
CHỢ DINH, BÃI DÂU, PHÚ HẬU
Khi tôi lên 5, 6 tuổi cũng là lúc đoàn quân viễn chinh Pháp rút khỏi Việt Nam. Tôi nhớ trên bờ bến đò Chợ Dinh, có một lô cốt cao sừng sững. Kí ức tôi ghi đậm, thỉnh thoảng có một vài người Pháp, nhớ tiếc một thời vàng son, khi đến bến đò, họ vào lô cốt, mang theo máy ảnh. Có lẽ họ vào trong đó, leo lên cao để chụp ảnh lưu niệm trước khi về nước?
Đó là thời điểm mà những chiếc xe GMC chở từng toán lính Pháp đi ngang qua nhà tôi, khi thấy bọn trẻ con chúng tôi, họ quăng xuống nào kẹo, bánh và có cả những gói thuốc lá hiệu MIC với hình bà đầm trên gói thuốc.
Cha tôi khởi nghiệp bằng nghề rèn khi ông từ giả làng Hiền Lương về lập nghiệp tại thành phố, nơi đầu tiên ông đến là Bao Vinh để học nghề. Bao Vinh là một làng rèn, đa phần đều xuất phát từ làng Hiền Lương.. Nhờ sự cần cù, chịu khó, cha tôi đã được cảm tình một khách hàng đến đặt làm một bộ dao kéo. Đất ở Chợ Dinh, ngày nay của gia đình tôi chính là nhờ sự giúp đỡ của vị khách ấy.
Đó là thầy Tôn Thất Chương.
Thời gian vật đổi sao dời. Năm 1979, sau khi cha tôi qua đời. Hôm ấy tôi có mặt tại Huế để tham dự cúng tuần cho cha. Một buổi chiều, một người đàn ông mặc áo dài đen, quần lảnh trắng, đạp xe dừng lại, vào nhà tôi. Tôi cúi đầu chào. Người đàn ông nói:
- Cho phép tôi được vô thắp hương cho thợ!
- Dạ, con mời thầy!
Hôm ấy nhà chỉ có bà chị dâu và anh tôi ở bên An Cựu qua. Tôi chẳng biết ai nhưng anh tôi nói, đó là thầy Tôn Thất Chương.
Điều tôi ghi nhận và lấy làm ngạc nhiên là những cử chỉ của thầy Chương khi làm lễ cúng cho cha tôi. Sau khi thắp hương, vái 3 vái xong, ông kéo một cái ghế ngồi trước bàn thờ. Với tư thế thẳng lưng, quyển kinh để trước mặt, ông đọc kinh. Tôi ngạc nhiên, lấy làm lạ, sao ông không tụng như bình thường các nhà sư khác. Ông nói chuyện với cha tôi như cha tôi đang ngồi đối diện ông, nghe ông chuyện trò. Chốc chốc ông lại gõ một tiếng chuông.
Bạn có thấy lạ không?
Cứ như vậy chiều nào thầy Tôn Thất Chương cũng đến ngồi nói chuyện với cha tôi, tiếng rất nhỏ. Tôi không dám đến gần để nghe. Tôi vẫn tự hỏi và tự trả lời: Thầy Chương đã “thông linh với cha tôi”.
Thầy Chương chắc đã về cõi Niết bàn. Tôi vẫn cầu mong như thế và nghĩ rằng với thời điểm hôm nay, chắc hẳn thầy không còn tại thế.
Ngôi nhà đầu tiên của cha tôi ở Chợ Dinh là một nhà ba căn hai chái, xây bằng vôi Long Thọ (ngày ấy chưa có ciment), lợp ngói. Nhà có xưởng làm, đối diện với đường Chi Lăng, nhìn xuống bến đò Chợ Dinh. Đó là nhà rèn, có chái bằng tranh thay cửa. Ban ngày chống lên để làm nghề. Ban đêm sập xuống để ngủ.
Ngôi nhà cũng thay đổi dần cùng với tuổi thơ của tôi, khang trang hơn, rộng rãi hơn. Đó là một tiểu thế giới đầy ắp tiếng cười, giọng nói. Nơi tôi lớn khôn theo từng năm tháng với môi trường chung quanh, với những người hàng xóm thân thiện.
Mãi đến bây giờ tôi vẫn nhớ rất rõ từng ngôi nhà, sân vườn, đâu đâu tôi cũng đều tìm thấy dấu tích kỉ niệm.
Đi thẳng, là về bãi Dâu, con đường với lối đi gập ghềnh, nhà cửa hai bên, rộng rãi, thoáng mát. Sân vườn, cây cối xanh tươi, nhiều cây ăn trái.
Đường này, nhiều gia đình thân quen với gia đình tôi.
Nhà ông Thị Vinh với hai chị em xinh xinh, Túy, Vui. Ngôi nhà của ông Thị Vinh lọt thỏm trong một khu đất rộng lớn, với vườn cây tõa bóng mát. Mỗi lần hai chị em chúng tôi đến chơi, lúc nào cũng được ăn trái cây, ngôi ở bến, nhìn nước sông Hương và nghe ba bà chị nói chuyện huyên thuyên…
Tôi nhớ những chiều đi tắm Bãi Dâu.
Dòng sông ở đây nước cạn và trong, nhất là buổi sáng mùa hè, tôi thích thú ngắm nhìn những đàn cá lượn, lại có cả những con nuốt hay sứa. anh tôi vẫn bảo, đụng vào sứa là ngứa lắm!
Bạn biết đó, Bãi Dâu hấp dẫn dân thành phố đổ về nườm nượp,nhất là những chiều thứ bảy, không thua gì biển Thuận An. Có lẽ đặc điểm của nó là nước cạn, trong và có rất nhiều bến để tắm, không dơ, sạch.
Tuy vậy vẫn có người đi tắm bị chết đuối. Do lội quá xa, bị vọp bẻ và không bơi được. Mỗi lần có người chết đuối là xóm Chợ Dinh – Bãi Dâu ồn ào hẳn lên, tấp nập người đi xem. Có một điều tôi vẫn khó hiểu là, tại sao người chết đuối nằm đó nhưng khi có người thân đến thì bỗng nhiên nước mắt chảy, máu trào ra ở khóe miệng?
Bãi Dâu còn là nơi tập trung làng nghề trồng tĩa, bốn mùa rau trái. Mùa hè, bọn chúng tôi sau khi tắm xong, trời chạng vạng tối, chúng tôi len lõi vào trong các bãi trồng dưa gan, khoai lang, chúng tôi hái trộm dưa, khoai, mang về nhà, cả bọn dùng chung, hoặc để tổ chức trò chơi buôn bán, rất thú vị.
Trên đường đi về Bãi Dâu, ngang qua nhà cô Tư tôi lại ngước nhìn hai cây đào trước sân, mùa ra trái, đào rụng lộp bộp. Tôi vẫn thường dừng lại để nhặt những trái đào vương vãi trên sân.
Chuyện về nhà cô Tư gợi cho tôi nhiều kỉ niệm còn nóng bỏng như vừa mới xảy ra. Vườn đất nhà cô Tư rộng. Mặt tiền hướng ra đường về Bãi Dâu, vườn sau lại ăn thông qua đường Ôn Như Hầu, tiếp cận với nhà bác Giai.
Nói đến vườn sau nhà cô Tư, tôi nghĩ đến cái giếng, cây khế to, tõa vòm lá, che phủ giếng, trái rụng đầy trên sân. Cô Tư vẫn thường hay ra rửa ráy tại giếng nước trong này. Có lần, bọn chúng tôi từ bên nhà bác Giai, ở vườn sau cầm đá ném những trái khế đỏ chín trên cây. Mấy đứa định chui qua nhặt, bỗng nhìn qua bên giếng, thoáng thấy cô Tư, kéo quần, kỳ cọ rửa ráy. Cả bọn bấm nhau đỏ mặt, mắc cở. Trong nhà có anh Bửu Chiêm, Bửu Ngô là bạn anh Hiền. Hai anh vẫn thường hay lên nhà, trao đổi chuyện học hành, chuyện linh tinh với anh Hiền.
Nhà ông Vạy, ở trong một khu xóm nhỏ, gồm nhiều nhà, sát sông Hương, đối diện nhà cô Tư, chuyên cung cấp cát sạn cho các nơi làm nhà, xây dựng. Ở đó có Thanh, Lu, Xẹp, Em, bạn anh Cự.
Nhà ông Bát, chuyên đi tụng kinh, cúng cho các gia đình có tang, có đám giỗ. Con trai của ông Bát là anh Thơm, bạn các anh tôi. Có một câu chào rất độc đáo, mỗi lần gặp nhau, đó là : “Hòm!”. Anh Thơm đang đi ngoài đường, thấy anh Hiệp đứng trước cửa ngõ. Thế là anh Thơm cất tiếng:
- Hòm!
Ở dưới Bãi Dâu, sát trên bờ sông, bãi tắm, có nhà bác Mau, kéo xe ba gác thường xuyên cho cha tôi. Mỗi lần cha tôi lên mua sắt để làm cửa kéo, cửa bông ở đường Huỳnh Thúc Kháng, dọc bờ sông để chở về là gọi bác Mau. Đó là người đàn ông cao, khỏe mạnh, da đen sạm, tính tình vui vẽ, hiền lành. Có lần cha tôi đang la các anh tôi, vừa lúc bác Mau kéo xe hàng về. Cha tôi oang oang:
- Đồ ngủ quỷ! (ý ông ám chỉ 5 anh em trai chúng tôi).
Bác Mau mĩm cười nói hớt:
- Mô rứa!, ngủ hổ đó chớ!
Rẽ phải là bến đò Chợ Dinh, đường xuống bến khoảng 40, 50 mét, đường rộng, hai bên là nhà dân, nền cao, để tránh lụt. Dưới bến, có người ngồi trong chòi tranh để thu tiền qua đò. Chợ Dinh lưu lượng khách qua về tấp nập. Họ là những người ở các làng như Tây Thượng, Ngọc anh, Dưỡng Mong, Cổ Bi, Vỹ Dạ, …qua bên này, buôn bán, đi làm công chức, học sinh đi học , …
Khi đò ngang vừa cặp bến. Khách bước xuống đò. Khách số đông gánh hàng sang bán ở Chợ Dinh. Vài học sinh đi học. Thấp thoáng vài tà áo trắng nữ sinh.
Từ bến đò lên đến đường Chi Lăng khoảng 50 mét, ở dưới mái hiên quán nhà tôi, bác Em đã chực sẵn để dán thuế. Cách phục sức của bác rất đơn giản, y phục truyền thống. Quần lảnh trắng, áo bà ba màu nâu hay đen. Chân đi dép có quai sau. Đầu đội nón lá. Điểm đặc biệt tôi nhớ mãi là chiếc xe đạp duralumin của bác luôn sáng choang, sạch bóng.
Khi người bán hàng gánh hàng bước xuống từ trên đò, thì bác Em đã chờ sẵn, bác Em đưa tay bảo họ ngừng. Bác xem hàng, rồi lôi ra một cuộn giấy thuế màu, xanh, vàng, trắng, đỏ. Mỗi màu ghi một loại tiền. Bác xé giấy thuế và dán vào chiếc dóng của người đi bán. Người đi bán căn cứ vào số tiền đã ghi sẵn trên giấy để trả tiền. Có khi người bán không đồng ý vì số tiền theo họ quá cao. Thế là có một cuộc cãi vã to tiếng và tiếp theo là một tràng chưởi rất có bài bản. Lúc khởi đầu là do người đi bán chưởi. Bác Em phản ứng chửi trả, không những thế, bác vừa chửi vừa dở nón người bán hàng lên để họ tiếp nhận chửi cho rõ, cho tường tận! Thế là một trận thư hùng chửi rất nhuần nhuyển, có bài bản, lớp lang.
Tôi không hiểu tại sao ngôn ngữ chưởi họ thu nhặt ở đâu mà nhiều và phong phú thế.
Ai dám bảo chửi là không có văn hóa!
Nghe họ chưởi, tôi rất thú vị. Thường người thua cuộc bao giờ cũng là người bán.
Ở ngã tư Bến đò Chợ Dinh có hai cái quán, phên tre, lợp tranh, đâu mặt nhau, trên đường đi về Bãi Dâu. Đó là quán mụ Liên và quán cô Tư.
Chủ quán là hai bà già, lưng còng, tóc bạc. Cô Tư trông trẻ hơn chút và khuôn mặt sáng sũa, tinh anh hơn. Hai quán đều bán hàng bánh kẹo lẽ, rượu trắng cho khách và một số đồ lặt vặt cho gia đình như kim, chỉ, hương, đèn, ….
Thường là trẻ con mua kẹo hay bánh để ăn vặt. Người lớn ra quán làm một cốc rượu đế, …
Quán Mụ Liên ở góc vườn rộng bạt ngàn của nhà ông Nho, sát bên ngôi miếu đi xuống bến đò của xóm Chợ Dinh. Ngôi miếu trông hơi y chùa một cột ở Hà Nội, nhưng từ dưới lên mái đều thẳng. Mỗi năm khi xóm Chợ Dinh cúng tế cụ Chằng đều quét dọn và mang đồ ra cúng. Ba mươi, mồng một, mười bốn, rằm, người ta cũng thường ra miếu thắp hương cúng, bái khi gặp chuyện hay cầu phúc, ….
