• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Võ Trường Toản - Nhà văn hóa bậc thầy của Sài Gòn xưa

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Võ Trường Toản - Nhà văn hóa bậc thầy của Sài Gòn xưa



    Võ Trường Toản (?-1792)




    Đền thờ Võ Trường Toản



    Võ Trường Toản người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (không rõ năm sinh, cũng như không rõ gốc gác, chỉ biết ông là người học rộng, tài cao, thông đạt kim cổ...).

    Trong thời chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh, ông ở ẩn nơi quê, mở trường dạy học, từ chối mọi điều ban phát, không tham gia vào chính sự. Trong hàng trăm học trò do ông đào tạo, có những người nổi tiếng như Trịnh Hoài Đức, Lê Bá Phẩm... Những nho sĩ tiết tháo thuộc thế hệ sau như Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị cũng chịu ảnh hưởng về đạo đức, học phong, sĩ khí của nhà giáo họ Võ.

    Võ Trường Toản mất ngày mồng 9 tháng 6 năm Nhâm Tý, tức 27-7- 1792. Để tưởng nhớ công đức của thầy, học trò cũ mà ông đã tặng đôi liễn:

    "Sinh tiên giáo huấn đắc nhân, vô tử nhi hữu tử

    Một hậu thịnh danh tại thế, tuy vong giả bất vong"

    Dịch nghĩa:

    Lúc sống dạy dỗ được người, không con cũng như có.

    Chết, tiếng tăm còn để, mất mà chẳng mất.

    Khi ba tỉnh miền Đông rơi vào tay giặc Pháp, một số sĩ phu ở Gia Định (trong đó có Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông, Phạm Hữu Chánh, Trương Gia Hội) không muốn cụ Võ Trường Toản nằm lại trong vùng bị tạm chiếm, đã chủ trương dời phần mộ về làng Bảo Thạnh (nay thuộc xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri) ngày 15-12-1965 (1). Văn bia dựng tại ngôi mộ do Phan Thanh Giản soạn. Sau đó, Nguyễn Thông, lúc bấy giờ là Đốc học tỉnh Vĩnh Long, đã viết lời tường thuật cuộc cải táng được khắc ở mặt sau bia.

    Những trước tác của cụ Võ Trường Toản hầu như bị thất lạc... đến nay chỉ còn lưu truyền một bài phú duy nhất, bài Hoài cổ dài 24 câu. Với bút pháp cổ điển - những điển tích, hình ảnh đều lấy từ sử sách của Trung Hoa – tác giả bài phú muốn ký thác vào đó tâm sự cùng quan niệm về đời, về người cùng những gì mà ông đã chứng kiến trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.


    Chú thích:

    (1) Lúc này, 3 tỉnh miền Tây còn là vùng đất tự do, Ba Tri lúc ấy thuộc tỉnh Vĩnh Long.




    ************************


    Võ Trường Toản - Nhà văn hóa bậc thầy của Sài Gòn xưa

    Tiểu sử cụ được Phan Thanh Giản tóm tắt như sau:

    "Tiên sinh tính Võ, húy Trường Toản; đời trước hoặc nói là người Thanh Kệ (Thừa Thiên), hoặc nói là người Bình Dương (Gia Định), trước học ai hiện chưa rõ. Chỉ biết sở học của tiên sinh đã tới bậc dày dặn, đầy đủ, chất thật, có thuật nghiệp uyên thâm, thông đạt. Xảy hồi biến động Tây Sơn, tiên sinh ở ẩn, mở trường dạy học, học trò kể có mấy trăm. Ngô Tùng Châu là môn sinh cao đệ nhất. Bậc thượng hạng là các ông Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhơn Tĩnh. Bậc danh sĩ là ông Chiêu, ông Trúc, ở ẩn dật, ngoài ra không kể hết được. Các ông ấy đều gặp hồi phong vân, thời trung hưng..., thảy đều nên công nghiệp lớn trong đời.

    "Lúc vào Gia Định, Nguyễn Ánh thường triệu tiên sinh tới đàm đạo. Lại nghe tiên sinh học rộng khắp các kinh, và sở trường nhất là bộ Tứ Thư. Ông Chiêu là nhà túc nho ẩn dật học theo tiên sinh, học thấu nghĩa tri ngôn dưỡng khí... Sở học của tiên sinh thật là rộng lớn và tinh vi vậy, dẫu đọc bất cứ ngàn muôn kinh sách nào cũng rõ được nghĩa lý.

    "Tiên sinh không hứng ra làm quan, nên đại khái không thấy được sự nghiệp. Từ thuở tiên sinh lấy lối học nghĩa lý để giáo hóa, chẳng những đương thời đào tạo được nhiều nhân tài mà còn truyền thuật, giảng luận trao dồi về sau, tới nay dân gian trong 6 tỉnh Nam Kỳ vẫn tỏ lòng trung nghĩa, cảm phát dám hy sinh tới tính mạng. Xét ra tuy nhờ đức thân nhân của quân vương nhuần gội, cố kết nhân tâm, nhưng nếu không có đức công mở mang huấn dục của tiên sinh từ thuở trước thì làm sao có được nhân tâm như thế.

    Đúng vậy, Võ tiên sinh là người ẩn dật, không làm quan với cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn. Ẩn dật với chính quyền - bất kể chính quyền nào cả Tây Sơn lẫn chúa Nguyễn- mà không ẩn dật với xã hội: tiên sinh đã mở trường dạy bảo hàng trăm học sinh, nhiều người đỗ đạt làm quan lớn, nhiều người chỉ học để sống có đạo lý. Song tất cả đều là hào khí Đồng Nai. Hào khí ấy, được tiên sinh hun đúc cho người đương thời và còn tồn tại mãi về sau.

    Gia Định tam gia là 3 nhà văn thơ rất nổi tiếng ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đều là học trò của Võ tiên sinh, gồm có: Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh. Thơ văn của 3 nhà thơ này đã in thành sách Gia Định tam gia thi tập còn truyền đến nay. Nhóm thi văn tao đàn Hội Sơn xưa ở Sài Gòn cũng từng theo học Võ tiên sinh, họ là: Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức, Hối Sơn Hoàng Ngọc Uẩn, Nhữ Sơn Ngôn Nhơn Tĩnh, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng...

    Nếu Trịnh Hoài Đức làm "chủ soái" Gia Định tam gia và Hội Sơn thì Ngô Nhơn Tĩnh lại đứng đầu Bình Dương thi xã nổi danh phong nhã. Tĩnh là người "viết đẹp, vẽ tài" nhất đương thời. Học trò của Võ Trường Toản không phân biệt người Việt hay Minh Hương, trong số này nổi danh hơn cả là Trịnh Hoài Đức gốc Phước Kiến và Ngô Nhơn Tĩnh gốc Quảng Đông.

    Họ là bọn xuất sĩ, không chỉ làm thơ văn yêu nước, mến cảnh Sài Gòn, mà còn đem tài năng ra thi thố lập được nhiều công danh, như Ngô Tùng Châu từng làm sư phó dạy Hoàng tử Cảnh, Trịnh Hoài Đức làm thượng thư bộ Lại kiêm bộ Binh, Lê Quang Định làm thượng thư bộ Hộ kiêm quản Khâm thiên giám, Ngô Nhơn Tĩnh làm thượng thư bộ Công lãnh chức Hiệp trấn thành Gia Định... Họ cũng cầm đầu ngành ngoại giao: Năm 1801, chánh sứ Trịnh Hoài Đức cùng hai phó sứ Ngô Nhơn Tĩnh và Hoàng Ngọc Ẩn đi sứ Trung Quốc để báo tin thắng thế; năm 1802, chánh sứ Lê Quang Định cũng đi Trung Quốc để cầu phong và xin đổi quốc hiệu (bỏ tên An Nam, lấy tên Nam Việt, nhưng vua Thanh chỉ nhận đổi là Việt Nam); năm 1807, chánh sứ Ngô Nhơn Tĩnh đi La Bích để phong vương cho vua Chân Lạp. Ngoài ra, họ còn trước tác các công trình "khoa học sử địa": Trịnh Hoài Đức với Gia Định thành thông chí, Lê Quang Định với Đại Việt thống nhất dư địa chí, Ngô Nhơn Tĩnh (và chủ biên Bùi Dương Lịch) với Nghệ An phong thổ ký. Ở thời điểm này, phi những học trò của Võ Trường Toản đã thấm nhuần nền giáo dục "thật chất, có thuật nghiệp uyên thâm, thông đạt", khó ai thực hiện được những công trình khoa học và bác học ấy.

    Thế nên, "từ những học trò đỗ cao, quan sang (ấy) cho đến những người như Nguyễn Đình Chiểu, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị (có thể kể thêm Hồ Huấn Nghiệp, Bùi Hữu Nghĩa, Trương Định, Nguyễn Hữu Huân, Học Lạc...) sở dĩ đã giữ tròn tiết tháo khi nước nhà bị xâm lăng, đều là người có chịu ảnh hưởng của cụ". Lúc 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ mất vào tay Pháp, nhóm sĩ phu Phan Thanh Giản (cũng gốc Minh Hương), Nguyễn Thông, Phạm Hữu Chánh, Võ Gia Hội, Trương Ngọc Lang liền lo việc dựng mộ bia và di chuyển hài cốt Võ tiên sinh từ làng Hòa Hưng (Chí Hòa nay) về làng Bảo Thạnh (tỉnh Bến Tre) nơi quê hương Phan Thanh Giản. Nhưng lúc bia đang dựng thì thực dân Pháp đã chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Trên mộ bia ở Hòa Hưng cũng như ở Bảo Thạnh, vẫn luôn có huy hiệu khắc trên đá Gia Định xử sĩ Sùng đức Võ tiên sinh do chúa Nguyễn Ánh truy tặng. Đây là xử sĩ có công đầu trong sự nghiệp kiến tạo hào khí Đồng Nai, nơi có "nhiều người trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dù hàng phụ nữ cũng thế".
    Đã chỉnh sửa bởi Photo; 09-11-2011, 09:59 PM.

    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom