tình ý cho người ta biết, thì khéo lấy lời lịch sự mà tỏ cho người ta hiểu rằng câu hỏi khi phạm đến một điều kín của mình. Hoặc là có khôn thì lựa lời mà tỏ cho người ta biết những điều mình muốn cho biết mà thôi, và khiến câu chuyện cho người ta không khỏi căn vặn được mình nữa.
    Nhưng phàm người ta hỏi, mình đã lắng tai nghe, là mình nợ người ta câu đáp.
    Tác phẩm 1913
    Đã chỉnh sửa bởi HoaiVienPhuong; 01-11-2011, 07:10 PM.

    Comment

    • #3

      Lạm bàn về chuyện “nụ cười biến mất” của dân ta thời nay


      Đọc bài “Thái độ & Chế độ” của blog-sĩ Tưởng Năng Tiến tôi – có lẽ không chỉ riêng cá nhân tôi - “cha chả sương mà sáo” (sao mà sướng)! Chứng cớ hầu hết những ý kiến phản hồi, nhất là ý kiến của một độc giả nữ còn nhớ được kỷ niệm về nụ cười trên môi của nữ tiếp viên hàng không VN trước đây dù vào thời điểm trước 1975 độc giả nữ này chỉ mới học lớp 6 lớp 7, đều rất tán thưởng bài viết của blog-sĩ họ Tưởng. Riêng phần tôi, trộm nghĩ: về hiện tượng nụ cười biến mất trên khuôn mặt người nước ta - ở Miền Bắc từ sau năm 1954 và ở Miền Nam sau năm 1975 – cũng còn có đôi điều có thể lạm bàn.

      Trước hết ta thử đọc lại đoạn văn trích dẫn sau đây của nhà bỉnh bút Tqân Nam tử tức Nguyễn Văn Vĩnh viết cách nay đã gần một thế kỷ:

      “An Nam ta có một thói lạ là thế nào cũng cười. Người ta khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì; quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang. Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền . Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi. Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền . Cuộc đời muôn việc chẳng qua là trò phường chèo hết thảy không có chi là nghiêm đến nỗi người hiền phải nhăn mày mà nghĩ ngợi.” (Đông Dương Tạp chí, 1913)

      Kể cũng lạ là vào những năm đầu thế kỷ 20 nước ta còn dưới sự đô hộ của thực dân Pháp mà dân ‘An Nam ta’ vẫn giữ được nụ cười theo như nhận xét của cụ Nguyễn! Dân ta thời bấy giờ tất nhiên ai cũng hiểu rằng mình là dân nô lệ nhưng trong hoàn cảnh nào cũng vẫn cứ ‘thế nào cũng cười’ khiến nhà bỉnh bút Tân Nam tử vốn chịu ảnh hưởng xâu đậm Pháp học phải bực mình. Lại thêm ý kiến cho rằng dân ta hay cười chứng tỏ họ là ‘người hiền’ càng làm cho cụ Nguyễn bực mình hơn. Tại sao vậy? Phải chăng nhà trí thức họ Nguyễn phải viết bài bỉnh bút đăng trên Đông Dương Tạp chí về chuyện dân ta ‘thế nào cũng cười’ là có ý nhắc nhở thân phân nô lệ của dân ta mà nhiều người cho rằng thời thế này chẳng qua cũng chỉ là ‘trò phường chèo hết thảy’? Cụ phân trần “Ví dù được y như vậy, thì ra nước An Nam ta cả dân là người hiền. Nếu thế tôi đâu dám đem lời phường chèo mà nhủ người nhếch mép bỏ tính tự nhiên mà làm bộ đứng đắn lại, nghiêm nhìn những cuộc trẻ chơi.” Đọc những giòng kế tiếp trong bài “Gì cũng cười” chúng ta càng thấy rõ ý hướng không những chỉ ‘đánh thức thân phậnnô lệ’ mà còn ‘giáo huấn’ dân chúng phải biết lắng nghe ý kiến người khác nữa. Hẳn có không ít người khi đọc bài văn nói trên đã hiểu lầm ý định của nhà bỉnh bút Tân Nam tử có ý ‘cấm cười’! Phải vậy chăng? Tôi nghi rằng không phải vậy đâu. Nghi vấn này có thể có lời giải đáp nếu như ta đặt hoàn cảnh người viết báo ở giai đoạn những năm đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam: dưới sự kiểm duyệt của người Pháp hẳn không thể thẳng thừng nói lên ý kiến của mình mà phải tìm cách nói ra một cách gián tiếp, phải nói vòng. Ngoài ra trong bài viết này cụ Nguyễn cũng có ý phiền hà việc ‘dân An Nam’ vì có thói ‘gì cũng cười’ nên không chịu chú ý đến ý kiến người khác – nhất là ý kiến của trí thức đăng tải trên những cơ quan ngôn luận – một sự thiếu vắng ý thức dân chủ.

      Gần một thế kỷ trước dân ta ‘gì cũng cưới’. Thế còn hiện tại thì sao? Phải chăng dân ta ‘gì cũng khóc’? Trong bài blog của mình Tưởng Năng Tiến đã chỉ ra khá đầy đủ những lý do của việc biến mất nụ cười của dân ta hiện nay cho nên phần này cũng không cần thiết phải lạm bàn thêm.

      Gần một trăm năm trước cụ Nguyễn đã quở trách dân An Nam gì cũng cười trước những vấn đề hệ trong thiết thân. Nếu như ngày nay cụ Nguyễn còn sống không hiểu phản ứng của cụ sẽ ra sao trước thái độ vô cảm – một thứ văn hóa im lặng - không những của người dân bình thường mà còn cả của những quan chức đảng viên cọng sản trước những vấn đề sinh tử của đất nước, của dân tộc? Thay vì nụ cười nay là sự im lặng. Chắc cụ Nguyễn không những chỉ bực mình mà còn phải nổi điên lên trước cái ‘thói lạ’ câm nín im ỉm nay. Nếu như cười được cụ Nguyễn nhận định “xét ra cái cười của ta nhiều khi có cái vô tình độc ác; có cái láo xược khinh người; có câu chửi người ta” thì sự vô cảm câm nín còn độc ác đến đâu? Phản đối ý kiến “...cười hết cả, cũng là một cách của người hiền” vậy có phải “câm nín hết cả, cũng là mộc cách của người ác”của dân ta hiện nay như nhận xét của đạo diễn Song Chi: “ Ngày càng nhiều những vụ xô xát, án mạng với tính chất ngày càng man rợ mà nguyên nhân nhiều khi chỉ vì va chạm nhau trên đường, vì nạn nhân lỡ ‘nhìn đểu’ nên bị đâm cho bõ ghét hay một câu nói, một món nợ tiền bạc rất nhỏ…Chứng tỏ sự bức xúc, tức tối xã hội bị dồn nén bên trong, không biết làm cách nào để giải quyết, gặp dịp thế là bùng phát thành tội ác.”

      Có thể nói kho tàng văn chương trào phúng hài hước của Việt Nam phong phú không kém gì văn chương trào phúng hài hước của nhiều nứớc trên thế giới và điều đó cho thấy dân ta không phải không thích cười. Có điều đa phần truyện hài hước của chúng ta nặng phần tiêu cực hơn tích cực. Phần tích cực thường chỉ thấy ở những truyện hài hước có dính dáng tới tình dục. Tinh thần hài hước của người Việt nhắm tới mục tiêu phê phán, chỉ trích. Chẳng hạn Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến khi bị một vị quan chức cao cấp “Việt gian” ép phải làm giám khảo cho một cuộc thi văn thơ do vị quan này tổ chức đã thốt lên: “Thằng bán tơ kia dở dói ra/Làm cho bận đến lão viên già.” Gọi một quan chức cao cấp của chính quyền thực dân Pháp là “thằng bán tơ” tuy hài hước đấy nhưng không kém khinh bỉ, riễu cợt. Hiện nay ở Việt Nam hàng năm có không biết bao nhiêu lần xét giải văn chương, nào là giải Hồ Chí Minh, giải nhà nước v.v…và việc phát giải này vì quá “lùm xùm” nên gây nhiều dư luận phê phán. Không hiểu “thằng bán tơ” nào đã đứng ra chủ trương những giải văn chương này? Theo thiển ý, “thằng bán tơ” đầu tiên chính là kẻ mang tên giải, và càng về sau lại càng nhiều thằng bán tơ. Nhại cách nói của ông Trương Tấn Sang ta cũng thử phát biểu “Một thằng bán tơ cũng đã nguy hại rồi, huống hồ nay có cả đám thằng bán tơ thì chỉ có chết” chứ không chỉ là “bận đến…” như lời Tam nguyên Yên Đổ.

      Nhà bỉnh bút Tân Nam tử cho rằng cười ở đoạn văn trên “thói’, nghĩa là một thói quen chứ không giải thích nụ cười do đâu mà có tuy sau đó lại cho cười là “tính tự nhiên”. Theo chúng tôi nghĩ ở chỗ này Nguyễn Văn Vĩnh đã lẫn lộn thói quen với tính tự nhiên tức là bản chất. Khi đã cho cười là một thói quen tất nhiên đó không phải là một bản chất. Quả thực, theo thiển ý cười là một thói quen, và cái thói quen này do học tập mà có. Học tập nơi gia đình, nơi trường học, ngoài xã hội. Câu hỏi đặt ra: gia đình, trường học, và xã hội Việt Nam ngày nay có tạo hoàn cảnh cho đứa trẻ/học sinh/thành viên xã hội hoc được thói quen tươi cười không? Sự kiện dân ta giờ đây câm nín, vô cảm đủ cho chúng ta câu trả lời. Theo chúng tôi nhận xét, vì gia đình Việt Nam ngày nay phần lớn sống trong tình trạng khó khăn cả về vật chất lẫn tinh thần cho nên khó thấy nụ cười trên môi cha mẹ. Thế nên con cái trong nhà phải sống trong không khí không vui tươi như thế thì làm sao các em được học tập thói quen tươi cười. Nếu đứng quan sát học sinh của những trường từ mầm non đến các trường tiểu và trung học khi vào học hay tan học ta có thấy nụ cười tươi mát trên môi các em học sinh không? Trong lớp học các cô/thầy giáo có khuôn mặt tươi vui, lâu lâu nở nụ cười với học sinh không? Câu trả lời nếu không hoàn toàn là “không” thì cũng là “hiếm khi”.

      Nhưng có một điều “lạ” là khi nhìn những tấm ảnh chụp các vị lãnh đạo cao cấp trong các cuộc hội họp, tiếp tân v.v… thì ta lại thấy các vị này luôn luôn nở nụ cười rất rộng trên khuôn mặt khá đầy đặn, đôi khi phì nộn! Như chúng ta biết cười có nhiều loại/dạng thức: cười mỉm chi, cười nhạt, cười ruồi, cười ha hả đắc chí, cười nhoẻn, cười toét miệng, cười cầu tài… Không biết nên xếp nụ cười của cá vị lãnh đạo cộng sảng cao cấp vào loại nào? Theo thiển ý xếp nụ cười của các quí vị ấy vào loại “cười cầu tài/tiền” có lẽ thích hợp hơn cả.

      Nhì chung, trong khi trên khuôn mặt đại đa số dân chúng nụ cười đã biến mất thì nụ cười vẫn nở trên môi các quan chức của Đảng cũng như trên môi của giới chân dài khi tạo dáng để chụp hình. Phải chăng họ độc quyền hoàn cảnh, môi trường để thi thố thói quen cười?

      Thế nên dân ta nếu muốn có nụ cười trên môi thì cần có môi trường sống lành mạnh để học tập tươi cười. Trong cái không khí câm nín, lạnh lùng, nghi kỵ bao phủ toàn xã hôi hiện nay e rằng hy vọng nụ cười trở lại với dân ta xem ra là bất khả.

      Không ít những người từ Việt Nam sang du lịch hoặc định cư ở Mỹ và các nước Âu châu đều đưa ra nhận xét: người dân những xứ này có nét mặt rất tươi vui, ấn tượng. Bình thường nét mặt họ tươi vui và khi giao tiếp thì nụ cười “không mất tiền mua” luôn tươi tắn trên môi họ. Biết bao giờ dân An Nam ta mới được như vậy?

      Đào Trung Đạo

      Comment

      • #4

        Nhưng có một điều “lạ” là khi nhìn những tấm ảnh chụp các vị lãnh đạo cao cấp trong các cuộc hội họp, tiếp tân v.v… thì ta lại thấy các vị này luôn luôn nở nụ cười rất rộng trên khuôn mặt khá đầy đặn, đôi khi phì nộn! Như chúng ta biết cười có nhiều loại/dạng thức: cười mỉm chi, cười nhạt, cười ruồi, cười ha hả đắc chí, cười nhoẻn, cười toét miệng, cười cầu tài… Không biết nên xếp nụ cười của cá vị lãnh đạo cộng sảng cao cấp vào loại nào? Theo thiển ý xếp nụ cười của các quí vị ấy vào loại “cười cầu tài/tiền” có lẽ thích hợp hơn cả.

        TIẾNG CƯỜI phản ảnh rõ nét tâm tính. Nhân cách con người trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta nhận thấy có biết bao nhiêu cách cười thì có bấy nhiêu cá tính. Nụ cười thường điểm cho vẻ mặt thêm rạng rỡ, đẹp xinh. Nụ cười để diễn tả nỗi vui mừng trong ta trước một sự việc. Nhưng có một điều khác biệt đó là cách dáng diễn tả nụ cười tuỳ mỗi cá tính con người cũng như sự việc diễn ra trước mắt chúng ta. Có người luôn giữ trên mội nụ cười tươi tắn hồn nhiên, có người dù có vui đến mấy cũng chỉ nhếch mép cười gượng, có người cười cởi mở, có kẻ lại ngượng ngùn e ấp.
        Mỗi cách cười, mỗi nụ cười phát ra nói lên con người thật bên trong của chủ nhân nó. Mỗi cách cười, nụ cười, tiếng cười sẽ giúp cho gương mặt, cho cuộc đời của chúng ta thêm xinh thêm đẹp, thêm hạnh phúc, tươi vui, hoặc làm cho gương mặt trở nên lạnh lùng xa cách và báo cho mọi người cũng như chính bản thân cuộc sống nội tâm buồn
        khổ hẩm hiụ....
        Vì nụ cười khởi động từ tâm, tâm vui tâm hoà mới khởi tạo được nụ cười tươi âm thanh hoà nhã, nếu tâm u uất, trầm trệ sẽ tạo nên nụ cười héo hắt, sát phạt. Vậy chúng ta hãy giữ tâm hồn mình luôn tươi mát, hiền hoà sẽ có ngay nụ cười tươi đẹp làm cho khuôn mặt của chúng ta sẽ có được nhiều lỗi lạc về tinh thần lẫn vật chất trong cuộc đời: Theo tâm lý học thì:
        Tướng tự tâm sanh
        Tướng tuỳ tâm diệt
        Thế nên: Nụ cười tươi là do tâm hòa vui tạo nên. Nếu cứ để cho tâm uất, sầu buồn thì nụ cười tươi sẽ biến dạng để thay vào đó nụ cười khô khốc héo hon và lái luôn cuộc đơì ta đi đến chỗ buồn là đó vậy. Nụ cười, tiếng cười đóng một vai trò rất quan yếu trong cuộc sống của một đời người và cuộc sống đồng chung quanh ta.
        Sau đây là một số nụ cười, tiếng cười điển hình mà chị em chúng ta thường bắt gặp và mong rằng, chúng ta sẽ nắm trọng tố những người có nụ cười tươi tắn và đẹp nhất.
        CƯỜI TƯƠI
        Là nụ cười cho cả khuôn mặt toát lên niềm vui rạng rỡ, không những từ miệng mà còn cả ở khoé mắt, ánh mắt, mũi và các phần còn lại trên mặt. Đặc biệt nhất là ở đôi mắt, âm thanh và làn môi tươi thắm gây cho người đối diện một cảm quan lâng lâng vui thích. Đây chính là nụ cười của người đàng bà đoan chính hiền lương, họ cười vì thấy cảm khoái chứ không có ý gì khác.
        CƯỜI ĐAU KHỔ
        Còn gọi là nụ cười héo hắt. Là nụ cười mang tính chất và hình dáng ngược lại với nụ cười tươi. Tuy gọi là cười nhưng miệng chỉ méo xệch , đầu ngoẹo về một bên. Các bộ vị trên khuôn mặt vẫn vô tình chẳng tham dự đến để cứu vớt cho cái miệng đau khổ. Trong tiếng cười lại phản phất có khốc âm nghĩa là như có tiếng khóc. Đây là nụ cười của con người có một nội tâm u buồn đau khổ, từ đó cuộc đời của họ cũng chẳng thể sung sướng hạnh phúc mà toàn bi ai sầu muộn chẳng làm sao khác được.
        CƯỜI MÍM CHẶT
        Là nụ cười không hở miệng, hai môi chỉ kéo dài ra và dính khít rịt vào nhau như người ta mím chi, là nụ cười của con người đanh ác hiểm hóc thường kín đáo, không chan hòa với mọi người và cuộc sống chung quanh , đặc biệt nếu khi cười thì mặt và mắt cứ lạnh như băng, tâm địa lại càng khắc nghiệt.
        CƯỜI NHẠT HAY CÒN GỌI LÀ CƯỜI LẠT
        Khi cười dáng bộ và âm thanh nghe thấy bạc bẽo là nụ cười của con người vô tình bạc nghĩa, thú đội lốt người, lúc nào cũng mang nặng ghen tuông đố kỵ.
        CƯỜI RỦ RƯỢI
        Cười đến chảy nước mắt nước mũi, cười đến rũ cả người, tóc tai bù rối. Đây là lối cười của người dễ tính quá mức đến vô duyên. Phụ nữ tối kỵ lối cười này vì rất phản thẩm mỹ. Con người có nụ cười rủ rượi khó có thể sống chung với người có nụ cười nhạt cố hữu.
        NỤ CƯỜI THƯỜNG XUYÊN
        Là nụ cười luôn nở trên môi. Loại người có nụ cười "trường tồn vĩnh cửu" thì lúc nào trên nét mặt cũng phản phất nụ cười. Dường như chẳng bao giờ con người này gặp phải nghịch cảnh, đau buồn, bất bình trên cõi đời. Thì đó hoặc là nụ cười của một người khờ khạo, dại dột, đần độn không ý thức được nụ cười của mình. Hoặc đó có thể là nụ cười của một người có nhiều cá tính kiêu ngạo, và tin rằng mình có đủ sức chịu đựng dẻo dai để có thể mỉm cười trước tất cả những vấn đề nan giải, gian ác, tàn hại và đau khổ nhất. Tuy nhiên, dù thuộc dạng nào, nụ cười luôn nở trên môi với khuôn mặt rạng rỡ cũng phản ánh được một tâm hồn cởi mở, do đó có một sức thu hút được cảm tình của người khác ở điểm họ là người can đảm và không có gì có thể làm lay chuyển được họ Nụ cười này, nếu có thêm ánh mắt sinh động thì đúng là nụ cười của một người can đảm, tự tin.
        CƯỜI CHÂM BIẾM
        Nụ cười có dáng dấp và mang âm hưởng có tính chất chê bai, giễu cợt lẫn khinh khi. Đây là nụ cười cố hữu của loại người có đầu óc tự kiêu, coi đời bằng nửa con mắt, thích châm biếm, chê bai kẻ khác và tự đề cao mình. Thường những người mang nụ cười này, họ rất ít có bạn thân và cũng ít ai muốn đến gần họ
        CƯỜI LẢ LƠI
        Nụ cười có vẻ tình tứ lả lơi, miệng cười kèm theo ánh mắt đưa đẩy như mời chào, lơi lả.Đây là loại cười "thiện nghệ" của các kỷ nữ ở chốn lầu xanh tặng các "chàng khách". Là nụ cười của hạng người lẳng lơ trái nết, các bạn gái nên tránh nụ cười này.
        CƯỜI NHAM NHỞ
        Nụ cười có vẻ trơ trẽn, nịnh bợ làm cho người đối diện đem lòng khinh khi và khó chịuMột người có giáo dục, lễ độ và tư cách không thể có nụ cười nham nhở.
        CƯỜI XÚC ĐỘNG
        Nụ cười này có một giá trị tinh thần rất cao. Vì đây là nụ cười cổ hữu của một người đàn bà đẹp đang cần làm bạn với "một người" để tìm sự che chở. Nụ cười vừa có vẻ ân cần, vừa có vẻ lo ngại và thường thì rất chân thành mời mọc. Các đấng mày râu thật khó mà không bị khuất phục bởi nụ cười đầy xúc động này. Đây là nụ cười của người đàn bà nền nếp, nhu mì, chân thật.
        CƯỜI GƯỢNG
        Là nụ cười có vẻ miễn cưỡng giả tạo, vì trong lòng không vui, không cảm thấy đáng cười mà vẫn cố cười để vừa lòng người đối diên.(xã giao)Hoặc nụ cười có vẻ sượng sùng, vì trong lòng cảm thấy có điều xấu hổ vì tội lỗi của mình nhưng phải cười theo mọi người.(Lòng tự thẹn phát ra nụ cười e thẹn) Đây là nụ cười của một người mang tâm trạng tội lỗi, tự ti trước người khác.
        CƯỜI RÚ, CƯỜI RÉ
        Cười rú hoặc ré lên từng hồi một cách thiếu văn hoá. Tối kỵ đối với bạn gái.
        CƯỜI SẰNG SẶC HOẶC CƯỜI SẶC SỤA
        Cười thành nhiều tiếng ngắn trong cổ họng như bị nất nghẹn, bị sặc. Là lôi cười của nhừng em bé bị thọc lét. Người lớn mà cười sằng sặc, sặc sụa thì là loại người không có tư cách và thiếu văn hoá. Đàn bà con gái có kiểu cười này làngười không đúng đắn.
        CƯỜI NHOẺN
        Cười mở miệng (hai môi) một cách hồn nhiên, dể mến. Nói lên con người hiền hoà, người đôn hậu, dể hòa mình với mọimọi người chung quanh.
        CƯỜI NHỊN BỢ
        Là cười hề hê, hì hì, nụ cười của lại người bợ đỡ người trên, hậm hực với kẻ dưới. Nụ cười thường kèm theo cử chỉ xoa má, gãi tai. Người này thuộc hạng tiểu nhân bần tiện không đáng cho đời tôn trọng.
        CƯỜI KHÌ
        Cười một cách hồn nhiên, không có vẻ nghĩ ngợi vì hoặc cười để xí xóa, đánh lãng một lỗi lầm nhỏ vừa phạm phải.
        CƯỜI KHANH KHÁCH
        Cười thành tiếng to và giòn giã từng hồi. Một cách thoải mái vô tư lự, có khi còn chứng tỏ mình là người bậc trên, tự mãn. Đây là nụ cười của người vô tư hoặc tự tin.
        NỤ CƯỜI RỘNG RẢI
        Là nụ cười thoải mái, không gò bó. Các bấp thịt trên mặt, mắt mũi đều hợp nhau tạo nên nụ cười khoáng đạt vô cùng thanh thoát. Người đàn bà này rất độ lượng, tử tế và thành thật một cách đáng mến. Người này như luôn luôn sẵn sàng giúp đở,nâng nhắt bạn bè, thân thuộc và tất cả những người chung quanh.
        CƯỜI THOÁNG QUA
        Là nụ cười biểu hiện bằng động tác cơ bắp thuần túy chứ không có xúc cảm chen vào. Miệng kéo dài ra rồi khép lại đúng vị tríbạn đầu một cách máy móc, không lưu lại dấu vết của niềm vui (nếu có) Đây là nụ cười xã giao biểu dương cho một con người hay gắt gỏng, cáu kỉnh, bi quan và hay kéo kín tâm tư. Thường hay dấudiếm và không muốn mang đến niềm vui cho ai. Đó là nụ cười của người đàn bà ích kỷ, khinh người. Bạn gái lỡ có nụ cười trên đeo đẳng thì hãy sửa đổi sớm chừng nào hay chừng ấy để tâm hồn được phóng khoáng chan hoà tươi mát hơn.
        CƯỜI TOE TOÉT
        Là cười to tiếng hở răng, há mồm một cách quá buông thả đến bừa bãi, chẳng giữ ý tứ gì.
        CƯỜI LĂN BÒ
        Vui quá đến nỗi cười không dứt, cười quá nhiều phải bò lăn trên gường hoặc trên đất. Lối cười quá táo tợn cần tránh. Vớilối cười làm mất quá nhiều nữ tính. Đồng thời nói lên tính nết bừa bãi thiếu tư cách của người nữ vốn lúc nào cũng cần nhu mì, êm dịu.
        CƯỜI GÓP
        Là lối cười hùa theo người khác để lấy lòng mặc dầu sự việc không liên quan đến mình, cũng chẳng làm mình phải tức cười. Đây cũng là lối cười nịnh bợ. Cũng có khi vì xã giao (còn tùy trường hợp mà xét.)
        CƯỜI HỀNH HỆNH
        Cườ thành tiếng một cách ngây ngô khờ gại, hoặc thật thà, vô duyên.
        CƯỜI KHẨY
        Cười có ý kinh khi, coi thường, những ý mĩa mai. Nói lên người kêu ngạo, khinh đời.
        CƯỜI GẰN
        Cười rặn từng tiếng tỏ vẻ hằn học hoặc mỉa mai, chê bai.
        Là tiếng cười của con người khó tính hay ganh tị
        CƯỜI CỢT
        Cười cười nói nói tỏ thái độ thiếu trang nghiêm. Cần tránh lối cười cợt khi đi đưa đám ma, hoặc viếng thăm người bệnh.
        Biểu lộ niềm vui qua nụ cười quả thật là nhiều cách nhiều vẻ . Cũng qua đó có thể giúp ta thấu hiểu trạng thái tâm hồn không những của người mà còn cả chính ta, tâm trí đến sức khoẻ của mình để rồi tùy nghi sửa đổi sao cho ngày một tốt đẹp và hoàn chỉnh hơn.
        Thử tưởng tượng bạn đang đứng trươ"c một người đang cười.
        - Bạn xét xem nụ cười của người ấy từ dáng điệu đến âm thanh phát ra rồi phân định xem nó thuộc loại nào, sau đó bạn nhận xét con người đó có hợp với loại cười đó hay không. Nhưng bạn phải cần xét xem có phải đó là nụ cười cố nữu của người đó không rồi mới quyết đoán. Vì sự thật nụ cười phải thích nghi với hoàn cảnh sự việc (Cần tế nhị, tinh tế trong việc xét đoán mới đánh giá được, nếu quá vội vàng hấp tấp sẽ sai lệch) Chúng ta làm sao chối cãi được rằng tiếng cười đần độn khờ khạo là của con người khờ khạo ngây ngô? Tiếng cười rộ, cười vang, cười to tiếng không phải là của người lạc quan yêu đời và dễ xui cảm đến buông trôi cả mọi việc.
        Chúng ta phải mặc nhiên công nhận rằng tiếng cười ồn ào, huyên náo là cái cười của những người thiếu giáo dục.
        Tiếng cười mà miệng luôn khép là cái cười của người luôn tự kiểm soát lời nói cũng như thái độ.
        Chúng ta cũng thấy những người thanh tao tế nhị thường có tiếng cười dịu dàng và hiền hoà.
        Có những tiếng cười phát ra làm cho người ở xa khi nghe qua sẽ biết là vì đang cười mà không thật tình trong khi cười tán đồng hoàn toàn, người ta còn nhận biết rõ ràng người đang cười là con người lanh lợi hay ngây thơ lù khù, thâm hiểm hay nhân đức hiền hậu.
        Tiếng cười quan trọng vậy, bạn gái chúng ta cần lưu tâm quan sát để tự hoàn chỉnh cho chính mình.
        Nụ cười:
        - Người khôn ngoan ít cười, nếu cười thường cười mỉm.
        - Người dễ dãi hay thiếu thận trọng, gì cũng cười.
        - Người có tâm hồn khoan dung, độ lượng, có tài xã giao có nụ cười kín đáo, nhưng cởi mở, có cặp mắt thường mở to mỗi khi có niềm vui đến.
        - Người lỗ mãng hay cười hô hố, rất to, ấn át mọi thứ.
        - Người biển lận rất ít khi cười, khi cười lại như nấc (khúc khích)
        - Người đa dâm cười bằng ánh mắt và môi cười nhoẽn không thành tiếng.
        - Người thiếu xét đoán : hay cười không đâu vào đâu.
        - Hay khinh người : thường có nụ cười ruồi.
        Nụ cười Bao Tự
        Bao Tự được Chu U Vương sủng ái. Để làm nàng cười, nhà vua đã làm mọi cách. Sau nhiều lần cố gắng nhưng không thành, Quắc công Thạch Phủ tâu với vua là mình có cách làm cho nàng cười. Quanh đất nhà Chu cai trị vốn xây nhiều tháp dầu để khi có giặc kéo đến thì đốt các cột lửa báo hiệu cho chư hầu đến cứu. Quắc Công khuyên Chu U vương đốt lửa cho chư hầu đến để cho Bao Tự cười. U vương làm theo.
        Quân chư hầu mấy nước lân cận trông thấy các cột lửa cháy, ngỡ là có giặc bèn hớt hải mang quân đến cứu. Đến kinh thành, thấy mọi người vẫn đi lại bình thường, không có giặc giã gì cả. Các chư hầu ngơ ngác nhìn nhau. Bao Tự ở trên đài trông thấy bật tiếng cười lớn. U vương vô cùng hoan hỉ vì làm được cho nàng cười. Xong U vương lệnh cho các trấn chư hầu rút quân về vì không có giặc.
        Đến một thời gian sau, vua Chu lại sai đốt lửa lần nữa và các chư hầu lại bị lừa để Bao Tự có được tiếng cười.
        U vương say mê Bao Tự, xa lánh hoàng hậu họ Thân. Bao Tự sinh được một hoàng tử, U vương rất yêu quý, định lập làm thái tử và muốn phế truất thái tử Nghi Cữu. Cha Thân Hậu bèn liên hệ với quân Khuyển Nhung bên ngoài kéo vào đánh úp Cảo Kinh. U vương vội cho đốt lửa hiệu triệu chư hầu tới cứu, nhưng các chư hầu bị lừa vài lần nên tưởng vua đùa, không tới nữa. U vương mang Bao Tự và con nhỏ bỏ chạy, bị quân Khuyển Nhung đuổi theo giết chết. Riêng Bao Tự bị vua Khuyển Nhung bắt về cung để mua vui.
        Quân Khuyển Nhung cướp phá giết người kinh thành. Thân Hậu ân hận mang họa cho dân Cảo Kinh bèn viết thư triệu các nước chư hầu Tấn, Tần, Trịnh đến đánh quân Khuyển Nhung. Quân ba nước kéo đến đánh tan quân Nhung. Vua Nhung bỏ chạy. Bao Tự thấy quân các nước kéo vào cung bèn thắt cổ tự vẫn.
        Con trưởng U vương là Nghi Cữu được lập lên ngôi, tức là Chu Bình Vương
        HVP sưu tầm

        Khóc chưa hẳn là buồn
        Cười chưa chắc đã vui
        ----
        Không biết tôi nên khóc hay cười
        Cười đời đen trắng bạc như vôi
        Cười quân phỉnh nịnh hay lừa dối
        Cười lũ lận lường sống đãi bôi
        Cười quan cướp giựt, phường ăn bám
        Nửa người nửa ngợm giống đười ươi

        NỤ CƯỜI CHUA CAY

        Cười là tiếng khóc khô không lệ
        Người ta cười khi quá đau thương



        Đã chỉnh sửa bởi HoaiVienPhuong; 03-11-2011, 06:11 PM.

        Comment

        Working...
        X
        Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom