1) Bài họa của vua Quang Trung
Đây là bài thơ vua Quang Trung (thực ra là văn thần của ngài) viết họa lại bài thơ xướng của vua Càn Long nhà Thanh. Bài thơ này viết trong nước, khi Quang Trung phụng thụ bài thơ mang về thì mới làm.
Vua Quang Trung
Chữ Hán:
上塞恭瞻玉輅巡
倾葵一念效尊親
波澄桂海遵侯度
日暖蓂階見聖人
萬里梯航歸有極
九重雨露沐同仁
乾行景仰無疆壽
溥率胥陶帝世春
Phiên âm:
Thượng tái cung chiêm ngọc lộ tuần
Khuynh quỳ nhất niệm hiệu tôn thân
Ba trừng quế hải tuân hầu độ
Nhật noãn minh giai kiến thánh nhân
Vạn lí thê hàng quy hữu cực
Cửu trung vũ lộ mộc đồng nhân
Càn hành cảnh ngưỡng vô cương thọ
Phổ suất tư đào Đế thế xuân.
Nội dung: Đúng kiểu thơ xướng họa ca tụng truyền thống, rằng ta là nước phên dậu chư hầu phải tuân theo chế độ của chư hầu, rồi ca tụng cơ đồ Đại Thanh sẽ mãi mãi đựoc sống trong thời Đế Nghiêu Đế Thuấn.
Dịch nghĩa:
Lên ải cung kính trông vết xe tuần thú của thiên tử
Một niềm ngưỡng vọng cung kính như việc tôn kính cha mẹ mình vậy
Sóng nước biển Nam tuân theo chế độ của chư hầu
Mặt trời ấm áp dưới thềm minh thấy Thánh Nhân
Muôn dặm thang thuyền đều quy về cực
Cửu trùng mưa móc đều được tắm gội cùng điều nhân
Sự vận hành của trời là thế, xin ngước vọng ngài vạn thọ vô cương
Khắp trời đất này đều được hun đúc dưới mùa xuân của đời Đế Nghiêu Đế Thuấn
2) Bài xướng của vua Càn Long
Chữ Hán:
瀛藩入覲值時巡
初見渾如舊識親
伊古未文來象國
勝朝往事鄙金人
九經柔遠祇重譯
嘉會於今勉體仁
武偃文修順天道
大清祚永萬千春
Phiên âm:
Doanh phiên nhập cận trị thời tuần
Sơ kiến hồn như cựu thức thân
Y cổ vị văn lai Tượng quốc
Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân
Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch
Gia hội ư kim miễn thể nhân
Võ yển văn tu thuận thiên đạo
Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân
Dịch nghĩa:
Bề tôi phên dậu vào chầu thiên tử đúng lúc thiên tử đi tuần thú
Mới gặp đây mà ngỡ như người thân quen đã biết rồi
Theo như xưa thì chưa nghe việc người Tượng Quốc đến
Chuyện bắt cống nạp người bằng vàng của triều trước thật đáng khinh bỉ
Theo như Cửu Kinh trong sách “Trung dung” phải “nhu viễn” (đối đãi mềm mỏng với chư hầu phương xa) vì chịu qua nhiều tầng phiên dịch
Nay hội tốt lành, ta cố gắng thể điều nhân
Võ im văn sửa thuận theo thiên đạo
Vận nước Đại Thanh mãi muôn ngàn xuân
Chú thích:
- Nhập cận: Chư hầu vào trầu thiên tử không theo định kỳ. Theo định kì gọi là triều.
- Ngọc lộ: Xe thiên tử đi tuần thú
- Quỳ: thứ rau biểu thị sự tôn kính. Khuynh quỳ: Nghiêng mình tôn kính
- Quế Hải: tức Nam Hải
- Minh giai: thềm minh, tương truyền thời Đế Nghiêu có mọc cây minh trước thềm. Do đó tượng trưng cho điềm báo hiệu xuất hiện thánh nhân.
- Hữu cực: Trong “Kinh thư – Hồng phạm” có trù “hoàng cực” trong chín trù (cửu trù): “Hoàng kiến kì hữu cực”. Cực ở đây là chuẩn tắc.
- Cảnh ngưỡng: Xuất phát từ Kinh Thi: “Cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ”
- Phổ suất: Xuất phát từ Kinh Thi: “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ; suất thổ chi tân, mạc phi vương thần”
P/S: Bài này tôi đã dịch cách đây nhiều năm, và đã đăng lên "Chuyên san thư họa Việt Nam" cùng với phần thư pháp bút sắt tại địa chỉ: Link
Nguồn Blog not found
Đây là bài thơ vua Quang Trung (thực ra là văn thần của ngài) viết họa lại bài thơ xướng của vua Càn Long nhà Thanh. Bài thơ này viết trong nước, khi Quang Trung phụng thụ bài thơ mang về thì mới làm.
