• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng của Việt Nam

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng của Việt Nam

    Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng

    (1): Từ kiệu đến võng

    Trong suốt chiều dài lịch sử, hàng loạt các loại phương tiện giao thông, cá nhân cũng như công cộng, lần lượt xuất hiện tại Việt Nam. Theo luật đào thải tất nhiên của cuộc sống, chúng cũng lần lượt được thay thế bằng những phương tiện mới hơn nhằm phục vụ cuộc sống tốt hơn. Loạt bài viết này sẽ điểm qua những phương cách di chuyển xưa của người Việt mà cho đến ngày nay đã trở thành quá khứ.

    Bắt đầu từ thời phong kiến triều Nguyễn (1802-1945) vua chúa mỗi lần xuất cung đều dùng kiệu để đi lại. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, đã dành hẳn chương Nghi vệ (quyển 79) để miêu tả các loại kiệu dùng cho vua quan triều Nguyễn, với những quy định rất cụ thể về tên gọi, số lượng kiệu cùng các nghi trượng đi kèm, tùy thuộc vào thời thế, địa vị và thứ bậc của người sử dụng.

    Dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820), xe kiệu của vua có 4 chiếc, gồm 1 chiếc Ngọc lộ, 1 chiếc Kim lộ và 2 chiếc Kim bảo dư. Sang triều Minh Mạng (1820 – 1841), vua có 5 chiếc, được đặt tên là Cách lộ, Kim lộ, Ngọc lộ, Tượng lộ và Mộc lộ. Tùy mục đích chuyến đi, nhà vua quyết định dùng loại “xe” nào.[/b]

    Sách cũng cho biết khi vua đi chơi thì không thực hiện đầy đủ nghi thức như khi vua đi cúng tế ở các đàn miếu. Lúc này nhà vua chỉ sử dụng 1 chiếc lọng vàng thêu hình rồng để che mưa nắng, có đội quân tiền đạo và hậu hổ đi theo hộ tống. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua quy định: ngự giá đi trong phạm vi Hoàng Thành thì phải giảm bớt một nửa số cờ quạt và không cần voi ngựa hộ tống để tránh… “kẹt đường”.



    Kiệu hoàng gia triều Nguyễn

    Kiệu của hoàng thái hậu, gọi là Từ giá, cũng hoành tráng không kém, gồm 1 Phượng dư và 1 Phượng liễn. Lỗ bộ tháp tùng Từ giá có 2 lá cờ rồng, 2 lá cờ phượng, 2 lá cờ thanh đạo, 8 lá cờ phướn, 2 quạt thêu hình rồng phượng màu vàng, 4 quạt thêu hình rồng phượng màu đỏ, 4 quạt thêu hình loan phượng màu xanh và thêm 20 thứ binh khí hộ vệ.
    Kiệu của thái tử chỉ có 1 chiếc, gọi là xe Bộ liễn. Lỗ bộ tháp tùng xe này chỉ có 1 cờ lệnh, 2 cờ xanh, 2 cờ đỏ, 2 cờ vàng, 2 cờ trắng, 2 cờ đen, 8 lá cờ phướn, 1 chiếc tán hình tròn thêu hình 7 con rồng, 4 chiếc tán hình vuông, 4 chiếc lọng màu đỏ, 6 lọng màu xanh vẽ rồng mây…




    Kiệu Vua Duy Tân (ngày 5/9/1907)

    Sang triều Khải Định (1916-1925), nhà vua được người Pháp tặng cho một chiếc xe hơi nhân lễ Tứ tuần Đại khánh (mừng thọ vua 40 tuổi). Từ đó, ngoài việc dùng ngự giá truyền thống trong các dịp tế lễ, đôi khi vua Khải Định còn dùng xe hơi để du ngoạn hay đi săn bắn ở bên ngoài Hoàng Thành.



    Cựu hoàng Hàm Nghi trên chiếc xe ngựa với ý trung nhân, Bà Laloe

    Trước đó, triều đình có cho dựng ở phía trước Ngọ Môn 2 tấm bia đá, trên bia có ghi 4 chữ Hán: Khuynh cái hạ mã, nghĩa là khi đi ngang qua đây thì mọi người phải nghiêng lọng và xuống ngựa. Kể từ khi vua Khải Định dùng xe hơi, thì 2 tấm bia này không còn thích hợp nữa. Vì thế, triều đình đã cho nhổ 2 tấm bia này đưa vào cất giữ trong kho của Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).

    Đây cũng là nơi đang trưng bày chiếc kiệu sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại, dùng để đi lại trong phạm vi Hoàng Thành Huế. Ngoài ra, trong kho của Bảo tàng này đang lưu giữ chiếc kiệu mà vua Bảo Đại đã từng dùng khi đi tế Nam Giao vào năm 1935.



    Chiếc kiệu chạm rồng, sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại,
    hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.

    Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, kiệu vẫn được sử dụng nhưng đối tượng dùng kiệu được mở rộng. Vào thời này, kiệu còn dành cho các quan thuộc địa người Pháp cùng gia đình và những chức sắc người bản xứ trong việc đi kinh lý hoặc ngoạn cảnh. Trong những bức hình du ngoạn bãi biển Đồ Sơn dưới đây, người khiêng kiệu đều là phụ nữ bản xứ, họ gánh kiệu trên 2 thanh gỗ ngang và kiệu được đặt trên 2 thanh dọc dài hơn.



    Kiệu dành cho người Pháp du lịch bãi biển Đồ Sơn




    Kiệu dành cho… “Ông Tây, Bà Đầm”




    Phu kiệu toàn là phụ nữ người bản xứ




    Kiệu dành cho gia đình quan chức người bản xứ




    Phu kiệu nghỉ ngơi

    Trong phim Indochine do đạo diễn Régis Wargnier thực hiện vào tháng 4/1992 với các diễn viên Catherine Deneuve (trong vai Eliane), Vincent Perez (John the Baptist), Linh Dan Pham (Camille), Jean Yanne (Guy Asselin), khán giả được thấy cảnh ngồi kiệu của diễn viên đóng vai John the Baptist. Indochine là một phim hoành tráng mô tả cuộc sống của người Pháp thời đi mở thuộc địa tại Đông Dương. Phim sử dụng tới 1800 bộ y phục của cả người Âu lẫn người bản xứ.


    Kiệu trong phim “Indochine" của Régis Wargnier

    Vào thời phong kiến, quan lại triều Nguyễn không được phép dùng kiệu mà chỉ ngồi võng có mui che, được khiêng bởi 4 người lính. Đòn ngang của võng sơn son thếp vàng, khắc hình con giao long, đòn dọc của võng khắc hình con thú ứng với phẩm trật của vị quan ngồi trên võng.


    Tranh xưa vẽ cảnh đi võng

    Võng bằng lụa màu hồng. Mui che võng được quang dầu màu xanh để che mưa nắng. Quan lại trên hàng nhất phẩm thì có 4 người lính vác 4 chiếc lọng theo hầu, quan nhất phẩm chỉ có 3 lọng, quan nhị phẩm chỉ có 2 lọng và quan từ tam phẩm xuống đến cửu phẩm chỉ có 1 người vác lọng theo hầu.


    Võng được dùng để phục vụ các quan lại trong triều

    Ngoài ra, những tân khoa thi đỗ đều được dùng võng để về làng “Vinh quy, Bái tổ”. Trong ca dao xưa có câu “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” để mô tả sự vinh quang của người học trò thành đạt.


    Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau

    Tin người đỗ đạt được đưa về làng, hương chức, dân làng họp ở đình, cắt cử người ra gập Tân khoa để ấn định ngày vinh quy, rước về nguyên quán. Thường thì đỗ Tú tài chỉ làng xã rước, đỗ Cử nhân hàng huyện phải rước, đỗ Tiến sĩ thì hương lý, trai tráng hàng tổng đem đủ nghi lễ, cờ quạt đón từ tỉnh rước về làng. Tuy nhiên, những người trong họ quan Tân khoa được miễn làm phu phen đi rước.

    Theo Ngô Tất Tố (1) trong Lều chõng thì thời nhà Lê, đỗ Tiến sĩ dân phải đem cờ quạt đến tận Kẻ Chợ (tức Thăng Long) đón rước, nhưng từ thời vua Gia Long trở đi, Kẻ Chợ dời vào Thuận Hóa (Huế), người miền Bắc tới đó xa quá, nếu bắt cả tổng phải đi rước sợ làm phiền dân, nên chỉ bắt rước từ tỉnh nhà về mà thôi.

    Lúc đầu Tân khoa vinh quy cưỡi ngựa trạm, đến 1901, cả Phó bảng cũng được ngựa trạm đưa về chứng tỏ, trên nguyên tắc, các Tân khoa vẫn cưỡi ngựa vinh quy. Tuy nhiên, Phạm Quý Thích (1759-1825) lại cưỡi voi. Ông 20 tuổi đỗ Tiến sĩ niên hiệu Cảnh Hưng 40 (khóa 1779), đáng lẽ đỗ đầu, hiềm vì trẻ quá quan trường định đánh hỏng, đợi khoa sau mới cho đỗ thủ khoa. Rút cục, họ Phạm được lấy đỗ thứ nhì, người đỗ đầu là Ðặng Ðiền, tuổi gấp đôi.

    Rồi không biết từ bao giờ các Tân khoa lại đi võng thay vì ngựa, "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau", phải chăng vì có những ông Tân khoa "trói gà không chặt" không biết cưỡi ngựa?

    Huỳnh Côn (1849- ?) đỗ Phó bảng khoa 1877, thuật chuyện khi đỗ Cử nhân đã vinh quy, không cưỡi ngựa, đi võng như thường tình, mà lại đi bằng thuyền: “Tôi vinh quy bằng bốn chiếc thuyền tam bản, cắm cờ xí rực rỡ, mẹ tôi ngồi trong một chiếc thuyền ấy để ra đón tôi”.

    Thời Pháp thuộc, theo Nguyễn Vỹ (2) trong Tuấn, chàng trai nước Việt, các nhà theo Tân học cũng bắt chước lệ thi đỗ vinh quy: đỗ bằng Tiểu học (Certificat d'Etudes Primaires) thì rước bằng xe kéo, đỗ Cao đẳng Tiểu học Pháp-Việt (Diplôme d'Etudes Primaires Supérieures Franco-Indigène) thì đi cáng, Nghe nói có người thi đỗ Tú tài tây còn vinh quy bằng ôtô.

    Nhà thơ Nguyễn Bính (3) trong bài Giấc mơ anh lái đò có nói đến chuyện đi võng vinh quy về làng:

    Năm xưa chở chiếc thuyền này
    Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
    Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
    "Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
    Tưng bừng vua mở khoa thi,
    Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
    Võng anh đi trước võng nàng
    Cả hai chiếc võng cùng sang một đò."

