• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Luân Hoán người kể chuyện bằng thơ

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Luân Hoán người kể chuyện bằng thơ


    Luân Hoán, người kể chuyện bằng thơ



    Tôi có hai ông bạn, là thông gia của nhau. Một ông nguyên là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa và ông là cựu bộ đội. Cả hai cùng cư ngụ gần thành phố Frankfurt/M. Có chung đến nửa tiểu đội cháu, sắp lấy chồng, lấy vợ đến nơi rồi, ấy vậy, hễ ngồi cùng bàn là hai ông chọc ngoáy, cãi cọ nhau. Kỳ nghỉ hè vừa rồi, tôi đi Wien vòng sang Paris, lúc về, tạt qua thăm cả hai ông. Trong bàn nhậu, tôi ngồi giữa, thế mà hai ông vẫn tranh luận, xỉa xói khá căng thẳng. Ông nào cũng cho, các nhà thơ, nhà văn khoác áo lính của (phe) mình là nhất. Dường như, thấy nguy cơ bát đĩa chuẩn bị bay, hai bà vợ hết cười lườm rồi lại quát, nhưng hai ông cứ khoa tay, múa chân đều đều. Có lẽ quen nhờn như vậy rồi, nên hai bà thở dài. Tôi phải ấn vai hai ông xuống, đùa giảng hòa: Em có hai người lính, nhà thơ, dù ở hai chiến tuyến khác nhau, nhưng có nhiều điều giống nhau đến kỳ lạ. Hai ông này, đại diện cho hai bác, có lẽ, bất phân thắng bại về tài năng cũng như nhân cách, nếu đem ra tỉ thí. Ngoài ra, dám tử vì thơ trong thời bèo cám này, có lẽ, chỉ còn sót lại hai ông thi sỹ này.

    Hai ông bạn tôi nhao lên, sốt ruột bỏ mẹ, dài dòng làm gì, là ai, nói toẹt ra đi…

    Vâng! Nếu như được lựa chọn, những nhà thơ yêu thích, mặc áo lính, trực tiếp cầm súng, ở cả hai chiến tuyến, trong cuộc chiến tàn khốc vừa qua, chắc chắn tôi nghĩ đến người lính VNCH Luân Hoán (Lê Ngọc Châu) và anh bộ đội Hoàng Cát.

    Trong bài “Hoàng Cát, Vết Chân Tròn Vẫn Cắm Sâu Vào Lòng Cát” trước đây, tôi đã viết về tình yêu thơ ca mãnh liệt, cũng như thân phận trước và sau chiến tranh của nhà thơ Hoàng Cát. Mặc dù bị đánh tơi bời, cuộc sống cũng như linh hồn đã bị đẩy xuống tận cùng, sau vụ Cây Táo Ông Lành, Hoàng Cát vẫn vịn chặt vào những câu thơ mà sống. Với ông, thi ca là nguồn sống bất tận:

    “Nếu quả thật có luân hồi đổi kiếp
    Xin hãy cho ta trở lại kiếp thi nhân” (Hoàng Cát)

    Khi Hoàng Cát ở bên này, bộc lời ước nguyện ấy, thì bên kia con sông Gianh, nhà thơ Luân Hoán tỏ lời tri ân:

    “Cám ơn đất đá trổ thơ
    Lòng ta hạt bụi bơ vơ bám hoài”

    Cũng như Hoàng Cát, Luân Hoán được sinh ra và lớn lên trên dải đất miền Trung, nắng và gió. Nơi đây, là một trong những chiếc nôi sản sinh ra những thi hào, những nhà văn tài năng của dân tộc. Nhưng hận thù nào và từ đâu đến, làm họ không thể hòa thơ, thưởng nguyệt mà buộc phải nhả đạn vào nhau? Để rồi trên chính chiến trường đất Quảng này, cả hai, Hoàng Cát, Luân Hoán phải để lại một bàn chân trái vào cùng năm 1969.

    Luân Hoán đến với thi ca từ rất sớm, năm 1964 vừa tròn 23 tuổi, ông đã bước vào làng văn với tập thơ Về Trời. Thơ Luân Hoán đi vào nhiều góc cạnh của cuộc sống, chiến tranh, thân phận con người và tình yêu quê hương, đặc biệt là tình yêu đôi lứa. Ông viết nhiều, lời thơ dân dã, mộc mạc, gần gũi với những câu nói thường nhật. Do vậy, thơ của ông dễ đi vào lòng người, nhất là những người lính, học sinh và nông dân, thợ thuyền. Tuy được nhiều người đọc, người thích như vậy, nhưng thơ của ông có mặt hạn chế về chiều sâu, cũng như hình ảnh tưởng tượng. Nên khi đọc thơ của Luân Hoán, ta thấy hiếm (ít) có những bài thật hay, hoặc những câu, những đoạn bất chợt thăng hoa vụt sáng lên như trong thơ Du Tử Lê hay Nguyên Sa. Cũng cần phải nói thêm, dù thơ của Du Tử Lê có những bài rất hay, có câu đã gắn liền hoặc thay cả tên gọi của nhà thơ. Nhưng thơ Du Tử Lê, lại kén người đọc.

    Viết đến đây, hai ông bạn già ghé mắt đọc, rồi véo tai tôi, hỏi lại, thế thì chú thích đọc ông nào nhất. Điều tất nhiên, tôi thích đọc cả hai, bởi vì mỗi nhà thơ đều có nét hay, đặc trưng riêng. Âu đó cũng là điều riêng biệt, góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà.

    Sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, những ngày chạy loạn đã đi hết tuổi thơ của Luân Hoán. Trưởng thành, ông lại phải cầm súng xông pha nơi chiến trường, nên với ông chiến tranh chỉ là những tham vọng, ích kỷ của con người:
    “ một con gà trống đỏ
    một con gà trống đen
    cùng nhìn về phương đó
    khát vọng và bản năng
    cả hai cùng hăm hở
    đá nhau không nói năng”
    (Chiến tranh)

    Dù có nhân danh bất cứ điều gì, chiến tranh cũng chỉ để lại chết chóc, tàn phá quê hương, xóm làng và xé nát trái tim cũng như linh hồn con người, nhất là những người lính cầm súng trực tiếp nơi chiến trường. Sự tàn nhẫn này, không phải chỉ có mình người lính VNCH Luân Hoán viết và ghi lại, mà đồng đội của ông, nhà thơ người lính Huỳnh Hữu Võ đã từng viết: Anh phải ngủ thật nhiều ban ngày/để đêm từng đêm ngồi ôm súng gác/anh phải cười nơi đây thật to/để khỏi nghe tiếng súng/anh phải văng tục nơi đây cho đã/vì thiếu bóng đàn bà suốt tháng/anh phải thủ dâm. Còn hơn thế nữa, bên kia của chiến tuyến, giữa mặt trận đỏ lửa, anh bộ đội Đỗ Hoàng phải cay đắng bật thành thơ “Dừng lại vội vàng giây lát thôi/Thành quách ngày xưa đổ nát rồi/Sao cảnh trăm đời như vẫn một/Đầu hèn lính mọi lại sắp rơi!“ Và sau này, trong lúc ám ảnh của linh hồn, người lính chiến Bảo Ninh đã vạch trần sự tàn nhẫn, nỗi đau đó, bằng chính tác phẩm “Nỗi Buồn Chiến Tranh“ của mình.

    Lời thơ lộn xộn, khi ngắn lúc dài với nhịp lên xuống bất chợt, nó là sự ám ảnh, thể hiện tâm trạng nhất quán cũng như hành động của thi sỹ Luân Hoán và những người lính trận, trong giai đoạn này. Cái bi quan và chán nản ấy, thể hiện đậm nét qua bài Trái Tim Hành Quân. Chúng ta đọc lại đoạn trích dưới đây để thấy rõ sự thật trần trụi đó:

    “…anh bây giờ là tên lính mù
    chỉ huy một trung đội điếc
    với chiếc còi trên môi
    và hàng trăm câu chửi tục
    anh ném vào lính của anh
    niềm âu lo thương mến
    biết chúng đã nghe được gì
    ôi một trung đội điếc
    lựu đạn nổ chẳng bằng tiếng gà gáy
    lựu đạn nổ chẳng bằng dạ dày cháy lời thèm khát
    chúng tiến
    chúng tiến đến mục tiêu
    anh dũng
    chẳng phải một người bỏ mạng
    cả bọn anh rồi sẽ hy sinh
    ôi mục tiêu
    mày là cái gì hỡi ?
    có phải là miếng ăn
    có phải là lá cờ tự do nào treo đó ?
    anh đã biết nó là gì
    em hỡi em, làm sao anh nói
    anh chỉ là tên lính mù
    chỉ huy một trung đội điếc
    dù còn đủ tâm hồn
    anh cũng sẽ đốt nhà
    cũng sẽ bắn trâu bò, bắn gà vịt
    không hổ ngươi
    như lính của anh
    phải sống
    phải ăn
    phải tàn bạo nữa
    đó là điều cần trong cuộc hành quân…”

    Dường như nhà thơ không dám, hay không thể gọi thành tên nỗi đau của cha mình, trong ngày gặp lại, khi người lính trẻ Luân Hoán đã là phế binh, từ mặt trận trở về. Nhà thơ cứ tưởng giấu nó vào trong thơ, sẽ giảm được nỗi đau chăng? Nhưng ông đã lầm. Chính những câu thơ với từ ngữ ẩn dụ, tưởng là nhẹ là êm ấy, chỉ cần một hình ảnh ba bàn chân khua thôi, nó đã nhói lên nỗi đau, mất mát, không chỉ riêng Luân Hoán và người cha già, mà người đọc cũng phải ngơ ngác, bàng hoàng theo:

    “…Dìu nhau về tới hiên nhà
    Nạng con ngơ ngác, gậy ba bàng hoàng
    Không gian cùng với thời gian
    Bỗng dưng khựng dưới ba bàn chân khua...”

    Có thể nói, Luân Hoán có tài kể chuyện bằng thơ. Mỗi bài thơ là một câu chuyện của bản thân, gia đình hay của bè bạn, mà ông đã chiêm nghiệm hoặc đi qua. Từ ngữ trong thơ, đọc lên như có cảm giác, tác giả bốc chỗ này một chút, nhón chỗ kia một tý, ghép lại, thế mà gợi lại một câu chuyện hay làm lay động lòng người. Cái thùng nho nhỏ, đoạn tre cũng nho nhỏ, nằm trong câu chuyện nho nhỏ, Luân Hoán nhè nhẹ kể lại một kỷ niệm khiêng nước, làm cho tôi bâng khuâng nhớ về ngày tuổi thơ. Cái ngày, Hà Nội thời bao cấp, thời ngăn sông cấm chợ, không dốc đá như nơi tản cư của Luân Hoán, nhưng thùng nước vẫn sánh đổ và vấp ngã luôn luôn. Bài “Khiêng Nước”, là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tài năng này của Luân Hoán, tôi nghĩ, có nhiều người đồng cảm:

    “một cái thùng con con
    một đọan tre nho nhỏ
    chị thương chịu nặng hơn
    lâu lâu hơi cau có
    em đi trước run run
    đồn nghiêng vì vai thấp
    dốc đá vấp luôn luôn
    thùng va vào sau gót
    một đôi lần em khóc
    ngồi chùi vệt máu tươi
    rắc lên chút đất bột
    thế mà vui rất vui
    giếng trong xanh nước mát
    uống lưng một vành gàu
    chị múc em đứng hát
    nắng chiều vàng tàu cau
    ngày qua ngày qua vội
    mới đó thế mà già
    chị chồng con lận đận
    em bỏ xứ bỏ nhà
    ở đây trời đẹp lắm
    sao chẳng hề thấy vui
    chẳng phải vì em khổ
    chợt nhớ nhà đó thôi
    ước chi được nhỏ lại
    như những ngày tản cư
    cùng chị đi khiêng nước
    bắt nòng nọc vọc chơi”

    Tuy không được đọc thơ Luân Hoán một cách có hệ thống, nhưng tôi cũng tưởng tượng ra ba giai đoạn, có lẽ bi đát nhất của cuộc đời ông. Vết thương vừa lành sẹo, Luân Hoán chưa kịp đứng vững trên chiếc chân gỗ của mình, thì biến cố tháng 4-1975 ập đến, ông lại phải tập tễnh bước vào trại cải tạo (tù). Rồi cứ tưởng thiên đường của cuộc sống sẽ là vòm trời Âu-Mỹ chăng? Chỉ có Luân Hoán hiểu và những kẻ lưu vong như chúng tôi thấu hiểu. Hơn thế nữa, cái đau của Luân Hoán là cái đau không thể sẻ chia, của người phế binh trong hoàn cảnh hoàn toàn bất lực. Vâng! Đau đến nỗi nhà thơ lưu vong Thế Dũng phải cắn răng viết: “Lừa thai cho tuyệt chủng/ Kiếp lưu vong u cuồng”. Chúng ta đọc lại câu chuyện thơ đầy bi quan, mặc cảm, chán chường của nhà thơ Luân Hoán dưới đây, để thấy được thơ và đời của ông trong những ngày đầu đặt chân trên xứ người nhé:

    “xin vợ dăm cents lẻ
    dồn mua bia uống chơi
    một mình ta một chiếu
    xem ra vẫn thảnh thơi
    bia chua hay bia đắng
    nốc cạn cái cuộc đời
    tại sao em đập chén
    trong hồn ta em ơi
    rảnh rỗi sao không viết
    ngơ ngác cõi quê người
    tiến lên thì bất lực
    ngó lại hết đường lui
    cái cần ta không đạt
    cái đạt người không cần
    lỡ tay đời thầy thợ
    ước gì mọc lại chân
    thì thôi, thôi cứ uống
    không say thì gỉa say
    hết bia còn nước lã
    chơi cho đời biết tay” (Một Chiếu)

    Có một điều đặc biệt, nếu từ ngữ trong thơ của Luân Hoán nói chung dân dã, mộc mạc bao nhiêu, thì từ ngữ riêng trong thể lục bát của ông, trau chuốt giàu hình tượng bấy nhiêu. Nếu để thơ lục bát bên cạnh những thể thơ khác của ông, đọc lên, ta cứ ngỡ không phải do cùng một người viết ra.

    Để diễn tả tâm trạng nhớ nhung, với vết bụi của thời gian, trong cái trầm lặng, u hoài khi ông về thăm ngôi trường cũ, Luân Hoán đã dùng hình tượng “Phủi sợi bụi già”. Chỉ một cụm từ mới này của Luân Hoán, làm cả bài thơ hay một cách đến lạ lùng. Thơ hay, nhất là thơ lục bát, muốn không bị nhạt và nhàm, dứt khoát phải có hình tượng và từ mới. Như một lần tôi đã viết: Thơ hay dứt khoát phải có từ mới, hoặc cụm từ mới.Từ hay cụm từ mới không có nghĩa người viết chế, nghĩ ra, mà do cách sử dụng từ ngữ. Nhiều từ, cụm rất cũ, nhưng người viết đặt hoặc ghép trong câu đúng văn cảnh nào đó, gây bất ngờ cho người đọc, nó trở thành câu mới, nghĩa mới. Nhà thơ tài năng, ngoài kiến thức ra, dứt khoát phải là người có trí tưởng tượng và sự liên tưởng phong phú.

    Thật vậy, ta hãy đọc lại đoạn thơ dưới đây, để thấy được tài năng như vậy của nhà thơ Luân Hoán:

    “nhón chân phủi sợi bụi già
    đóng trên khung cửa mở ra hững hờ
    tôi nhìn trong nỗi bơ vơ
    không thấy mà gặp thầy cô bạn bè…”

    Thơ tình, nhất là tình yêu đôi lứa là đề tài được nhắc đến nhiều nhất trong thi ca nước nhà. Nó cũng là cảm hứng dường như bất tận cho người nghệ sỹ. Do vậy, để tránh được sự trùng lặp, nhàm chán, viết được một bài thơ tình hay rất khó, viết theo thể lục bát lại càng khó hơn. Có lẽ, cảm được điều này, nên Luân Hoán luôn luôn làm mới thơ của mình, kể cả hình thức dù là thơ lục bát. “Tình Xuân Lục Bát” là một bài thơ như vậy, ông đưa cả lời thoại nhân vật và những chấm, ngắt xuống hàng giữa câu, làm cho bài thơ có “khuân mặt” mới lạ. Dẫu là thế, nhưng hồn vía cả bài thơ lại nằm ở câu thơ cuối cùng:

    “em vào,
    nhớ khép cửa buồng
    giữ hương xuân ấm chiếu giường quanh năm”

    Nếu không có hình tượng ẩn dụ này, mở cả bài thơ, buộc người đọc phải suy ngẫm, thì nó chỉ là câu chuyện kể bình thường mà thôi:

    “tháng chạp cải nở hoa vàng
    rủ con bướm chở hương sang hiên người
    lỡ lòng gởi sợi thơ tôi
    khiến em lộ mặt, ngó trời, thở ra

    trái tim có dịp la cà
    qua thăm nhánh khế sau nhà người dưng

    rồi vì, em biểu rằng :
    - đừng !
    nên chi ,
    em với ta cùng của nhau

    một lần,
    lần nữa, đến đâu...
    đâm ra ở suốt bên nhau đến giờ

    xuân xưa rất đỗi ngây thơ
    xuân này tiếp tục ngây thơ bình thường
    em vào,
    nhớ khép cửa buồng
    giữ hương xuân ấm chiếu giường quanh năm”

    Tôi không tin, Luân Hoán là người không hoạt ngôn, như đã đọc ở đâu đó. Bởi vì, những sáng tác của ông có yếu tố văn học dân gian. Ông đã đưa nhiều khẩu ngữ vào thơ. Tuy vậy, thơ Luân Hoán, ta ít bắt gặp những từ ngữ địa phương, như một số nhà thơ xứ Quảng khác. Luân Hoán viết nhiều, về mọi chủ đề và trong mọi hoàn cảnh. Kể cả những lúc bi đát nhất của cuộc đời, ông vẫn diễu đời diễu mình:

    “Mời anh qua Mỹ thị
    Mời chị lên Hoà cuờng
    Xe tôi vừa thay lốp
    Ðảm bảo đi đường trường…”

    Thế Dũng đưa đặt vòng tránh thai vào thơ, đọc đã thấy sởn cả người, thế mà Luân Hoán đưa cả đi cầu, đại tiện vào trong thơ của mình, thì kinh hơn nữa. Nhưng quả thật, đọc lên, ta cảm thấy thanh, thấy khoan khoái là đằng khác, chứ chẳng thấy tục chút nào. Đúng như ai đó đã nói, ông Luân Hoán lúc nào cũng có thể “nhả” ra được thơ:

    “đột kích lên Văn Bâng
    rơi đúng vào giờ tý
    trái, phải chân vấp chân
    quân cờ người đã thí
    từng phút từng phút qua
    địch quân không chường mặt
    ta ngồi bên bụi hoa
    đại tiện thật thong thả” (Đột Kích)

    Nhà văn Song Thao cho rằng: “Thơ Luân Hoán không thể là thơ không hay được. Nó như một hòn đá: nhìn bên ngoài tưởng như thô sơ, mộc mạc nhưng thật ra bên trong có chứa ngọc. Chất ngọc tinh tuyền vì nó được chắt lọc từ cuộc sống muôn vẽ muôn sắc”.

    Vâng! Đúng như vậy. Nhưng tôi xin phép nhà văn Song Thao, được viết tiếp vào nhận định trên của ông một tí ti thôi: “Tuy nhiên do viết nhiều, những chất ngọc tinh tuyền ấy của Luân Hoán dù được qua trưng cất, nhưng đã để không ít vỉa sạn rớt xuống trang sách”.

    Thật ra, cả đời viết văn làm thơ, người nghệ sỹ để lại cho đời vài, ba tác phẩm hay đã là thành công và đáng quí lắm rồi. Nhà văn, nhà thơ dù có tài giỏi đến mấy, viết hay đến mấy, có nhiều tác phẩm hay, chắc chắn phải có nhiều tác phẩm không hay. Tài danh đến như Xuân Diệu, Huy Cận, không phải không có những tác phẩm dở. Nhà thơ Luân Hoán viết nhiều, hơn thế nữa thơ ông dùng nhiều khẩu ngữ, do vậy có những bài dở, âu cũng là điều bình thường. Đọc bài “Chuyện Xưa” ông viết gần đây, tôi ngỡ đây là những câu ứng khẩu vui vui, đọc lên trong lúc trà dư tửu hậu, chứ đây chưa hẳn là một bài thơ:

    “má con thời con gái
    cũng xinh đẹp như con
    chỉ có điều còn dại
    đã sớm bị hớp hồn

    ba nhớ ba hồi đó
    đâu có gì là ngon
    lại có hơi ba trợn
    cộng rất nhiều ba lơn

    rồi thì ba và má
    dắt nhau bỏ trốn nhà
    nhiều người bạn che chở
    năm bảy bữa bỏ nhà

    nếu không có ông nội
    quen biết và khôn lanh
    chắc ba ngồi gỡ lịch
    tội dụ trẻ đầu xanh

    cuộc tình ba và má
    thơ mộng trong cam go
    kết cuộc thật có hậu
    các con đã biết rồi”

    Sống ở trong nước, hay ở nước ngoài, trên nửa thế kỷ qua, Luân Hoán vẫn miệt mài cõng thơ trên đôi nạng gỗ của mình. Thơ ông luôn gắn liền với đời sống của mọi tầng lớp lao động. Dù đã trải qua bao biến cố đau đớn, nhưng thơ Luân Hoán vẫn đầy ắp tình người, tuyệt nhiên ta không thấy sự hằn thù nào ở trong đó. Mỗi bài thơ của ông như một câu chuyện phảng phất thiền ca đến ru người và ru đời vậy.


    Đỗ Trường
    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom