Liêu Trai Chí Dị 聊齋志異- Bồ Tùng Linh
Quyển I
1. Thi Thành Hoàng (Khảo Thành Hoàng)
Ông nội người anh rể của ta họ Tống húy Đạo, là Lẫm sinh[10] trong huyện. Một hôm ông bệnh nằm trong nhà, thấy có viên lại cầm công văn dắt một con ngựa bờm trắng tới nói “Mời ông đi thi”. Ông nói “Quan chấm thi chưa tới, làm sao mà thi?”. Viên lại không đáp, chỉ giục đi mau. Ông ra sức cưỡi ngựa chạy nhanh theo, đường đi rất lạ, tới một nơi thành quách như kinh đô của bậc vương giả.
Lát sau vào một Công thự, cung thất tráng lệ, ở trên có mười người ngồi, đều không biết là ai, chỉ nhận ra là có Quan Đế[11]. Dưới thềm bày hai cái bàn hai cái ghế, đã có một vị Tú tài ngồi trước, ông cũng tới ngồi cạnh. Bàn nào cũng có sẵn giấy bút, ngay sau đó đề thi đưa xuống, nhìn vào thấy có tám chữ “Nhất nhân nhị nhân, hữu tâm vô tâm” (Một người với hai người, hữu ý hay vô ý). Hai ngưm bài xong trình lên, bài của ông có câu “Hữu tâm vi thiện, tuy thiện bất thưởng, vô tâm vi ác, tuy ác bất phạt” (Có ý làm điều thiện, dù thiện cũng không thưởng, vô ý làm điều ác, dù ác cũng không phạt).
Các thần chuyền tay nhau xem, khen ngợi không thôi, gọi ông lên dụ rằng “ở Hà Nam khuyết một chỗ Thành hoàng, ông xứng đáng giữ chức ấy”. Ông mới hiểu ra, lạy phục xuống khóc nói “Được ban mệnh lệnh, đâu dám chối từ! Nhưng còn có mẹ già bảy mươi tuổi không người phụng dưỡng, xin chờ khi đã trọn tuổi trời sẽ vâng mệnh giữ chức”. Ở trên có một vị dáng mạo như bậc đế vương lập tức ra lệnh “Tra sổ xem mẹ ông ta thọ được bao nhiêu”. Có một viên lại râu dài giở sổ ra xem lại một lượt bẩm rằng “Còn thọ chín năm nữa”. Mọi người đang ngần ngừ, Quan Đế nói “Không sao, cứ sai Trương sinh thay, đủ hạn chín năm sẽ giao cho ông ta giữ chức cũng được”, rồi nói với ông rằng “Lẽ ra phải đi nhận chức ngay, nhưng nay nghĩ tới lòng hiếu thảo nên cho hoãn chín năm, đến hạn sẽ lại triệu”.
Lại khuyến dụ vị Tú tài kia mấy câu, hai người cùng lạy lui ra. Vị Tú tài nắm tay ông đưa ra tới ngoài thành, tự nói là họ Trương ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông), có thơ đưa tiễn nhưng ông quên cả, chỉ nhớ được hai câu “Hữu hoa hữu tửu xuân thường tại, Vô nguyệt vô đăng dạ tự minh” (Có hoa có rượu xuân thường cạnh, Không nến không trăng tối tự soi).
Ông đã lên ngựa, bèn chia tay rồi đi, về tới làng mới giật mình tỉnh dậy. Lúc ấy ông đã chết ba ngày rồi, mẹ ông nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ bèn tới đỡ ra, nửa ngày sau mới nói được. Hỏi thăm thì hôm ấy ở Trường Sơn quả có Trương sinh chết.
Chín năm sau quả nhiên mẹ ông mất, ông lo liệu tang ma xong, tắm gội vào phòng nằm rồi tắt hơi. Cha vợ ông ở cửa tây trong thành, chợt thấy ông tới, nghi vệ lộng lẫy, tùy tùng rất đông, vào nhà lên thềm lạy một lạy rồi đi. Người nhà thảy đều ngờ sợ, không biết ông đã làm thần, vội tới làng để hỏi mới hay ông đã chết rồi. Ông có tự viết lại tiểu truyện của mình, tiếc là sau loạn đã mất, trên đây chỉ là tóm tắt lại mà thôi.
2. Người Trong Con Ngươi Trò Chuyện (Đồng Nhân Ngữ)
Người học trò ở Trường An là Phương Đống, cũng có tài danh nhưng tính khinh bạc không giữ lễ nghi, cứ ra đồng gặp con gái đi chơi là lập tức theo tán tỉnh.
Một hôm trước tiết Thanh minh đi chơi ngoài thành thấy một chiếc xe nhỏ mui gấm rèm thêu, có vài người tỳ nữ cưỡi ngựa thong thả theo sau, trong đó có một nàng cưỡi con ngựa tốt, dung mạo rất đẹp. Bèn tới gần nhìn, thấy rèm xe đang vén lên, bên trong có một nữ lang trạc mười sáu tuổi, trang sức lộng lẫy, bình sinh chưa thấy ai đẹp như vậy nên mắt hoa đầu váng cứ đuổi theo nhìn, khi thì chạy lên trước, lúc thì tụt lại sau, theo suốt mấy dặm.
Chợt nữ lang gọi người tỳ nữ tới cạnh xe nói “Buông rèm xuống cho ta! Gã tiểu tử ngông cuồng kia ở đâu dám lại đây nhìn ngó?” Người tỳ nữ buông rèm xe xong ngoái nhìn sinh giận dữ nói “Đây là vợ mới cưới của Thất lang ở thành Phù Dung về nhà thăm cha mẹ, không phải như các cô gái nhà quê, phải dạy cho học trò hỗn láo nhà ngươi mới được”. Dứt lời cầm một cục đất dính ở bánh xe ném vào mặt sinh, sinh tối cả mắt lại. Đến khi gỡ được bùn đất ra nhìn thì đoàn xe ngựa đã đi xa, sợ hãi trở về.
Thấy con mắt xốn xang rất khó chịu, nhờ người khác vạch mi mắt ra xem thì trong con ngươi có một cái màng, qua một đêm càng cộm thêm, nước mắt chảy giàn giụa không ngừng. Cái màng ấy ngày càng to, qua vài ngày dày như đồng tiền, mắt trái cũng bị sưng như vậy, thuốc thang gì cũng không khỏi, buồn rầu muốn chết, tự lấy làm hối hận.
Nghe nói kinh Phật có thể giải ách bèn tìm một quyển, nhờ người đọc cho để học thuộc lòng mà tụng. Buổi đầu còn thấy lo lắng phiền não, sau dần thấy tinh thần thư thái, ban tối rảnh rỗi thì ngồi xếp bằng lần tràng hạt mà niệm, được một năm thì thấy hoàn toàn yên ổn.
Chợt nghe trong con mắt bên trái có một giọng nói nhỏ như tiếng nhặng vo ve rằng “Tối tăm như ban đêm thế này, ai mà chịu nổi” Trong con mắt bên phải cũng có một giọng đáp “Hay chúng ta cùng ra ngoài chơi một lúc đi, cho đỡ buồn bực”. Kế sinh dần dần thấy trong mũi có cái gì cọ quậy rất ngứa ngáy, như có con vật bò ra, một lúc lâu thì trở lại, lại theo lỗ mũi mà vào. Vào tới trong lại nói “Lâu quá không ra vườn chơi, giò lan Trân châu đã chết khô rồi”.
Sinh vốn rất thích lan, trong vườn trồng rất nhiều, hàng ngày vẫn ra tưới bón, nhưng từ khi bị lòa thì lâu không hỏi tới. Lúc bấy giờ chợt nghe thấy thế, bèn căn vặn vợ “Sao lại để lan chết khô như vậy?”. Vợ hỏi sao biết, sinh kể lạ nguyên do, vợ ra vườn nhìn xem thì giò lan quả đã khô quắt rất lấy làm lạ lùng. Bèn lặng lẽ núp lại trong phòng, thấy có hai người bé tí nhỏ hơn hạt đậu từ trong lỗ mũi sinh bò ra thoắt cái đã ra khỏi cửa, nhìn theo thì đã mất dạng. Loáng sau lại sóng đôi bay về, đáp xuống mặt sinh, lại như con ong về tổ chui trở vào, cứ như thế suốt hai ba hôm.
Chợt sinh nghe người bên mắt trái nói “Đường hầm quanh co khuất khúc, ra vào qua lại bất tiện quá, chẳng bằng mở lấy một cái cửa”. Người bên mắt phải nói “Vách bên ta rất dày, không dễ đâu”. Người bên mắt trái nói “Để ta phá thử xem, nếu được sẽ cùng ngươi dùng chung”. Kế thấy trong con mắt trái như có cái gì xé toạc ra, giây lát mở mắt ra nhìn, thì lại thấy mọi vật như thường.
Sinh mừng rỡ nói với vợ, vợ tới xem thì thấy cái màng trong mắt trái đã vỡ ra một lỗ, tròng đen di động như hạt tiêu. Qua một đêm thì lớp màng mất sạch, nhìn kỹ vào thì thấy mắt có hai con ngươi nhưng mắt phải vẫn bị sưng phồng lên như cũ, mới biết hai người trong mắt đã sang ở chung một chỗ. Sinh tuy chỉ có một mắt, nhung sáng chẳng kém người còn đủ hai mắt, nhìn gì cũng thấy. Từ đó ngày càng tự kiểm thúc, người làng khen là có nết tốt.
Dị Sử thị nói: Làng ta có người học trò cùng hai người bạn đi tr đường, thấy xa xa có một thiếu phụ bèn thúc lừa chạy vượt lên ngâm đùa rằng “Có người đẹp chừ”[12] rồi nhìn hai người bạn nói “Đuổi theo mau” định trêu ghẹo đùa bỡn. Giây lát đuổi kịp thì là vợ con trai, mất cả khí thế, ngậm tăm không nói gì. Hai người bạn lại làm ra vẻ không biết, cứ bô bô bình luận này nọ. Người học trò sượng ngắt, ấp a ấp úng nói “Đây là con dâu lớn của ta”, họ mới nhịn cười mà thôi đi. Kẻ tính hạnh khinh bạc thành ra tự làm nhục mình, thật đáng cười vậy. Đến như mù mắt hết thấy đường, thì đó là quỷ thần báo oán đấy. Thành chủ thành Phù Dung không rõ là thần nào, hay là Bồ Tát hiện thân chăng? Nhưng lang quân bé tí phá vách mở cửa, thì quỉ thần tuy ghét kẻ xấu nết cũng đâu không cho người ta tự sửa mình.
3. Bức Tường Vẽ Tranh (Họa Bích)
Mạnh Long Đàm người Giang Tây cùng Hiếu liêm họ Chu lên trọ ở kinh đô, tình cờ tới chơi chùa nọ. Thấy điện Phật, hành lang, thiền phòng đều không có gì to lớn rộng rãi, chỉ có một nhà sư già trú ngụ.
Sư thấy có khách tới, xốc áo ra đón, dẫn đi xem khắp nơi. Trong điện có tượng thần sư Chí Công, hai vách vẽ tranh rất tinh xảo, nhân vật đều như thật, tường bên đông vẽ bức tranh Thiên nữ rắc hoa, trong có một người tóc xõa cầm hoa mỉm cười, môi son như động, sóng mắt như đưa.
Chu chăm chú nhìn một lúc lâu, bất giác thần trí tiêu tan, chợt thấy thân thể phơi phới như đằng vân giá vụ, đã lên tới trên vách. Thấy điện gác chập chồng không phải như ở cõi trần, có một vị sư già đang ngồi trên tòa giảng kinh, những người khoác áo hở vai đứng nghe rất đông, Chu cũng trà trộn vào đứng trong đó. Giây lát thấy như có người ngầm kéo áo mình, quay nhìn thì thấy thiên nữ xõa tóc cười tủm tỉm quay đi bèn lập tức đi theo qua hành lang quanh co thì tới một gian phòng nhỏ, ngần ngừ không dám bước tới. Cô gái quay đầu giơ cành hoa trong tay vẫy vẫy ra hiệu gọi, bèn bước theo vào, thấy trong phòng không có một ai. Chu sấn tới ôm, nàng cũng không chống cự gì lắm bèn cùng nhau giao hoan. Xong rồi nàng đóng cửa đi, dặn Chu đừng ho hắng, đến đêm lại trở lại, như thế hai ngày.
Chị em bạn biết, cùng nhau kéo tới tìm được sinh, đùa nói với cô gái rằng “Tiểu lang trong bụng đã lớn, mà còn để tóc bồng bồng học làm gái chưa chồng à?”. Rồi cùng đưa trâm cài tóc và hoa tai bảo búi tóc cao lên, cô gái thẹn thùng không nói năng gì. Một nàng nói “Chị em ơi, đừng ở đây lâu, e người ta không vui”, mọi người cười rộ kéo đi.
Sinh thấy cô gái tóc mây búi cao, trâm phụng rủ thấp, so ra còn đẹp hơn nhiều so với lúc còn xõa tóc. Nhìn quanh không có ai bèn cùng nhau lên giường, mùi lan xạ thơm ngát ngây ngất lòng người. Còn đang vui vầy chợt nghe tiếng ủng da cồm cộp, khóa sắt loảng xoảng, lại có tiếng tranh cãi huyên náo.
Cô gái hoảng sợ vùng dậy cùng Chu ra nhìn trộm thì thấy một sứ giả giáp vàng mặt đen như sơn, tay khóa tay chùy, các thiên nữ đứng chung quanh. Sứ giả hỏi “Đã đủ cả chưa?”, họ trả lời đã đủ cả. Sứ giả nói “Nếu có giấu diếm người dưới trần thì phải khai ngay ra, đừng để phải chịu tội”, mọi người lại đồng thanh nói không có. Sứ giả quay người ngạc nhiên nhìn quanh như tìm kẻ trốn lánh, cô gái cả sợ mặt xám như tro, hớt hải nói với Chu “Trốn xuống gầm giường mau” rồi mở cánh cửa nhỏ bên vách trốn đi.
Chu nằm im không dám thở mạnh, kế nghe tiếng ủng da bước vào trong phòng rồi trở ra, không bao lâu tiếng ồn ào xa dần, trong lòng hơi yên nhưng ngoài cửa vẫn có người qua lại bàn bạc. Chu thấp thỏm hồi lâu, thấy ù tai hoa mắt không sao chịu nổi nữa, chỉ im lặng nghe ngóng chờ cô gái quay lại, cũng không nhớ được rằng mình vốn từ đâu tới đây.
Lúc ấy Mạnh Long Đàm ở trong điện, chớp mắt không thấy Chu đâu, ngờ vực hỏi sư, sư cười nói “Đi nghe giảng kinh rồi”. Hỏi ở đâu, sư đáp không xa, kế lấy ngón tay búng lên tường gọi “Chu đàn việt, sao đi chơi lâu không về thế?” liền thấy trong bức tranh trên vách có hình Chu đang nghiêng tai nhón chân như nghe ngóng.
Sư lại gọi nói “Ông bạn đi cùng đợi lâu rồi!”, Chu bèn lãng đãng trên vách bước xuống, lòng lạnh người ngây, mắt hoa chân nhũn. Mạnh cả sợ, từ từ hỏi han thì là Chu đang nằm dưới gầm giường nghe tiếng gõ cửa như sấm bèn ra khỏi phòng nghe trộm. Cùng nhìn tới cô gái cầm hoa thì thấy tóc đã búi cao chứ không buông xuống như trước. Chu hốt hoảng vái lạy sư già hỏi duyên cớ, sư cười nói “Ảo giác từ lòng người sinh ra, lão tăng làm sao giải thích được?”. Chu lo lắng không nói ra, Mạnh sợ sệt không kìm được, lập tức đứng lên lần theo bậc thềm ra về.
Dị Sử thị nói: Ảo giác từ lòng người sinh ra, lời ấy giống như của kẻ có đạo. Người có lòng dâm tà sẽ sinh ra cảnh bậy bạ, người có lòng bậy bạ sẽ sinh ra cảnh đáng sợ. Bồ Tát điểm hóa kẻ mê muội, làm ra ngàn muôn ảo giác, đều do lòng người động mà nhìn thấy thôi. Sư già thiết tha điểm hóa, tiếc là không thấy hai người kia nghe xong chợt giác ngộ, xõa tóc vào núi vậy.
4. Trồng Lê (Chủng Lê)
Có người nhà quê bán lê ở chợ, ngon ngọt thơm tho, bán giá rất đắt. Có một đạo sĩ khăn rách áo cũ đứng xin trước xe, người nhà quê đuổi không chịu đi, tức giận chửi mắng. Đạo sĩ nói “Một xe lê hàng vài trăm quả, lão nạp chỉ xin một quả, đối với cư sĩ có mất mát bao nhiêu, sao lại tức giận?”.
Người chung quanh khuyên nên lựa một quả nhỏ cho để đạo sĩ đi, nhưng người nhà quê nhất quyết không chịu. Có người làm công trong phố thấy cãi vã bực mình bèn trả tiền mua một quả đưa cho đạo sĩ, đạo sĩ cảm tạ rồi nói với mọi người rằng “Người tu hành không được keo bẩn, ta có trái lê ngon, xin đưa ra mời khách”.
Có người nói “Ông dã có được, sao không ăn?”, đạo sĩ đáp “Ta chỉ cần cái hạt làm giống thôi”. Rồi bóp vỡ quả lê, lấy hạt ra cầm trong tay, rút cái xẻng nhỏ trên vai đào đất sâu xuống mấy tấc, thả cái hạt lê vào rồi lấp lại, xin người trong chợ cho nước sôi tưới. Có kẻ hiếu sự chạy vào quán cơm cạnh đường xin được nước sôi, đạo sĩ bèn cầm lấy rót lên cái hố. Mọi con mắt đổ dồn vào, đều thấy cái mầm nhú lên, giây lát lớn thành cây lê, cành lá thưa thớt, chợt nảy hoa, chợt thành quả, to lớn thơm tho, kĩu kịt đầy cây.
Đạo sĩ bèn đứng ở trước cây hái chia cho mọi người đứng xem, trong giây lát hết sạch, rồi lấy cái xẻng chặt, cây lê kêu răng rắc hồi lâu đổ xuống, đạo sĩ bèn vác lên lấy cành lá che đầu, ung dung bỏ đi.
Lúc đạo sĩ bắt đầu làm phép, người nhà quê kia cũng đứng lẫn trong đám đông xem, vươn cổ nhướng mắt quên cả xe lê. Khi đạo sĩ bỏ đi mới nhìn lại xe thì lê đã hết sạch, mới biết vừa rồi ông ta phân phát đều là lê của mình. Lại nhìn kỹ thì thấy trong xe mất một cái cuốc, dấu gãy còn mới tinh, trong lòng tức giận. Vội vàng đuổi theo, qua khỏi góc tường thì thấy cái cuốc gãy vứt lại trên mặt đất, mới biết đó là đạo sĩ lấy làm thân cây lê. Đạo sĩ thì chẳng biết ở đâu, cả chợ cứ tủm tỉm cười.
Dị Sử thị nói: Người nhà quê khư khư tiếc của, sự ngây ngốc có thể thấy rõ, đến nỗi bị người trong chợ cười, có lạ gì. Từng thấy trong làng có người vốn nổi tiếng giàu có, mà bạn thân tới xin gạo thì tiếc của, kể lể rằng “Đây là mấy ngày ăn đấy” Có người giúp đỡ được một kẻ hoạn nạn, nuôi được một bữa cơm, thì tức tối kể lể rằng “Ăn bằng năm bằng mười người thường”, thậm chí đối với cả cha con anh em cũng so kè từng ly từng tí. Thế mà tới lúc máu đỏ đen nổi lên thì dốc rương cờ bạc không nuối tiếc, kẻ cướp kề dao vào cổ thì vét tiền chuộc mạng không nề hà. Như hạng người ấy mới là nói không hết, chứ người nhà quê ngu ngốc kia đâu đã đủ để lạ lùng?
5. Đạo Sĩ Núi Lao (Lao Sơn Đạo Sĩ)
Huyện ta có Vương sinh, bày hàng thứ bảy, là con nhà thế gia cũ. Lúc trẻ mộ đạo, nghe nói núi Lao (ở huyện Túc Mặc tỉnh Sơn Đông) có nhiều thần tiên, bèn khăn gói tới tìm, lên tới một ngọn núi, thấy có đạo quán rất tịch mịch u nhã. Thấy có một đạo sĩ ngồi trên nệm cỏ tròn, tóc trắng xõa tới vai nhưng dung mạo tráng kiện. Lạy chào bắt chuyện, thấy rất tinh thông đạo lý huyền diệu, xin nhận làm thầy.
Đạo sĩ nói “Sợ sức vóc mảnh dẻ không chịu nổi cực khổ”, thưa rằng “Chịu được”. Học trò của đạo sĩ rất đông, chiều tối kéo hết về, Vương đều vái chào làm lễ ra mắt rồi ở lại trong đạo quán. Mờ sáng đạo sĩ gọi Vương đi, đưa búa sai theo mọi người đốn củi, Vương kính cẩn nghe theo. Hơn một tháng tay chân nổi chai, không chịu nổi khổ cực ngầm có ý muốn về.
Một chiều hái củi về, thấy hai người đang cùng thầy uống rượu, trời đã tối vẫn không có đèn đuốc gì, thầy bèn cắt giấy thành hình tấm gương dán lên vách, trong chốc lát như vầng trăng sáng vằng vặc trên vách, chiếu rõ từng sợi tóc, đám học trò xúm quanh lui tới hầu hạ. Một người khách nói “Đêm đẹp vui vẻ không nên riêng hưởng”, bèn cầm bầu rượu trên bàn chia cho bọn học trò, lại nói cứ uống thật say. Vương tự nhủ “Có bảy tám người, một bầu rượu làm sao mà đủ?”.
Ai nấy đều đi tìm tô chén tranh nhau rót trước, chỉ sợ hết rượu nhưng rót đi rót lại mà rượu trong bầu vẫn không vơi, thầm lấy làm lạ. Giây lát một vị khách nói “Đã được ơn ban cho trăng sáng, nhưng vắng vẻ quá, sao không gọi Thường Nga tới?”. Đạo sĩ bèn lấy đũa ném vào vầng trăng, thì thấy một mỹ nhân từ trong vầng ánh sáng bước ra, lúc đầu cao chưa đầy một thước, tới đất thì cao bằng người thường, lưng thon cổ đẹp, phấp phới múa khúc Nghê thường, múa xong hát rằng:
Tiên tiên ơi, về đi thôi
Chốn Quảng Hàn đây ta lẻ loi
Âm thanh trong trẻo cao vút sánh với tiếng tiêu. Hát xong lại múa vòng rồi nhảy lên bàn, trong chớp mát lại trở thành chiếc đũa. Ba người cười rộ, lại một vị khách nói “Đêm nay vui quá nhưng tửu lượng có hạn, xin tiễn bọn ta ở cung trăng được không?”. Ba người dời bàn rượu dần dần vào vầng trăng, mọi người nhìn thấy ba người ngồi trong vầng trăng uống rượu, râu tóc đều rõ mồn một như nhìn vào trong gương.
Lát sau vần trăng tối dần, học trò đốt đuốc tới thì chỉ có đạo sĩ ngồi một mình ở bàn, mà khách đã đi mất rồi. Thức ăn trên bàn hãy còn mà vầng trăng trên vách chỉ còn là một mảnh giấy tròn như tấm gương mà thôi. Đạo sĩ hỏi mọi người “Đã uống đủ chưa?” thưa “Đã đủ rồi”. “Đủ rồi thì đi ngủ cho sớm, đừng để lỡ việc kiếm củi sáng mai”, mọi người vâng dạ lui ra. Vương thầm thích thú hâm mộ, không muốn về nữa.
Lại đến một hôm thấy khổ cực không thể chịu nổi mà đạo sĩ vẫn không dạy cho một phép thuật nào, không chờ được nữa bèn cáo từ nói “Đệ tử từ mấy trăm dặm tới học đạo, giả như không được dạy phép trường sinh thì cũng mong được dạy chút thuật nhỏ cho thỏa lòng cầu đạo.
Thế nhưng đã hai ba tháng, chẳng qua chỉ sáng đi hái củi chiều trở về, lúc đệ tử ở nhà chưa quen khổ cục thế này bao giờ”. Đạo sĩ cười nói “Ta đã nói rằng ngươi không chịu nổi cực khổ, nay quả đúng thế, sáng mai sẽ đưa ngươi về”. Vương nói “Đệ tử làm lụng nhiều ngày, xin thầy dạy qua một thuật nhỏ để không phụ công tới đây”. Đạo sĩ hỏi muốn học thuật gì, Vương nói “Thường thấy thầy đi đâu, tường vách đều không ngăn cản được, nếu học được phép ấy cũng là đủ rồi”.
Đạo sĩ cười nhận lời rồi truyền cho khẩu quyết, sai tự niệm lấy xong, hô lớn “Vào đi!” Vương thấy vách không dám bước vào, đạo sĩ lại nói “Thử vào xem!”. Vương lại thong thả bước vào vách, nhưng gặp tường lại bị ngăn lại. Đạo sĩ nói “Cúi đầu vào mau, đừng chần chừ”, Vương lại tránh ra mấy bước rồi chạy mau vào, tới tường thấy trống không như không có gì, quay lại nhìn thì đã ở phía ngoài rồi. Cả mừng trở vào tạ ơn, đạo sĩ nói “Về tới nhà nên giữ mình trong sạch, không thì phép không nghiệm đâu”, rồi cấp cho lộ phí về nhà.
Vương về tới nhà khoe là đã học qua phép tiên, tường vách cứng rắn cũng không ngăn cản được. Vợ không tin, Vương bèn làm như trước, đứng cách tường mấy thước rồi lao nhanh vào, đầu va phải tường ngã quay ra. Vợ tới đỡ dậy nhìn, thì trên trán nổi cục u to bằng quả trứng. Vợ cười nhạo, Vương thẹn thùng tức tối, chỉ còn cách chửi đạo sĩ già bất lương mà thôi.
Dị Sử thị nói: Nghe chuyện này không ai không cười lớn, nhưng không biết rằng những kẻ như Vương sinh trên đời lại có rất nhiều. Nay có kẻ ngu xuẩn ưa chất ngọt có độc mà sợ thuốc đắng châm đau, lại có kẻ hút mủ liếm trĩ[13] dâng cái thuật khoe oai sính bạo để đón ý, khinh suất nói đem thuật này có thể hoành hành không ai cản trở nổi. Buổi đầu làm thử thì chưa từng không có chút ít kết quả, bèn cho rằng thiên hạ to lớn cũng có thể theo đó mà làm, nếu không húc đầu vào tường cứng mà ngã quay ra thì không chịu thôi đâu.
6. Nhà Sư ở Trường Thanh (Trường Thanh Tăng)
Có nhà sư ở Trường Thanh (tỉnh Sơn Đông) đạo hạnh cao khiết, tuổi đã hơn tám mươi vẫn còn khỏe mạnh. Một hôm chợt ngã chúi xuống, các sư trong chùa chạy tới đỡ dậy thì đã viên tịch rồi. Nhưng nhà sư không biết mình đã chết, hồn cứ bay đi, tới địa giới tỉnh Hà Nam.
Ở Hà Nam có con nhà thân hào dẫn hơn mười người cưỡi ngựa thả ưng săn thỏ, ngựa lồng lên rơi xuống đất chết, hồn nhà sư vừa tới đó bèn nhập luôn vào, dần dần tỉnh lại. Đám đầy tớ xúm lại hỏi han thì cứ giương mắt nói “Sao ta lại tới đây?”. Mọi người bèn đỡ về nhà, vào cửa thì đám thê thiếp môi son má phấn xúm lại thăm hỏi, phát hoảng nói “Ta là sư mà, sao lại tới đây?”. Mọi người cho là còn choáng váng, ghé vào tai nhắc cho mà sư cũng chẳng hiểu nổi, bèn nhắm mắt không nói gì nữa. Cơm đưa tới nếu gạo xấu thì ăn, rượu thịt thì chối từ, đêm ngủ một mình, không cho thê thiếp hầu hạ.
Sau vài hôm chợt muốn dạo chơi, mọi người đều mừng rỡ. Ra tới bên ngoài, vừa dừng bước thì đám tôi tớ xúm tới, sổ sách tiền gạo tranh nhau đưa trình, nhao nhao xin lệnh. Công tử lấy cớ có bệnh còn mệt, nhất nhất chối từ, chỉ hỏi “Có biết huyện Trường Thanh tỉnh Sơn Đông ở đâu không?”, mọi người cùng thưa có biết. Công tử bèn nói “Ta thấy buồn bực không vui, muốn tới đó chơi, mau sắp sửa hành trang”. Mọi người nói vừa khỏi bệnh chưa nên đi xa, công tử không nghe.
Hôm sau lên đường, tới huyện Trường Thanh thấy phong cảnh vẫn như cũ, không phải hỏi đường một ai, đi thẳng tới chùa. Các sư đệ tử thấy khách sang tới, đón tiếp rất cung kính. Công tử hỏi “Sư già ở đâu?”, họ đáp “Thầy bọn ta vừa mất”. Hỏi mộ ở đâu, các sư bèn đưa tới, thì thấy ba thước mộ lẻ loi, cỏ hoang còn chưa phủ kín, các sư đều không biết khách có ý gì. Đến khi lên ngựa ra về, dặn rằng “Thầy của các ngươi là sư giữ gìn đạo hạnh, những vật còn để lại nên giữ cho kỹ, đừng để hư hỏng chút gì”. Các sư vâng dạ, công tử bèn lên đường.
Về tới nhà ngơ ngác thẫn thờ, chẳng nhìn ngó gì tới việc gia đình. Được vài tháng ra cửa trốn đi một mình, về thẳng chùa cũ nói với đệ tử rằng “Ta là thầy các ngươi đây”. Mọi người ngờ là nói đùa, nhìn nhau mà cười. Sư bèn kể lại chuyện nhập hồn vào xác lạ, lại nhắc lại việc làm lúc bình sinh, thảy thảy đều đúng, mọi người mới tin bèn đưa vào ở chỗ cũ, hầu hạ như ngày trước.
Sau gia đình công tử mấy lần đem xe kiệu tới năn nỉ xin trở về nhưng sư không ngó ngàng gì tới. Hơn một năm sau phu nhân sai đầy tớ tới thăm, đem rất nhiều quà cáp nhưng sư trả lại hết vàng lụa, chỉ nhận một chiếc áo vải mà thôi. Bạn ta có người tới đó kính cẩn xin gặp, thấy sư im lặng dốc lòng tu hành, tuổi chỉ trạc ba mươi mà học đạo hơn tám mươi năm rồi.
Dị Sử thị nói: Người chết thì hồn tan, mà hồn sư đi ngàn dặm chưa tan, là nhờ tính đã định vậy. Ta không lạ về việc sư sống lại mà lạ về chỗ bước vào nơi hương thơm sắc đẹp lại có thể dứt lòng trốn đi. Chứ nếu ánh mắt một phen lay động mà trong lòng sinh hương sắc thì có kẻ muốn chết còn không được kia, huống hồ là sư ư?
7. Hồ Gả Con Gái (Hồ Giá Nữ)
Thượng thư bộ Lại họ Ân[14] người Lịch Thành (tỉnh Sơn Đông) lúc trẻ nhà nghèo, có can đảm. Trong làng có phủ đệ của nhà thế gia cũ, rộng vài mươi mẫu, lầu gác san sát nhưng thường thấy sự quái dị, vì vậy bỏ trống không ai ở. Lâu ngày cỏ hoa mọc đầy, ban ngày cũng không người nào dám vào. Có lần ông cùng các bạn bè học trò uống rượu, có người nói đùa “Có ai dám vào đó ngủ lại một đêm, thì cả bọn góp tiền đãi một bữa rượu”. Ông nhảy phắt dậy nói “Chuyện đó có khó gì?”, bèn ôm một cái chiếu đi, mọi người đưa tới tận cổng, đùa nói “Bọn ta chờ ở đây, nếu thấy có gì lạ, cứ kêu to lên”. Ông cười nói “Nếu có ma quỷ hồ tinh, sẽ bắt về làm chứng”.
Bèn bước vào trong, thấy gai góc khuất lối, cỏ dại um tùm. Lúc ấy là đầu tháng, trăng non mờ mờ có thể nhìn thấy cổng nẻo, bèn lần theo vách đi một lúc mới tới lầu phía sau, lên hiên ngắm trăng thấy quang quẻ sạch sẽ đáng yêu liền dừng lại, trông về vầng trăng phía tây chỉ thấy như núi ngậm một sợi dây sáng mà thôi. Ngồi một lúc lâu chẳng thấy gì lạ, cười thầm lời đồn đãi hão huyền rồi trải chiếu xuống đất, gối đầu lên hòn đá nằm ngắm sao Ngưu lang Chúc nữ, một lúc thì thiu thiu ngủ.
Chợt dưới lầu có tiếng giày lẹp kẹp đi lên, ông bèn giả ngủ hé mắt nhìn, thấy là một tỳ nữ cầm chiếc đèn lồng hình hoa sen, chợt trông thấy ông giật mình lui lại nói với người đi sau “Có người lạ ở đây”. Người đi sau hỏi “Ai vậy?”, trả lời “Không biết nữa”. Giây lát có một ông già lên tới, tới sát ghé mắt nhìn ông rồi nói “Đây là quan Thượng thư họ Ân, nhưng đã ngủ say, cứ làm việc của ta đi, tướng công là ngươi không câu nệ, chắc không lấy làm lạ mà quát nạt đâu”.
Bèn kéo nhau lên cả trên lầu, mở hết cửa nẻo ra. Một lúc sau người qua lại càng đông, trên lầu đèn đuốc sáng như ban ngày, ông bèn khe khẽ trở mình, cất tiếng ho hắng. Ông già thấy ông tỉnh dậy bèn bước ra quỳ gối xuống nói “Tiểu nhân có đứa con gái gả chồng đem nay làm lễ rước dâu, không ngờ làm kinh động quý nhân mong ông bỏ qua”. Ông đứng dậy đỡ ông già lên nói “Không biết đêm nay gia đình có việc vui mừng, thật thẹn không có lễ vật để tặng”. Ông già nói “Được quý nhân quang lâm, trấn áp sự hung hiểm là may lắm rồi. Xin ông cảm phiền ngồi chơi thì càng quý hóa lắm”. Ông vui vẻ nhận lời, bước vào trong lầu nhìn, thấy bày biện đẹp đẽ, lại có người đàn bà tới vái lạy, tuổi khoảng hơn bốn mươi, ông già nói “Đây là vợ quê của ta”, ông bèn đáp lễ.
Chợt nghe tiếng đàn sáo inh tai, có người chạy mau từ dưới lên nói “Tới rồi”. Ông già vội ra đón, ông cũng đứng chờ. Phút chốc có người cầm chiếc đèn lồng bằng sa đưa chàng rể vào, thấy tuổi khoảng mười bảy mười tám, dáng vẻ tuấn tú, ông già bảo làm lễ chào khách quý trước. Thiếu niên nhìn ông, ông như người giữ việc tiếp khách, bèn nhận nửa lễ chủ nhân, kế cha vợ chàng rể làm lễ với nhau, rồi ngồi vào bàn. Giây lát đám phụ nữ kéo lên đông đúc, rượu thịt bày ra la liệt, chén ngọc bình vàng sáng rực bàn ghế. Rượu được vài tuần, ông già gọi tỳ nữ mời tiểu thư ra, hồi lâu không thấy tới. Ông già đứng dậy vén màn hối thúc, giây lát một đám bà vú tỳ nữ đưa cô dâu ra, tiếng vòng ngọc lanh canh, mùi lan xạ thơm phức. Ông già bảo lạy người trên, nàng lạy xong đứng dậy tới ngồi cạnh mẹ, ông liếc nhìn thấy trâm phượng dát ngọc biếc, vòng tai khảm minh châu, dung mạo đẹp tuyệt trần. Kế đó rót rượu vào chén vàng lớn chứa được vài đấu, ông nghĩ vật này có thể lấy để làm chứng với bạn bè bèn lén bỏ vào tay áo rồi giả say nằm phục lên bàn ngủ vùi. Mọi người đều nói “Tướng Công say rồi”.
Không bao lâu nghe chàng rể xin rước dâu về, tiếng đàn sáo lại trỗi vang, nhộn nhịp xuống lầu ra đi. Kế chủ nhân dọn dẹp mâm chén thấy thiếu một cái chén uống rượu, tìm mãi không được, có người nói trộm là ông khách đang ngủ lấy, ông già vội bảo im, sợ ông nghe được. Lát sau trong ngoài yên ắng, ông mới trở dậy, thấy tối om không có đèn đuốc gì, chỉ còn mùi hương hơi rượu vẫn sực nức cả bốn bên.
Nhìn ra phía đông thấy trời đã rạng bèn thong thả bước ra, mò trong tay áo thì cái chén vàng vẫn còn, ra tới cổng thì các bạn bè học trò đã chờ sẵn, ngờ là ông đang đêm trở ra rồi gần sáng mới vào. Ông bèn đưa cái chén ra cho họ xem, mọi người kinh ngạc hỏi thăm, ông bèn kể lại mọi việc. Bạn bè đều nghĩ rằng học trò nghèo không thể có được vật này mới tin lời.
Về sau ông đỗ Tiến sĩ, làm quan ở huyện Phì Khâu (tỉnh Sơn Đông). Có nhà thế gia họ Chu mời ông ăn tiệc, sai lấy chén lớn uống rượu, lâu không thấy đem ra. Có đứa hầu nhỏ nói thầm với chủ nhân, chủ nhân có dáng tức giận. Giây lát mang chén vàng ra rót rượu mời khách uống, ông nhìn thì kiểu chén nét chạm giống hệt với cái chén của hồ, lấy làm ngờ vực bèn hỏi ở đâu chế tạo, chủ nhân đáp “Bộ chén này có cả thảy tám cái, đời cha ta làm quan khanh trong kinh tìm thợ giỏi chế ra, là vật gia bảo truyền đời, cất kỹ đã lâu. Nay được phủ quân hạ cố mới cho lấy trong hòm ra, thì chỉ còn có bảy cái. Ngờ là người nhà ăn trộm, nhưng dấu niêm phong mười năm vẫn còn nguyên, thật là không sao hiểu nổi”. Ông cười nói “Chén vàng mọc cánh bay rồi, nhưng vật báu truyền đời không nên để mất, ta có một cái cũng hơi giống, xin đưa lại tặng”.
Xong tiệc về dinh, lấy cái chén rượu sai người đưa tới, chủ nhân xem kỹ rất hoảng sợ, đích thân qua cám ơn ông, hỏi từ đâu mà có. Ông bèn kể rõ đầu đuôi, mới biết vật trong vòng ngàn dặm thì hồ vẫn có thể lấy được, chỉ không dám giữ luôn mà thôi.
8. Kiều Na (Kiều Na)
Khổng sinh Tuyết Lạp là dòng dõi Khổng phu tử, học vấn uẩn súc, giỏi làm thơ. Có người bạn học cũ làm Huyện lệnh Thiên Thai (tỉnh Chiết Giang) gửi thư mời, sinh tới thì người bạn vừa qua đời, bơ vơ không có tiền về, phải ngụ ở chùa Bồ Đà, chép thuê cho sư trong chùa.
Cách chùa hơn trăm bước về phía tây có tòa nhà của Đơn tiên sinh, vốn là con quan, vì chuyện kiện tụng nên sa sút, gia đình lại ít người bèn dời vào ở trong làng, tòa nhà thành ra bỏ hoang.
Một hôm tuyết lớn, trên đường vắng tanh, sinh ngẫu nhiên đi ngang, có một thiếu niên từ trong đi ra, phong tư anh tuấn, thấy sinh thì rảo bước tới chào hỏi rất lễ phép, mời vào nhà chơi. Sinh vui vẻ theo vào, thấy phòng ốc không rộng rãi lắm nhung chỗ nào cũng buông màn gấm, trên tường treo đầy thư họa của cổ nhân, trước bàn có một quyển sách, ngoài bìa đề Loan hoàn tỏa ký, sinh mở xem một lượt, đều là những chuyện mình chưa bao giờ nghe thấy. Sinh cho rằng thiếu niên ở tòa nhà của họ Đ thì ắt là chủ nhà, nên không hỏi thăm gia thế. Thiếu niên gạn hỏi tình cảnh của sinh, tỏ ý thương xót, khuyên sinh mở trường dạy học. Sinh than rằng “Ở nơi đất khách quê người, có ai chịu dương danh mách mối?”. Thiếu niên nói “Nếu không chê, thì chính ta xin thụ giáo đây!”. Sinh mừng rỡ nhưng không dám nhận là thầy, chỉ xin làm bạn, nhân hỏi “Tại sao lâu nay nhà này đóng kín cửa thế?” Đáp “Đây là Đơn phủ, vì công tử vào ở trong làng, nên nơi này bỏ hoang đã lâu. Ta họ Hoàng Phủ, quê quán vốn ở đất Thiểm (tỉnh Thiểm Tây), vì nhà cửa bị hỏa hoạn nên tạm ở nhờ”, sinh mới rõ thiếu niên không phải là Đơn.
Đêm ấy hai người chuyện trò rất vui vẻ, ngủ chung một giường. Tảng sáng có đứa tiểu đồng vào đốt lò, thiếu niên dậy trước vào nhà trong. Sinh vẫn còn khoác chăn ngồi trên giường thì tiểu đồng vào nói “Thái Công tới”. Sinh ngạc nhiên vội đứng dậy, thấy một ông già bước vào, râu tóc bạc phơ, cảm tạ nói “Tiên sinh không bỏ thằng con khờ dại của lão mới chịu dạy bảo cho nó, nhưng nó mới tập viết tập đọc, xin đừng lấy cớ là bạn mà coi nó ngang hàng”. Kế sai mang ra biếu một bộ áo gấm và mũ lông điêu cùng giày tất mỗi thứ một món, chờ sinh rửa mặt chải đầu xong thì gọi dọn rượu. Các thứ vật dùng trong nhà không biết tên gì, chỉ thấy sáng ngời lóa mắt. Uống vài chén, ông già đứng lên từ tạ, chống gậy đi vào. Cơm xong, thiếu niên đem văn bài ra trình, mấy bài toàn là lối cổ văn, không hề giống lối khoa cử. Sinh hỏi, thiếu niên cười đáp “Ta không cần làm quan”.
Tối đến lại bày tiệc rượu, nói “Đêm nay uống thật say rồi thôi, từ ngày mai trở đi không được uống nữa”. Rồi gọi tiểu đồng nói “Ngươi xem Thái Công đã đi nằm chưa, nếu rồi thì lén gọi Hương Nô ra đây”. Tiểu đồng vào, lát sau ôm cái túi thêu đựng cây đàn tỳ bà ra trước, kế có một tỳ nữ mặc áo đỏ bước vào, dung mạo xinh đẹp. Thiếu niên sai gảy khúc Tương phi, nàng cầm phím ngà gảy đàn, trầm bổng bi ai, tiết tấu khác hẳn nhạc thường. Lại sai mang chén lớn ra uống rượu, đến canh ba mới thôi. Hôm sau cũng dậy sớm đọc sách, thiếu niên rất thông minh, đọc qua là nhớ, sau hai ba tháng đã làm văn rất hay, bèn hẹn với sinh cứ năm ngày cùng nhau uống rượu một lần, lần nào cũng gọi Hương Nô tới góp vui.
Một đêm sinh say rượu nóng mặt cứ nhìn Hương Nô chằm chằm, thiếu niên hiểu ý nói “Đứa tỳ nữ này là gia phụ nuôi dạy từ lâu, ông trơ trọi không có gia đình, ta đã sớm hôm nghĩ tới lâu rồi, đang tính cho ông một mối rất xứng đáng”. Sinh nói “Nếu có lòng tốt, phải tìm cho ta một người như Hương Nô mới được”. Thiếu niên cười đáp “Ông thật là người thấy ít nên lạ nhiều, như nó mà anh cho là đẹp thì sở nguyện của anh cũng dễ thỏa mãn thôi”.
Được nửa năm sinh muốn ra ngoài dạo chơi, nhưng tới cổng thì hai cánh khóa chặt, hỏi thì thiếu niên đáp “Gia phụ sợ giao du làm rộn tâm trí nên đóng cửa tạ khách thôi!”, sinh từ đó cũng ở yên.
Gặp hôm nóng bức dời ra học ngoài vườn, bụng sinh chợt nổi lên cái ung như trái đào, qua đêm lớn bằng cái chén, đau đớn rên rỉ, thiếu niên sớm tối săn sóc bỏ cả ăn ngủ. Vài hôm sau đau hơn, càng không ăn uống gì được, Thái Công cũng tới thăm, đứng nhìn thở dài. Thiếu niên nói “Đêm trước con nghĩ chứng bệnh của tiên sinh chắc em Kiều Na chữa được, đã cho người đến nhà bà ngoại gọi về, sao lâu quá chưa thấy tới”. Bỗng tiểu đồng vào thưa “Cô Na đã tới, cả dì với Cô Tùng cũng cùng tới” , hai cha con vội ra đón. Lát sau thiếu niên đưa em gái lại, khoảng mười ba mười bốn tuổi, dung mạo xinh đẹp, dáng vẻ yểu điệu, sinh vừa nhìn thấy chợt quên cả đau đớn, tinh thần khỏe khoắn hẳn lên. Công tử nói “Đây là bạn thân của ta, tình như ruột thịt, nhờ em chữa bệnh giùm”.
Cô gái bèn giấu vẻ thẹn thùng, vén tay áo dài tới trước giường thăm bệnh, trong lúc cầm tay bắt mạch, sinh ngửi thấy mùi hương thơm ngát. Cô gái cười nói “Tâm mạch động thì phải có bệnh này, nhưng tuy là chứng nguy hiểm vẫn có thể chữa được. Có điều cái ung đã lớn, phải rạch da khoét thịt mới xong”.
Rồi tháo chiếc xuyến vàng trên cánh tay đặt lên chỗ đau từ từ ấn xuống, cái ung chợt nổi cao lên khoảng một tấc so với da thịt bên ngoài nhưng toàn bộ vùng bầm tím bên dưới đều gom cả vào bên trong chiếc xuyến chứ không loang rộng bằng cái chén như trước. Kế vén áo lấy ra một thanh bội đao mỏng như tờ giấy, đè xuyến cầm đao nhè nhẹ cắt chung quanh, máu bầm phun ra ướt đẫm giường chiếu.
Sinh thích vì được kề cận ngươi đẹp nên chẳng những không thấy đau đớn mà còn sợ việc mổ xẻ mau xong, không được ở cạnh nàng lâu. Phút chốc nàng đã cắt hết thịt thối, lục cục lòn hòn như những u bướu trên thân cây, lại gọi đem nước để rửa chỗ mới cắt, kế nhả ra một hoàn thuốc màu đỏ to bằng viên đạn lớn đạt lên thoa khắp xung quanh. Mới một vòng đầu chàng thấy nóng rần, vòng thứ hai thì thấy xót ngứa, vòng thú ba thì khắp thân thể mát mẻ. Cô gái thu viên hồng hoàn lại ngậm vào miệng, nói “Khỏi rồi đấy!”, rồi rảo bước đi ra. Sinh nhảy phắt dậy, chạy theo cảm tạ.
Bệnh tật lâu ngày dường như hết sạch, nhưng từ đó trở đi cứ mơ tưởng dáng vẻ của nàng không khuây, bỏ bê sách vở, chỉ ngồi ngẩn ngơ như kẻ mất hồn. Công tử thấy thế nói “Đệ đã tìm chọn được một mối tốt đẹp cho huynh rồi!”. Sinh hỏi là ai, Công tử đáp “Cũng là họ hàng với đệ”. Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói “Thôi đừng!”, rồi quay vào tường ngâm hai câu thơ cổ “Đã qua bể thẳm khôn còn nước, Ngoài chốn non Vu chẳng có mây”[15] Công tử hiểu ý, nói “Cha ta vẫn mến tài ông, thường muốn kết hôn nhân, nhưng ta chỉ có một đứa em gái còn quá nhỏ. Có con gái dì ta tên A Tùng, đã mười bảy tuổi không đến nỗi xấu xí. Nếu không tin, thì hàng ngày Cô Tùng vẫn dạo chơi ngoài vườn, ông núp trong hiên nhìn xem.
Sinh theo lời, quả thấy Kiều Na dắt một mỹ nhân ra vườn, mày vẽ cong vút, chân mang giày phượng, xinh đẹp tương tự Kiều Na. Sinh cả mừng nhờ Công tử làm mối giùm.
Hôm sau công tử ở nhà trong đi ra, chúc mừng rằng “Việc xong rồi”. Rồi dọn một chỗ ở riêng cho sinh làm đám cưới. Đêm ấy nhạc trỗi vang nhà, sinh như thấy người tiên trong trăng, đến khi cùng chăn gối lại ngờ cung điện Quả Hàn chưa chắc đã ở trên trời cao. Sau khi thành vợ chồng, đôi bên rất tâm đầu ý hiệp.
Một đêm công tử nói với sinh “Cái ơn dạy bảo không lúc nào quên, nhưng gần đây Đơn tiên sinh kiện cáo đã xong, đòi nhà rất gấp nên định bỏ nơi này về Thiểm Tây, khó lại hội họp cùng nhau, trong lòng lấy làm vương vấn”. Sinh xin đi cùng nhưng công tử khuyên nên về quê Sinh lấy làm khó khăn, công tử nói “Đừng lo, ta có thể tiễn ông về ngay lập tức”. Không bao lâu ông già dẫn Tùng nương tới, lấy một trăm lượng vàng tặng sinh, công tử nắm tay hai vợ chồng, dặn nhắm mát đừng nhìn, rồi lướt đi trên không, chỉ nghe gió vi vút bên tai, hồi lâu công tử nói “Tới rồi!”. Sinh mở mắt quả thấy quê mình, mới rõ công tử không phải là người. Mừng rỡ về gõ cửa, mẹ không ngờ con về, lại thấy con có vợ đẹp vui vẻ chuyện trò, đến khi nhìn lại thì công tử đã biến mất.
Tùng nương thờ phụng mẹ chồng rất hiếu thảo, đức hiền sắc đẹp đồn dậy xa gần. Sau sinh thi đỗ Tiến sĩ, được bổ chức Tư lý coi việc hình ở Diên An, đem cả nhà đi phó nhiệm, duy mẹ ngại đường xa không đi. Tùng nương sinh một con trai, đặt tên là Tiểu Hoạn. Sinh vì trái ý quan trên nên bị bãi chức, nhưng vì còn có việc trở ngại nên chưa về quê được.
Một hôm ngẫu nhiên đi săn ngoài đồng, gặp một thiếu niên đẹp trai cưỡi ngựa thanh câu cứ ngoảnh nhìn mình, nhìn kỹ thì là Hoàng Phủ Công tử. Hai người cùng dừng ngựa buông cương, mừng mừng tủi tủi. Công tử mời sinh đi tới một thôn cây cối um tùm không thấy ánh mặt trời, vào nhà thì son son thếp vàng rực rỡ, rõ ràng là nhà thế tộc. Hỏi thăm cô em thì đã lấy chồng, bà nhạc đã mất vô cùng đau xót. Sinh nghỉ qua đêm rồi từ biệt ra về, dắt vợ cùng tới. Kiều Na cũng tới, bế con sinh đùa giỡn, nói “Bà chị làm rối loạn dòng giống nhà ta rồi”. Sinh tạ ơn cứu mạng ngày trước nàng cười nói “Nay anh rể quý hiển, vết thương đã liền miệng, còn chưa quên nỗi đau à?” Chồng nàng là Ngô lang cũng tới chào sinh, ở qua đêm rồi đi.
Một hôm Công tử có vẻ lo lắng nói với sinh “Trời giáng tai họa, có cứu nhau được không?” sinh không biết chuyện gì nhưng cũng hăng hái nhận lời. Công tử bèn rảo bước ra gọi cả gia đình vào sảnh đường xếp hàng quỳ lạy. Sinh cả sợ vội hỏi, Công tử nói “Ta không phải là người mà là hồ. Hôm nay có tai nạn bị sét đánh, nếu ông chịu lấy thân ra cứu nạn thì cả nhà có thể được toàn sinh, nếu không thì xin ông bế con đi ngay cho khỏi bị vạ lây?”. Sinh thề cùng sống chết, Công tử bèn bảo sinh cầm gươm đứng trấn ngoài cửa, dặn “Sấm sét đánh ầm ầm cũng đừng động đậy”.
Sinh theo lời, quả thấy mây mù kéo tới che khuất ánh ngày, trời đất tối đen, ngoảnh nhìn chỗ ở cũ không thấy phòng ốc nhà cửa gì cả, chỉ thấy gò cao chót vót, hang sâu thăm thẳm. Đang lúc kinh ngạc thì một tiếng sét nổ ầm ầm chấn động núi non, mưa to gió lớn bật gốc cả những cây lâu năm, sinh hoa mắt choáng tai nhưng vẫn đứng sừng sững không hề nhúc nhích. Bỗng trong đám gió âm mây tối có một con quỷ mỏ sắc móng dài quắp một người trong hang ra bay thẳng lên mây, sinh thoáng thấy áo giày giống hệt Kiều Na vội nhảy lên vung kiếm chém theo, người kia theo tay rơi xuống. Chợt núi lở sét ran, sinh ngã xuống bất tỉnh.
Lát sau trời tạnh, Kiều Na tỉnh dậy thấy sinh chết bên cạnh, oà khóc nói “Khổng lang vì ta mà chết, ta làm sao sống được?”. Tùng nương cũng vừa bước ra, cùng nhau vực sinh vào nhà. Kiều Na bảo Tùng nương ôm đầu sinh, bảo anh lấy trâm cạy răng rồi vạch miệng ra, dùng lưỡi đẩy viên hồng hoàn vào, lại kề môi mà phà hơi vào. Viên hồng hoàn theo hơi vào cổ kêu ùng ục, lát sau sinh tỉnh dậy, thấy người nhà xúm cả chung quanh, giật mình thấy như vừa tỉnh mộng. Rồi đó cả nhà sum họp, qua cơn lo sợ lại càng vui vẻ.
Sinh nghĩ nơi mồ mả âm u không thể ở lâu, bàn cùng về quê mình. Mọi người đều tán thành, chỉ có Kiều Na không vui. Sinh muốn nàng và Ngô lang cùng về nhưng nàng lo cha mẹ chồng không chịu xa con trai nhỏ nên bàn bạc cả ngày chưa quyết. Chợt một đưa tớ nhỏ nhà họ Ngô mồ hôi ròng ròng, hơi thở hơn hển chạy tới, mọi người hoảng sợ hỏi han thì ra cũng ngày hôm ấy cả nhà Ngô lang bị tai nạn sét đánh chết hết. Kiều Na giẫm chân đau xót khóc lóc, mọi người cùng nhau khuyên giải, việc cùng về quê sinh mới quyết.
Sinh vào thành sắp xếp vài hôm rồi gấp rút sửa soạn hành lý lên đường. Về tới nhà cắt khu vườn trống cho công tử ở, nhà thường khóa trái, sinh hay Tùng nương tới mới mở. Sinh cùng anh em công tử chén rượu cuộc cờ, chuyện trò thân mật như người một nhà. Tiểu Hoạn lớn lên diện mạo xinh xắn, hơi có vẻ hồ, ra phố chơi người ta đều biết là con của hồ.
Dị Sử thị nói: Ta không khen Khổng sinh về việc được vợ đẹp mà khen ở việc được bạn hiền thôi. Nhìn mặt có thể quên đói, nghe giọng có thể mỉm cười, được người bạn tốt như thế thì một lần trò chuyện yến ẩm có thể trao cả hồn phách cho, còn hơn cả điên đảo áo xiêm vậy.
9. Yêu Thuật (Yêu Thuật)
Ông Vu lúc trẻ hào hiệp, thích quyền thuật, sức có thể cầm hai thùng nước giơ cao lên múa may như gió lốc. Trong niên hiệu Sùng Trinh thời Minh (1628-1643) lên thi điện ở kinh đô, ngươi đầy tớ mắc bệnh không dậy nổi, Vu lo lắm.
Gặp lúc ở chợ có người thầy bói giỏi, có thể biết chuyện sống chết của người ta, Vu bèn tới xem cho người đầy tớ. Vừa tới nơi chưa kịp nói gì thì người thầy bói nói ngay “Ông định hỏi về bệnh của người đầy tớ phải không?”, ông hoảng sợ vâng dạ. Người thầy bói nói “Người bệnh thì không sao chứ ông thì nguy đấy”.
Ông bèn xem cho mình, người thầy bói gieo quẻ xong, ngạc nhiên nói “Sau ba ngày nữa ông sẽ chết”. Ông kinh ngạc hồi lâu, người thầy bói ung dung nói “Bỉ nhân có thuật mọn, nếu ông đưa ta mười lượng vàng, ta sẽ khẩn cầu giúp cho”. Ông nghĩ thầm sống chết có số, phép thuật nào cứu được nên không đáp, đứng dậy định về. Người thầy bói nói “Tiếc chút ít tiền như vậy thì đừng hối hận, đừng hối hận”. Những người yêu mến ông đều lo lắng thay, khuyên cứ dốc túi cầu xin nhưng ông không nghe.
Thấm thoát đến ngày thứ ba, ông ngồi ở nhà trọ im lặng chờ xem nhưng cả ngày không có gì lạ. Đêm đến đóng cửa khêu đèn, chống kiếm ngồi thẳng, hết canh một vẫn không thấy có gì làm mình chết được đã toan đi ngủ. Chợt nghe chỗ song cửa sổ có tiếng loạt soạt, vội nhìn ra thấy một người nhỏ bé vác giáo chui qua kẽ hở mà vào, rơi xuống đất thì cao vọt lên như người thật. Ông nắm kiếm bặt dậy xông vào chém, người ấy theo gió dạt ra chưa trúng kiếm nhưng chợt nhỏ lại như cũ, lui lại chỗ kẽ hở cửa sổ định chạy. Ông chém vội nhát nữa, người ấy theo kiếm ngã lăn ra, cầm đèn tới xem thì ra là một hình nhân bằng giấy bị chém đứt ngang lưng.
Ông không dám đi nằm, lại ngồi xuống chờ. Lát sau lại có một vật chui qua song cửa sổ vào, mặt mũi hung ác như quỷ. Ông chờ nó vừa rơi tới đất là xông vào chém ngay, nó bị đứt làm hai đoạn mà vẫn còn động đậy. Ông sợ nó lại vùng dậy bèn chém liên tiếp, nhát nào cũng trúng nghe bồm bộp, nhìn kỹ lại thì là một pho tượng bằng đất, nát vụn cả ra.
Rồi đó ông kéo ghế tới ngồi trước cửa sổ chăm chú nhìn vào khe hở, hồi lâu nghe bên ngoài có tiếng thở mạnh như bò rồi có một vật lay mạnh song cửa, vách phòng rung lên muốn đổ xuống. Ông sợ bị tường sập đè lên, nghĩ chẳng bằng cứ ra đánh nhau, bèn đạp cửa sấn ra. Thấy một con quỷ to lớn cao ngang mái nhà, trong ánh trăng mờ mờ thấy mặt đen như than, mắt sáng rực lóe ánh vàng, trên người không áo, dưới chân không giày, tay cầm cung lưng đeo tên. Còn đang hoảng sợ thì quỷ đã phát tên, ông vung kiếm gạt mũi tên rơi xuống đất, định sấn vào chém thì nó bắn tiếp phát nữa, ông vội nhảy qua tránh, mũi tên găm vào vách tường nghe phằm phặp, quỷ tức quá rút đao vung múa như gió chém mạnh tới. Ông sấn mau vào, thanh đao chém trúng tảng đá trong sân, tảng đá đứt đôi. Ông từ dưới khuỷu tay nó phóng kiếm đâm trúng ngực nghe leng keng, quỷ càng tức giận gào thét như sấm, xoay người chém nhát nữa. Ông lại cúi xuống lòn vào, thanh đao chém xuống đứt ống quần ông. Ông đã vào sát dưới ngực nó, hết sức chém mạnh, cũng nghe keng một tiếng, quỷ lăn ra nằm cứng đờ. Ông chém túi bụi vào nó, nghe tiếng vang như mõ, cầm đèn ra xem thì là một pho tượng gỗ to lớn như người thật, cung tên còn buộc ở lưng, mặt mũi chạm khắc rất hung dữ, những chỗ trúng kiếm đều có vết máu.
Ông bèn đốt đuốc chờ đến sáng, mới sực nghĩ ra rằng đám quỷ này đều do người thầy bói sai tới giết người để chứng tỏ thuật bói toán của y thần kỳ. Hôm sau ông kể cho tất cả bạn thân nghe rồi cùng nhau kéo tới chỗ người thầy bói. Người thầy bói thấy ông từ xa liền biến mất không thấy đâu nữa. Có người nói “Đó là thuật tàng hình, máu chó có thể phá được”. Ông theo lời về chuẩn bị đầy đủ rồi tới. Người thầy bói lại biến mất như lần trước, ông vội lấy máu chó hất vào chỗ y đứng, thì thấy y đầu tóc mắt mũi dính máu chó bê bết, hai mắt rừng rực đứng như con quỷ, bèn bắt trói giải lên quan giết đi.
Dị Sử thị nói: Thường nói xem bói vì có điều nghi ngờ, song những kẻ hiểu đạo ấy mà không lầm về sự sống chết lại không có mấy người, nên xem bói mà lầm không bằng không xem bói. Vả lại cho dù nói rõ được ngày chết của ta thì có làm được gì? Huống hồ lại có kẻ mượn mạng sống của người để chứng tỏ thuật bói toán của mình là thần kỳ, thật chẳng rất đáng sợ sao?
10. Diệp Sinh (Diệp Sinh)
Diệp sinh người huyện Hoài Dương (tỉnh Hà Nam) không rõ tên tự, văn chương tư phú đứng đầu một thời nhưng không thành đạt, lận đận mãi nơi trường ốc. Gặp lúc ông Đinh Thừa Hạc người Đông Quan tới làm Tri huyện ở đó, xem văn chương của sinh lấy làm lạ bèn mời tới nói chuyện, rất vừa ý liền sai ở lại trong dinh, giúp cho ăn học, thỉnh thoảng lại cho tiền thóc để giúp đỡ gia đình.
Đến kỳ khảo khóa, ông khen ngợi văn tài của sinh với quan Học sứ, ế sinh đỗ đầu, ông rất mong mỏi vào sinh, thi hương xong đòi văn bài của sinh để đọc, gỏ bàn đánh nhịp ngợi khen không ngớt. Không ngờ thời vận cản người, văn chương ghen mệnh, khi ra bảng thì sinh rớt, trở về ngơ ngác thẫn thờ, thẹn đã phụ lòng tri kỷ, thân gầy rộc như bộ xương, người ngây ra như tượng gỗ.
Ông nghe tin mời tới an ủi, sinh rơi lụy không thôi. Ông thương xót, hẹn lúc nào hết hạn về kinh sẽ đưa sinh cùng đi. Sinh rất cảm kích cáo từ ra về, đóng cửa không đi đâu nữa. Không bao lâu sinh lâm bệnh, ông thăm hỏi biếu tặng không ngớt nhưng sinh uống bao nhiêu thuốc vẫn không khỏi. Gặp lúc ông xúc phạm quan trên bị cách chức, lúc sắp về quê bèn viết thư cho sinh, đại lược rằng “Ta nay mai sẽ về Đông nhưng sở dĩ còn chần chừ là vì muốn chờ túc hạ đó thôi. Túc hạ tới buổi sáng thì buổi chiều ta khởi hành”.
Thư đưa tới cạnh giường, sinh cầm thư xem khóc rồi nhắn người đưa thư về nói bệnh nặng khó khỏi ngay, xin ông cứ đi trước. Người ấy về thưa lại, ông không nỡ đi, nán lại để chờ. Qua mấy hôm chợt người canh cổng vào báo Diệp sinh tới, ông mừng rỡ ra đón hỏi han. Sinh nói “Vì cái bệnh của kẻ hèn để đại nhân phải chờ lâu, lòng rất áy náy, nay may đã có thể theo hầu”.
Ông bèn gói ghém hành trang đi sớm, về tới làng sai con thờ sinh làm thầy, sớm tối bên nhau. Công tử tên Tái Xương, năm ấy mười sáu tuổi, chưa biết làm văn nhưng rất thông minh, sách vở thơ phú đọc qua hai ba lần là nhớ không sót một chữ. Được một năm thì công tử hạ bút thành văn, thêm có ông lo toan nên được vào học trường huyện. Sinh chép lại tất cả văn chương cử nghiệp của mình đã làm cho công tử học, đến khi vào trường thi, bảy đầu đề không sai đề nào, công tử liền đỗ á khôi.
Một hôm ông nói với sinh “Ông bỏ ra một mối tơ thừa mà giúp thằng nhỏ thành danh, nhung quả chuông vàng bị vứt bỏ mãi thì làm sao?”. Sinh nói “Điều đó là có số mệnh. Ta mượn phúc trạch của đại nhân mà hà hơi cho văn chương để người đời biết rằng nửa đời lận đận không phải vì kém tài, thế là thỏa nguyện rồi. Vả lại kẻ sĩ được một người biết đã đủ không ân hận, cần gì phải đỗ đạt mới đắc chí?”.
Ông thấy sinh xa nhà đã lâu, sợ lỡ kỳ sát hạch hàng năm, khuyên nên về thăm. Sinh rầu rĩ không vui, ông không nỡ ép bèn dặn công tử khi đến kinh thì nộp tiền mua chức cho sinh. Công tử lại đỗ kỳ thi hội, được bổ chức Chủ chính trong bộ, đưa sinh vào Giám, sớm tối có nhau.
Qua năm sau sinh thi hương ở kinh đỗ Cử nhân, gặp lúc công tử được bổ chức Điển vụ ở Hà Nam, nhân nói với sinh “Chuyến này đi không xa quý hương, nay tiên sinh đắc chí mây xanh, áo gấm về làng cũng hay”. Sinh cũng mừng liền chọn ngày tốt lên đường, tới địa giới Hoài Dương thì công tử sai người ngựa đưa sinh về.
Tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điều, sinh bùi ngùi lững thững đi vào sân. Vợ cầm cái nia đi ra, thấy sinh thì vứt xuống hoảng sợ bỏ chạy. Sinh buồn rầu nói “Ta nay đã nên danh phận, mới ba bốn năm không gặp, sao lại như không quen nhau thế?”. Vợ đứng xa nói “Chàng chết đã lâu, sao còn nói là nên danh phận? Sở dĩ còn quàn linh cữu trong nhà là vì nhà nghèo con nhỏ mà thôi. Nay con cũng đã khôn lớn, đang tìm đất chôn cất, chàng đừng hiện hồn để dọa người còn sống”. Sinh nghe nói ngậm ngùi, lững thững đi vào trong phòng, nhìn thấy linh cữu mình liền ngã xuống đất biến mất. Vợ kinh hãi nhìn lại chỉ thấy áo mũ không như cái xác ve lột, vô cùng thương xót ôm lấy khóc lóc.
Con trai sinh đi học về, thấy ngựa xe trước cổng bèn hỏi han rồi hoảng sợ chạy vào báo cho mẹ, mẹ gạt nước mắt kể lại, lại hỏi kỹ những người theo hầu mới biết rõ đầu đuôi. Người theo hầu về báo, công tử nghe tin nước mắt ròng ròng, lập tức sai thắng xe ngựa tới nhà sinh khóc lóc rồi bỏ tiền ra làm ma chay, chôn cất sinh theo lễ Hiếu liêm. Lại tặng tiền bạc cho con sinh rất hậu, đón thầy về dạy cho và nói với quan Học sứ, qua năm sau con sinh được vào học trường huyện.
Dị Sử thị nói: Hồn theo tri kỷ nên quên cái chết ư? Người khác nghe thì ngờ chứ ta thì tin lắm. Thiến Nương cùng lòng, hồn từng lìa khỏi gối[16], bạn bè ngàn dặm, dường còn nhận trong mơ[17], huống hồ tơ tằm vết nhặng, văn nhân quen bày tỏ tâm can[18], nước chảy non cao[19], học giả vẫn coi như tính mạng sao! Than ôi, gặp gỡ khó hẹn ngày, tao phùng không xứng ý nên hành tung trôi nổi để trước bóng ôm sầu, ngạo khí lăng tằng mà gãi đầu xót phận, than mặt mày tê gió bụi, bị ma quỷ tới cợt đùa[20]. Ngoài bảng Tôn Sơn[21], thơ phú theo Công danh lạt lẽo, trong phường thi rớt, tóc râu cùng năm tháng phôi pha. Khóc ròng suốt trong kim cổ, chỉ có Biện Hòa[22], ngựa hay không được đoái hoài, nào ai Bá Nhạc[23]. Ôm danh thiếp ba năm nhạt chữ[24], nhìn thân mình bốn bể không nhà. Người sống trên đời chỉ nên nhắm mắt đưa chân, mặc cho con tạo xoay vần mà thôi. Chứ trên đời những người tài giỏi mà lận đận như Diệp sinh chắc cũng không ít, mà lại muốn có Lệnh Uy trở lại[25] để họ theo mà sống chết chăng? Ôi!
11. Vị Tiên Họ Thành (Thành Tiên)
Chu sinh người huyện Văn Đăng (tỉnh Sơn Đông) cùng Thành sinh học chung từ nhỏ nên kết thành bạn thân. Thành nhà nghèo, quanh năm phải nhờ vả Chu, so về tuổi thì Chu lớn hơn nên Thành gọi vợ Chu là chị dâu, giỗ tết qua lại như một nhà.
Vợ Chu sinh được một trai thì bị bạo bệnh chết, Chu cưới vợ kế họ Vương, Thành vì nàng nhỏ tuổi nên chưa từng xin gặp mặt. Một hôm em trai Vương thị tới thăm chị, Chu bày tiệc mời ở nhà trong. Gặp lúc Thành tới chơi, người nhà vào báo, Chu sai mời vào. Thành không vào mà từ tạ ra về, Chu bèn dời tiệc ra nhà ngoài rồi đuổi theo gọi Thành quay lại. Vừa ngồi vào bàn thì có người vào báo tin đầy tớ giữ trại cho nhà Chu bị quan huyện phạt đánh rất đau.
Nguyên là đầy tớ chăn trâu nhà quan Lại bộ họ Hoàng để trâu xéo lên ruộng của Chu nên đôi bên cãi nhau, tên chăn trâu chạy về báo với chủ bắt đầy tớ của Chu giải lên quan phạt đánh thật nặng. Chu hỏi rõ đầu đuôi rồi nổi giận nói “Thằng đầy tớ chăn lợn họ Hoàng kia sao dám làm thế. Cha nó còn phải hầu hạ ông nội ta, vừa đắc chí đã không coi ai ra gì à?”. Rồi giận sôi lên đứng phắt dậy định qua tìm Hoàng, Thành ấn ngồi xuống nói “Thời buổi ngang ngược này vốn không phân đen trắng, huống chi quan lại ngày nay quá nửa là lũ cướp, chỉ là không cầm giáo đeo cung thôi”.
Chu không nghe, Thành năn nỉ mấy lần rơi cả nước mắt mới chịu thôi nhưng vẫn không nguôi giận. Trằn trọc suốt đêm, sáng ra nói với gia nhân “Họ Hoàng khinh ta thì ta tức, nhưng cứ để đó. Còn quan huyện là quan của triều đình chứ không phải là quan của bọn quyền thế, nếu có chuyện tranh chấp thì cũng phải hỏi cả đôi bên chứ sao lại như con chó suỵt đâu chạy đó được? Ta cũng kiện đầy tớ nhà kia xem y phân xử thế nào”.
Đám gia nhân đều vun vào, Chu bèn quyết ý cầm đơn kiện tới gặp quan huyện. Quan huyện xé đơn ném xuống đất, Chu tức giận chửi mắng, quan vừa thẹn vừa tức bèn bắt giam Chu. Gần trưa Thành qua thăm mới biết Chu đã lên huyện thưa kiện, vội đuổi theo cản lại thì Chu đã bị giam vào ngục, giẫm chân không biết làm sao.
Lúc bấy giờ vừa bắt được ba tên giặc biển, quan huyện và Hoàng đút tiền dặn chúng khai Chu là đồng đảng rồi vịn vào đó mà lột mũ áo nhà nho, tra tấn tàn nhẫn. Thành vào ngục thăm nhìn nhau cay đắng, bàn việc lên kinh kêu oan. Chu nói “Nay vướng vào trọng án như chim trong lồng, tuy có chú em yếu ớt cũng chỉ làm được việc đưa cơm tù mà thôi”.
Thành sốt sắng nhận đi, nói “Đây là phận sự của ta, lúc có nạn không giúp nhau thì còn bạn bè làm gì”. Rồi lập tức lên đường, em Chu định đưa tiền lộ phí thì đã đi lâu rồi. Thành tới kinh đô, chưa biết tới cửa nào kêu thì nghe đồn vua sắp đi săn bèn tính toán núp trong khu chợ gỗ, kế xa giá đi qua liền ra sụp lạy kêu khóc. Sớ được chuẩn xét giao cho dịch trạm chuyển về bộ viện thẩm tra tâu lại.
Lúc ấy vụ án đã qua hơn mười tháng, Chu đã bị khép bừa vào tội hình. Hình viện nhận được ngự phê hoảng sợ, cho thẩm xét lại bản cung khai và lời nghị án. Hoàng cũng sợ, mưu giết Chu bèn hối lộ cho người coi ngục để tuyệt đường cơm nước. Em Chu mang thức ăn vào thăm cũng bị cấm ngặt, Thành lại tới Hình viện tố cáo sự khuất khúc, Chu được gia ơn đem ra hỏi cung thì đã đói lả không dậy nổi. Quan Hình viện tức giận cho đánh chết người coi ngục, Hoàng khiếp đảm phải bỏ ra mấy ngàn lượng vàng chạy chọt nên được mập mờ xóa tội, quan huyện thì vì làm trái pháp luật bị đi đày. Chu được thả về, càng phục Thành là can đảm.
Thành sau vụ kiện tụng thì tình đời nguội lạnh bèn rủ Chu cùng đi ở ẩn, nhưng Chu còn đắm đuối vợ trẻ nên nghe nói thì cười là viễn vông, Thành tuy không đáp song đã quyết ý. Sau khi chia tay, mấy ngày không thấy tới, Chu sai qua nhà thăm dò thì người nhà nghĩ rằng đang ở nhà Chu, cả hai nơi đều không thấy mới nghi ngờ. Chu biết là có chuyện lạ, sai người đi dò hỏi khắp các chùa quán hang động, thỉnh thoảng lại đem vàng lụa chu cấp cho con Thành.
Tám chín năm sau Thành chợt tìm về, đội khăn vàng mặc áo lông, rõ ràng là đạo sĩ. Chu cả mừng nắm tay hỏi “Anh đi đâu làm ta tìm khắp nơi?”, Thành cười đáp “Mây ngàn hạc nội không ở nơi nào nhất định, nhưng sau khi chia tay may vẫn mạnh khỏe”.
Chu sai bày tiệc, nói qua nỗi niềm xa cách, muốn Thành hoàn tục nhưng Thành chỉ cười không nói. Chu bảo “Ngu thay! Sao có thể bỏ vợ con như đôi giày rách được?”. Thành cười nói “Không phải thế, người định bỏ ta chứ ta đâu bỏ được ai?”. Hỏi nơi ở, Thành đáp là trên cung Thượng Thanh núi Lao Sơn. Kế nằm gác chân ngủ, Chu mơ thấy Thành trần truồng đè lên người mình nặng muốn tức thở, kinh ngạc hỏi làm gì nhưng Thành không đáp.
Giật mình tỉnh dậy gọi không thấy Thành lên tiếng, nhỏm dậy mò thì đã đi đâu mất. Lát sau định thần mới biết đang trên giường của Thành, hoảng sợ nói “Tối qua không say mà sao lẫn lộn đến thế này?”. Bèn gọi người nhà, người nhà thắp đèn lên thì thấy rõ ràng là Thành. Chu vốn nhiều râu bèn lấy tay sờ thì thấy cằm lơ thơ chỉ có vài sợi, liền cầm gương soi rồi ngạc nhiên nói “Thành sinh ở đây thì ta đi đâu?”. Kế sực hiểu ra, biết Thành dùng ảo thuật gọi mình đi ở ẩn, muốn vào phòng vợ nhưng em trai thấy mặt mũi khác hẳn nên ngăn lại không cho. Chu cũng không có cách nào làm rõ liền sai sắp ngựa và đầy tớ đi tìm Thành.
Mấy ngày thì tới núi Lao, ngựa chạy nhanh nên đầy tớ theo không kịp, Chu dừng lại dưới gốc cây chờ. Thấy khách mặc áo lông qua lại rất đông, trong có một đạo nhân đưa mắt nhìn, Chu nhân hỏi Thành thì đạo sĩ cười đáp “Cũng có nghe tên, hình như ở cung Thượng Thanh”, nói xong bỏ đi. Chu nhìn theo thấy ông ta đi xa khoảng hơn một tầm tên lại dừng lại chuyện trò với một người, cũng chỉ vài câu rồi đi. Người kia dần dần tới gần thì ra là một người bạn học, thấy Chu kinh ngạc hỏi “Bao nhiêu năm không gặp, nghe người ta nói ông lên non học đạo mà nay còn dạo chơi ở nhân gian sao?”. Chu kể lại chuyện lạ, người kia giật mình nói “Thế thì ta vừa gặp Thành sinh mà tưởng là ông. Mới đi chưa bao lâu, chắc cũng không xa đâu”.
Chu rất lạ lùng, nói “Quái thật, sao mặt mũi của mình mà nhìn thấy lại không nhận ra được thế?”. Người đầy tớ cũng vừa tới, vội đuổi theo nhưng không thấy bóng dáng Thành đâu, nhìn lên chỉ thấy mịt mù xa tắp, không biết nên đi hay về. Kế tự nghĩ không biết về đâu bèn quyết ý đuổi theo tới cùng, nhưng đường cheo leo hiểm trở không đi ngựa được bèn đưa ngựa cho đầy tớ dắt về, lần mò đi tiếp. Thấy xa xa có đứa tiểu đồng ngồi một mình vội rảo bước tới gần hỏi đường, nói rõ duyên cớ. Tiểu đồng tự xưng là đệ tử của Thành rồi mang giúp khăn gói dẫn Chu cùng đi, dãi gió dầm sương lặn lội rất xa, ba ngày mới tới lại không phải nơi thế gian vẫn gọi là cung Thượng Thanh.
Bấy giờ là giữa tháng mười mà hoa rừng nở đầy lối đi, không giống như đầu mùa đông. Tiểu đồng vào báo tin khách tới, Thành lập tức ra đón, Chu mới nhận ra hình dáng của mình. Thành cầm tay dắt vào bày tiệc trò chuyện, Chu thấy có nhiều chim chóc màu sắc lạ lùng dạn dĩ, tiếng như đàn sáo cứ tới đậu ngay chỗ ngồi mà hót, rất lấy làm lạ nhưng lòng trần còn tha thiết không có ý ở lại. Dưới đất trải hai tấm bồ đoàn, Thành kéo cùng ngồi, đến quá canh hai thì muôn mối lo nghĩ đều lặng xuống, chợt như chớp mắt bỗng thấy mình và Thành lại đổi thân hình cho nhau, ngờ vực đưa tay sờ cằm thì thấy rậm râu như cũ.
Sáng ra Chu muốn về ngay, Thành cố giữ lại, qua ba ngày thì nói “Xin cứ nghỉ một lúc, sáng sớm sẽ đưa ông về”. Vừa thiu thiu thì nghe Thành gọi “Hành trang đã sẵn rồi?”, bèn trở dậy theo đi, thấy đường khác hẳn lối cũ.
Không bao lâu thì thấy làng quê hiện ra trước mắt, Thành ngồi đợi bên đường bảo cứ tự về. Chu lôi kéo không được đành lủi thủi đi, về tới cổng nhà gõ không thấy thưa, đang định trèo tường vào thì cảm thấy thân nhẹ như chiếc lá, nhảy một cái đã qua khỏi, vượt mấy lớp tường thấp thì tới phòng ngủ. Thấy bên trong đèn đuốc sáng trưng, vợ còn chưa ngủ mà đang rì rầm trò chuyện với người khác. Chu nhấm nước bọt chọc thủng giấy dán cửa sổ nhìn vào thì ra vợ đang uống rượu với một tên đầy tớ, bộ dạng rất lả lơi. Chu giận sôi lên toan xông vào bắt nhưng sợ có một mình không thắng nổi bèn lặng lẽ lui lại mở cửa chạy ra nói với Thành nhờ giúp sức. Thành hăng hái đi theo thẳng tới phòng ngủ, Chu vác đá đập cửa, bên trong hoảng sợ nháo nhác. Chu càng đập gấp nhưng cửa đóng rất chặt, Thành rút gươm đưa một nhát, cánh cửa toác ra. Chu sấn vào, tên đầy tớ lao ra cửa chạy, bị Thành đứng ngoài vung gươm chém đứt cánh tay tới tận vai. Chu bắt vợ tra vấn mới biết lúc mình bị giam thì nàng đã tư thông với tên đầy tớ, bèn mượn gươm chặt đầu vợ, khoét ruột treo lên cành cây trước sân rồi theo Thành trở ra.
Đang tìm đường về núi chợt giật mình tỉnh dậy thì thấy vẫn còn nằm trên giường, hoang sợ nói “Mộng mị bậy bạ làm rợn cả người”. Thành cười nói “Mơ thì ông cho là thật, thật thì lại cho là mơ”. Chu ngạc nhiên hỏi, Thành đưa gươm ra cho xem thì vết máu vẫn còn, Chu sợ phát khiếp nhưng thầm ngờ là Thành dùng ảo thuật lừa dối. Thành biết ý bèn sắp sửa hành trang đưa Chu về. Phút chốc tới đầu làng, Thành nói “Đêm ấy chẳng phải là ta chống kiếm đợi ở đây sao! Ta đã chán cuộc đời nhơ đục, xin lại đợi ông ở đây. Nếu quá trưa mà ông không ra, ta sẽ đi”.
Chu tới nhà thấy cổng ngõ tiêu điểu như không có người ở, bèn vòng qua nhà em. Em Chu thấy anh thì sa nước mắt kể “Sau khi anh đi, đang đêm cướp vào giết chị rồi khoét ruột bỏ đi, vô cùng thê thảm, đến nay quan lùng bắt chưa được”. Chu như chợt tỉnh mộng bèn kể lại tình thật, dặn đừ truy cứu nữa, em Chu sững sờ hồi lâu. Chu hỏi thăm con trai mình, em gọi bà vú bế tới, Chu nói “Đứa nhỏ còn bọc tã lót này quan hệ tới việc nối dõi tông đường, em nên cố chăm sóc chứ anh nay muốn từ giã cõi trần rồi”.
Rồi đứng lên đi ra, em trai nước mắt giàn giụa đuổi theo giữ lại, Chu chỉ cười đi thẳng không ngoái lại. Ra tới ngoài làng gặp Thành liền cùng đi, đi xa mới quay lại dặn “Ở đời thì việc nhẫn nhục là vui nhất”. Em còn muốn nói thì Thành khoát tay một cái, lập tức không thấy đâu nữa, bèn ngẩn ra hồi lâu rồi khóc lóc trở về.
Em Chu là người chất phác vụng về, không biết coi sóc người nhà làm ăn nên qua vài năm nhà càng nghèo, con Chu dần lớn lên không thể đón thầy nên phải tự mình dạy cháu học.
Một hôm sáng sớm tới phòng sách, thấy trên bàn có một phong thư dán kín, ngoài đề gởi em trai. Cầm xem thì đúng là nét chữ của anh, mở ra thì trong không chẳng có gì, chỉ thấy một cái móng tay dài khoảng hai đốt tay, lấy làm kỳ quái. Bèn đặt cái móng lên nghiên mục rồi bước ra hỏi người nhà thư từ đâu tới nhưng không ai biết, quay vào nhìn thì cái nghiên đá đã biến thành vàng lóng lánh, vô cùng ngạc nhiên, đem thử lên đồng sắt đều như thế.
Từ đó giàu to, đem ngàn vàng cho con Thành, vì thế người ta đồn rằng hai nhà này có thuật điểm kim.
Comment