Vua Quang Trung
Chữ Hán:
上塞恭瞻玉輅巡
倾葵一念效尊親
波澄桂海遵侯度
日暖蓂階見聖人
萬里梯航歸有極
九重雨露沐同仁
乾行景仰無疆壽
溥率胥陶帝世春
Phiên âm:
Thượng tái cung chiêm ngọc lộ tuần
Khuynh quỳ nhất niệm hiệu tôn thân
Ba trừng quế hải tuân hầu độ
Nhật noãn minh giai kiến thánh nhân
Vạn lí thê hàng quy hữu cực
Cửu trung vũ lộ mộc đồng nhân
Càn hành cảnh ngưỡng vô cương thọ
Phổ suất tư đào Đế thế xuân.
Nội dung: Đúng kiểu thơ xướng họa ca tụng truyền thống, rằng ta là nước phên dậu chư hầu phải tuân theo chế độ của chư hầu, rồi ca tụng cơ đồ Đại Thanh sẽ mãi mãi đựoc sống trong thời Đế Nghiêu Đế Thuấn.
Dịch nghĩa:
Lên ải cung kính trông vết xe tuần thú của thiên tử
Một niềm ngưỡng vọng cung kính như việc tôn kính cha mẹ mình vậy
Sóng nước biển Nam tuân theo chế độ của chư hầu
Mặt trời ấm áp dưới thềm minh thấy Thánh Nhân
Muôn dặm thang thuyền đều quy về cực
Cửu trùng mưa móc đều được tắm gội cùng điều nhân
Sự vận hành của trời là thế, xin ngước vọng ngài vạn thọ vô cương
Khắp trời đất này đều được hun đúc dưới mùa xuân của đời Đế Nghiêu Đế Thuấn
2) Bài xướng của vua Càn Long
Chữ Hán:
瀛藩入覲值時巡
初見渾如舊識親
伊古未文來象國
勝朝往事鄙金人
九經柔遠祇重譯
嘉會於今勉體仁
武偃文修順天道
大清祚永萬千春
Phiên âm:
Doanh phiên nhập cận trị thời tuần
Sơ kiến hồn như cựu thức thân
Y cổ vị văn lai Tượng quốc
Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân
Cửu kinh nhu viễn chi trùng dịch
Gia hội ư kim miễn thể nhân
Võ yển văn tu thuận thiên đạo
Đại Thanh tộ vĩnh vạn thiên xuân
Dịch nghĩa:
Bề tôi phên dậu vào chầu thiên tử đúng lúc thiên tử đi tuần thú
Mới gặp đây mà ngỡ như người thân quen đã biết rồi
Theo như xưa thì chưa nghe việc người Tượng Quốc đến
Chuyện bắt cống nạp người bằng vàng của triều trước thật đáng khinh bỉ
Theo như Cửu Kinh trong sách “Trung dung” phải “nhu viễn” (đối đãi mềm mỏng với chư hầu phương xa) vì chịu qua nhiều tầng phiên dịch
Nay hội tốt lành, ta cố gắng thể điều nhân
Võ im văn sửa thuận theo thiên đạo
Vận nước Đại Thanh mãi muôn ngàn xuân
Chú thích:
- Nhập cận: Chư hầu vào trầu thiên tử không theo định kỳ. Theo định kì gọi là triều.
- Ngọc lộ: Xe thiên tử đi tuần thú
- Quỳ: thứ rau biểu thị sự tôn kính. Khuynh quỳ: Nghiêng mình tôn kính
- Quế Hải: tức Nam Hải
- Minh giai: thềm minh, tương truyền thời Đế Nghiêu có mọc cây minh trước thềm. Do đó tượng trưng cho điềm báo hiệu xuất hiện thánh nhân.
- Hữu cực: Trong “Kinh thư – Hồng phạm” có trù “hoàng cực” trong chín trù (cửu trù): “Hoàng kiến kì hữu cực”. Cực ở đây là chuẩn tắc.
- Cảnh ngưỡng: Xuất phát từ Kinh Thi: “Cao sơn ngưỡng chỉ, cảnh hành hành chỉ”
- Phổ suất: Xuất phát từ Kinh Thi: “Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ; suất thổ chi tân, mạc phi vương thần”
P/S: Bài này tôi đã dịch cách đây nhiều năm, và đã đăng lên "Chuyên san thư họa Việt Nam" cùng với phần thư pháp bút sắt tại địa chỉ: Link
Nguồn Blog not found