Ngôi miếu là dấu tích của một nền văn hóa truyền thống, kế thừa với những nếp sống và suy nghĩ mà trong từng khoảnh khắc luôn có sự hiện diện của những người đã khuất.
Ngôi miếu nay đã không còn. Trong thời kỳ bao cấp, ngôi miếu đã chịu chung số phận của những đợt đập phá am miếu, mệnh danh là bài trừ mê tín dị đoan...Để rồi đã trên ba thập niên, nghề làm đồ mã bỗng chốc phát triển mạnh như cơn bão. Nhà nhà khi cúng đều đốt đồ giấy. Người người khi cúng đều cầu phúc cầu lộc: Mong sao chóng giàu kếch sù, tuổi thọ vượt trên 100 tuổi. Người ta đặt làm đồ giấy: biệt thự, xe hơi xịn, có luôn bằng lái để đốt cho người âm, bất kể giá tiền tốn lên hàng chục triệu đồng. Đại diện cho tầng lớp này là ai? Những cán bộ cấp cao, những đảng viên CS. Một thời họ hô hào, tôn giáo là liều thuốc mê hoặc, ru ngủ con người.
Trở lại quán Mụ Liên, diện tích của quán khoảng đâu được 16m2, vuông vức, đây là một không gian nho nhỏ ấm cúng. Sau quầy dọn đồ bán là một chiếc phản gỗ, về đêm, mụ Liên ngủ luôn ở đây. Quán có bếp, có ảng nước trông ra vườn ông Nho bằng một cửa sau, cũng cửa chống, bên cạnh chỗ ngủ, có kê bàn để khách ngồi. Mùa đông ấm cúng, mùa hè thoáng mát, bởi gió bờ sông Hương lồng lộng. Các vách của quán, lưu ý nửa vách từ mặt đất trở lên, là xây bằng tập lô, nửa bức còn lại lên tới mái là phên tre, trét đất sét. Một phần vì vậy mà quán mát mẽ, ấm cúng.
Tôi nhớ mãi, mỗi khi có được một đồng là vù một cái, tôi qua mụ Liên mua miếng kẹo đậu phụng. Mụ Liên bán đủ các thứ bánh kẹo, cung cấp cho người mua quà ăn vặt, nào kẹo gừng, kẹo que, kẹo đậu phụng, kẹo mè xững, …Bánh thì bánh quy, bánh tráng nướng, ngoài ra còn có chuối bán lẽ treo từng nãi như chuối mật, chuối bà lùn, và cây kim, cuộn chỉ.
Quán cô Tư thì nằm trên góc vườn nhà bác Thông, hai mặt, mặt hướng ra đường Ôn Như Hầu (Phú Hậu), mặt ngó qua quán mụ Liên (hướng đi về Bãi Dâu). Cũng y như quán mụ Liên, quán cô Tư có cửa sau thông ra góc vườn nhà bác Thông. Nhưng quán cô Tư đơn giản vì cô Tư chỉ bán ban ngày, chiều tối, cô sập cửa, về nhà. Quán bán các mặt hàng giống như mụ Liên. Tôi thấy quán cô Tư đông khách đến ăn và mua đồ ăn vặt, ngồi chơi chuyện vãn nhiều hơn. Còn quán mụ Liên thì bán rượu đế cho mấy ông sồn sồn giãi quyết cơn ghiền nhiều hơn.
Bác Tri, hình như thường chiều nào cũng ra quán mụ Liên uống một cốc rượu đế đâu khoảng 50 xu. Thế là thỏa mãn “cái chơn dơn”, từ bác Tri hay dùng khi nói chuyện với cha tôi.
Ngoài ra còn có bác Bút.
Bác Bút, sau mỗi chiều chèo đò xong, thế là đến quán mụ, kề cà vài ly rượu trắng. Thế là say, lè nhè nói đủ chuyện trên trời dưới đất mà hậu kết là hình ảnh một người đàn ông nằm lăn quay giữa đất chẳng biết trời trăng gì nữa. Có khi say quá, ông cởi luôn áo quần tồng ngồng, làm mất công mấy ông cảnh sát đến hốt đem về đồn Gia Hội.
Thỉnh thoảng có cụ Chằng em bác Tri qua quán mụ Liên làm một cốc. Thế là về. Cụ Chằng cũng chèo đò ở bến chợ Dinh nhưng cụ trẻ hơn bác Bút và tĩnh táo hơn, ít uống rượu. Có uống cũng không say.
Một số khách khác, sau làng Phú Hậu, dưới Bãi Dâu. Đặc biệt có ông Đội Xếp mặt thường đỏ ửng khi uống vào, và gặp ai cũng chửi mắng lung tung, nhưng biết là ông say nên mọi người chỉ cười thây kệ.
Gọi là ông Đội xếp có thể là vì ngày trước ông là lính của Pháp làm đến chức đội trưởng chăng. Ông người theo đạo Thiên Chúa, nhưng đối với chúng tôi, đặc biệt là anh tôi biết nhiều về gia đình ông phải chăng là vì ông Đội xếp có hai cô con gái. Còn quá nhỏ nhưng nhìn hai cô gái tôi cũng biết là đẹp. Cả hai chị em đều có nét lai. Nhưng có thể vì người cha hung dữ, hách dịch quá, mọi người đều ngán nên chẳng có ai nghĩ đến chuyện tán tỉnh, chinh phục người đẹp?
Tuy nhiên, quán mụ Liên sau này lại cho vợ bác hớt tóc ở tuốt sau đường Võ Tánh, Phú Hậu thuê chèn vô để bán bún khô.
Tôi ăn tô bún thịt nướng hay gọi là tô bún khô lần đầu tiên trong đời phải nói là từ quán mụ Liên.
Ấn tượng đầu tiên là tô bún thịt nướng quá ngon, đậm đà. Tôi thích nhất là những củ hành hương chua ngọt, những cọng rau xanh như cải con, rau ngố, sa lách, … lẫn trong bún.
Khi chan nước lèo vào, trước khi ăn, ta trộn đều tô bún. Cảm giác ngon miệng lan nhanh. Ta thích thú tận hưởng vị ngon của bún qua thịt bò nướng, hành chua ngọt, và cảm giác dịu nhẹ khi răng bạn nhai đều vị rau xanh một cách ngon lành, thỉnh thoảng nhai trúng củ hành hương hay củ kiệu chua ngọt thì thích thú làm sao! Tô bún đã hết lúc nào mà tôi không hay. Nhìn cái tô trống rỗng, lòng hơi tiếc rẽ, nhưng thôi đành vậy…
Đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Tóc tôi đã đốm bạc, vậy mà kỷ niệm vẫn rạng rỡ trong tôi mỗi lần trở về chốn xưa.
Tất cả đều đã không còn. Quán mụ Liên bây giờ đã được thay thế bằng một quán bán cà phê cốc, không còn mái tranh vách đất mà xây vách, lợp tôn.
Nhìn qua bên trái, quán cô Tư đã xóa sổ. Bây giờ đã rào chắn. Ngôi nhà bác Thông đã đổi chủ. Vẫn như ngày nào nhưng cửa đóng, vườn xưa hoang tàn, không người coi sóc. Tất cả không thấy có dấu vết sinh hoạt.
Chủ mới mua nhưng vẫn chưa đến ở.
Và … Bến đò chợ Dinh nay đã vắng bóng người chèo. Một chiếc cầu đã bắc ngang nối dài bên này với bên kia. Không còn xa vời vợi như ngày xưa, mỗi lần nhìn dòng nước lạnh lùng. Chiếc cầu nằm sừng sững sát nhà dân xóm Chợ Dinh ở gần. Có lẽ vì để tiết kiệm tiền bồi thường giải tỏa.
Người ta đã so sánh chiếc cầu như một ngôi nhà không có sân, không có không gian chứa. Nó trở nên xơ cứng đến độ vô duyên chưa kể về vấn đề bảo đảm an toàn cho người dân sống gần cầu.
Bến đò chợ Dinh vẫn còn nhưng đã vắng chiếc đò ngày nào với hình bóng người chèo. Bến đò cũng không còn như ngày xưa. Bến bị thu hẹp lại nhỏ như con hẽm do người dân hai bên lấn đất bởi lòng tham vô độ.
Tất cả đều đã không còn!
Rẽ trái là đường Ôn Như Hầu, con đường tráng nhựa, nhưng đã xuống cấp từ lâu, trước 1975, chẳng chính quyền nào tu sữa. Đây là đường dẫn đến làng Phú Hậu. Địa bàn rộng lớn, tập trung phần nhiều dân định cư, từ thời tổng thống Ngô Đình Diệm, có những trại tập trung gọi là trại tế bần. Người dân làm đủ nghề, nhưng đa số trồng trọt, nguồn rau trái, hoa của thành phố một phần được cung cấp từ làng Phú Hậu. Phú Hậu cũng là nơi xuất phát một số thành phần thuộc dạng đặc biệt, dân bán Chợ trời , bọn lưu manh côn đồ. Có gia đình ông Gái, bán chợ Trời, ở sát ngôi vườn nhà bác Giai.
Một lần, tôi qua vườn nhà bác Giai hái trái cây, tôi bỗng nghe tiếng bà vợ ông Gái gọi hai đứa con về ăn cơm:
- L. C. ơi! về ăn cơm! L. C. ơi! về ăn cơm!.
Tôi bật cười không ngờ mấy cái từ đó vẫn có người đặt tên để gọi con cái.
Ông Gái làm nghề bán thuốc quảng cáo tại chợ trời, trước rạp ci né Tân Tân. Ông có người con trai đầu tuổi đã lớn chã học hành gì, chỉ biết lêu lỏng, Vậu nàyi sắm một bàn quay kẹo kéo, để trên xe đạp, đi bán kẹo rao cùng khắp. Tuy nhiên có một điều lạ là cậu ta lại kiêm thêm nghề bán ảnh dạo. có một hôm, tôi kêu kẹo kéo vào để quay số. Quây xong, Trường kéo kẹo trao cho tôi rồi bỗng hỏi:
- Mi có mua ảnh ni không?
Tôi tò mò:
- Ảnh chi rứa mi?
Trường lôi ra đưa cho tôi một xấp ảnh 4x6. Ôi! Nhìn ảnh tôi hoảng kinh: thì ra là ảnh Trường đang làm tình với một cô gái mô đó, đủ các kiểu. Nhìn ảnh, khuôn mặt nhăn nhó của cô gái lúc lên cơn hay đôi mắt nhắm tít của Trường, tôi đỏ bừng mặt nhưng lại thấy nhớp nhớp, chẳng có chút chi nghệ thuật. Tôi nói:
- Tau mua làm chi mấy cái ảnh ni? Ôi! Mà mi tự chụp lấy mi à? Coi chừng! Không sợ bị liên lụy?
- Trường nhe răng cười nham nhở:
- Sợ chi. Sướng lắm mi ơi!
Ngày đó làm chi có phim ảnh sex phổ biên như vậy. Trường muốn có ảnh bán như vậy nó phải tự biên, tự diễn. Như vậy vốn nó bỏ ra cũng khá bộn. Chưa kể nếu bị bệnh giang mai thì ôi thôi!
Một hôm tôi trở về lại Huế, ra Phú Hậu ước muốn tìm gặp lại nhà ông Gái, mấy đứa con của ông nhưng tôi hoài công. Gia đình ông Gái đã bỏ đi sau 1975.
Chẳng ai hay biết.
Tuy nhiên đường này, có những ngôi nhà quen thân với gia đình tôi. Gia đình bác Giai, gia đình ông Cháu điện, ...
Bác Giai, có một thửa vườn rộng đến 2 hecta đất, phía đối diện nhà Bác. Nhờ thửa đất này, hai bác đã trồng trọt, hoa, trái, nuôi 2 người con trai đi học và là niềm hy vọng của bác. Ngoài ra bác có một người con trai đầu của người vợ trước, đi làm xa, tận Nha Trang. Hai người con trai là bạn với hai anh em chúng tôi, anh Phước, anh Đại.
Với tôi, Phước, Đại là hai anh em rất vui tính, thường tổ chức các trò chơi như cắm trại, nấu ăn, đánh trận, mà địa bàn là khu vườn nhà anh và vườn kinh doanh, hoa trái, phía bên kia đường. Trong vườn nhà của bác Giai, phía trước sân có hai cây trứng gà, mỗi lần qua chơi, tôi không quên tìm nhặt những trái rụng, có trái chin trên cây, còn tươi, lột vỏ, nhai rất ngon, vị ngọt của trái lắng vào cổ nghe ngọt ngọt, béo béo. Ở vườn sau, có hai cây chay, to, sum suê, tõa nhiều cành um tùm. Mùa ra trái, trĩu nặng, chúng tôi thường leo lên cây, tha hồ hái quả, ăn thoải mái. Có khi anh Phước tổ chức trại trong vườn, nấu ăn.
Cả bọn gồm hai anh em tôi (Tuấn, Cự), Thảo, Thú, Phước, Đại. Chúng tôi thường sinh hoạt ngoài trời, tạp tễnh làm người lớn. Nhớ nhất là những lần chia làm hai phe, đánh trận du kích mà chiến trường là khu vườn nhà bác Giai, đạn để bắn là những cọng ngô bẽ đôi. Mà rừng lau, sậy là những bụi bắp, chuối, ổi, sắn để bọn chúng tôi ẩn núp.
Vườn nhà bác Giai rộng, anh Đại tổ chức sân tập thể thao, luyện tập thể hình, những quả tạ để cử, cổng pacific để luyện xà đơn, xà kép. Tại sân tập này, chúng tôi trãi qua nhừng thời khắc luyện tập thể hình, mà những người tham gia hầu như bọn trẻ các gia đình mấy nhà quanh đây, trong đó có các anh của tôi.
Ngày ấy, gia đình nào có một cái radio là sang quá rồi.
Cứ mỗi chiều thứ ba hàng tuần, tôi không thể nào không qua nhà bác Giai để chờ nghe Chương trình xổ số kiến thiết Quốc gia, tổ chức tại rạp Quốc Thanh Sài Gòn, trong đó có chương trình phụ diễn Văn nghệ. Làm sao quên được bài hát của nghệ sĩ Trần Văn Trạch: “Kiến thiết Quốc gia giúp đồng bào ta giúp nước giúp nhà mà ta có lời…”
Chính qua chương trình xổ số kiến thiết chiều thứ ba mà tôi biết được một số nghệ sĩ nỗi tiếng như Trần Văn trạch, ca sĩ Túy Phượng, ban nhạc AVT, …
Với Nghệ sĩ Trần Văn Trạch thì không thể nào chê được tài diễn hài của ông. Câu chuyện “Chuyến xe lửa ngày mông 5” ông kể, vừa buồn cười, vừa rơm rớm nước mắt. Tuyệt nhất là khi ông diễn tả tiếng xe lửa chạy với âm thanh “A, b, c, k; A, b, c, k; A, b, c, k; …”, ông phát âm nhanh với một thanh âm nghe y như tiếng xe lửa đang chạy.
Ôi! Kỉ niệm thân thương, mới ngày nào. Vậy mà giờ đây cảnh cũ còn đây nhưng người xưa đâu tá! Hai vợ chồng bác Giai qua đời đã lâu, sau 1975. Anh Đại bị giết trong khi CS tiến vào cửa ngõ Sài Gòn. Anh Phước đã đi qua Mỹ theo diện HO. Chỉ con thằng con trai của anh Đại từ Sài Gòn tìm về, thừa kế.
Vườn đất bên kia, nó đã bán.
Chỉ còn lại ngôi nhà ngày nào, bây giờ trở thành nhà thờ hương hỏa.
Sát vườn nhà Bác Giai là nhà bác Cháu Điện. Bác Cháu có con là anh Hai xe Lam. Gọi tên như vậy vì ông chạy xe Lam đưa khách từ bến đò Chợ Dinh lên Chợ Đông Ba.
Nhà anh Hai, sát nhà bác Giai, cách nhau một hàng rào. Nhà của hai cha con có sân vườn trước và sau. Sân trước sâu ngút. Phía trước nhà có trụ cổng, cửa thường đóng. Khi cánh cửa mở, Ta thấy có một lối đi lát gạch rộng, giữa sân vườn bát ngát màu xanh của lá, sắc màu của hoa. Đi hết lối đi, trước mặt là chái,nền cao, hai trụ vươn lên đỡ lấy mái ngói, lối đi hai bên, mối bên có nhiều bậc cấp. Mỗi sáng, tôi vẫn thường thấy, bác Cháu điện ngồi uống trà với mấy người bạn trên đó, dưới chái hiên.
Nói chung, kết cấu các nhà vườn tại Huế thường theo lối kiến trúc truyền thống. Nhà có hàng rào già tàu bao quanh, và vườn trước, vườn sau tạo thành một quần thể màu xanh bao quanh lấy ngôi nhà. Mặt tiền của nhà có hai trụ cổng, với cửa cao, khép kín. Giữa sân có bể cạn hay bồn cây, hoặc một đỉnh lư to bằng ciment, có nơi người ta xây một bình phong. Mục đích, cản bớt tầm mắt của khách khi bước vào gian nhà chính.
Tôi ít khi nghe cha tôi nói về ông Cháu điện. khi tôi hỏi sao lại gọi là Cháu điện thì anh tôi nói rằng, vì trước đây ông làm nghề điện. Nhưng với anh Hai thì bản thân tôi biết nhiều vì ông là chủ hai chiếc xe Lambretta 3 bánh chở khách đi từ bến đò Chợ Dinh lên chợ Đông Ba và vì tôi đi xe của ông thường xuyên, ngày nào tôi cũng có cuốc xe lên Chợ Đông Ba rồi từ đó, tôi đi dọc theo hướng Chợ, ngang qua quán cà phe Phấn, Lạc Sơn, qua cầu Trường Tiền và đến Đại học Văn khoa Huế.
Có lẽ anh Hai mua xe giai đoạn ông Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch ủy ban hành pháp Trung ương, chủ trương dùng xe Lam thay thế xe đò. Tôi ở ngay bến đò, mỗi sáng lúc 5 giờ, anh Hai đã bắt đầu cho xe chở khách. Tiếng xe Lambretta rồ máy vào thời điểm ấy, chỉ có kẻ nào bị đánh thuốc ngủ mới không bị đánh thức. Quanh năm suốt tháng, anh Hai, không bao giờ có một bửa ăn thoải mái. Ông ăn cơm trên xe để kịp chở khách. Sáng ngày mồng một tết, lúc 5 giờ, tiếng nổ xe Lam “bành bạch” của anh Hai đã đánh thức người dân trong xóm, cho dù đã qua một đêm thức trắng đón Giao thừa.
Cuối đường Ôn Như Hầu, đi qua các khu dân cư, các bãi rau, làng hoa, nghĩa địa, là bến đò Doi. Đây là bến đò nhỏ, một khúc sông rất hẹp (nó là một nhánh của sông Hương, đi qua cầu Gia Hội, tạo thành một nhánh sông lượn lờ từ đường Huỳnh Thúc Kháng, qua Cầu Đông Ba, chảy về Bao Vinh).
Bến đò Doi tuy khúc sông ngắn, nhưng vẫn có người qua đò. Khách qua đò thường chỉ mất vài phút là đỗ bến. Ngày ấy, từ thời chiến tranh, người Mỹ đã xây dựng một cây cầu bắc qua sông, gọi là cầu Mỹ. Từ Phú Hậu, khi đã qua chuyến đò nhỏ hay qua cầu, là đến địa bàn Bao Vinh, từ đây có thể xuối đường, về làng Minh Hương, một địa danh nỗi tiếng tập trung người Hoa.
Điều ghi sâu trong trí nhớ, trở thành một ấn tượng khó phai mờ là trước khi đến bến đò Doi, tôi có một nơi chốn thân thương. Đó là nghĩa địa, được gọi là Cồn Mồ, nơi yên nghỉ của mẹ tôi. Mộ mẹ cách đường vài chục mét. Tôi vẫn thường đi thăm mộ mẹ với chị Chanh, chúng tôi băng qua những bui cây có hoa dại, màu tím đỏ, những đám cỏ may để đến với mẹ. Đó là một ngôi mộ được bồi đắp bằng đất đỏ mang về từ núi Ngự Bình. Tôi vẫn ghi nhớ hình ảnh chị Chanh thắp hương cúng mẹ. Sau đó chúng tôi ngồi nghỉ, lưng dựa vào lăng mộ bên cạnh. Tôi nghỉ tới câu chuyện Phạm Công Cúc Hoa và ước ao một cách vô vọng phải chi mẹ hiện ra với chị em chúng tôi, rồi mẹ cũng bảo chúng tôi quay người lại để mẹ bắt chí, …
Từ ngôi mộ của mẹ, ngước mắt nhìn vào trong xóm sâu, tôi thấy thấp thoáng nhà ông Bộ Thừa. Đó là một ngôi nhà lớn, vườn cây rộng. Kiên trúc nhà theo kiểu Pháp. Ông Bộ Thừa vẫn thường hay ghé nhà cha tôi chuyện trò như một sự nối kết tình thân mà theo ông, ngôi mộ mẹ tôi vẫn được ông xem chừng, đề phòng bọn giữ trâu đến quậy phá.
Kỉ niệm…như ánh sáng của ngọn nến, lung linh, lay động đẩy ý thức tôi đi đến những bờ bến xa. Ở đó là ngày, là đêm, là những nơi chốn thân thương.
Tuổi 13 của tôi là những đêm thao thức, với những hình ảnh gợi dục, những tấm ảnh mà Trường đưa xem, là bức tranh khỏa thân sống mà một lần tôi chiêm ngưỡng khi đi ngang qua cửa sổ sát hàng rào nhà bác Sáu.
Đó là những đợt sóng nhỏ lăn tăn âm ĩ mà sức tàn phá không kém phần mãnh liệt.
Tâm hồn tôi - dòng ý thức phẳng lặng, chuyển biến nhẹ nhàng mà những giấc mơ là sự khao khát trá hình, cho đến khi, giữa đêm khuya, âm thanh tiếng kinh cầu xen lẫn tiếng chuông, mõ từ nhà bác Dẫn ở nhà vườn sát Chợ Dinh thẩm thấu vào từng tế bào và,… một thoáng an nhiên, tự tại, tôi thả lỏng để mình rơi vào hư vô thăm thẳm.
Comment