    Trong bài thơ Quan trạng, tả cảnh quan Trạng vinh quy, Nguyễn Bính viết:

    Quan Trạng đi bốn lọng vàng
    Cờ thêu tám lá qua làng Trang Nghiêm
    Mọi người hớn hở ra xem
    Chỉ duy có một cô em chạnh buồn.

    Có lẽ vì “hồn thơ lai láng” nên Nguyễn Bính đã đưa ra hai chi tiết không chính xác là dùng lọng vàng, mà lại tới bốn lọng để rước ông Trạng về làng. Lọng vàng chỉ dành riêng cho vua, tân khoa đỗ Trạng, lúc vinh quy chỉ được che hai lọng màu xanh, phải làm quan tới nhất phẩm mới được đi bốn lọng xanh.

    Nếu quả thật có đám rước vinh quy của ông Trạng dùng tới 4 lọng vàng như nhà thơ Nguyễn Bính mô tả thì chắc chắn sẽ mắc tội… “phạm thượng”. Thế mới biết, thời phong kiến quá nhiêu khê với những luật lệ khắt khe mà người dân vô tình chứ không phải cố ý vi phạm.

    (Còn tiếp)

    ***

    Chú thích:

    (1) Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu, ông sinh năm 1893 mất năm 1954 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội).

    Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị.

    Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm báo. Ông viết cho tờ An Nam tạp chí. Nhưng vì thiếu tiền, tờ báo này phải tự đình bản, Ngô Tất Tố cùng với Tản Đà đã vào Sài Gòn. Mặc dù không thật sự thành công trong cuộc thử sức ở Nam Kỳ, nhưng tại đây, Ngô Tất Tố đã có cơ hội tiếp cận với tri thức và văn hóa thế giới ở vùng đất khi đó là thuộc địa chính thức của Pháp cũng như theo đuổi nghề báo để chuẩn bị sau này trở thành một nhà báo chuyên nghiệp. Trong thời kỳ này, ông viết với các bút danh Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà, Tân Thôn Dân..

    Trong số các tác phẩm của Ngô Tất Tố, nổi bật nhất có Tắt đèn (tiểu thuyết xã hội về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam đăng trên báo Việt nữ năm 1937, Mai Lĩnh xuất bản năm 1939) và Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết về chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến trong những ngày cuối cùng dưới triều Nguyễn đăng nhiều kỳ trên báo Thời vụ, 1939-1944, Mai Lĩnh xuất bản năm 1952).

    (2) Nguyễn Vỹ (1912-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền. Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca thời tiền chiến.

    Ông từng theo học tại trường Trung học Pháp-Việt ở Quy Nhơn 1924-1927, rồi gián đoạn vì tham gia các cuộc vận động chống thực dân, sau đó ông ra Bắc theo học ban tú tài tại Hà Nội. Năm 1934, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, tên là Tập thơ đầu, gồm hơn 30 bài thơ Việt và thơ Pháp. Thi phẩm này in ra không được nhiều thiện cảm, bị cho là rườm rà, "nhiều chân" và là đối tượng chê bai chính của Lê Ta trên các báo.

    Năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt-Pháp lấy tên là Le Cygne, tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng tác. Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp nên tờ báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị kết tội phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia, bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3.000 quan tiền.

    Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo này bị đóng cửa. Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Ðà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Ðại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt tờ báo trên cũng bị đình bản.

    Năm 1952, một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương là tờ Dân ta, sống được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước. Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ Thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam. Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông Lúa, tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm.

    Năm 1956, Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui. Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản nhật báo Dân ta (bộ mới) nhưng đến năm 1965 cũng lại bị đóng cửa và từ 1967 Nguyễn Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ Thông mà thôi. Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An-Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.

    Bên cạnh những tập sách biên khảo có giá trị như Văn thi sĩ tiền chiến, Tuấn-chàng trai nước Việt… Nguyễn Vỹ còn viết nhiều bộ tiểu thuyết, nhưng được đánh giá là không thành công. Giới thiệu Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam cũng đã viết như sau:

    “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì…

    … Một bài như bài "Sương rơi" được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt lệ... Nhưng "Sương rơi" còn có vẻ một bài văn. "Gửi Trương Tửu" mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người”.

    (3) Nguyễn Bính (1918–1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính sinh tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng và được coi như là nhà thơ của làng quê với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.

    Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình. Trong suốt 30 năm, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều thể loại như thơ, kịch, truyện thơ... Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi ca. Ông được đông đảo độc giả công nhận như một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại.

    Một số tác phẩm:

    · Những bóng người trên sân ga (Thơ 1937)
    · Cô Hái Mơ (Thơ 1939)
    · Chân quê (Thơ 1940)
    · Lỡ Bước Sang Ngang (Thơ 1940)
    · Tâm Hồn Tôi (Thơ 1940)
    · Hương Cố Nhân (Thơ 1941)
    · Người Con Gái Ở Lầu Hoa (Thơ 1942)
    · Mười Hai Bến Nước (Thơ 1942)
    · Mây Tần (Thơ 1942)
    · Đồng Tháp Mười (Thơ 1955)
    · Trả Ta Về (Thơ 1955)
    · Gửi Người Vợ Miền Nam (Thơ 1955)
    · Nước Giếng Thơi (Thơ 1957)
    · Tình Nghĩa Đôi Ta (Thơ 1960)
    · Đêm Sao Sáng (Thơ 1962)
    Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

    Similar Threads
  • #2

    ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi nhonhatrang View Post
    Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng

    (1): Từ kiệu đến võng

    Trong suốt chiều dài lịch sử, hàng loạt các loại phương tiện giao thông, cá nhân cũng như công cộng, lần lượt xuất hiện tại Việt Nam. Theo luật đào thải tất nhiên của cuộc sống, chúng cũng lần lượt được thay thế bằng những phương tiện mới hơn nhằm phục vụ cuộc sống tốt hơn. Loạt bài viết này sẽ điểm qua những phương cách di chuyển xưa của người Việt mà cho đến ngày nay đã trở thành quá khứ.

    Bắt đầu từ thời phong kiến triều Nguyễn (1802-1945) vua chúa mỗi lần xuất cung đều dùng kiệu để đi lại. Sách Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, do Nội các triều Nguyễn biên soạn, đã dành hẳn chương Nghi vệ (quyển 79) để miêu tả các loại kiệu dùng cho vua quan triều Nguyễn, với những quy định rất cụ thể về tên gọi, số lượng kiệu cùng các nghi trượng đi kèm, tùy thuộc vào thời thế, địa vị và thứ bậc của người sử dụng.

    Dưới triều vua Gia Long (1802 – 1820), xe kiệu của vua có 4 chiếc, gồm 1 chiếc Ngọc lộ, 1 chiếc Kim lộ và 2 chiếc Kim bảo dư. Sang triều Minh Mạng (1820 – 1841), vua có 5 chiếc, được đặt tên là Cách lộ, Kim lộ, Ngọc lộ, Tượng lộ và Mộc lộ. Tùy mục đích chuyến đi, nhà vua quyết định dùng loại “xe” nào.[/b]

    Sách cũng cho biết khi vua đi chơi thì không thực hiện đầy đủ nghi thức như khi vua đi cúng tế ở các đàn miếu. Lúc này nhà vua chỉ sử dụng 1 chiếc lọng vàng thêu hình rồng để che mưa nắng, có đội quân tiền đạo và hậu hổ đi theo hộ tống. Dưới triều Minh Mạng, nhà vua quy định: ngự giá đi trong phạm vi Hoàng Thành thì phải giảm bớt một nửa số cờ quạt và không cần voi ngựa hộ tống để tránh… “kẹt đường”.



    Kiệu hoàng gia triều Nguyễn

    Kiệu của hoàng thái hậu, gọi là Từ giá, cũng hoành tráng không kém, gồm 1 Phượng dư và 1 Phượng liễn. Lỗ bộ tháp tùng Từ giá có 2 lá cờ rồng, 2 lá cờ phượng, 2 lá cờ thanh đạo, 8 lá cờ phướn, 2 quạt thêu hình rồng phượng màu vàng, 4 quạt thêu hình rồng phượng màu đỏ, 4 quạt thêu hình loan phượng màu xanh và thêm 20 thứ binh khí hộ vệ.
    Kiệu của thái tử chỉ có 1 chiếc, gọi là xe Bộ liễn. Lỗ bộ tháp tùng xe này chỉ có 1 cờ lệnh, 2 cờ xanh, 2 cờ đỏ, 2 cờ vàng, 2 cờ trắng, 2 cờ đen, 8 lá cờ phướn, 1 chiếc tán hình tròn thêu hình 7 con rồng, 4 chiếc tán hình vuông, 4 chiếc lọng màu đỏ, 6 lọng màu xanh vẽ rồng mây…




    Kiệu Vua Duy Tân (ngày 5/9/1907)

    Sang triều Khải Định (1916-1925), nhà vua được người Pháp tặng cho một chiếc xe hơi nhân lễ Tứ tuần Đại khánh (mừng thọ vua 40 tuổi). Từ đó, ngoài việc dùng ngự giá truyền thống trong các dịp tế lễ, đôi khi vua Khải Định còn dùng xe hơi để du ngoạn hay đi săn bắn ở bên ngoài Hoàng Thành.



    Cựu hoàng Hàm Nghi trên chiếc xe ngựa với ý trung nhân, Bà Laloe

    Trước đó, triều đình có cho dựng ở phía trước Ngọ Môn 2 tấm bia đá, trên bia có ghi 4 chữ Hán: Khuynh cái hạ mã, nghĩa là khi đi ngang qua đây thì mọi người phải nghiêng lọng và xuống ngựa. Kể từ khi vua Khải Định dùng xe hơi, thì 2 tấm bia này không còn thích hợp nữa. Vì thế, triều đình đã cho nhổ 2 tấm bia này đưa vào cất giữ trong kho của Bảo tàng Khải Định (nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế).

    Đây cũng là nơi đang trưng bày chiếc kiệu sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại, dùng để đi lại trong phạm vi Hoàng Thành Huế. Ngoài ra, trong kho của Bảo tàng này đang lưu giữ chiếc kiệu mà vua Bảo Đại đã từng dùng khi đi tế Nam Giao vào năm 1935.



    Chiếc kiệu chạm rồng, sơn son thếp vàng của vua Bảo Đại,
    hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế.

    Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, kiệu vẫn được sử dụng nhưng đối tượng dùng kiệu được mở rộng. Vào thời này, kiệu còn dành cho các quan thuộc địa người Pháp cùng gia đình và những chức sắc người bản xứ trong việc đi kinh lý hoặc ngoạn cảnh. Trong những bức hình du ngoạn bãi biển Đồ Sơn dưới đây, người khiêng kiệu đều là phụ nữ bản xứ, họ gánh kiệu trên 2 thanh gỗ ngang và kiệu được đặt trên 2 thanh dọc dài hơn.



    Kiệu dành cho người Pháp du lịch bãi biển Đồ Sơn




    Kiệu dành cho… “Ông Tây, Bà Đầm”




    Phu kiệu toàn là phụ nữ người bản xứ




    Kiệu dành cho gia đình quan chức người bản xứ




    Phu kiệu nghỉ ngơi

    Trong phim Indochine do đạo diễn Régis Wargnier thực hiện vào tháng 4/1992 với các diễn viên Catherine Deneuve (trong vai Eliane), Vincent Perez (John the Baptist), Linh Dan Pham (Camille), Jean Yanne (Guy Asselin), khán giả được thấy cảnh ngồi kiệu của diễn viên đóng vai John the Baptist. Indochine là một phim hoành tráng mô tả cuộc sống của người Pháp thời đi mở thuộc địa tại Đông Dương. Phim sử dụng tới 1800 bộ y phục của cả người Âu lẫn người bản xứ.


    Kiệu trong phim “Indochine" của Régis Wargnier

    Vào thời phong kiến, quan lại triều Nguyễn không được phép dùng kiệu mà chỉ ngồi võng có mui che, được khiêng bởi 4 người lính. Đòn ngang của võng sơn son thếp vàng, khắc hình con giao long, đòn dọc của võng khắc hình con thú ứng với phẩm trật của vị quan ngồi trên võng.


    Tranh xưa vẽ cảnh đi võng

    Võng bằng lụa màu hồng. Mui che võng được quang dầu màu xanh để che mưa nắng. Quan lại trên hàng nhất phẩm thì có 4 người lính vác 4 chiếc lọng theo hầu, quan nhất phẩm chỉ có 3 lọng, quan nhị phẩm chỉ có 2 lọng và quan từ tam phẩm xuống đến cửu phẩm chỉ có 1 người vác lọng theo hầu.


    Võng được dùng để phục vụ các quan lại trong triều

    Ngoài ra, những tân khoa thi đỗ đều được dùng võng để về làng “Vinh quy, Bái tổ”. Trong ca dao xưa có câu “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau” để mô tả sự vinh quang của người học trò thành đạt.


    Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau

    Tin người đỗ đạt được đưa về làng, hương chức, dân làng họp ở đình, cắt cử người ra gập Tân khoa để ấn định ngày vinh quy, rước về nguyên quán. Thường thì đỗ Tú tài chỉ làng xã rước, đỗ Cử nhân hàng huyện phải rước, đỗ Tiến sĩ thì hương lý, trai tráng hàng tổng đem đủ nghi lễ, cờ quạt đón từ tỉnh rước về làng. Tuy nhiên, những người trong họ quan Tân khoa được miễn làm phu phen đi rước.

    Theo Ngô Tất Tố (1) trong Lều chõng thì thời nhà Lê, đỗ Tiến sĩ dân phải đem cờ quạt đến tận Kẻ Chợ (tức Thăng Long) đón rước, nhưng từ thời vua Gia Long trở đi, Kẻ Chợ dời vào Thuận Hóa (Huế), người miền Bắc tới đó xa quá, nếu bắt cả tổng phải đi rước sợ làm phiền dân, nên chỉ bắt rước từ tỉnh nhà về mà thôi.

    Lúc đầu Tân khoa vinh quy cưỡi ngựa trạm, đến 1901, cả Phó bảng cũng được ngựa trạm đưa về chứng tỏ, trên nguyên tắc, các Tân khoa vẫn cưỡi ngựa vinh quy. Tuy nhiên, Phạm Quý Thích (1759-1825) lại cưỡi voi. Ông 20 tuổi đỗ Tiến sĩ niên hiệu Cảnh Hưng 40 (khóa 1779), đáng lẽ đỗ đầu, hiềm vì trẻ quá quan trường định đánh hỏng, đợi khoa sau mới cho đỗ thủ khoa. Rút cục, họ Phạm được lấy đỗ thứ nhì, người đỗ đầu là Ðặng Ðiền, tuổi gấp đôi.

    Rồi không biết từ bao giờ các Tân khoa lại đi võng thay vì ngựa, "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau", phải chăng vì có những ông Tân khoa "trói gà không chặt" không biết cưỡi ngựa?

    Huỳnh Côn (1849- ?) đỗ Phó bảng khoa 1877, thuật chuyện khi đỗ Cử nhân đã vinh quy, không cưỡi ngựa, đi võng như thường tình, mà lại đi bằng thuyền: “Tôi vinh quy bằng bốn chiếc thuyền tam bản, cắm cờ xí rực rỡ, mẹ tôi ngồi trong một chiếc thuyền ấy để ra đón tôi”.

    Thời Pháp thuộc, theo Nguyễn Vỹ (2) trong Tuấn, chàng trai nước Việt, các nhà theo Tân học cũng bắt chước lệ thi đỗ vinh quy: đỗ bằng Tiểu học (Certificat d'Etudes Primaires) thì rước bằng xe kéo, đỗ Cao đẳng Tiểu học Pháp-Việt (Diplôme d'Etudes Primaires Supérieures Franco-Indigène) thì đi cáng, Nghe nói có người thi đỗ Tú tài tây còn vinh quy bằng ôtô.

    Nhà thơ Nguyễn Bính (3) trong bài Giấc mơ anh lái đò có nói đến chuyện đi võng vinh quy về làng:

    Năm xưa chở chiếc thuyền này
    Cho cô sang bãi tước đay chiều chiều
    Để tôi mơ mãi, mơ nhiều:
    "Tước đay se võng nhuộm điều ta đi
    Tưng bừng vua mở khoa thi,
    Tôi đỗ quan trạng vinh quy về làng
    Võng anh đi trước võng nàng
    Cả hai chiếc võng cùng sang một đò."

    Trong bài thơ Quan trạng, tả cảnh quan Trạng vinh quy, Nguyễn Bính viết:

    Quan Trạng đi bốn lọng vàng
    Cờ thêu tám lá qua làng Trang Nghiêm
    Mọi người hớn hở ra xem
    Chỉ duy có một cô em chạnh buồn.

    Có lẽ vì “hồn thơ lai láng” nên Nguyễn Bính đã đưa ra hai chi tiết không chính xác là dùng lọng vàng, mà lại tới bốn lọng để rước ông Trạng về làng. Lọng vàng chỉ dành riêng cho vua, tân khoa đỗ Trạng, lúc vinh quy chỉ được che hai lọng màu xanh, phải làm quan tới nhất phẩm mới được đi bốn lọng xanh.

    Nếu quả thật có đám rước vinh quy của ông Trạng dùng tới 4 lọng vàng như nhà thơ Nguyễn Bính mô tả thì chắc chắn sẽ mắc tội… “phạm thượng”. Thế mới biết, thời phong kiến quá nhiêu khê với những luật lệ khắt khe mà người dân vô tình chứ không phải cố ý vi phạm.

    (Còn tiếp)

    ***

    Chú thích:

    (1) Ngô Tất Tố là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu, ông sinh năm 1893 mất năm 1954 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội).

    Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị.

    Năm 1926, Ngô Tất Tố ra Hà Nội làm báo. Ông viết cho tờ An Nam tạp chí. Nhưng vì thiếu tiền, tờ báo này phải tự đình bản, Ngô Tất Tố cùng với Tản Đà đã vào Sài Gòn. Mặc dù không thật sự thành công trong cuộc thử sức ở Nam Kỳ, nhưng tại đây, Ngô Tất Tố đã có cơ hội tiếp cận với tri thức và văn hóa thế giới ở vùng đất khi đó là thuộc địa chính thức của Pháp cũng như theo đuổi nghề báo để chuẩn bị sau này trở thành một nhà báo chuyên nghiệp. Trong thời kỳ này, ông viết với các bút danh Bắc Hà, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà, Tân Thôn Dân..

    Trong số các tác phẩm của Ngô Tất Tố, nổi bật nhất có Tắt đèn (tiểu thuyết xã hội về cảnh ngộ và số phận người nông dân Việt Nam đăng trên báo Việt nữ năm 1937, Mai Lĩnh xuất bản năm 1939) và Lều chõng (phóng sự tiểu thuyết về chế độ giáo dục và khoa cử phong kiến trong những ngày cuối cùng dưới triều Nguyễn đăng nhiều kỳ trên báo Thời vụ, 1939-1944, Mai Lĩnh xuất bản năm 1952).

    (2) Nguyễn Vỹ (1912-1971) là nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút hiệu khác của ông là: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền. Ông là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca thời tiền chiến.

    Ông từng theo học tại trường Trung học Pháp-Việt ở Quy Nhơn 1924-1927, rồi gián đoạn vì tham gia các cuộc vận động chống thực dân, sau đó ông ra Bắc theo học ban tú tài tại Hà Nội. Năm 1934, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, tên là Tập thơ đầu, gồm hơn 30 bài thơ Việt và thơ Pháp. Thi phẩm này in ra không được nhiều thiện cảm, bị cho là rườm rà, "nhiều chân" và là đối tượng chê bai chính của Lê Ta trên các báo.

    Năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt-Pháp lấy tên là Le Cygne, tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng tác. Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp nên tờ báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị kết tội phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia, bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3.000 quan tiền.

    Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo này bị đóng cửa. Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Ðà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Ðại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt tờ báo trên cũng bị đình bản.

    Năm 1952, một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương là tờ Dân ta, sống được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước. Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ Thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam. Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông Lúa, tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm.

    Năm 1956, Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui. Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản nhật báo Dân ta (bộ mới) nhưng đến năm 1965 cũng lại bị đóng cửa và từ 1967 Nguyễn Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ Thông mà thôi. Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An-Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.

    Bên cạnh những tập sách biên khảo có giá trị như Văn thi sĩ tiền chiến, Tuấn-chàng trai nước Việt… Nguyễn Vỹ còn viết nhiều bộ tiểu thuyết, nhưng được đánh giá là không thành công. Giới thiệu Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh và Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam cũng đã viết như sau:

    “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì…

    … Một bài như bài "Sương rơi" được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt lệ... Nhưng "Sương rơi" còn có vẻ một bài văn. "Gửi Trương Tửu" mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người”.

    (3) Nguyễn Bính (1918–1966) tên thật là Nguyễn Trọng Bính sinh tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông là một nhà thơ lãng mạn nổi tiếng và được coi như là nhà thơ của làng quê với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc.

    Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình. Trong suốt 30 năm, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều thể loại như thơ, kịch, truyện thơ... Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi ca. Ông được đông đảo độc giả công nhận như một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại.

    Một số tác phẩm:

    · Những bóng người trên sân ga (Thơ 1937)
    · Cô Hái Mơ (Thơ 1939)
    · Chân quê (Thơ 1940)
    · Lỡ Bước Sang Ngang (Thơ 1940)
    · Tâm Hồn Tôi (Thơ 1940)
    · Hương Cố Nhân (Thơ 1941)
    · Người Con Gái Ở Lầu Hoa (Thơ 1942)
    · Mười Hai Bến Nước (Thơ 1942)
    · Mây Tần (Thơ 1942)
    · Đồng Tháp Mười (Thơ 1955)
    · Trả Ta Về (Thơ 1955)
    · Gửi Người Vợ Miền Nam (Thơ 1955)
    · Nước Giếng Thơi (Thơ 1957)
    · Tình Nghĩa Đôi Ta (Thơ 1960)
    · Đêm Sao Sáng (Thơ 1962)
    Xin lỗi đã chậm ghi là Bài sưu tầm tìm được trong mạng...vì là còn phần tiếp theo sẽ post tiếp nay mai...
    Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

    Comment

    • #3

      Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng
      (2):Xe kéo


      Tìm hiểu về lịch sử của chiếc xe kéo, người ta cho rằng loại xe này đã ra đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị tại Nhật Bản, vào khoảng năm 1869. Hồi đó, những gia đình khá giả có thể tậu một chiếc xe do người làm kéo đi những lúc cần di chuyển, thay vì phải đi bộ.

      Theo Wikipedia, xe kéo - tiếng Anh là Rickshaw, tiếng Pháp là Pousse-Pousse - bắt nguồn từ tiếng Nhật “Jinrikisha” trong đó ghép bởi “jin” (con người, nhân), “riki” (sức lực) và “sha” (xe). Như vậy, “Jinrikisha” là loại xe chạy bằng sức kéo của con người.


      Xe kéo xưa trên bưu ảnh của Nhật Bản

      Bắt đầu từ năm 1870, chính quyền thành phố Tokyo cấp giấy phép sản xuất và bán xe kéo cho 3 người được coi là nhà sáng tạo phương tiện vận chuyển “tân kỳ” này: Izumi Yosuke, Takayama Kosuke và Suzuki Tokujiro. Để được phép hoạt động tại Tokyo, xe kéo phải được đóng dấu cho phép của 3 nhà phát minh này.


      Xe kéo tại Nhật năm 1897

      Đến năm 1872 có khoảng 40.000 xe kéo hoạt động tại các thành phố lớn ở Nhật và đây cũng là phương tiện giao thông chính trơng cả nước. Vào thời đó, sức người rẻ hơn nhiều so với sức ngựa nên ngựa chỉ được dùng cho các hoạt động mang tính cách quân sự. Nguồn nhân lực cho xe kéo là những nông dân từ thôn quê ra thành thị kiếm sống, tính ra mỗi ngày họ phải chạy từ 30 đến 40km với tốc độ trung bình 8km một giờ.


      Phu xe kéo tại Nhật

      Xe kéo lần lượt xuất hiện tại các thành phố châu Á như Trung Hoa (1873), Singapore (1880), Việt Nam (1883) và vào cuối thế kỷ thứ 19 tại Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Indonesia, Hồng Kông, Triều Tiên… Nói chung, xe kéo có mặt khắp lục địa Á Châu là nơi có dân số đông nhất thế giới và cũng là nơi có trình độ phát triển kém hơn châu Âu, châu Mỹ.


      Xe kéo tại Ấn Độ

      Năm 1883, chiếc xe kéo, hay còn gọi là xe tay tại miền Bắc, xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Nội do Thống sứ người Pháp, Jean Thomas Raoul Bonnal, cho đem từ bên Nhật qua. Xe kéo Hà Nội xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi đầu tiên tại Âu Châu và một năm trước xe tramway, một loại xe do ngựa kéo. Gần 15 năm sau, Sài Gòn mới biết tới loại xe này.


      Hình ảnh xe kéo là một trong những sắc thái đặc thù của Đông Dương được họa sĩ Adrien Marie vẽ trong một bức tranh cổ động cuộc đấu xảo năm 1889 tại Pháp

      Lịch sử phát triển xe kéo tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1884 khi một nhà thầu người Pháp cho sản xuất khoảng 50 chiếc xe cung cấp cho cả miền Bắc, khi đó còn gọi là Tonkin. Từ đó, chiếc xe kéo dần dần trở nên quen thuộc tại Hà Nội và chỉ dành cho những người có chức, có tiền sử dụng làm phương tiện di chuyển trong khi đi bộ vẫn là phương tiện chính của đại đa số dân chúng.

      Ngồi trên xe kéo nói lên cho sự giàu có và uy quyền của người Pháp và các gia đình quyền quý người bản xứ nhưng trước đó các tiểu thư khuê các Hà Thành thường ít khi dùng đến xe kéo vì sợ hiểu lầm là… Me Tây. Thời đó, phụ nữ người bản xứ khi lấy người Pháp tại thuộc địa thường bị mỉa mai là “Me Tây” cũng như sau này ở Sài Gòn có một số người bị gán cho “danh hiệu”… “Me Mỹ” khi họ kết hôn với người Mỹ.


      Xe kéo trước khách sạn Metropole (đường Henri Rivière), Hà Nội

      Một hãng cho thuê xe kéo sau đó được thành lập tại Hà Nội. Những chiếc xe kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, chạy không êm nhưng hành khách phải giữ chỗ trước một ngày nếu muốn được thuê. Dần dà, bánh xe kéo được bọc cao su nên khi chạy êm hơn và loại xe bánh sắt chuyển ra các vùng ngoại ô.

      Cuộc cách mạng “bánh xe” đã phân chia thành hai loại khách sử dụng: loại bánh cao su được dành cho giới quan chức thuộc địa và gia đình trong khi loại bánh sắt dành cho giới trung lưu người bản xứ.


      Xe kéo Hà Nội (1900)

      Ngay cả những xe kéo với bánh cao su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của hãng OMIC. Loại nầy có chổ ngồi bằng nhôm trắng bóng và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại nầy thì mắc tiền hơn là đi xe loại thường.

      Hình ảnh về các quan lại, binh lính, chức dịch… thời đại phong kiến dưới triều đại phong kiến qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia người Pháp khi họ đến Đông Dương trong đó có Việt Nam cho thấy một cái nhìn đầy đủ về một thời kỳ đã kéo dài ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.


      Hãng xe kéo Hà Nội

      Chiếc xe kéo được coi là biểu tượng của sự phân biệt giai cấp giữa người lao động phải dùng sức mình để kiếm miếng cơm manh áo và hành khách ngồi phía sau là giới quyền quý, giàu sang. Truyện ngắn Người ngựa – ngựa người của Nguyễn Công Hoan đã nói lên cuộc đời cơ cực của người kéo xe, còn được gọi bằng “cu-li”, giữa khung cảnh đêm 30 Tết.

      Truyện kể anh phu xe đói khách trong đêm giao thừa gặp phải một cô khách tân thời tưởng lắm tiền ai ngờ lại quá keo kiệt, chỉ trả hai hào cho một giờ bao xe. Anh kéo xe giờ cho nên cũng chỉ chạy tà tà, theo cách Nguyễn Công Hoan mô tả: “đít nhổm mạnh, mà bước ngắn”.

      Truyện chỉ có 2 nhân vật và người đọc thoạt đầu cứ tưởng như thuộc hai giai cấp khác nhau nhưng cuối cùng cũng nhận ra họ chỉ là “người ngựa” kéo phía sau là “ngựa người”, một “bà” khách lại là một cô gái “ăn sương” thuê xe kéo để đi kiếm khách trong đêm giao thừa. Đã không có tiền trả anh xe kéo, “bà” khách lại còn mượn anh hai hào để mua gói thuốc lá, bao diêm và cả hạt dưa để cắn!

      Anh phu xe thì hí hửng khi giờ khắc giao thừa đến gần: “Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười bằng trăm năm nay”.


      Xe kéo Hà Nội

      Nguyễn Công Hoan dẫn người đọc đến một đoạn thật hấp dẫn sau khi anh phu xe đã kéo “bà” khách đi khắp phố phường Hà Nội gần 2 giờ đồng hồ trong đêm giao thừa:

      - Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
      - Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
      Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
      - Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.
      - Ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
      - Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
      - Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!
      - Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.


      Xe kéo trên đường Paul Bert, ngày nay là phố Tràng Tiền, Hà Nội (1915)

      Đến cửa một nhà săm, cô ả bảo anh xe kéo ghé vào để hỏi vay tiền. Mệt lử nên trong khi chờ khách vay tiền anh phu xe ngủ gật. Khi pháo giao thừa nổ vang anh mới tỉnh dậy. Vào hỏi thăm anh bồi “săm” mới biết là cô gái đã chuồn mất bằng cổng sau. Và đây là đoạn kết:

      “Anh xe nghiến răng, cau mặt, lủi thủi ra hè, cầm cái đệm quật mạnh vào hòm đánh thình một cái! Anh móc túi lấy bao diêm đốt vía, rồi khoèo bàn chân, co cái càng lên, đưa tay ra đỡ, thủng thẳng dắt xe đi… Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng toạch toạch”.


      Phu xe “đói” khách

      Như đã nói ở phần trên, Sài Gòn xưa vào năm 1898 mới làm quen với xe kéo, khoảng gần 15 năm sau Hà Nội. Lý do cũng dễ hiểu là xứ thuộc địa chính thức của người Pháp có phương tiện di chuyển duy nhất là những chiếc xe do ngựa kéo mà người Pháp gọi là “Malabar” hay “Boîte d’allumettes” (vì xe có dáng dấp như một hộp diêm).

      Một đặc điểm của xe kéo Sài Gòn vào đầu thập niên 1920 là mỗi chiếc đều được cấp phát số xe gồm 4 chữ số để dễ kiểm soát khi lưu thông, trong khi đó, xe kéo Hà Nội không có. Dưới đây là một số hình ảnh về xe kéo tại miền Nam:


      Xe kéo và xe ngựa trước chợ Bến Thành đầu thập niên 1920



      Xe kéo và xe hơi trước “Hôtel de Ville”



      Xe kéo trước Nhà hát Thành phố



      Xe kéo trước Nhà thờ Đức bà



      Xe kéo trên đường Catinat (ngày nay là Đồng Khởi)



      Xe kéo trong Chợ Lớn


      (Còn tiếp)
      Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

      Comment

      • #4

        Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng
        (3): Xe ngựa


        Thời cổ, giới quyền quý Trung Hoa dùng xe do ngựa kéo mỗi khi di chuyển. Thời trung cổ, tại Pháp và một số nước châu Âu giới quý tộc thường đi loại xe do hai ngựa kéo, xe song mã thể hiện đẳng cấp của những người thuộc gia đình quyền quý. Ngày nay các loại xe song mã chỉ còn được dùng trong việc đưa khách du lịch đi ngoạn cảnh.


        Xe song mã phục vụ khách du lịch tại Melbourne, Úc châu

        Tại miền Nam vào những năm 1880 của thế kỷ 18, xe ngựa là phương tiện đi lại bình dân và phổ biến ở vùng Sài Gòn-Gia Định. Đây là loại xe do một ngựa kéo được bắt nguồn từ kiểu cỗ xe song mã sang trọng của Pháp được người dân miền Nam chế tác cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội và địa hình của Việt Nam.

        Trước đó, người Pháp đã đưa xe ngựa vào Đông Dương làm phương tiện vận chuyển hành khách cũng như hàng hóa. Người Pháp gọi xe ngựa ở thuộc địa là “Malabar” và sau này còn có tên “Boîte d’allumettes” vì hình dáng giống như một hộp diêm quẹt.

        Một trong những hình ảnh được coi là xưa nhất của xe ngựa tại Sài Gòn là chiếc xe của Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện (Manifacture d’Opium) được chụp vào khoảng đầu thập niên 1980 (*).

        Có thể thấy dòng chữ bằng tiếng Pháp trên thành xe ghi rõ là xe của nhà máy. Phía bên trái là hình của một người phu xe kéo đứng nhìn chiếc xe ngựa, hình như anh rất ngạc nhiên với hình ảnh một chiếc xe do ngựa kéo được người Pháp đưa vào Đông Dương.


        Xe ngựa trước Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện tại Sài Gòn

        Xe ngựa dưới dạng xe “cải tiến” đơn giản còn được dùng trong hoạt động của quân đội viễn chinh Pháp tại thuộc địa Đông Dương. Loại xe này dùng để chuyên chở quân trang, quân dụng trong lực lượng võ trang của quân đội thuộc địa.


        Xe ngựa dùng trong quân đội thuộc địa

        Loại xe ngựa cầu kỳ hơn được dùng để chuyên chở hành khách là những viên chức thuộc địa và gia đình. Những chiếc xe này mang dáng dấp của loại xe song mã thường thấy tại Âu châu với “xà ích” là người bản xứ.

        Như vậy, ngay trong giới lái xe người bản xứ cũng phân chia nhiều đẳng cấp tùy theo mức độ sang trọng của phương tiện: thấp nhất là phu xe kéo (còn được gọi là cu-li), kế đến là “xà ích” (người điều khiển xe ngựa) và cao nhất là tài xế xe hơi (chaffeur).


        Hình ảnh các phương tiện giao thông trước Nhà thờ Đức Bà vào những năm 1920s

        Đặc điểm của thời kỳ xe ngựa mới du nhập vào Đông Dương là loại song mã hay chỉ có một ngựa kéo. Riêng phần thân xe được đặt trên 4 bánh, hai bánh sau có đường kính lớn hơn hai bánh trước để giữ đối trọng với ngựa chạy phía trước, khác hẳn với xe ngựa do người Việt chế tạo chỉ với hai bánh.


        Xe ngựa tại chợ Bến Thành



        Xe ngựa bên Nhà thờ Đức Bà



        Xe ngựa Sài Gòn khoảng 1930



        Xe ngựa Chợ Lớn


        Chiếc Malabar một ngựa

        Tại miền Bắc, khi đó còn được gọi là Tonkin, người Pháp cũng sử dụng xe ngựa cho các quan chức thuộc địa nhưng số lượng không đáng kể so với miền Nam, còn có tên là Cochinchine.

        Xe song mã tại Hải Phòng

        Trước những loại xe ngựa sang trọng của Pháp, người Việt đã mày mò sáng tạo ra loại xe một ngựa đơn giản và bình dân hơn để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa. Loại xe một ngựa này còn có một cái tên khác là xe thổ mộ.

        Có rất nhiều cách giải thích về xuất xứ về tên gọi xe thổ mộ tại miền Nam. Có người nói thổ mộ vốn có mái che khum khum giống hình ngôi mộ nên người bình dân gọi là… “thổ mộ”. Giải thích mang tính cách ngôn ngữ học cho rằng “thổ mộ” là chữ đọc trại từ “thảo mã” hay “thụ mã” theo tiếng của người Quảng Đông vốn là số đông người Hoa sinh sống tại miền Nam.

        Xe thổ mộ chuyên chở hàng hóa giữa Sài Gòn

        Lại có ý kiến cho rằng “thổ mộ” chính là chữ đọc trại từ Thủ Dầu Một, thuộc tỉnh Bình Dương, nơi được coi là “cái nôi” của của xe thổ mộ. Để dẫn chứng giả thuyết này, người ta dẫn chứng một bài vè cổ về 47 chợ tại miền Nam:

        … Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang,
        Xe thổ mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một
        Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu…

        Vào những thập niên 40 và 50 là giai đọan phát triển của xe thổ mộ. Tại chợ Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ mộ hoạt động nhộn nhịp, có khi lên đến trên 50 chiếc. Không chỉ vậy, Thủ Dầu Một còn có nhiều trại mộc đóng xe thổ mộ có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh xe bền chắc. Xe sản xuất tại Thủ Dầu Một còn được gọi là xe “Thùng Thủ” để phân biệt với các nơi sản xuất khác và cũng để khẳng định “đẳng cấp” của mình.


        Xe thổ mộ nhìn từ phía sau

        Để làm một chiếc xe thổ mộ đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe chứ không đơn giản như người ta tưởng. Kích thước về chiều dài, chiều rộng, chiều cao của thùng xe phải cân bằng khi di chuyển trên mọi địa thế. Thùng xe được đặt trên hai thanh nhíp gồm 4 lá thép để giảm độ sóc khi xe chạy trên đường. Nói chung, từng chi tiết của xe phải chính xác để tạo sự an toàn khi chuyển động.

        Gỗ làm xe thổ mộ phải là loại tốt như Giáng Hương, Căm Xe, gỗ mít… không bị mối mọt. Quan trọng nhất là cặp bánh xe vì là phần chịu tải chính nên được làm rất cẩn thận, trục ngang của xe bằng ống thép chịu lực cho thùng xe nhưng lại không dùng bạc đạn mà chỉ có ổ trục.

        Mỗi bánh xe được ghép từ sáu mảnh gỗ gắn với 12 chiếc căm cắm vào trục bánh xe. Sau đó, một vòng sắt quấn quanh bánh xe để bảo vệ phần gỗ và cuối cùng một lớp nệm cao su được nịt chặt ở vòng ngoài.


        Xe thổ mộ trên đường phố

        Thùng xe được thiết kế thoáng mát, tạo sự thoải mái cho hành khách nhưng có vẻ hơi cao so với mặt đường trong khi chỉ có một miếng sắt để khách lên xuống xe. Đây cũng là điểm yếu của xe thổ mộ nhưng một số người lại thích ngồi vắt vẻo trên xe với hai chân đong đưa để ngắm nhìn đường phố.

        Bên trong thùng xe, khách ngồi trên chiếu đâu mặt nhau, guốc dép máng ở hai cọc sắt phía sau hai góc thùng. Nếu vắng thì khách ngồi thòng chân ở phía có bàn đạp lên, xuống. Hai vè bên thùng xe uốn gợn sóng có thể dùng để gác hàng hóa. Và trên cùng là cái mui uốn cong, lợp thiếc, nhô ra tới nửa mình ngựa, khum lại giống như mui chiếc ghe bầu nhưng cũng trông tựa một cái… mả nên nới gọi là thổ mộ (?).


        Ngựa, xà ích và hành khách


        Âm thanh của chiếc thổ mộ với những tiếng kêu “lóc cóc, lọc cọc” phát ra từ móng ngựa được bọc sắt tiếp xúc với mặt đường nhựa cũng trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ người miền Nam. Có nhiều xe còn gắn lục lạc cho ngựa nên khi chạy trên đường tiếng lục lạc hòa lẫn tiếng lọc cọc, cộng với tiếng “họ, họ” điều khiển ngựa của người xà ích tạo thành một bản nhạc đặc thù của xe ngựa Sài Gòn xưa.

        Về sau, có dòng xe thổ mộ “văn minh” hơn, được cải tiến từ bánh xe gỗ sang bánh xe bằng cao su bơm hơi với đường kính nhỏ hơn và do đó thùng xe cũng thấp hơn. Loại xe này giúp hành khách lên xuống thoải mái, an toàn. Khi chạy trên đường, lốp xe cao su êm hơn nhưng ngược lại, “tiếng nhạc” thổ mộ vốn có mất dần đi khiến những người “hoài cổ” không tìm lại được cái thú của ngày nào.


        Dòng xe thổ mộ có bánh xe cao su


        Ngựa kéo xe thổ mộ thường là những con ngựa đua đã có tuổi, không còn đủ sức vẫy vùng trên đường đua nhưng vẫn còn có thể di chuyển giữa lòng đường phố nhộn nhịp xe cộ. Bộ yên lưng bằng da có hai quai lồng vào hai càng xe đặt hai bên vai ngựa. Sợi yên lưng còn lồng vào đuôi ngựa để khi xuống dốc có tác dụng kềm ngựa. Lại còn có dây bụng nâng ngực ngựa khi xe chạy. Người xà ích đôi khi xếp khách ngồi dịch lên hoặc lùi xuống là để cho ngựa không bị sức nặng đè vai hoặc bó chặt ngực khó chạy.

        Đọc truyện Chiếc xe thổ mộ của Bích Thủy ta mới thấy sự gắn bó thân thương giữa người xà ích và con ngựa kéo xe:

        “Bộ giây cương treo trước tầu ngựa đã lên nước bóng láng. Gần đó, phía bên trái, chiếc xe thổ mộ cũng đã đuợc lau chùi cẩn thận nằm dưới bóng râm mát của cây trứng cá. Chỉ còn có con Long mã nữa là xong. Long mã là tên của con ngựa. Nó cũng cần tắm rửa sạch sẽ.

        Bình mỉm cười khi nghĩ đến con ngựa. Nó đứng trong tầu, khuất sau mấy gióng gỗ, mớ lông đuôi nhịp nhàng phe phẩy. Bình nói với nó:
        - Chờ một lát nữa nghe !

        Long mã quay đầu lại hí nhẹ một tiếng, rồi vục mõm vào đống cỏ tươi trong góc chuồng.”



        Con Long mã già rồi. Nó đã 28 tuổi ngựa! Tuy vậy nó vẫn còn giữ được phong độ của loài ngựa đua: Cao, thon, bộ da nâu sậm đã hơi nhăn vì các thăn thịt không còn săn sái như hồi còn sung sức. Nhưng bộ gió nó vẫn còn, nhất là đôi mắt vẫn còn giữ nguyên vẻ tinh nhanh”.

        Nhân vật Bình ở đoạn trích dẫn mới chỉ là cháu nội của cụ Lâm, người xà ích sống ở Ngã ba Ông Tạ, ngày ngày chạy xe thổ mộ đón khách dọc theo đường Lê Văn Duyệt đến chợ Hòa Hưng, chợ Chí Hòa, ga Hòa Hưng... Hồi còn trẻ, cụ Lâm là một tay đua “tuyệt phích”. Về già, hai ông cháu thui thủi sống bên nhau, lấy chiếc xe thổ mộ làm kế sinh nhai.

        Long Mã đã từng đoạt giải Quốc Khánh 1957, giải Mùa Xuân 1957 và giải Trung Thu 1958 tại trường đua Phú Thọ: “Con Long mã nom thật oai vệ. Bộ lông của nó đã được Bình chải chuốt, óng đỏ dưới ánh nắng dịu. Trên đầu của nó được trang điểm thêm một chùm lông trĩ đứng ngộ nghĩnh giữa hai chiếc tai vểnh nhọn, nom như chiếc mão của một võ tướng thời xưa!”

        Hai ông cháu sống vào thời kỳ suy tàn của xe thổ mộ trước sự ra đời ồ ạt của xe xích lô, nhất là cyclo máy, đang đánh dạt xe thổ mộ ra vùng ngoại ô. Và cuộc chiến thầm lặng giữa thổ mộ và cyclo đang đi dần đến hồi kết cuộc.


        Chiếc xe thổ mộ

        Không chỉ tập trung tại Sài Gòn, xe thổ mộ còn lan tỏa ra các tỉnh phía Nam nhằm đáp ứng việc đi lại trong vùng, mua sắm, thăm viếng, cưới hỏi… người ta đều chọn xe ngựa vì tính tiện lợi và rẻ tiền của nó. Người ta có thể lên và xuống xe tại bất cứ chỗ nào nên xe thổ mộ gắn bó mật thiết với người bình dân. Đây cũng là nét văn hóa và lịch sử của miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng.

        Một chút buồn thoáng qua khi hình dung đến hình ảnh chiếc xe thổ mộ ngày xưa. Một nỗi buồn không tên vẫn thường đến với những người mang nỗi lòng hoài cổ:

        …Tôi không còn là tôi. Tôi trở thành ai đó
        Những cuộc tình như trưa nắng lao xao
        Xe thổ mộ ngỡ ngàng quanh chợ huyện
        Chở tôi về nhưng tôi biết về đâu?...
        (thơ Lê Minh Quốc)


        Bến xe ngựa ở Tây Ninh


        (Còn tiếp)

        ***

        Chú thích:

        (*) Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện (Manufacture d’Opuim): Từ khi chiếm được Đông Dương, người Pháp đã biết đến một nguồn lợi tài chính họ có thể thu được từ thuốc phiện mà sự tiêu thụ đã lan tràn khắp nơi trong dân chúng.

        Năm 1861, hai người Pháp đã được dành cho độc quyền buôn bán thuốc phiện, với một khoản lệ phí nộp cho chính quyền mỗi năm là 92.000$, nhưng mặc dù được hưởng những ưu đãi, việc kinh doanh của họ đã gặp nhiều trở ngại.

        Đến năm 1864 và sau đó, bằng phương thức đấu thầu do chính quyền thuộc địa tổ chức 3 năm một lần, độc quyền buôn bán thuốc phiện đã luôn về tay những người Trung Hoa, ban đầu thuộc bang Quảng Tây rồi sau đó là Phúc Kiến. Do sự câu kết thông đồng của những người Hoa tham dự thầu, số tiền thu về cho chính quyền qua các kỳ đấu thầu mãi không tăng thêm được bao nhiêu, dù việc buôn bán thuốc phiện của họ ngày càng mở rộng và phát triển.

        Năm 1881, Toàn Quyền Le Myre de Vilers quyết định thay thế việc nhượng quyền buôn bán thuốc phiện bằng việc quản lý trực tiếp của chính quyền thuộc địa. Thật ra, vị toàn quyền này biết rằng nếu nằm trong tay người Trung Hoa, việc buôn bán thuốc phiện chẳng khác nào một võ khí nguy hiểm cho nền an ninh và quyền lợi của người Pháp.

        Đến cuối năm 1881, Cơ quan Thuế Trực thu được thành lập để bảo đảm việc khai thác độc quyền về rượu và thuốc phiện, và cũng để tiếp tục theo đuổi việc thu thuế đánh vào lúa gạo xuất khẩu. Chính vào thời kỳ này mà Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện được thành lập ở Sài Gòn tại số 74 đường Paul Blanchy (ngày nay là đường Hai Bà Trưng).



        Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

        Comment

        • #5

          Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng
          (4): Xe Cyclo




          “Xích-lô”, suất xứ từ tiếng Pháp “cyclo”, là một phương tiện giao thông sử dụng sức người, di chuyển trên 3 bánh dùng để chở khách hoặc hàng hóa. Người lái xe cũng vận hành cyclo như một chiếc xe đạp nên còn được gọi là “xích-lô đạp” và sau này được cải tiến với động cơ xe gắn máy để thành “xích-lô máy”.

          Cũng áp dụng cách vận hành tương tự như cyclo, còn có xe ba gác với thùng xe đặt ở phía trước để chở đồ đạc cồng kềnh và sau này xe ba gác lại được cải tiến thành xe ba gác máy với động cơ của xe gắn náy.

          Ngược lại với cyclo, ở miền Tây, hay còn gọi là Lục Tỉnh, có loại xe đạp kéo thùng chở khách đằng sau được gọi là xe lôi, rất phổ biến ở các tỉnh miền đồng bằng sông Cửu Long. Dần dà người ta lại dùng xe máy để kéo, cũng tương tự như người anh em là chiếc cyclo máy.


          Xe lôi miền Tây

          Chiếc cyclo đầu tiên xuất hiện tại Sài Gòn năm 1938 nhưng mẫu thiết kế lại không do người Việt vẽ kiểu mà lại là “tác phẩm” của một người Pháp. Lịch sử chiếc cyclo lại còn ly kỳ hơn, chiếc cyclo đầu tiên chính thức được nhà cầm quyền bảo hộ cấp phép lưu hành không phải là ở Sài Gòn mà là Phnom Penh, thủ đô của xứ Chùa Tháp trong Đông Dương thuộc Pháp gồm Việt Nam, Cao Miên và Lào.


          Cyclo Phnom Penh năm 1938

          Xích lô xuất hiện vào khoảng năm 1938 tại Phnom Penh. Chiếc đầu tiên do một người Pháp, dân miền Charente tên là Coupeaud, một người đam mê thể thao vẽ kiểu. Phải vất vả lắm Coupeaud mới vận động Bộ Công chánh công nhận sáng chế và cấp phép lưu hành, sau khi đã tham khảo ý kiến của hai nhà vô địch Tour de France là Georges Speicher và Le Grèves.

          Để “tiếp thị” chiếc xe chở khách chạy bằng 3 bánh và người lái ngồi phía sau xe, Coupeaud đã tổ chức một cuộc hành trình “giới thiệu sản phẩm” dài gần 200km từ Phnom Penh đến Sài Gòn do hai người thay phiên nhau đạp xe trong thời gian 17 giờ 23 phút!

          Và cyclo đã chinh phục Sài Gòn xưa với 40 chiếc vào năm 1939, nhưng chỉ một năm sau, năm 1940, Sài Gòn đã có khoảng 200 chiếc cyclo chạy trên đường phố.


          Cyclo Saigon 1950

          Nhìn khái quát, cyclo là sự kết hợp và gắn nối của các ống sắt đủ loại, đủ kích cỡ, từ thanh bảo vệ hành khách ở phía trước đến phần ngồi của người điều khiển phía sau. Hai phần này được nối với nhau bằng một trục nằm dưới gầm xe, phía dưới chỗ ngồi của khách, có tác dụng giúp người lái xe có thể quẹo phải, trái hay đi thẳng về phía trước.

          Phần yên xe của người điều khiển cũng là một kết cấu đơn giản với thắng tay nằm ngay phía dưới qua hình thức một chiếc vòng sắt hoặc một thanh ngang để người lái có thể kéo lên mỗi khi muốn giảm tốc độ hoặc dừng xe.


          Thắng tay nằm ở ngay dưới chỗ ngồi của người điều khiến

          Lái cyclo không phải dễ như mọi người tưởng. Yên xe rất cao nên những người “thiếu thước tấc” rất khó “leo” lên, đó là chưa kể khi leo được lên yên chưa chắc đã đạp được hết vòng nếu chân quá ngắn.

          Phần sau của xe được nối với thùng xe bằng một trục thẳng đứng nên khi cua ngặt sẽ khiến xe mất thăng bằng, dễ bị lật. Tuy nhiên, tôi đã có lần được chứng kiến “cao thủ” cyclo biểu diễn chạy xe bằng… 2 bánh. Có nghĩa là nghiêng hẳn một bên xe, và dĩ nhiên là trên xe không có khách.


          Cyclo trước Tòa Đô Chánh
          (Hình do R. Cauchetier chụp năm 1955)

          Khi khách bước lên hoặc xuống xe, người điều khiển phải kềm phần sau vì nếu khách thuộc loại “nặng ký” sẽ khiến đuôi xe chống ngược. Lại nữa, người lái cyclo phải là tay giỏi… “thương lượng” vì khách trước khi lên xe bao giờ cũng kỳ kèo mặc cả. Tùy hoàn cảnh, người lái xe có thể chấp nhận cái giá mà khách trả hay xách xe không kiếm mối khác!

          Chân dung người đạp xích lô cũng muôn hình vạn trạng. Đó có thể là người trên đầu đội chiếc nón lá, quần ống thấp ống cao, lep kẹp đôi dép lộ rõ mười ngón chân cáu bẩn. Buổi trưa nắng gắt bác cyclo tìm một chỗ dưới gốc cây, đánh một giấc ngay trên xe để lấy sức tiếp tục rong ruổi trên đường phố kiếm cơm.


          Giấc ngủ trưa của người đạp cyclo

          Có sự phân biệt rõ ràng giữa cyclo Sài Gòn và cyclo Hà Nội. Trong khi cyclo Sài Gòn chỉ ngồi được một người (nếu cần có thể “nhét” thêm một khách nữa) thì cyclo Hà Nội có thể chở được hai người ngồi một cách thoải mái.


          Cyclo Sài Gòn là phương tiện chuyên chở bình dân nên trông cũ kỹ với mui xe, hai bên hông và phía trước được che bằng vải bạt khi trời mưa… trong khi cyclo Hà Nội sinh sau đẻ muộn nên được o bế một cách diêm dúa, mui xe làm như cái lọng của vua chúa… thường được dùng để phục vụ khách du lịch.


          Cyclo Hà Nội

          Theo sự tiến bộ của khoa học, chiếc cyclo máy được ra đời vào đầu thập niên 1960. Những người đến Sài Gòn lần đầu tiên đều rất thích thú được ngồi trên phương tiện chuyên chở độc đáo này để ngắm nhìn đường phố. Cyclo máy chạy nhanh hơn cyclo đạp và người điều khiển thường là những thanh niên khỏe mạnh trong khi cyclo đạp thường do những người nhiều tuổi hơn điều khiển.

          Cyclo máy được lắp ráp ngay tại miền Nam, với những phụ tùng, linh kiện nhập cảng từ Pháp: động cơ cuả hãng xe mô tô Peugeot, loại 125 phân khối, dùng xăng pha nhớt. Đây là loại động cơ 2 thì nên khi nổ máy khói phun mịt mù, tiếng máy của xe cũng thuộc loại gây “ô nhiễm tiếng ồn”.


          Cyclo máy Sài Gòn

          Cyclo máy ra đời vào thời kỳ chiến tranh leo thang với sự xuất hiện của quân đội đồng minh, nhất là lính Mỹ rất thích phương tiện chuyên chở này. Có người nước ngoài còn nói đi cyclo máy Sài Gòn còn thú vị hơn ngồi xe hơi mui trần “convertible”.

          Một anh lính Mỹ viết thư về nhà mô tả chiếc cyclo máy, đại khái như “một con quái vật há mồm, hùng hổ trên đường”… “ngồi cyclo máy tựa như phi thuyền phóng lên mặt trăng”… Tuy nhiên, họ cũng nhìn thấy sự nguy hiểm rình rập khi ngồi trên chiếc cyclo máy chạy nhanh, nếu tai nạn xảy ra, hành khách là người bị nặng nhất còn người lái xe ngồi ở mãi phía sau.


          Lính Mỹ trên chiếc cyclo máy

          Chiếc xích-lô cũng đã đi vào điện ảnh với phim Cyclo của đạo diễn người Pháp gốc Việt Trần Anh Hùng qua sự hợp tác của hãng phim Giải Phóng và Salom Films Studio của Hồng Kông. Phim lấy bối cảnh là Sài Gòn xưa, ngoài dàn diễn viên người Việt còn có sự tham gia của ngôi sao điện ảnh Hồng Kông Lương Triều Vĩ.

          Phim đã đoạt giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venise năm 1995 nhưng lại bị cấm chiếu tại Việt Nam. Thời điểm đó, việc phim bị cấm đã gây nên nhiều phản ứng trong nội bộ giới chuyên môn điện ảnh. Đến nay, không ít người cho trong giới cho rằng trường hợp phim Cyclo là "án oan" đối với một tài năng điện ảnh như Trần Anh Hùng.

          Nhân vật chính của phim là Xích Lô do Lê Văn Lộc đóng. Anh vốn là một tay lơ xe ở Quảng Ngãi được đạo diễn Trần Anh Hùng vô tình phát hiện. Say phim này, Lộc cho biết anh sẽ đem tiền về quê học nghề lái xe, chứ không dám đóng phim nữa.

          Trong phim, nhân vật chính là Xích Lô, một thanh niên chất phác, mồ côi cha mẹ, anh làm nghề lái cyclo kiếm sống tại Sài Gòn. Xích Lô ở trong một căn hộ rách nát với gia đình gồm chị (Trần Nữ Yên Khê), một người em gái đang đi học và ông nội làm nghề vá xe đạp trên phố.

          Một hôm, trong lúc đi tiểu tiện ngoài vỉa hè, chiếc xích lô mà Xích Lô mượn của bà Buồn (Như Quỳnh) bị cướp. Trong lúc bế tắc vì nợ nần, anh chấp nhận đi theo băng đảng của bà Buồn và tay tình nhân của bà ta (Lương triều Vĩ) cướp của trả nợ.

          Theo băng đảng, Xích Lô phạm nhiều tội ác ghê gớm: cướp của, giết người... Từ đó anh phải sống trong sự dằn vặt và sợ hãi, nhiều lần tính chuyện rút chân khỏi băng đảng nhưng đều thất bại.

          Cầm đầu băng đảng này là Nhà Thơ (Lương Triều Vĩ đóng), y là một kẻ gian ác đồng thời là một nhà thơ, là người yêu của chị gái Xích Lô. Y cũng là người dụ dỗ chị gái Xích Lô trở thành gái mại dâm, phục vụ cho nhiều nhân vật bệnh hoạn: một lão già thích xem đàn bà đái (Mạc Can đóng), 1 lão thích sơn móng chân cho đàn bà, 1 thanh niên thích còng tay đàn bà (Lê Tuấn Anh đóng)...

          Đêm 30 Tết, trong khi cả thành phố đang nhộn nhịp đón giao thừa, thằng Điên, đứa con trai bị thiểu năng trí tuệ của bà Buồn bị xe cán chết, đồng thời Nhà Thơ cũng tự thiêu với một tâm lý đầy mâu thuẫn. Xích Lô thì dùng súng tự bắn vào mình trong cơn say ma túy.


          “Siêu” cyclo

          Sau đêm giao thừa, mọi việc trở lại trật tự của nó. Xích Lô khi tỉnh dậy, rời khỏi băng đảng, bà Buồn mất con gần như hóa điên. Anh về với nghề đạp xích lô. Người chị trong lúc đi chùa đã bị mất di ảnh cuối cùng của Nhà Thơ, cũng trở về nhịp sống cũ. Đoạn cuối phim Xích Lô có nhắc đến con mèo, nói rằng: "nó còn đẹp hơn trước lúc nó đi lạc". Phim kết thúc trong bản hợp tấu đàn manđôlin của một lớp tiểu học: Rửa mặt như mèo.

          Do Trần Anh Hùng không rành tiếng Việt nên ông đã mời nhà thơ Nguyễn Trung Bình hợp tác trong việc viết lời thoại phim. Nhà thơ này cũng là người sáng tác 3 bài thơ cho Nhà Thơ đọc trong những phút ngẫu hứng. Phần nhạc trong phim do nhạc sĩ Tôn Thất Tiết phụ trách, ông Tiết cũng là người làm nhạc cho Mùi đu đủ xanh. Với phim này ông đã được trao giải thưởng George Delerue 1995 về nhạc phim hay nhất.

          Cũng cần nói thêm, phim có sử dụng một số bài hát xưa như Nắng chiều (Lê Trọng Nguyễn, do 2 người cụt chân hát trong quán nhậu), Ru con (dân ca), tên cướp hát trong căn phòng tối trước khi tử hình kẻ thù, Thằng Bờm (dân ca, do bà Buồn hát ru thằng Điên), Làng tôi (Văn Cao, do cô gái điếm), Bắc Kim Thang (dân ca, do học sinh lớp tiểu học hát) và Em ơi Hà Nội phố (Phú Quang, do ca sĩ Thanh Lam hát trong quán nước).


          Poster phim “Cyclo”

          Báo chí cũng có lần đưa tin “giật gân”: Tổng thống Obama bị ngã cyclo trên đường phố Yogyakarta, Indonesia. Vụ tai nạn đã làm cho Tổng thống bị gãy chân trái và tay phải… Nhưng thật may mắn cho nước Mỹ, đấy không phải là tổng thống thật mà chỉ là bức tượng Barack Obama được làm từ sợi thủy tinh. Bức tượng là tác phẩm của nghệ sĩ Wilman Syahnur sáng tác cho liên hoan văn hóa nghệ thuật Biennale Jogja lần thứ 10 tại thành phố Yogyakarta.

          Trên đường đưa bức tượng từ Công viên Văn hóa Yogyakarta đến bảo tàng Quốc gia Jogja bằng xe xích lô, Wilman đã chở bức tượng đi dạo một vòng trên khu phố mà Obama đã sống thời niên thiếu để "ông" chào mọi người.

          Theo mạng okezone.com, tai nạn xảy ra khi chiếc xích lô đã bị lật nhào và bức tượng tổng thống Mỹ đã bị rơi xuống đường. Tuy "ngài tổng thống" bị thương nặng như vậy nhưng Wilman cho biết anh sẽ cố “điều trị” lành lặn mọi vết thương cho "Obama” chỉ trong vòng 1-2 ngày.


          Hình chụp bức tượng Obama bị lật xe cyclo
          trên đường phố Yogyakarta, Indonesia


          (Còn tiếp)
          Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

          Comment

          • #6

            Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng

            (5): Xe Lam

            Đây là bài thứ năm trong loạt bài viết về những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng. Theo thứ tự thời gian, chúng ta đã lần lượt điểm qua các loại vận chuyển từ kiệu, võng, xe kéo của thời phong kiến đến xe ngựa, xe cyclo dập dìu trên đường phố Sài Gòn xưa.

            Sang đến thời kỳ “văn minh xe máy”, ban đầu Sài Gòn xuất hiện cyclo máy với 2 bánh phía trước và một bánh phía sau rồi dần dà chuyển sang loại xe ba bánh ngược lại với cyclo và cyclo máy, một bánh trước và hai bánh sau, được gọi là xe lam.

            Xe lam là loại xe chuyên chở công cộng phổ biến được du nhập Sài Gòn và các tỉnh miền Nam vào thập niên 1960 để đáp ứng nhu cầu đi lại của giới bình dân. Đây là loại xe có cấu trúc tương tự như xe “tuktuk” hiện còn đang được sử dụng tại các nước như Thái Lan, Ấn Độ, Bangladesh… Người ta giải thích cái tên “tuktuk” là do tiếng nổ của động cơ khi chạy trên đường.


            Xe Tuktuk tại Thái Lan



            Tại miền Nam, thuật ngữ “xe lam” có xuất xứ từ Lambretta và Lambro là nhãn hiệu xe của nhà sản xuất Innocenti do Ferdinando Innocenti sáng lập tại Ý từ năm 1920. Ngoài xe hơi, Innocenti còn sản xuất loại xe hai bánh mang nhãn hiệu Lambretta trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1971. Năm 1996 Innocenti nhập vào hãng xe Fiat và chấm dứt các dòng sản phẩm riêng.


            Lambretta và Vespa trên đường phố Sài Gòn
            Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

            Comment

            • #7

              Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng

              (5): Xe Lam

              Ngoài xe 2 bánh Lambretta, Innocenti còn sản xuất động cơ cho loại xe 3 bánh như ta thấy xuất hiện trên đường phố Sài Gòn xưa. Đó là các dòng xe Lambretta FD với dung tích xy lanh 123 hoặc 150 cc và FLI cải tiến với 175 cc, sau đó là Lambro 200, Lambro 550 đều có dung tích 198 cc.



              Bến xe lam tại Quảng Lợi, Bình Long





              Xe Lambro 550 tại chợ Bến Thành


              Hãng Vespa cũng sản xuất loại xe 3 bánh và Sài Gòn đã nhập một số xe Vespa 3 bánh có hình dáng và cấu trúc giống Lambretta và Lambro. Với số lượng ít ỏi hơn, Vespa 3 bánh cũng được gọi chung là xe lam. Chúng tôi sưu tầm được một tấm hình xe Vespa 3 bánh thuộc loại “cổ lỗ sĩ” nằm trong một tiệm chuyên sửa và sơn xe… Lambretta:



              Xe Vespa 3 bánh


              Vespa là thương hiệu nổi tiếng của hãng Piaggio, Ý, được ra đời từ sau Thế chiến thứ hai với của dòng sản phẩm xe gắn máy yên thấp, bánh nhỏ còn gọi là xe scooter. Rinaldo Piaggio (1864-1938) thành lập Công ty Piaggio tại Genoa năm 1884 với chức năng ban đầu chuyên sản xuất các trang thiết bị cho tàu thuỷ, tàu hỏa và máy bay.

              Đến năm 1946, những chiếc xe scooter đầu tiên mang nhãn hiệu Vespa được thiết kế bởi kỹ sư Corradino D’Ascanio, ông tạo kiểu dáng khung xe vuốt tròn và tiếng máy nổ khác biệt: "Sembra una vespa!" (Nó cứ như con ong ấy). Vespa tiếng Ý là con ong và thương hiệu Vespa ra đời từ đó.

              Vespa ba bánh sử dụng động cơ của xe scooter Vespa có dung tích lớn hơn và Sài Gòn có thêm xe lam mang nhãn hiệu Vespa bên cạnh xe Lambretta và Lambro.


              Vespa 3 bánh thời hoàng kim

              Các dòng xe lam lần lượt được nhập vào miền Nam để thay thế xe thổ mộ, hay còn gọi là xe ngựa. Đặc biệt loại xe lam khi nhập không ở dạng “đóng thùng”, việc đóng thùng xe được thực hiện tại Sài Gòn. Theo thống kê, trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có gần một nửa (khoảng 17.000 chiếc) được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.

              Khoảng những năm 1966-1967, chính phủ VNCH đã tiến hành một chương trình mang tên "Hữu sản hoá" nhằm cung cấp phương tiện hành nghề chuyên chở công cộng cho những lao động cần việc làm và cũng để cải thiện đời sống giới thợ thuyền, phát triển hạ tầng cơ sở vận tải ... Và đó là cơ hội để xe lam thâm nhập vào thị trường miền Nam.

              Ngoài việc “hữu sản hóa” xe taxi sơn màu vàng trên mui và xanh dưới thân, một số người thuộc giới tài xế xe lam cũng là những đối tượng của chương trình hữu sản hóa, trong số đó có không ít người từ xà ích xe ngựa trở thành tài xế xe lam. Họ ký kết những hợp đồng trả góp để có thể làm chủ một chiếc xe lam ngày ngày chạy trên đường phố kiếm cơm.


              (Bài sưu tầm còn tiếp)
              Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

              Comment

              • #8

                Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng
                tại Việt Nam

                Nguyễn Ngọc Chính

                (5): Xe Lam (tiếp theo)



                Xe lam và xe taxi trên đường phố Sài Gòn

                Giá chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng vàng hồi đó còn rẻ chứ không “leo thang” như ngày nay. Có tài xế xe lam còn khoe: "Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết”. Nói vậy có lẽ hơi quá, nghề nào cũng có những gian nan, khổ cực của nó, nhưng câu nói đó cho thấy nghề tài xe lam thời hoàng kim là một trong những nghề “hot”…

                Đặc điểm của xe lam là tính “cơ động”, hành khách có thể lên xuống xe tại bất cứ chỗ nào dọc theo tuyến mà không cần trạm lên xuống như xe buýt. Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh leo thang, xe lam cũng là phương tiện “chạy giặc” hữu hiệu vì gọn nhẹ lại chở được nhiều đồ đạc như bức hình dưới đây:


                Xe lam “chạy giặc”

                Sau biến cố 30/4/1975 xe lam vẫn tiếp tục tồn tại trong khi taxi phải mất nhiều năm mới khôi phục vào thời kỳ Đổi Mới với những chiếc taxi sơn màu vàng mang thương hiệu Vinataxi, một liên doanh với Hồng Kông. Xe lam trong thời kỳ này được dùng làm phương tiện đi lại phổ biến, rẻ tiền và dĩ nhiên vẫn giữ được “thời vàng son” của nó.

                Lúc đó, chỉ riêng thị xã Biên Hòa, có 6 hợp tác xã xe lam với khoảng 1.000 đầu xe đăng ký chở khách chính thức, với hàng triệu lượt khách mỗi năm. Cũng vì thế mà có thời Biên Hòa được ví như là “thủ phủ xe lam”. Sau này, những chiếc xe lam đã “có tuổi” nhưng vẫn được đem ra miền Bắc để giải bài toán giao thông ngày càng phức tạp tại các đô thị lớn.

                (Bài sưu tầm còn tiếp)
                Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

                Comment

                • #9

                  Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng
                  tại Việt Nam

                  Nguyễn Ngọc Chính

                  (5): Xe Lam (tiếp theo và hết)



                  Xe Lam đậu cạnh "người anh em" Lambretta sau năm 1975


                  Xe lam là loại xe có một cabin phía trước dành cho tài xế và một thùng xe có thể chở hành khách và hàng hóa. Khách ngồi trên băng ghế dài, dọc theo hai bên thùng xe với sức chứa trên 10 người, đó là chưa kể trường hợp đặc biệt, 2 người khách nữa có thể ngồi 2 bên tài xế trong khoang lái!

                  Động cơ xe nằm ngay dưới yên dành cho tài xế. Khi xe chết máy, bác tài phải nhảy xuống đường, giở yên xe lên, chùi lại bu-gi, dùng một sợi dây thừng kéo cho máy nổ hoặc dùng bàn đạp khởi động lại máy xe.

                  Gặp khi đông khách, bác tài cũng sẵn sàng ngồi thu gọn lại ngay giữa yên để có thêm chỗ cho hai khách ngồi ké vào hai bên. Chuyện kể một chuyến xe đang chạy ngon trớn bỗng động cơ xe ngừng hoạt động. Bác tài nói với 2 bà ngồi hai bên: “Hai bà làm ơn xuống xe cho tôi đạp máy”.

                  Vốn là người miền Nam nên bác tài phát âm “đạp máy” nghe như “đạp mái” khiến một bà lên tiếng: “Cái ông này ‘dê đạo lộ’. Xe chết máy không lo sửa mà lại còn đòi… đạp mái. Vô duyên!”


                  Chuyến xe… bão táp

                  Bên trong xe lam là cả một kho truyện tình cảm “lâm li bi đát” nhưng cũng có khi là những chuyện “trời ơi đất hỡi” đáng ghi nhớ. Những chuyến xe đông người có thể trà trộn khách thuộc loại có “bàn tay nhám” hay “diệu thủ thơ sinh” chuyên nghề móc túi. Lại còn có những “bóng hồng” hành nghề “bỏ bùa mê” để trộm cắp tài sản của khách trên xe.

                  Hành khách ngồi “chen vai thích cánh” trên xe cũng dễ nảy sinh tình cảm bất ngờ nhưng lại cũng dễ xảy ra.. tai họa. Có trường hợp chàng trai bị cô gái “hớp hồn” trên xe lam nhưng khi xuống xe cái bóp đã… “không cánh mà bay”.

                  Cũng có thể là một chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái đi chung một chuyến xe lam như nhà thơ Trần Thanh kể lại trong bài Trên chuyến xe lam:

                  “Tôi vẫn nhớ mùa thu năm ấy
                  Tôi quen nàng trên chuyến xe lam
                  Nàng nhìn tôi đôi mắt mơ màng
                  Tôi bẽn lẽn nhìn sang không nói…

                  “Ông vua nhạc sến” Vinh Sử có bài Chuyến xe lam chiều với những ca từ rất bình dân kể lại một mối tình của đôi trai gái quen nhau trên một chuyến xe lam. Mối tình sau này tan vỡ không phải vì nàng bỏ đi lấy chồng mà là chàng “tham phú phụ bần” lấy con gái nhà giàu:

                  “Trên chuyến xe lam đông người chiều nao
                  Xui mình không quen mà ngồi bên nhau
                  Trời mang nhiều trớ trêu chi
                  Người chưa hề biết quen gì
                  Sao ngồi gần như tình nhân si…

                  ….

                  Ngờ đâu yêu đương như đám lục bình
                  Trôi theo con nước vô tình
                  Anh lấy vợ người ta giàu có
                  Tình em như cát dã tràng biển đông
                  Em muốn tìm chồng cho xong
                  Nhưng ngại thêm gặp kẻ bạc lòng…


                  Xe lam chở nữ sinh

                  Một thời đã qua kéo theo nhiều kỷ niệm từ các phương tiện di chuyển công cộng tại Sài Gòn xưa. Loạt bài viết này chỉ mới ghi lại một phần nhỏ trong những sinh hoạt hàng ngày khi đi lại. Có lẽ những thế hệ trẻ ngày nay không ngờ lớp cha, ông đã trải qua nhiều thời kỳ lý thú đến như vậy. Biết đâu chừng con cháu lại thấy cha ông mình sao… khổ quá!

                  ***

                  Chú thích:

                  -Video clip Chuyến xe Lam chiều, Nhạc Vinh Sử, Ca sĩ Phi Nhung:

                  Tristesse/Ngườiđitìmmộng/NhớNhaTrang

                  Comment

                  Working...
                  X
                  Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom