• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

VIẾT VỀ THY LAN THẢO

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • VIẾT VỀ THY LAN THẢO

    TỰA NHỎ


    Một chút phân vân , một chút ngaị ngần khi nghe Thy Lan Thảo ngỏ ý nhờ tôi viết cho anh một tựa nhỏ .Tôi không biết phải làm thế nào để không phụ lòng anh , người đã tìm đến với thơ tôi từ thuở tôi hãy còn là một cô bé con vừa ngậm ô mai , vừa thút thít khóc khi làm những bài thơ tình cho lính gửi đăng trên các báo .
    Tưởng chừng như mới đó đã mấy mươi năm ...
    Thăng trầm , biển dâu với đời lưu lạc .Niềm đau mất nước , nỗi buồn quặn thắt của kẻ lưu vong , nợ núi sông nửa đời cung kiếm gãy nhưng vẫn sáng rực niềm tin hẹn một ngày về và hình ảnh người mẹ hiền trải dài trong suốt thơ anh đã cho tôi trân trọng một tấm lòng . Người lính chiến Cộng Hòa khẳng khái , trung kiên tuyên thệ trước khi rời trường Mẹ , mang phương châm "Cư An Tư Nguy "Vùng vẫy bốn phương trời :
    " Đêm vũ đình trường Tăng Nhơn Phú
    Ngàn cánh tay thề giữ núi sông
    Ra đi đáp lại lời sông núi
    Nhiệt huyết đời trai trọn ý lòng "
    ( Mẹ hiểu lòng con )
    Và dấn thân vào cuộc chiến là trách nhiệm của kẻ làm trai khi quê nhà binh biến :
    " Tự nguyện hiến dâng đời gió bụi
    Diệt thù dành lại chữ tự do
    Bốn vùng chiến thuật chân không mỏi
    Lòng vẫn yên xây mộng hải hồ "
    ( Oan Khốc Sông Ba )
    Nhưng chí trai không thỏa , tháng tư đen như một cơn địa chấn bạo tàn đã vùi dập tất cả ước mơ tuổi trẻ , chỉ còn đây là nỗi tủi nhục , hờn căm của một người lính bị bắt buộc phải giã từ vũ khí :
    "Nhưng mộng đời trai tủi bước lầm
    Đầu quân dưới trướng - tướng vinh thân ...
    ...Niềm tin đã mất trời cao rộng
    Ngăn bước đời trai ,nhục núi sông "
    ( Oan khốc Sông Ba )
    Ngày anh buông súng trở về trong nỗi tuyệt vọng khôn cùng của một người lính không còn chỗ đứng , vòng tay người mẹ hiền đã là một điểm tựa bền vững để an ủi , xẻ chia tiếp tục nâng đở bước anh đi :
    " Tan cuộc chiến , ta nhớ màu mắt mẹ
    Khi ta về buồn tủi khóc ôm ta
    Thương con trẻ lỡ đời cung kiếm gãy
    Đất nước vô tình , ai thấu nỗi xót xa "
    ( Quê hương rồi sẽ đẹp )
    Dù bị gông cùm trong tay kẻ thù, người lính Cộng Hòa vẫn nêu cao gương kiên cường . kiêu dũng , giữ vững sắt son như ngày nào ngôi trường mẹ đã hun đúc chí trai :
    "Ta thân chiến bại trong tù ngục
    Mắt vẫn ngời sao ý buổi đầu
    Lửa nghĩa trung đài đêm mãn khóa
    Lòng ta giữ mãi có quên đâu "
    ( Đôi mắt ngày về )
    Và thật xót xa của một kiếp người tù tội , anh vẫn không quên một cuộc tình xưa, nhưng có còn cần thiết không khi thực tế đời anh cháo rau mới chính là nhịp thở , nên thơ anh chỉ còn lại đau đớn ngậm ngùi :
    " Cũng có lúc núi rừng sâu ta nhớ
    Mắt thật buồn trong dáng của em xưa
    Nhưng ở đó ta cần khoai để thở
    Như ngày xưa ta cần mắt của em mơ "
    ( Về trên xe quốc lộ )
    Nhưng khi thoát được vùng đất lưu đày, đến bến tự do, thì quê hương đã nghìn trùng cách biệt:
    "Chiều nay chút lạnh giao mùa đến
    Em có buồn không , em Việt Nam
    Một chuỗi ngày thơ xưa luyến mến
    Nghìn trùng xa cách buốt con tim "
    ( Chuyển mùa )
    Anh ấp ủ Gò Công , nơi chôn nhau cắt rốn của anh , như chiếc nôi êm đềm của một thời niên thiếu .Thị trấn có những ngôi nhà mái ngói âm dương , hoang sơ cổ kính , có những con phố nhỏ tình thân như phố Tàu ở mãi Hội An .Anh nhớ từng địa danh , từng món ăn quen thuộc của một vùng quê nghèo : hoa so đũa luộc ăn với mắm tôm chà , những trái cerise chua chua , ngọt ngọt trên đường về Hòa Nghị , những mùa xuân đoàn tụ yên vui đã mất với bồn mai tứ quý , với mắm tôm chua ... Ở đó anh có một người mẹ vẫn ngồi trên ván gõ, tựa cửa trông con , nhưng đã bao lần xuân qua , quê người , đất khách anh vẫn chưa một lần về thăm lại ...Ăn miếng canh rau mà nhớ về quê Mẹ , những tháng ngày đạm bạc nhưng thắm đượm tình quê :
    " Canh tập tàng nêm thêm chút muối
    Đọt bầu, đọt bí ,lá mồng tơi
    Ngan ngát rau dền bông bí đỏ
    Mẹ húp , con chan - ngọt ý đời "
    ( Canh rau tập tàng )
    Từ giọng hát nào đã đưa anh về bãi bờ yêu dấu cũ : Những tà áo bay trên cầu Long Chánh , vị ngọt ngào của cam Vĩnh Hựu giữa buổi trưa hè , Tháng sáu trẻ con Vàm Láng khoe áo mới trong lễ đón ngênh Ông...
    " Rau dền xanh lá hương ngan ngát
    Đất tạm dung vẫn tưởng quê nhà
    Nhạn Trắng Gò Công cao tiếng hát
    "Nỗi buồn gác trọ " ngút đường xa "
    ( Nhớ Mẹ )
    Và anh nhắn gởi nỗi nhớ thương về quê cũ :
    " Cuối tháng em về cho ta gởi
    Tấm lòng thương nhớ của riêng ta
    Gặp em nếu mẹ ta thăm hỏi
    Em bảo ta ngàn đêm xót xa "
    ( Nhắn gởi )
    Thy Lan Thảo xót thương quê nghèo đắm chìm trong đêm dài Việt Nam tăm tối , mất mùa hạn hán trong cơ trời , ách nước , ngàn nỗi tai ương ở một thư gửi chị :
    " Chị kể Gò Công trời hạn hán
    Dân nghèo bỏ xứ kiếm ăn xa ..."
    ( Cờ vàng sẽ bay )
    Anh cũng ghi khắc ân nghĩa thâm sâu của Mẹ già, của người chị hiền đã thăm nuôi anh trong những tháng năm tù tội từ Nam ra Bắc, trong cảnh đời cơ cực :
    " Hôm nay ăn bát cơm thơm dẽo
    Nhớ Mẹ ru con nát cả lòng "
    ( Nghĩa ân còn nhớ )
    " Chị vẫn âm thầm đời đạm bạc
    Hàng ngày hai buổi đến trường xưa
    Chữ nghĩa văn chương nào thấy sáng
    Cuộc đời dạy học chẳng tròn mơ "
    ( Chút ý ngày về )
    Nhưng đậm nét nhất trong thơ anh vẫn là hình ảnh người mẹ hiền rạng rỡ, như biển Thái Bình, như vầng dương muôn thuở:
    " Trong suốt đời ta chỉ một người
    Dáng tiên hiền diệu dẫu xa xôi
    Mẹ luôn dõi mắt theo chân bước
    Của đứa con trai đến cuối đời "
    ( Đau xót đời ta )
    Thảo ngay , tình nghĩa của một người con chí hiếu với ray rứt khôn nguôi khi không về được để thọ tang trong ngày mẹ mất, cũng không làm thơ anh bi lụy, khi thắp lửa tin yêu với giấc mơ hồi hương :
    " Chừng đó mùa xuân thắm ý mai
    Anh dìu bước muội ngọt tình say
    Trong đôi mắt muội ngời tha thiết
    Anh thấy hình anh chất ngất đầy "
    ( Sẽ có mùa xuân )
    Trái tim người lính Cộng Hòa với chan chứa yêu thương, khẳng định niềm tin ở một ngày mai tất thắng :
    " Hồn quốc tổ sẽ cười vang sông núi
    Đường quê hương sẽ rợp bóng cờ vàng
    Đổi năm tháng nhọc nhằn đầy hận tủi
    Bằng tình thương dấu ái ngát trời hương "
    ( Quê hương rồi sẽ đẹp )
    Tôi quý trọng cái khí khái của một người lính Quốc Gia , với lý tưởng Tổ Quốc , Danh Dự , Trách Nhiệm như một hoài bão mà anh vẫn còn ấp ủ - tình nghĩa gia đình gắn bó, bền chặt- tình chiến hữu thâm sâu...Ngần ấy thứ đã nói lên nhân cách sống của anh giữa một cảnh đời chao đảo.Chúng ta hãy giang tay cho Thy Lan Thảo buớc tới , để thơ anh còn có dịp bay cao , bay xa hơn thế nữa về với những rặng tre , bờ cỏ ở quê nhà , những hình ảnh nồng đượm , đơn sơ , nhưng một Việt Nam tự do vẫn luôn làm ấm lòng người xa xứ .
    Minneapolis tháng 6/2001

    M.H.HÒAI LINH PHƯƠNG
    Con đi dưới lá cờ sao máu
    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...
    Similar Threads
  • #2



    Tập Thơ Đầu Tay của TLT
    Con đi dưới lá cờ sao máu
    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

    Comment

    • #3

      NHỮNG BÀI THƠ VỌNG ÂM VÀO CUỐI THẾ KỶ
      *
      HỒ TRƯỜNG AN





      Cái tên Thy Lan Thảo chắc cũng không xa lạ gì với các đọc giả kiều bào ở California ( Hoa Kỳ), nhất là những đọc giả trung thành với tờ nguyệt san Hồn Việt.
      Thy Lan Thảo không phải là bút hiệu của một nữ sĩ. Đây là bút hiệu của một cựu chiến binh. Anh đã từng là sĩ quan ngành Chiến Tranh Chính Trị thuộc Tiểu Đoàn 50 CTCT ( Sài Gòn) và Tiểu Đoàn 20 CTCT ( Pleiku).Sau ngày 30 tháng 4 năm 75, anh là tù nhân qua các trại cải tạo Huyện Tây( Gò Công), Mỹ Phước Tây ( Cai Lậy), Hà Tây ( Hà Sơn Bình), Nam Hà ( Hà Nam Ninh)
      Tôi đã cùng Thy Lan Thảo cộng tác tờ Hồn Việt. Tôi chỉ đọc thơ anh trên tập san. Và vào xuân năm 2000, qua nhà thơ nữ Dư Thị Diễm Buồn, tôi nhận được một số thơ của anh đã từng đăng báo vào năm 1999 và một bài thơ độc nhất trước tác vào ngày 2-1-2000( bài " Đau Xót Đời Ta")
      Thơ anh tuy nhiều nhưng chưa có cơ hội xuất bản thành thi tập. Nhưng trong giới thơ văn gốc người Nam Kỳ, tên anh cũng đã khá quen thuộc rồi.
      Thy Lan Thảo là nhà thơ sống rất nhiều về dĩ vãng hơn là đối diện với hiện tại. Anh ra hải ngoại theo diện HO 14. Từ thuở tác giả vào đời cho tới năm 1999 cũng không phải là lâu lắc gì. Cuộc sống hiện tại của anh trên đất tạm dung chẳng có gì đáng nói. Trong khi đó, cái dĩ vãng thơ mộng thuở thiếu thời ở Gò Công và ở Sài Gòn cùng thuở bước vào quân ngũ và thuở bị tù đày đã đưa anh từ cơn mộng đẹp trên thiên đường hạnh phúc rơi tàn nhẫn xuống cơn ác mộng nơi địa ngục trần gian, đã ghi vào nội giới anh những vết son không phai và những vết thương không thể lành lặn. Cho nên thơ của anh luôn ám ảnh bởi dĩ vãng. Dĩ vãng đó có hai khuôn mặt hạnh phúc và khuôn mặt khổ đau.
      Nhưng khuôn mặt hạnh phúc quá mờ nhạt chỉ được ghi ở một bài thơ " Đếm lá me bay - Tuổi học trò "
      Anh vẫn nhớ tình yêu ngày mới lớn
      Tuổi mười lăm - Áo trắng ngọt sân trường
      Của một thời vụng dại biết nhớ thương
      Đôi mắt ướt- Hàng mi che cong vút
      Lòng rộn rã mỗi lần tan lớp học
      Theo em về bóng mát lá me bay
      Bước theo sau nhìn đôi bóng ngã dài
      Gió e thẹn đùa reo trên tóc rối
      Sẽ lúng túng nếu tình cờ em hỏi
      Nhà hướng Đông sao về ngõ hướng Tây?
      Trời mùa thu - nhiều lắm lá me bay
      Em e thẹn nên vô tình im lặng
      Vàng lá úa đùa reo trên áo trắng
      Chiếc cặp da ôm sát ngực thẹn thùng
      Vậy mà đêm không ngủ nhớ vô cùng
      Sáng đến lớp- thầy kêu bài không thuộc
      …..
      Trở về dĩ vãng thuở học trò, tức là nhặt nhạnh lại kỷ niệm thơ mộng trên thiên đường ký ức. Công việc nầy đã có nhiều nhà thơ đã làm rồi. Bài thơ tuy không đặc sắc nhưng vẫn cho đọc giả tìm lại thuở xôn xao của tuổi biết yêu lần đầu. Âm điệu du dương cùng vóc dáng nhung tơ mượt mà của bài thơ vẫn có một nét gợi cảm riêng.
      Bài thơ" Đếm Lá Me Bay- Tuổi Học Trò" mà tác giả trước tác ở hải ngoại vào ngày 23 tháng 4 năm 99, tới đây đã trở thành một đoạn phim chuyển cảnh. Hình ảnh cô nữ sinh đã trở thành bà mẹ đã có ba đứa con đến tuổi trưởng thành, còn chàng trai tân chính là tác giả đã trở thành người bại binh nơi đất khách ngồi nhớ sa trường xưa, nhớ luôn người tình đầu. Cảnh trước và cảnh sau đã xảy ra ở rất nhiều hoàn cảnh của kiều bào chúng ta. Nó không phải chỉ ở trong các quyển tiểu thuyết diễm tình hay trong phim ảnh tình yêu thuộc loại lãng mạn qua câu thơ " Tình chỉ đẹp khi còn dang dở" nữa. Nó đã đi vào cuộc sống tình cảm của nhiều đôi tình nhân không phải đợi tới ngày chung cuộc miền Nam, mà ngay từ khi cuộc nội chiến giữa Quốc-Cộng bùng nổ.
      Ba mươi năm- chuyện đời không biết được
      Vẫn vô tình- trăn trở ý ăn năn
      Đất tha hương tuổi tác có muộn màng
      Vẫn rạo rực nhớ đường xưa áo trắng
      Anh và em đã nhuốm nhiều mưa nắng
      Ba đứa con em nay đã trưởng thành
      Riêng anh thì chút ước quá mỏng
      manh
      Của một thuở đầu tiên tim rung động
      Đôi mắt em vẫn hằng theo cuộc sống
      Vào chiến chinh rồi vào tận ngục tù
      Suốt tám mùa anh ngắm lá vàng thu
      Tự an ủi vuốt ve đời giam cấm
      Tiếng trong phone vẫn êm đềm trong ấm
      Nếu vô tình chắc khó cảm nhận nhau
      Thoáng bóng gương- tóc trắng vẫn ngọt ngào
      Em một thuở mười lăm tình thơ dại
      Thơ của Thy Lan Thảo phản ánh nguyên vẹn tiếng nói chung của một thời đại mất mát hạnh phúc, một giai đoạn đen tối lầm than của dân tộc. Tiếng thơ anh là tiếng thơ chung. Tiếng than van của anh là tiếng than van của đồng bào suốt hậu bán thế kỷ 20. Một loại tiếng thơ buồn, đóng góp vào nỗi buồn chung của chủng tộc, của tổ quốc chúng ta.
      Xin cùng đọc bài thơ " Gửi Người Yêu Dấu" ( 14-7-99):
      Vạn lý tình xa vạn lý nào
      Để buồn để nhớ buổi xa nhau
      Tình quên có dễ như trời nắng
      Chợt chuyển màu mây…đậm sắc màu

      Không thể tình cờ như bão giông
      Đò ngang thuận nước gió xuôi giòng
      Phẳng im như chuyện tình tha thiết
      Chợt nổi ba đào tỏa trắng sông!

      Ta bước dần theo cát bụi bay
      Lòng ta đang tỉnh ướm men say
      Ta đi trong đất trời tha thiết
      Thì biết làm chi chuyện tháng ngày?

      Mắt vẫn ngàn xa đêm vẫn riêng
      Trong mơ vẫn rõ dáng kiều duyên
      Em cười mà lệ hoen đôi má
      Ta tỉnh- ngục tù lạnh gió đêm

      Vạn lý tình xa em dấu yêu
      Kìa em xỏa tóc đón mây chiều
      Mắt xưa em có còn tha thiết
      Xa lắm em ơi- Nhớ thật nhiều!

      Anh ở Hà Tây- Em Sài Gòn
      Yêu buồn, thương nhớ biết ai hơn
      Tình xa xôi quá đôi tay ngắn
      Đâu giúp em lau giọt lệ buồn.
      Người yêu dấu trong thơ Thy Lan Thảo là ai? Có thể là người vợ trẻ của anh. Hoặc cũng có thể là người tình tuyệt vời của anh. Nhưng dẫu là ai đi nữa, nhưng chắc chắn đó là thần tượng tình yêu của anh,cái đối tượng để anh gửi gấm tình yêu, nỗi nhớ nhung,những dòng tâm sự của anh trong cảnh cá chậu chim lồng. Trong cõi thơ của anh, nàng đẹp hẳn lên, không phải nàng được tác giả miêu tả chân dung cùng tấm lòng tốt đẹp cao quý của nàng.Nàng sở dĩ đẹp là nhờ lời thơ tác giả du dương ngọt ngào. Là nhờ tấm lòng hoài vọng của anh được diễn tả bằng một ý thơ trong sáng thiết tha. Cõi thơ được kết hợp và hình thành bằng lời thơ đẹp như thế phải là một môi trường, một bối cảnh dành cho tiên nữ Giáng Hương của Từ Thức và dành cho tiên nga Giáng Kiều của Tú Uyên. Óc liên tưởng sa đà dòng mường tượng phong phú vẫn có thể đưa đẩy những tâm hồn lãng mạn phác họa chân dung người yêu dấu của Thy Lan Thảo trong cõi ấn tượng và trong vũ trụ tưởng tượng của họ những hình ảnh tuyệt vời như thế. Nhưng " người yêu dấu" ấy không phải chỉ dành riêng cho Thy Lan Thảo đâu. Loại " người yêu dấu" ấy cũng đã từng xuất hiện trong thi văn của rất nhiều nhà thơ nhà văn đồng cảnh ngộ với Thy Lan Thảo. Nàng vẫn là mẫu số chung, đối tượng chung của rất nhiều nhà thơ nhà văn ở hải ngoại.
      Thơ của Thy Lan Thảo không có vóc dáng riêng biệt, nhưng vẫn là loại thơ đẹp. Nó khá đơn giản, không cầu kỳ, không chuốc lục tô hồng quá đáng. Tuy nhiên nó không quá bộc trực đến độ thô tháp cục mịch, vụng về. Tác giả vẫn có cái tinh xảo riêng để làm cho vóc thơ óng ả như lụa và sáng dịu như trăng để đi thẳng vào tâm hồn và trái tim người đọc bằng những rung động êm ái, bằng những thoáng bâng khuâng dịu dàng.Xin đọc bài "Thư Gửi Chị"(16-6-1997)
      Chị ạ! Nhận thư từ Việt Nam
      Chiều nay mây rất ít màu đen
      Sao lòng em bỗng nhiều thương nhớ
      Năm tháng dù xa…rất khó quên!

      Chị hỏi từ khi sống tạm dung
      Dù xa nhưng nắng chắc tươi hồng
      Mẹ thương em lắm- khi chiều đến
      Hướng mắt trời xa ướt lệ trông

      Chị bảo mẹ rằng nếu mẹ thương
      Đứa con trai út sống tha hương
      An tâm xin mẹ thôi buồn nhớ
      Về đứa con từng chịu gió sương

      Chị hỏi thăm về sinh kế em
      Về hai đứa cháu nhỏ thân yêu
      Trời xa có nhớ về quê cũ
      Đủ ấm bình minh- mát gió chiều

      Chị ạ! Cuộc đời em trôi nổi
      Kể từ khi xếp chiến bào xưa
      Tám năm em sống trong lao cấm
      Đời vẫn thường quen với gió mưa!

      Chị hỏi bạn bè em tới Mỹ
      Có còn nhớ lại khúc quân hành
      Có còn nhớ lúc cờ thay hướng
      Hay đã quên rồi chuyện chiến chinh!?

      Chị ạ, xa rồi chuyện tháng tư
      Tuổi già, đất lạ sống bơ vơ
      Có thằng bưng phở nuôi con dại
      Có đứa sớm quên kiếp sống nhờ!

      Chị hỏi bao giờ em trở lại
      Bạn bè viễn xứ có thương nhau
      Có mơ đến chuyện thay gươm mới
      Hay vẫn âm thầm trong tủi đau?

      Chị ạ, đã làm thân viễn xứ
      Chị hỏi, em buồn lắm chị ơi!
      Đọc lại ít dòng trang cổ sử
      Lạc Long chia cách mẹ Âu Cơ

      Chị ơi, nhắc mẹ giùm em với
      Gắng sống vài năm sẽ có ngày
      Một sáng cờ vàng bay phất phới
      Em về ôm mẹ trọn vòng tay…
      Ở trường hợp nhà thơ Thy Lan Thảo, chúng ta nhận thấy vài điều then chốt về thi ca:
      *Ngôn ngữ đơn giản của thơ vẫn làm đẹp cho thơ
      * Xen lác đác vào ngôn ngữ đơn giản đó một vài ngữ pháp (tournures) chẳng những làm thơ đẹp thêm mà còn làm tình ý thơ nổi bật hơn, chẳng hạn những cặp câu thơ sau:
      Chị hỏi từ khi sống tạm dung
      Dù xa nhưng nắng vẫn tươi hồng
      hoặc:
      Có còn nhớ lúc cờ thay hướng
      Hay đã quên rồi chuyện chiến chinh
      *Ngôn ngữ thơ đơn giản nhưng đải lọc trở nên trong sáng và chải chuốt. Nó phơi bày tình ý của tác giả hiện lồng lộng và rạng ngời trong thơ để đi trực tiếp vào cảm nhận người đọc.
      * Thơ đơn giản, tình ý dịu dàng đằm thắm dễ làm rung cảm cho những kẻ đồng cảnh ngộ với tác giả, gây một sự hòa điệu hồn nhiên,không chút khó khăn ngăn ngại.
      * Ngôn ngữ thơ nhờ đơn giản nên thế giới thi ca và đề tài của tác giả trở nên quen thuộc với đa số quần chúng độc giả. Đề tài của thơ Thy Lan Thảo vốn thật gần gủi với đa số độc giả đã trải qua bao cuộc thăng trầm của tổ quốc, bao vận nước nổi trôi từ cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, kinh qua cuộc nội chiến giữa Quốc Cộng, qua thời gian sau ngày miền Nam thất thủ cho tới ngày sống tha hương nơi hải ngoại. Dĩ nhiên chúng đã được các nhà văn nhà thơ lưu vong vốn ưu thời mẫn thế của chúng ta khai thác trên 20 năm qua. Nhưng mỗi người khai thác một cách khác nhau, bằng thái độ,bằng góc độ cái nhìn, bằng khía cạnh nhân sinh quan khác nhau. Ở Thy Lan Thảo là thái đột dịu dàng, đôn hậu, dằm thắm. Anh không hung hăn với kẻ thù, anh không rền rĩ quằn quại với số phận cay nghiệt. Anh cũng không phóng mắt vào hoàn cảnh nào khác ngoài những hoàn cảnh và những biến cố kế tiếp nhau xảy đến cuộc đời anh. Anh không phóng chiếu cái nhìn vào viễn tượng lộng lẫy ở chân trời thi ca nào khác. Anh nắm bắt những gì anh cảm xúc, những gì anh hiểu biết, không để tham vọng lôi cuốn anh vào những cuộc phiêu lưu sa đà khi sáng tác thơ. Thơ anh do đó tuy không tân kỳ và lộng lẫy, nhưng được cái tình khiêm tốn và chân thật.
      Thy lan Thảo là một cựu chiến binh, đã đi khắp bốn vùng chiến thuật( Từ năm 1968 đổi tên là quân khu).Anh đã có mặt trên hai con đường máu: Đại Lộ Kinh Hoàng và Tỉnh lộ 7B trong những ngày ở KonTum di tản về Nam. Khi sang định cư ở Houston ( Texas) anh vẫn chưa nguôi được những ám ảnh, những ác mộng trong cuộc đời quân ngũ. Do đó anh nhớ thời oanh liệt xưa, nhớ bạn đồng đội trong tình huynh đệ chi binh lớn rộng và thiết tha. Xin đọc bài " Ám Ảnh ", trước tác vào ngày 15-5-1999 mà nhà thơ dành riêng tặng Lê Ngọc Thiện Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 20 CTCT
      Vẫn còn âm ỉ cuông phong cũ
      Dậy ở trong tâm buổi cuối mùa
      Một thoáng tha hương đời lữ thứ
      Nhớ đường kiếm bạc diệt thù xưa

      Sông Dakpla về tây ngược sóng
      Ta vẫy tay chào- Ôi xót đau
      Kontum rực lửa hè thiêu nóng
      Đôi mắt em nhìn nghẹn ý trao

      Về Nam từng bước mờ giông bụi
      Rời rã dìu nhau giữa đạn thù
      Súng gươm uất nghẹn buồn rưng tủi
      Máu đẫm rừng hoang thân xác khô

      Đêm Củng Sơn mờ sương tối tâm
      Tướng quân đâu thể tính sai lầm
      Sao không ngăn bước quân thù tiến
      Mà lại tan hàng uất nghẹn căm?

      Sao chọn đường đi lộ 7B
      Quan san đâu dễ bước quay về
      Sông Ba sóng máu loang hờn oán
      Cán chính dân quân quá não nề!

      Đói khát nhục nhằn sá quản thân
      Dân nương bước sống với toàn quân
      Quân vương sao nỡ lầm than quá
      Từng xác tan thây chết mấy lần

      Trời tha hương đất người lập xuân
      Tháng ba giổ hội của toàn dân
      Ta quên sao được con đường máu
      Từng bước về Nam đất mất dần

      Bao giờ quang phục quê hương lại
      Về đập Đồng Cam đến Sông Ba
      Lập đàn cầu độ hồn oan trái
      Giải bớt niềm đau của nước nhà.

      Nhà thơ chẳng những ngậm ngùi cảnh ngộ sinh ly của gia đình, cảnh nhiễu nhương đã qua của đất nước. Anh còn hướng cái nhìn về đồng bào Huế còn kẹt lại sau bức màn tre, chẳng những lầm than dưới ách bạo quyền Cộng Sản mà còn hứng chịu cảnh thiên tai thủy họa. Do đó trong tiếng than hờn oán còn thấm nhuần niềm nhân đạo, trong ngọn lửa hận thù còn sáng rực ánh thiên lương. Xin cùng đọc bài " Một Chút Lòng Xin Gửi Quê Hương"( 19-12-1999)

      Biển oán hờn ai dậy sóng trào
      Miền Trung oan khốc nổi ba đào
      Thê lương đâu chỉ riêng đền miếu
      Mà cả trời Nam khóc thảm đau!

      Đất tự ngàn năm vốn cỗi cằn
      Dân cày sỏi đá chẳng no ăn
      Trời đày lũ lụt hàng năm đến
      Dậy sóng miền Trung- tựa thác ngàn…

      Thiên tai đe dọa hoang mầm sống
      Bạo đảng đâu cần nghĩ tới dân
      Chỉ biết gom tiền chăm sóc đảng
      Rượu ngon gái đẹp- rất ân cần

      Cùng giống da vàng nguồn Lạc Việt
      Bạo quyền hoang dã tựa hùm beo
      Sói lang nhìn đảng còn kinh dị
      Đất nước thê lương- dân khổ nghèo…

      Sông Hương một thuở dòng xanh mướt
      Núi Ngự mơ màng ẩn đế kinh
      Thọ Cương vẳng tiếng gà xao xác
      Vỹ Dã hương cau ngập ý tình

      Hôm nay nước bạc reo đầu sóng
      Cuồn cuộn âm binh dáng tử thần
      Núi đá ngàn năm hoang lở sụp
      Sá gì đền miếu với nhà dân!

      Hương Giang chắc hẳn buồn cay đắng
      Bởi lượn nước xanh đã trở dòng
      Bao xác thân trôi đùa nước trắng
      Lệ buồn vét cạn khóc dòng sông

      Tìm đất nào chôn được xác cha
      Mẹ nằm không chiếu đắp thân già
      Tuổi thơ ngơ ngác không nơi tựa
      Đảng có nhìn, có thấy xót xa?

      Vạn dặm tình xa một giống giòng
      Mù khơi đục mắt khóc miền Trung
      Thê lương trời hỡi sao dành cả
      Con cháu Âu Cơ, đất Lạc Hồng?!

      Một giọt máu đào vạn xót xa
      Non sông ngàn dặm vẫn quê nhà
      Xác trôi rã xác tan nhà cửa
      Người sống lạc thần xương bọc da!

      Một chút lòng riêng xin gửi đến
      Đau buồn chia xẻ với quê hương
      Nước ơi đã tạo cơn hồng thủy
      Sao chẳng dìm sâu lũ giặc cuồng?

      Bài thơ nầy không đằm thắm như những bài thơ trước. Cảm tính của nhà thơ bắt đầu bung ra. Tình cảm của anh sắc đậm hơn. Tiếng than của anh não nuột hơn. Nhưng cái bung ra, cái sắc đậm, cái não nuột ấy vẫn không trở thành tiếng rên siết, tiếng kêu la trầm thống. Chúng vẫn giữ cho nhà thơ cái đôn hậu, cái kín đáo dịu dàng căn bản. Chúng chỉ giúp cho ý thơ thấm sâu vào nội giới của người đọc chứ không phải là tiếng gào thét của công việc đả kích bạo quyền và công việc lạc quyên cho các nạn nhân vì cơn lũ lụt.
      Trong những bài thơ mà tôi vừa kể, trừ bài "Thư Gửi Chị" và bài"Một Chút Lòng Xin Gửi Quê Hương" đều là những dấu ấn của một chuỗi biến động nằm trong chặng đời dĩ vãng kéo dài gần 40 năm. Số đông đọc giả chúng ta có thể soi vào chặng đời đó để tìm gặp lại khuôn mặt mình cùng những khuôn mặt đi qua và ghé lại cuộc đời mình. Cũng vậy, chúng ta được đối diện lại chân dung các cuộc tình của mình, từng chặng lịch sử oai hùng của một miền Nam Việt Nam đã can trường chống Cộng cứu nước cho tới ngày chung cuộc 30-4-75. Chúng ta có thể nhớ lại những người chiến binh cũ, xa xưa.Giờ đây những người chiến binh ấy có những kẻ vùi xác ở đâu đó trên 4 vùng chiến thuật, có những người chết trong lao ngục, và có những người gánh nốt cái hệ lụy thảm khốc cùng căn phần lầm than trên đất nước.Và cũng có những người như Thy Lan Thảo âm thầm sống nơi một góc trời hải ngoại, đêm đêm chong đèn viết lại cái hồi ký đẫm đầy nước mắt máu xương. Hay là còn có những người vượt biển không thành, thịt xương chìm dưới đáy biển đông thăm thẳm
      Trong số các đôc giả, đã từng yêu đời lính trong cuộc nội chiến cách đây 35 năm có thể tìm lại ở thơ Thy Lan Thảo những hình bóng một chặn lịch sử, hình bóng một thế hệ hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc. Tất cả đã trở thành một ngọn lửa thiêng để họ nuôi bền bĩ trong quảng đời còn lại của mình, để giữ gìn cái ý nghĩa cao quý cho lý tưởng mình
      Thơ Thy Lan Thảo đặc sắc là những bài gửi về mẹ hoặc nói về mẹ.Tôi xin viết Mẹ khởi đầu bằng chữ M hoa. Vì Mẹ trong thơ anh không phải chỉ riêng của anh, mà là một bà Mẹ điển hình cho cả những người cùng thế hệ của anh.Ai đó có một bà Mẹ còn kẹt ở lại sau bức màn tre đang bủa vây khắp quê hương, khi đọc những bài thơ của Thy Lan Thảo chắc sẽ có cảm tưởng Mẹ của mình sẽ nhập làm một với Mẹ của tác giả và sẽ hoá thân thành một bà Mẹ Tổ Quốc, hoặc thiêng liêng hơn thành hoá thân của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria hay Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Đức Mẹ Đồng Trinh là Mẹ của nhân loại, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là Mẹ của mọi chúng sinh trong cõi Ta bà nầy, còn bà Mẹ Tổ Quốc là Mẹ riêng của dân tộc Việt Nam chúng ta,cả ba đều có chung tấm lòng từ ái bao la với lũ con
      Thy Lan Thảo xa Mẹ, nhưng chưa về Việt Nam thăm Mẹ, bị người chê trách anh không thương Mẹ. Nhưng Mẹ anh là người biết trưởng chí một thằng con yêu nước như anh. Theo truyền thống các anh thư, liệt nữ, tiết phụ, từ mẫu dũng cảm từ ngàn xưa, Mẹ anh muốn ngày anh về là ngày lịch sử sang trang, anh không còn khúm núm cúi đầu dưới bạo quyền để được đổi lấy một chuyến về thăm nhục nhã. Xin đọc bài thơ" Bài Thơ Trả Lời"( 9-8-99)mà anh dùng để trả lời" người gửi bài thơ hỏi tôi ( tức tác giả) sao không về thăm Mẹ"
      Người viết bài thơ gửi đến tôi
      Bằng lời chua chát trách trêu đời
      Bài thơ nhớ Mẹ tôi thường viết
      Là lúc lòng tôi vắng tiếng cười

      Nỗi nhớ khôn nguôi ngày xa xứ
      Lòng tôi tan nát buổi ra đi
      Người ơi có biết từng câu chữ
      Phân tấm lòng tôi- bước viễn ly!

      Lòng tôi trân quý thương và nhớ
      Nhưng buổi thay cờ- loạn nhiễu nhương
      Tôi vẫn không quên lời minh thệ
      Trước nghiã trung đài tỏa khói hương...

      Tổ quốc điêu tàn trước bạo quân
      Toàn dân nghèo đói khổ trăm lần
      Uổng đời chiến sĩ không tròn ước
      Chịu tiếng ươn hèn- sống nhục thân

      Người trách tôi thương tôi nhớ mẹ
      Sao lại không về thăm Việt Nam
      Nhỡ mai nhang khói buồn cô lẻ
      Bóng mẹ bơ vơ khuất nẻo trần!

      Ta hiểu người ơi! Trung với hiếu
      Một thân nhiễu loạn xẻ làm đôi
      Tôi về mẹ có tăng thêm tuổi
      Hay để giặc kia ngạo nghễ cười?

      Mẹ tôi, tôi hiểu lắm người ơi!
      Người đã cho tôi cả cuộc đời
      Mẹ vẫn khuyên tôi ngày trở lại
      Là lúc cờ xưa ngập cả trời

      Quê hương quang phục người sẽ thấy
      Bước giữa rừng cờ có bóng tôi
      Giặc thù trả lại ta sông núi
      Mắt mẹ lòa mây vẫn rạng ngời

      Bài thơ nầy có thuyết phục được niềm tin của người đọc hay không, điều đó không phải là điều tôi mong mỏi. Đọc giả có tin lòng thành thật của Thy Lan Thảo hay không, đó cũng là điều mà tôi không thích nêu ra đây. Anh không về thăm Mẹ có phải vì không muốn để " giặc kia ngạo nghễ cười", có phải lý do thật sự hay vì lý do nào khác, tôi vẫn không tìm hiểu.Tôi chỉ biết bài thơ nầy làm tôi sống lại thuở 13,14 tuổi đã từng chiêm ngưỡng các bà Mẹ trong truyện Tàu, bị giặc bắt làm con tin để dụ người con trai yêu quý của họ về hàng giặc, nếu không họ sẽ bị giặc giết.Những bà Mẹ dũng cảm can trường ấy thà chịu chết dưới tay giặc, chứ không cho con mình hàng giặc.
      Thế hệ của tôi( tức thế hệ trưởng thành vào 3 năm cuối của thập niên 50) đã un đúc tấm lòng yêu nước ngay khi còn học ở lớp nhất và ở 4 năm trung học qua các bài thơ của Phan văn Trị,Huỳnh Mẫn Đạt,Nguyễn Đình Chiểu, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Phan Bội Châu,, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh...Những bài thơ xiển dương lòng yêu nước và những bài thơ chống đối chủ nghĩa Cộng Sản của Bắc Phong, Vũ Kiện ở hải ngoại là nhịp cầu nối dài, là con đường tiếp tục con đường truyền thống của người xưa. Cho nên giờ đây, gặp các bài thơ yêu nước của Thy Lan Thảo, của Dư thị Diễm Buồn tôi không bỡ ngỡ. Cả hai vẫn có mối thù sâu sắc đối với Cộng Sản, dù thái độ vì nước quên tình nhà của họ bị một số độc giả ngờ vực đi nữa. Và bà Mẹ của họ có thật hay không, có chỗ đứng vững trong nghệ thuật thi ca hay không vẫn là điều không mấy cần thiết cho những kẻ có lập trường chống Cộng vững chắc. Lập trường đó củng tấm lòng chân thành yêu nước vẫn còn có những bà Mẹ như bà Mẹ cuả Thy Lan Thảo trong thi ca để có thể vinh danh bà Mẹ tổ quốc của chúng ta.
      Thy Lan Thảo đã phân bua với" người gửi thơ hỏi tôi sao không về quê thăm Mẹ" kia.Anh còn tâm sự với Mẹ anh khi anh nhập vào quốc tịch Mỹ ở bài " Mẹ Hiểu Lòng Con "( 1-6=-99):
      Mẹ ơi! Con viết thư cho Mẹ
      Giữa lúc lòng con...nỗi hỗn mang
      Trái đất nửa vòng quay vẫn nhẹ
      Đời tha hương... thoáng giấc kê vàng

      Đâu dễ gì quên chuyện bão giông
      Máu loang Bến Hải, nước chia dòng
      Mấy trang nhục sử- nghìn năm hận
      Rửa sạch thù xưa- máu mấy sông?!

      Con vẫn âm thầm đất tha hương
      Sống vay cơm áo- gió pha sương
      Bắc Nam sông máu chia thù hận
      Nay Thái Bình Dương cách biệt đường

      Đêm vũ đình trường Tăng Nhơn Phú
      Ngàn cánh tay thề giữ núi sông
      Ra đi đáp lại lời sông núi
      Nhiệt huyết đời trai trọn ý lòng...

      Mẹ ơi ! Xa xót lòng con lắm
      Một thuở đăng trình uổng chí trai
      Mấy năm đất khách còn in đậm
      Rừng núi, sơn khê, tủi nhục đày!

      Hôm nay đất lạ con minh thệ
      Nguyện sẽ trung thành với núi sông
      Mẹ ơi! Đau buốt lòng con trẻ
      Sông núi tha hương- nhớ Lạc Hồng!

      Con ngồi học lại từng trang sử
      Sử của người đâu giống sử ta
      Lòng con nhớ dáng Trưng Vương quá
      Nhớ sóng Bạch Đằng- Chiến thắng ca!

      Hôm nay chối bỏ công dân Việt
      Mang quốc tịch người Mẹ nghĩ sao?
      Nhưng giữa lòng con- Con rõ biết
      Quê hương chữ S vẫn ngọt ngào ...

      Sẽ có một ngày con trả lại
      Ta Việt Nam- Quang phục trở về
      Bắc Nam thôi hết điều oan trái
      Tủi nhục qua rồi thoát cõi mê.

      Cái đau xót của tác giả khi nhập quốc tịch mới chưa hẳn là tâm trạng chung cho những kẻ ngơ ngác trước cảnh ngộ mới, thân thế mới. Thường thì tâm trạng đó không đến nỗi đậm đà thành một nỗi đau; trái lại nó còn là niềm vui sướng cho những kẻ tính chuyện làm ăn lâu dài trên đất nước định cư. Tâm trạng của tác giả nếu ta nhìn về phương diện thực tế thì khá đặc biệt , gần như không thật. Song đứng về vị thế của đứa con an ủi Mẹ thì đối với kẻ lưu vong như chúng ta là một việc nên làm.Và nếu ta nghĩ sâu hơn, nhuyễn hơn một chút: đã bao năm chúng ta phụng sự tổ quốc của chúng ta, giở bỗng bị" quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh"( nói theo Vũ Hoàng Chương) để trở thành công dân nước mới, thì sẽ trung thành với tổ quốc mới và không còn tổ quốc thật sự để trung thành, để phụng sự. Đó là một điều đáng ngậm ngùi, đáng đau xót chứ, Cái đau xót, ngậm ngùi đó chỉ dành cho một số tối thiểu những kẻ có tâm hồn đẹp, có trái tim đập theo vận nước nổi trôi, có tấm lòng ái quốc thiết tha như Thy Lan Thảo.
      Nếu không phải vì không muốn cúi đầu trước kẻ thù để được về thăm Mẹ già ở quê nhà, mà vì một lý lẽ nào khác, Thy Lan Thảo vẫn muốn gặp lại Mẹ trong một hoàn cảnh thích hợp với anh. Tấm lòng mong mỏi Mẹ anh sống đến ngày anh trở lại quê nhà vẫn là tấm lòng chân thành. Những dòng thơ mà anh viết ở bài "Mẹ Sống Chờ Con"( 26-11-99) vẫn là những giọt máu ép vắt từ trái tim anh, những mảnh vụn của trái tim do anh xắt ra để rải vào thơ:
      Nhấc nhẹ phone lên xót cả lòng
      Run run tay bấm số thương mong
      Mẹ ơi! Đất nước ngàn xa cách
      Một chiếc thuyền nan- sóng chập chùng.

      Ngày tiễn con đi- mắt Mẹ buồn
      Tuổi già tóc bạc- trắng như sương
      Tám mươi ba tuổi còn đưa tiễn
      Mẹ khóc- con đi ướt bước đường...

      Đắng tủi lòng con- Mẹ của con
      Biển Đông dậy sóng- oán căm hờn
      Giặc về hoen ố niềm mơ ước
      Con biết từ đây... Mẹ héo hon!

      Bảy năm đất khách buồn xa xứ
      Mẹ vẫn mỏi mòn theo tháng năm
      Con vẫn âm thầm đời lữ thứ
      Tình quê- tình Mẹ- Buốt hờn căm

      Chị gởi cho con vội mấy dòng
      Mẹ già mòn mỏi đợi thương trông
      Tháng rồi trở bệnh nằm mê sảng
      Mẹ gọi tên con- mắt đỏ tròng...

      Mẹ ơi! Chua xót lòng con quá
      Đọc vội thư nhà buốt nhói tim
      Tám mươi chín tuổi thân còm cõi
      Đời Mẹ vẫn buồn... như bóng đêm!

      Hôm nay con gọi phone cho chị
      Run rẩy tay con- ý phập phồng
      Cầu nguyện xin đừng nghe tin dữ
      Đời con mất Mẹ- Tím chiều không!

      Mẹ ơi! Gắng sống chờ con Mẹ
      Sẽ trở về quê buổi nắng hồng
      Một sáng cờ xưa bay rạng rỡ
      Con về ôm Mẹ- thoả chờ trông.
      Thơ của Thy Lan Thảo tuy trong sáng, đơn giản, mà vẫn có vóc dáng chải chuốt của câu văn hay của câu thơ lấn át cái chân tình. Ở đây, thơ anh vừa đơn giản trong sáng vừa chải chuốt mà lại đạt luôn cái chân thành. Dường như khi viết về Mẹ hoặc đưa Mẹ vào văn chương, nhà thơ lẫn nhà văn như được thấm nhuần dòng suối thiêng liêng ngọt ngào ở tâm hồn, cho nên câu văn có cái đẹp chải chuốt nhưng rất truyền cảm mà họ không ngờ.
      Đọc tới bài nầy, đọc giả nào hay ngờ vực tấm lòng chân thành của tác giả cho thế mấy cũng phải nhận thấy tình cảm thiết tha của tác giả đối với Mẹ là dường nào.Chưa hết đâu bài " Đau Xót Đời Ta" mới có thề phản ánh nguyên vẹn nỗi đau đớn của anh khi anh hay tin Mẹ mình đã qua đời. Đọc giả có thể theo dõi trào lưu tình cảm và những đột biến của cảm xúc anh qua cuộc điện đàm viễn liên giữa chị ruột của anh ở quê nhà và anh ở Houston( Hoa Kỳ) hai nơi cách nhau nửa vòng trái đất. Bài thơ nầy được ghi viết vào ngày 2-1-2000
      Giọng chị run run - nấc nghẹn lời
      Ngàn xa quê Mẹ vẫn xa xôi
      Tay ghì chặc lấy phone lo lắng
      Mẹ của mình sao? Chị chị ơi!

      -Em ạ! Bình tâm chị nói đây
      Tuổi già trở bệnh mấy tháng nay
      Trưa qua mắt Mẹ như tìm kiếm
      Rồi khép vầng mi- nước mắt đầy!

      -Chị ạ! Mẹ nhìn, Mẹ tìm ai?
      Tìm em? Mẹ nhớ đến con trai
      Ngàn xa biền biệt không về lại
      Thương Mẹ nhớ em giọt vắn dài!...

      Em ạ! Mẹ nằm yên thật yên
      Thoáng trên khuôn mặt chút ưu phiền
      Mẹ thường nhắc nhở thằng con út
      Đời lính- ngục tù lắm truân chuyên!

      Chị ơi! xa xót lòng em quá
      Một tháng tư đen...dậy thảm sầu
      Bỏ nước ra đi lòng vẫn nặng
      Mẹ già nay ốm lại mai đau

      Em ơi! Đừng khóc mà nghe chị
      Vẫn biết em thương Mẹ rất nhiều
      Trong cõi thế nhân từ hoa mỹ
      Nào bằng chữ Mẹ rất thương yêu?

      Mẹ đi đến cõi vĩnh hằng xa
      Trời tháng mười hai- nắng nhạt nhoà
      Lạnh gió mùa đông- lòng thấm lạnh
      Mẹ về cõi ấy sống gần Ba

      -Chị ơi! Nước mắt nào cho đủ
      Để rửa thương đau, rửa ngậm ngùi
      Làm con mà phút lâm chung chẳng
      Được cạnh kề vuốt mắt Mẹ yêu

      Trong suốt đời ta chỉ một người
      Dáng tiên hiền dịu dẫu xa xôi
      Mẹ luôn dõi mắt theo chân bước
      Của đứa con trai đến cuối đời

      Trời tháng mười hai đất tạm dung
      Con nghe rét buốt cắt trong lòng
      Trong cõi vĩnh hằng Ba gặp Mẹ
      Riêng con mỏi mắt ...ngó từng không

      Có kẻ bảo rằng Thy Lan Thảo nếu chường mặt trên thi đàn hồi từ hai mươi năm về trước thì là đóng góp vào tiếng thơ thời đại chung nói lên cái thống khổ mất mát chung của dân tộc ta.Khốn nổi, hai mươi năm trôi qua, biết bao nhà thơ hải ngoại nổi tiếng hay chưa nổi tiếng đã khai thác bấy bầy cái thống khổ mất mát ấy, cho tiếng thơ của anh bớt đi hiệu lực truyền cảm và chỉ còn một sức thuyết phục yếu ớt đối với đọc giả.
      Song nếu chúng ta bình tâm suy nghĩ lại vấn đề then chốt như sau: hai mươi lăm năm qua, quân thù còn thống trị quê hương đất nước , đồng bào chủng tộc hãy còn oằn oại dưới ách thống trị ấy thì tiếng thơ của các thi sĩ đã từng ưu tư với Tổ Quốc và Dân Tộc vẫn còn nhắc nhở kiều bào rằng cái hiện diện của địa ngục trên quê hương do quân thù tạo ra hãy còn sờ sờ đó.Tiếng thơ của họ vẫn còn tiềm lực nuôi ngọn lửa thiêng trong lòng kiều bào để kiều bào còn có một điểm tựa trên xứ lạ quê người. và chúng ta chắc cũng nhận thấy, những quân dân cán chính nào trót sa vào tù ngục của Cộng Sản, dù sau đó được phóng thích thì cũng chỉ là trở lại cái tù ngục vĩ đại hơn: Đó là cả một đất nước được vây bọc bởi bức màn tre. Xin cùng đọc bài " Ý Của Ngày Về " mà tác giả sáng tác vào ngày 29-9-1999 để kết thúc bài viết về thi ca Thy Lan Thảo:
      Ta về gió vẫn còn mê loạn
      Đất buồn thiếu vắng tiếng vó câu
      Hơn tám năm dài trong tâm tối
      Bạc nửa đời ta- Trắng mái đầu

      Cũng vẫn phố phường im cảnh cũ
      Sài Gòn...ngọt ý rõ trong tâm
      Cưỡng chiếm miền Nam quân giặc dữ
      Hòn Ngọc Viễn Đông...bụi cát lầm

      Sài Gòn xưa mắt em thơ mộng
      Tà mỏng tung bay quyện gió chiều
      Tên giặc lấy thay tên thành phố
      Đôi mắt mờ che...bụi hắt hiu...

      Áo lụa Trưng Vương tan buổi học
      Thắm màu quai nón... ấp e duyên
      Gia Long trắng cả con đường nắng
      Đôi mắt hồn nhiên ngó thật hiền

      Xưa phượng hồng rơi đường Cường Để
      Mùa thi- Ý nhớ dáng Văn Khoa
      Trời ơi! Giặc dữ hơn hoang thú
      Tuổi trẻ miền Nam lệ ướt nhòa

      Ta về bước lẻ thân xa lạ
      Cảnh đổi đau thương quyện đất trời
      Cũng giống Lạc Long nhưng man trá
      Miền Nam nhuộm đỏ- sóng ngàn khơi

      Tám năm ta sống trong tù ngục
      Vẫn biết ngày về cuộc bể dâu
      Thực cảnh chỉ làm sôi ý sống
      Miền Nam rồi sẽ phải về đâu??...

      Hồ Trường An




      Con đi dưới lá cờ sao máu
      Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

      Comment

      • #4

        Cảm nghĩ của một đồng hương về thơ Thy Lan Thảo







        Trước tháng 11/2002 tôi còn chưa biết Thy Lan Thảo là ai,và thơ văn của anh như thế nào, mặc dù có nghe tên anh.Vậy mà bây giờ, chỉ sau một thời gian ngắn,tâm hồn tôi dường như thay đổi hẳn, tim óc tôi lúc nào cũng vương vấn một vài ý thơ đẹp đẽ, chân tình và đầy xúc động của anh.
        Bài thơ đầu tiên của anh mà tôi đọc là bài ‘Nghĩa Tình Vẫn Nhớ ‘. Chính lời đề tặng ‘Gửi Minh Kẽm... ‘ đã gợi sự chú ý của tôi,vi`đó là hỗn danh của một người cùng quê Gò công. Thật là môt sự ngạc nhiên thích thú :
        ..Lá sả, lá gừng, lá me chua
        Luộc mấy trự ốc bươu làm mồi
        Ớt hiểm chanh đường pha nước mắm
        Ba thằng ngồi nhắc kể sự đời...
        Tôi đã email bài thơ này cho chị tôi ở xa cùng đọc . Từ hôm ấy,hai chị em chia nhau tìm thêm thơ Thy Lan Thảo để chuyển cho nhau xem, vì đối với chúng tôi,thơ anh có một sức thu hút lạ lùng. Chúng tôi thường tự hỏi người này là ai mà có những sở thích, kỷ niệm, tâm tư và cả thời niên thiếu nữa cũng giống hệt như một người trong gia đình mình vậy.Những bài thơ của anh làm cho chúng tôi tự nhiên cảm thâý gần gũi với tác giả mặc dù chưa hề quen biết hay gặp mặt.
        Thy Lan Thảo làm thơ dễ dàng, tự nhiên như ăn, như thở, nhưng lời thơ rất đẹp, rất dễ thương, đầy ắp kỷ niệm và cảm tính nên rất dễ làm xao xuyến, rung động lòng người .Thơ như ve vuốt, như vỗ về, an ủi những tấm lòng thương nhớ quê hương:
        -Canh chua so đũa, tôm xóm Cội
        Muối ớt tươi màu, gạo Sóc Nâu
        Em nhắc cho anh thèm muốn khóc
        Đất lạ quê người tìm nơi đâu…
        -Đây Thung lũng Hồng xác bạn ta
        Chia nằm rải rác súng chen hoa
        Mắt cay ướt nhớ Tăng nhơn Phú
        Mà mộng thanh bình thật xót xa
        Tâm hồn mẫn cảm của anh nhìn thấy cái hay,cái đẹp trong những cái rất tầm thường.Trong thơ anh,những vật vô tri, hèn mọn cũng có linh hồn.Anh thổi vào chúng một làn hơi ấm áp, thương yêu, làm chúng hồi sinh, khởi sắc,sống động:
        Trái đậu rồng xanh tươi nét non
        Bên gìàn mới hái, gạo hương thơm
        Mắm tôm chà béo tình quê mẹ
        Ớt hiểm bên vườn cay rất ngon
        Thy LanThảo có biệt tài diễn tả các món ăn quê hương bằng lời thơ kích thích vị giác, nhắc cho người đọc thèm nhớ hương vị quê nhà, gợi lại nỗi nhớ nhà,nhớ gia đình,làng quê yêu dấu.Tình quê trong thơ anh đậm đà quá,thiết tha quá khiến cho người ta lắm khi trào nước mắt vì nhớ:
        Con cá rô mề kho củ cải
        Dĩa rau dền luộc, ớt sừng trâu
        ...Trời mưa ướt đất cây đơm trái
        Cơm buồi chiều hôm ấm ngọt ngào
        Nhà thơ ra đi đem theo vớí anh cả quê hương xóm làng.Niềm thương nhớ của anh vẫn luôn canh cánh bên lòng không phút nào nguôi.Mười năm sống trên đất ngườI là mười năm trăn trở, hoài vọng về quê hương .Trong từ điển thơ của Thy Lan Thảo không có chữ ‘định cư ‘ hoặc ‘ quê hương thứ hai’.Đối với anh, có lẽ Houston mãi mãi chỉ là đất tạm dung, một nơi tạm dừng bước chân lữ thứ, là một thứ sân ga mà ở đó, con tàu vẫn náo nức bồn chồn không yên , chỉ mong ngóng cái phút giây được hú còi, lăn bánh trở về chốn cũ:

        Nhiều lúc muốn quên,yên đời xa xứ
        Nhưng tâm tình đâu dễ xóa như mây
        Ai dễ quên,lòng của ta vẫn nhớ
        Lối cũ đường xưa,mưa gió tháng ngày
        Thơ Thy Lan Thảo có những bài rất buồn,rất não nuột,nhất là những đoạn cực tả thực trạng đất nước,nhưng không phải vì đó mà thành bi lụy ,yếm thế.Trái lại, thơ anh luôn ánh niềm hy vọng,tin tưởng vào một ngày vui sẽ tới,ngày Việt Nam quang phuc:
        Anh hẹn em anh sẽ trở về
        Một ngày nắng đẹp ấm tình quê
        Cờ vàng phất phới bay kiêu hãnh
        Mình sẽ bên nhau trọn ước thề
        Đọc thơ Thy Lan Thảo,ta thấy trái tim nhà thơ dàn trải trong từng lời thơ.Nhưng rõ nét và cảm động nhất là trong những bài viết về Me..Một bà mẹ mà tình yêu đã tưới đẫm lòng anh ,theo anh khôn lớn ra đời,ra nơi trận mạc, vào cả chốn lao ngục tối tăm cũng như dõi theo anh nơi xứ người, ngay cả sau khi bà khuất núi .Bà mẹ hiền ấy chắc đã không thể ngờ tình yêu dấu nồng nàn của bà đã đóng một dấu ấn sâu đậm vào tâm hồn đứa con từ lúc hãy còn thơ dại. Cậu con trai út bé bỏng tối ngày quẩn quanh lúc thúc bên bà đó,hơn nửa thế kỷ sau vẫn còn nhớ như in từng lời nói ,cử chỉ,việc làm của mẹ,vẫn mãi hoài tiếc nuối,khát khao được sống lại chuỗi ngày thơ bé thần tiên bên người hiền mẫu,được nếm lại những món ăn ngon thắm đậm tình cảm gia đình:
        -Hình như có chút hơi tay mẹ
        Trăn trở con khô giữa nắng hè
        -Bây giờ đất lạ trờ xa lạ
        Đủ mặc đủ ăn chỉ thiếu tình
        Thương yêu mà mẹ dành cho trẻ
        Hiểu được lòng con, mẹ hiển linh...
        Có người trách sao Thy Lan Thảo sau 10 năm lưu vong vẫn còn cứ đắm chìm trong nỗi nhớ nhà,nỗi đớn đau mất nước,không hướng về tương lai.Riêng tôi chỉ thấy nhà thơ đang làm những chuyện phải làm,kể những chuyện cần được kể lại ,để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người đừng bao giờ quên nỗi khổ ải oan khiên của dân tộc Việt Nam qua cuộc đổi đời bi thảm.Tâm sự của anh là tâm sự của Câu Tiễn ngày xưa mỗi đêm nằm trên tấm nệm gai và mỗi ngày mỗi nếm túi mật đắng treo trong nhà để cho mình không quên được mối thù phải trả.Thơ Thy Lan Thảo chính là túi mật đắng của anh và của chính chúng ta nữa,của tất cả những người Việt Nam còn dòng máu Tiên Rồng luân lưu trong huyết quản.Những vần thơ đáng được trân trọng,được ưu ái cất giữ trong mỗi người chúng ta:
        -Nay đất hình cong chữ S còn
        Phần tư thế kỷ nát giang sơn
        Giặc cày hoang phế bao đền miếu
        Đói khổ bần dân trí kiệt mòn
        -Trong tay giặc ,cuộc đòi và sinh mệnh
        Rẻ như bèo ai xa xót tiếc thương
        Tiếng than van - uất nghẹn nỗi căm hờn
        Quên sao được - hận thù cao chất ngất
        -Mẹ biết lòng con rực lửa thù
        Mắt nhìn cờ đỏ hận nghìn thu
        Quê mình nghèo lắm nên xơ xác
        Tổ quốc lầm than cảnh ngục tù
        Nhà thơ là nhân chứng sống của những ngày cuối tháng Tư đen,của cuộc triệt thoái tan hàng oan ức của một quân đội nức tiếng anh dũng,kiêu hùng .Anh đã tận mắt chứng kiến bao nhiêu cảnh thảm tử của đồng đội trong trận chiến sau cùng,cũng như của vô số thường dân vô tội trước họng súng cùa quân thù tàn độc dã man.Làm sao mà xóa nhòa trong trí nhớ những hình ảnh bi thảm tận cùng đó ?
        Là nhà thơ,anh chỉ còn cách ghi lại từng nỗi đớn đau,ức uất,căm hờn trong những dòng thơ bi tráng :
        -Từng tấc đầt,mất dần từng tấc đất
        Máu căm hờn ướt đẫm bước lui binh
        Tướng với quân quyết một còn một mất
        Giữa trận tiền thề quyết tử hi sinh...
        --Đại lộ kinh hoàng không bút mực
        Văn chương nào kể hết đau thương
        -Giặc xem sinh mạng dân như kiến
        Người chết đạn vương cả chục lần ...
        Từ niềm cảm thông vói nỗi tiếc thương quá khứ tươi đẹp hào hùng bên bạn đồng đội của tác giả,người đọc khó ngăn được giọt nước mắt tiếc thương ,tủi hận khi đọc những dòng thơ bi thiết này:
        -Vai xưa ta móc dây ba chạc
        Súng thắt lưng,tay giữ bản đồ
        Hôm nay vai gánh đầy đôi nước
        Áo vá quần tưa thân xác xơ
        -Cũng gọi giờ cơm,biết goị sao
        Bo bo mì bắp đắng lòng nhau
        Gánh gồng lao động như trâu ngựa
        TớI bữa ăn đói nhục lệ trào
        -Chữ nghiã vội vàng nhai chưa nuốt
        Thì tóc tai đẫm ướt gió mưa
        Tuổi mùa xuân ngắm trăng Việt Bắc
        Tám năm tù nằm nhớ chuyện xưa...
        Nỗi ám ảnh đau thương trong những năm dài đọa đày trong ngục tù Cộng sản vẫn còn theo mãi nhà thơ ra nơi xứ người .Cuộc sống yên lành nơi đây không đủ làm cho anh quên đi quá khứ.Anh nhớ mãi nó cũng như nhớ mãi chốn quê nhà nay đã cách biệt muôn trùng :
        Đất tạm dung bước đời như đại mộng
        Nắng tự do ấm áp đẹp tình người
        Nhưng trong lòng anh được mấy khi vui
        Vẫn nhớ mãi quê nhà còn đen tối...
        Ngày thường đã vậy,những ngày cuối năm,giáp Tết lại càng là thời khắc đau đớn,xót xa nhất với Thy Lan Thảo .Cũng như đối với mọi người tha hương,nỗi nhớ nhà càng trở nên quặn thắt,mãnh liệt trong lòng nhà thơ hơn bao giờ hết trong đêm giao thừa:
        -Đêm cuối năm lòng như chợ tan
        Xuống ca bước rảo rất vội vàng
        Lên xe lòng hướng về quê cũ
        Lăng lắc trời xa tiếng thở than...
        -Nghe làm sao được pháo giao thừa
        Trời chuyển mùa xuân lại gió mưa
        Nửa đêm biết có ông bà đến
        Hay chỉ mình ta nhớ chuyện xưa...
        Không đâu,không phải có mình anh mà còn rất nhiều đồng hương của anh qua những lời thơ anh ân cần nhắc nhở sẽ cùng anh ngậm ngùi nhớ về quê hương dấu yêu,nơi chất chứa bao nhiêu là kỷ niệm buồn vui,nơi cất giữ thời xuân xanh thơ mộng của mọi người,.Một nơi mà tất cả chúng ta,những người con xa lìa xứ sở đều thiết tha mong muốn,đợi trông có ngày được trở về đường đường chính chính để hưởng hạnh phúc đoàn viên, trùng phùng và nối lại những thân tình bấy lâu cách biệt.

        PHAN THỊ DIÊN HỒNG
        CANADA-Tháng giêng ,2003
        Con đi dưới lá cờ sao máu
        Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

        Comment

        • #5

          NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ
          *


          Nguyên Nhung xin giới thiệu thi tập đầu tay cuả nhà thơ Thy Lan Thảo, đó là thơ Thy lan Thảo, hay làVIẾT VỀ NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ: Thy lan Thảo
          Sở dĩ gọi anh là Người Lính Làm Thơ, cũng chính vì Thy Lan Thảo đã từng là một người sĩ quan trẻ cuả Tiểu Đoàn 50 CTCT, và anh đã làm rất nhiều thơ từ hồi anh còn trong quân ngũ.
          Mãi tới bây giờ, tập Thơ Thy Lan Thảo mới ra đời để đến tay bạn đọc, quả khá muộn màng dù rằng những người yêu thơ đã từng đọc thơ anh trên nhiều báo chí ở Hải ngoại. Nhưng dù yêu thơ anh, bạn đọc vẫn chưa biết nhiều về thân thế và cá nhân anh, mà mới nghe qua bút hiệu, có thể nhầm lẫn với một người con gái hiền hoà , xinh đẹp.

          Quả như vậy, thơ Thy Lan Thảo mượt mà lắm, bùi ngùi lắm, nhất là những bài thơ anh viết về kỷ niệm thời sinh viên, qua đến giai đoạn khi anh là một người lính, thì chất thơ cuả anh đã bàng bạc gói ghém được không gian và thời gian cuả một người lính, khi anh nhắc đến khá nhiều địa danh nơi phố núi mù sương, cũng là chỗ đóng quân cuối cùng trong đời lính cuả anh, như trong bài thơ "Chút Ý Tháng Tư "sau đây:
          " Sông Ba loang máu hờn oan khốc,
          Quân ngác ngơ đi, thân rã rời,
          Từng bước về Nam, từng tấc đất
          Mất dần, lang sói... lửa ma trơi"
          Ngoài những niềm đau tháng Tư, thơ TLThảo là những triền miên ray rứt, mà vẫn là những ý đẹp thiết tha gửi trao cho người con gái có tà áo trắng, có mái tóc dài buông lơi xuống hai bờ vai. Bây giờ nơi xứ người, khi trời đã chuyển mùa từ Hạ sang Thu, anh vẫn khắc khoải khi gói ghém mấy vần thơ gửi về người em xa xôi ấy như sau:
          " Chiều nay em có buồn không nhỉ?
          Chút gió lạnh về đổi tiết thu
          Sáng nay mới gọi về thăm mẹ
          Vẫn nhớ thương dâng xót ý mờ
          Đất tạm dung mấy muà thu đến
          Mấy mùa lá đổ , trắng lòng đau
          Đếm dần tuổi tác, lo thêm mệt
          Tóc đã sương pha, trắng cả đầu."
          Anh viết thật, rất thật, những câu chuyện kể bằng thơ được gửi về quê cha đất tổ, gửi về mẹ về em, Thy lan Thảo đã khiến người đọc ngậm ngùi đến rơi lệ.Nó cũng là những kỷ niệm cuả người lính trẻ với cô em gái hậu phương, những kỷ niệm chiến trường, những phố phường , khuôn viên trường Đại học, những chiều Thủ Đô, và bao nhiêu niềm thương nỗi nhớ về người mẹ yêu dấu chốn quê nhà. Nay mẹ hiền đã mất, con cũng sống nốt cuộc đời còn lại trên đất khách, thơ Thy Lan Thảo thật bát ngát, mênh mông với những kỷ niệm cuả dĩ vãng
          Đôi hàng tiểu sử cuả nhà thơ Thy Lan Thảo:
          Anh sinh quán tại làng Tân Niên Trung, tỉnh Gò Công, miền Nam Việt Nam.
          Là con út trong một gia đình giáo chức có 6 anh chị em. Trước năm 1975, anh phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đã phục vụ nhiều năm ở Tiểu Đoàn 50 CTCT, và sau đó trải qua hơn 8 năm tù trong các trại tù CS ở miền Nam cho chí miền Bắc.
          Sau đó, anh qua Mỹ theo diện HO14.

          Trong thi tập " Lai láng dòng phù sa", nhà văn Hồ Trường An đã viết về Thy lan Thảo như sau:
          * "Đề tài cuả thơ Thy Lan Thảo vốn thật gần gũi với đa số độc giả, đã trải qua bao cuộc thăng trầm cuả tổ quốc, bao vận nước nổi trôi từ cuộc chiến tranh Đông Dương, giữa Pháp và Việt Minh, kinh qua cuộc nội chiến Quốc Cộng , qua thời gian sau ngày miền Nam thất thủ, cho tới ngày sống tha hương nơi hải ngoại. Dĩ nhiên chúng đã được các nhà văn, nhà thơ lưu vong vốn uư thời mẫn thế cuả chúng ta khai thác trên 20 năm qua, nhưng mỗi người khai thác một cách khác nhau, bằng thái độ, bằng góc độ cái nhìn, bằng khía cạnh nhân sinh quan khác nhau. Ở Thy lan Thảo là thái độ dịu dàng đôn hậu, đằm thắm. Anh không hung hăng với kẻ thù, anh không quằn quại rên rĩ với số phận cay nghiệt, anh cũng không phóng mắt vào hoàn cảnh nào khác ngoài hoàn cảnh và biến cố kế tiếp xảy đến cuộc đời anh. Anh không phóng chiếu cái nhìn vào viễn tượng lộng lẫy ở chân trời thi ca nào khác. Anh nắm bắt những gì anh cảm xúc, những gì anh hiểu biết, không để tham vọng anh lôi cuốn anh vào những cuộc phiêu lưu sa đà khi sáng tác thơ. Thơ anh do đó tuy không tân kỳ và lộng lẫy nhưng được cái tính khiêm tốn và chân thật.
          Thy lan Thảo là một cựu chiến binh, đã đi khắp 4 vùng chiến thuật. Anh có mặt trên 2 con đường máu Đại Lộ Kinh hoàng năm 1972, và tỉnh lộ 7B trong những ngày từ Kontum di tản về Nam. Khi sang định cư ở Houston ( Texas) anh vẫn chưa nguôi những ám ảnh, những ác mộng trong cuộc đời binh ngũ. Do đó, anh nhớ thời oanh liệt xưa, nhớ bạn đồng đội trong tình huynh đệ chi binh lớn rộng và thiết tha."

          Những nhận xét cuả nhà văn Hồ Trường An về thơ Thy lan Thảo rất trung thực, vì trong thơ anh đã chuyên chở được từng ý lời về quê hương, về lý tưởng, về gia đình, tình yêu... .Thay vì bằng văn xuôi, Thy lan Thảo đã dùng loại văn vần, từ những vần lục bát nhịp nhàng , cho tới những bài thơ năm chữ, bảy chữ, anh vẫn gói ghém được hết ý lời mà anh muốn bày giải. Đọc thơ Thy Lan Thảo là nghe anh kể chuyện , những món ăn dân dả bình dị, những hình ảnh đẹp cuả quê nhà, những tình cảm chắt chiu cho mẹ, cho em, cho chị, cho người tình , những khốn khó đau thương trong cuộc đời, mỗi một bài thơ là một bài tâm sự. Để cuối cùng thì nhà thơ vẫn ngậm ngùi, vì lý tưởng không đạt được, vì buồn cho thân phận quê hương, và chính bản thân tác giả sống qua ngày nơi đất tạm dung, cho nên đọc thơ anh là đã đọc được NỖI NHỚ đầy ắp trong đó.
          Xin gửi tới quý bạn đọc một bài thơ ý rất đẹp cuả nhà thơ Thy Lan Thảo, hay chính là nỗi lòng cuả anh, qua bài thơ " Tuổi Vẫn Còn Buồn" sau đây:

          Năm mươi tuổi ngồi đút cơm con
          Ta thấy trong ta thoáng chút buồn
          Một thuở đời trai vui chinh chiến
          Hạ buồn gãy kiếm rũ căm hờn

          Bảy năm làm lính tám năm tù
          Phận mỏng duyên hời chiếc lá thu
          Đời đã xô ta vương hệ luỵ
          Nước trong- giòng phẳng dậy căm thù. . .

          Mười lăm năm lưu lạc Thuý Kiều
          Tiền Đường rửa sạch mọi phiền ưu
          Chút niềm an ủi thân bèo bọt
          Kim Trọng tình như ngọn sóng triều. . .

          Mười lăm năm ta lắm muộn phiền
          Thân tù đất Bắc đắng niềm riêng
          Giặc thù như hổ, như lang sói
          Đất nước lầm than trong ngửa nghiêng!

          Nỗi nhà cha mẹ trông chờ đợi
          Héo hắt tuổi già cảnh lá lay
          Đôi mắt huyền sương cô bạn cũ
          Hôm nào ướt lệ buổi chia tay. . .

          Rũ bụi hồng trần Kiều viên mãn
          Bên cha bên mẹ các em yêu
          Ta về Cha đã yên lòng đất
          Tuổi mẹ buồn theo vệt nắng chiều. . .

          Hỏi em, cô bé năm xưa đã
          Pháo nổ xác hồng đã mấy năm
          Hôm nay chắc đã con bồng ẵm
          Đời vẫn buồn vương bụi cát lầm. . .

          Ta về xơ xác cây muà hạ
          Một chút duyên tình ủ ấm thân
          Cũng may mưa gió mà thân lá
          Vẫn vững trong cơn bão loạn cuồng

          Năm mươi tuổi, con nhỏ lên ba
          Con chị mới vừa học lớp hai
          Trong buổi trời chiều còn chút nắng
          Là niềm an ủi bước tương lai. . .

          Cung kiếm rỉ hoen buồn xa xứ
          Bao giờ về lại với quê hương
          Dặm xa tóc đã phai màu nắng
          Áo vẫn còn hoen vết bụi đường. . .
          Thơ Thy lan Thảo.
          Còn nhiều lắm, mỗi bài thơ là kỷ niệm cuả riêng tác giả, nhưng nó gần gũi quá như là kỷ niệm cuả mọi người, vẫn còn giữ trong tim những tháng ngày cũ, những hình bóng cũ. Gần 180 trang, với hằng trăm bài thơ chọn lọc, hy vọng khi cầm thi tập này, mọi người sẽ dành cho người lính làm thơ Thy lan Thảo, những cảm tình yêu mến chân thành nhất. Sách in đẹp, bìa trang nhã, ấn phí là 12 Mỹ kim.


          Nguyên Nhung
          Con đi dưới lá cờ sao máu
          Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

          Comment

          • #6

            VÀI NÉT VỀ THI TẬP
            THƠ THY LAN THẢO
            *


            Cây sống lâu năm không có tàn cũng có lõi. Đó là kinh nghiệm sống thu liễm được của riêng tôi. Và người xưa cũng đã từng nói:"Đường xa mới biết sức ngựa"( Trường đồ tri mã lực); để chỉ đến sự thực đạt chân giá trị phải kinh qua thử thách một thời gian đủ dài để kiểm nghiệm, về lượng hoặc về phẩm...Dường như đây là một quy luật từ khoa học thực nghiệm đến vấn đề nhân văn, từ nghệ thuật đến âm nhạc thi ca...
            Bời thế, đọc thơ thì dễ dàng cảm nhận ngôn từ âm điệu, nhưng thưởng thức thơ về vận, luật, từ, tứ và tâm hồn của tác giả gửi gấm trong ấy...để có thể hạ lời bình phẩm:" Cao như tiếng hạc bay qua, đục như tiếng nước mới sa giữa dòng..." hay là " lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu" quả là một vấn đề không đơn điệu .
            Tập " Thơ Thy Lan Thảo " vừa xuất bản tháng 8 - 2003, và chính tác giả có nhã ý gửi biếu tôi một quyển. Đọc thơ anh, những người quê nước mặn đồng chua Gò Công như sống lại những ngày thơ trẻ năm xưa ở quê nhà. Với những món ăn đơn sơ đượm tình dân tộc, gần gũi xóm làng, như bài " Gò Công ơi ta nhớ " . Rồi từ đó miên man gợi nhớ đến bạn bè, chiến hữu, cùng những hoài vọng thiết tha của trai thời chinh chiến, xong pha trận mạc, để rồi...rã đàn tan nghé, hụt hẫng chua cay những gì do mình trách nhiệm như bài " Oan Khốc Sông Ba ". Và tác giả miên man nghĩ về bằng hữu người còn kẻ mất, nghĩ về thâm tình quê mẹ- nhất là mẫu tử tình thâm, vẫn là cái cao quý nhất, đậm đà nhất và miên viễn nhất, như bài " Viết Cho Mẹ Trong Ngày Mother Day ".
            Thơ Thy Lan Thảo còn lan toả đến cảnh tù tội dưới chế độ Cộng Sản, đổi đời và nhân tình thế thái theo vận nước sau tháng tư đen 1975, khiến cho dù ai không ở Gò Công, không cùng chung thế hệ, đọc qua tập thơ Thy Lan Thảo cũng thấy có mặt mình ít nhiều trong ấy...
            Với Thy Lan Thảo, tôi biết nhiều về anh hơn anh biết về tôi. Vì thề hệ của anh và bạn bè anh là những người đi kế sau tôi một bước. Cho nên qua thơ của anh, tôi đọc rõ cả những gì sau câu văn, hàng chữ...Một triết gia lỗi lạc- một Sophos- đã từng nói rằng:" Ngọc quý là vì ánh sáng chứ không hẳn là vì hoàn mỹ". Trên đời nầy thực sự không có gì hoàn mỹ. Vì thế nên tập " Thơ Thy Lan Thảo " quả có cái ánh sáng của viên ngọc quê hương, mà chúng ta có thể trân trọng nó.
            Tính cho đến nay, tập thơ nầy đã được nhiều bạn bè và người yêu thơ tìm đọc. Tôi hy vọng tác giả Thy Lan Thảo sẽ thu hoạch thành công về tác phẩm của mình. Và một lần nữa, tôi xin hân hạnh giới thiệu thi phẩm " Thơ Thy Lan Thảo " cùng đọc giả và bạn bè xa gần.



            Mạc Hoài PVM

            Con đi dưới lá cờ sao máu
            Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

            Comment

            • #7

              CẢM NHẬN TỪ THƠ THY LAN THẢO
              *






              Gần mười năm qua, đôi khi tôi được đọc những bài thơ giàu tình cảm quê hương và đẫm tính cách đấu tranh trên một số báo chí, dưới ký tên Thy Lan Thảo, một bút hiệu có vẽ của một nữ sĩ.
              Nhờ một duyên may hôm nay tôi nhận được thi tập Thơ Thy Lan Thảo xuất bản năm 2003. Quả là một tình cờ đáng yêu, đáng nhớ và rất bất ngờ. Tập thơ nầy có bìa màu xanh láng và bức tranh màu vẽ khá đẹp, giàu ý nghĩa, phù hợp với nội dung của họa sĩ Trần Cang.Trong tập thơ nầy cũng có hai bức tranh mầu và phụ bản cùng thư họa của họa sĩ Vũ Hối
              Có hai bài giới thiệu của Hồng Phan và M.H Hòai Linh Phương như phần tựa và trích đọan thư gửi của Hòang Châu như bài Bạt.Thi tập dày trên 170 trang, chữ khổ đậm đọc rõ và rất ít lỗi chính tả.
              Tôi nghĩ các bạn anh đã viết giới thiệu tưởng quá đầy đủ và thơ anh thể hiện một cách giản dị và trực tiếp nên hầu như chẳng còn gì nói thêm. Nhìn chung thấy chỉ có hai thể thất ngôn tứ tuyệt phân đọan và thể tám chữ vần liền mà sau thập niên ba mươi của thế kỷ hai mươi ở nước ta có nhiều người gọi là thơ mới sau bài Nhớ Rừng của Thế Lữ.
              Riêng tôi nhận thấy có thể chia làm năm mạch thơ của trường giang thi tứ Thy Lan Thảo. Các dòng suối ấy hay những nhánh sông con nọ hợp thành một dãy vận hà chuyên chở ý tình của anh. Đấy là Lý Tưởng Chiến Đấu, Tù Đày, Quê Hương Gò Công, Tình Bạn và Thân Nhân của anh.
              Tôi xin trích giới thiệu theo chủ quan một số câu để bạn đọc có một ý niệm khái quát nội dung tư tưởng thơ Thy Lan Thảo mà sợi mạch xuyên suốt của thi phẩm chứng tỏ anh vẫn là một chiến sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa kiên cường và sắc son hy vọng.
              LÝ TƯỞNG CHIẾN ĐẤU
              Tấm lòng của Thy Lan Thảo luôn luôn ngời ánh lửa sáng ngời nhiệt tình từ huy hiệu của quân trường và phân biệt rõ ràng ta địch dù đang cầm súng hành quân hay trong các trại tù gian khổ hoặc đang sống nơi xứ người
              Ngay như đối với thân nhân, bằng hữu nhiều khi anh vẫn phơi tỏ can tràng và nêu lên lý tưởng hết sức tự hào. Anh có nhận thức qua lịch sử bi hùng của dân tộc:
              Trải bao tai biến người dân Việt
              Vẫn vững niềm tin trọn ước mơ
              ( Có Phải Là Mơ )
              Trong bài Cờ Vàng Sẽ Bay, tôi thích chữ trắng vì vừa nói được tấm lòng trong trắng thanh sạch lại nói được cụ thể là cái đói rỗng trong bụng của những người lam lũ bần cùng trong xã hội:
              Mảnh chai giấy vụn như nghề sống
              Nắng gió buồn hiu, trắng cả lòng…
              Tác giả mhớ lại cuộc hành quân rút lui của Quân Đòan 2 theo tỉnh lộ 7B từ Pleiku qua Cheo Reo rồi tới Tuy Hòa mà anh là chứng nhân:
              Hai mươi năm rồi lộ 7B
              Sắt son ai giữ được câu thề
              Bao giờ rửa được hờn sông núi
              Hay vẫn chìm quên trong lãng mê?
              ( Hai mươi Năm Rồi Tỉnh Lộ 7B)
              Niềm tin của anh vào chính nghĩa trở thành vàng đá của đời sống sau năm 1975 và được tôi luyện thử thách bất cứ ở đâu và lúc nào:
              Vững niềm tin mưa gió của trời đông
              Cũng phải nhường nắng ấm mát xuân hồng
              Cờ máu kia thay bởi lá cờ vàng
              Trả nắng ấm cho miền Nam nước Việt
              ( Không Thể Quên)
              Đại bi kịch của cuộc triệt thóai Tây Nguyên trở thành nỗi ám ảnh không dứt:
              Tự nguyện hiến dân đời gió bụi
              Diệt thù dành lại chữ tự do
              Bốn vùng chiến thuật chân không mỏi
              Lòng vẫn yêu say mộng hải hồ…
              ( Oan Khúc Sông Ba)
              Nhiều khi đọc thơ Thy Lan Thảo tôi có cảm tưởng tác giả là khách chinh phu đã từng Thét roi cầu Vị ào ào gió thu và niềm lạc quan tin tưởng của anh như hai vầng nhật nguyệt mùa xuân:
              n nửa đời dù xác thân mục nát
              Một chút lòng ta gửi gió bốn phương…
              ( Quê Hương Rồi Sẽ Đẹp)
              Như con chiến mã xông pha trăm trận nay phải ở trong chuồng hẹp luôn nhớ lại thảo nguyên, lam sơn và thanh tuyền, vó gõ gộp cộp vào đường khuất vườn nhà và lạnh lùng hí lên giữa mùa đông tuyết trắng xóa chân trời. Tráng sĩ không còn mài kiếm dưới trăng mà bụi thời gian che khuất tầm nhìn, nên lòng tràn hòai niệm:
              Cung kiếm rỉ hoen sầu viễn xứ
              Bao giờ trở lại với quê hương
              Dặm xa tóc đã phai màu nắng
              Áo vẫn còn hoen vết bụi đường.
              ( Tuổi Vẩn Còn Buồn )
              THÂN PHẬN TÙ ĐÀY
              Như tên một cuốn sách của Tạ Tỵ, những ngày sống trong lao tù của Cộng Sản đúng là trong đáy địa ngục.Chúng hành hạ về thể xác, bóp méo nhận thức, hết sức vu cáo, lý luận thì ấu trĩ và võ đóan theo chủ quan và nhản quan chánh trị một chiều và triệt tiêu cả đời sống tình cảm và tâm linh.
              Mời các bạn đọc vài trích đọan:
              Nắng ngã bên kia triền núi dựng
              Thu gom củi đốn kéo về thung
              Bứt lá vang rừng nhai thấm giọng
              Hướng mắt trời Nam đắng cả lòng…
              ( Đốn Củi Nam Hà )
              Bây giờ đất lạ đông băng giá
              Không thấy rét lòng như thuở xưa
              Trời Hà Tây mùa đông kéo cá
              Da bọc xương, sẫm tím gió đùa
              ( Lạnh )
              Buổi tối xe tù chuyển ra Tân Cảng
              Mỹ Phước Tây, từ giã Mỹ Phước Tây
              Địa ngục trần gian trói chân phiêu lãng
              Rũ cờ buồn đau xót mắt vương cay…
              ( Trên tàu Sông Hương )
              Cho tù ăn giống như chuyện giởn
              Bắt tù làm như máy vô tri
              Đêm đêm kiểm điểm ngối bắt ớn
              Một thuở hoa niên tuổi xuân thì…
              ( Xanh xao Tuổi Buồn (
              QUÊ HƯƠNG GÒ CÔNG
              Theo tôi, Thy Lan Thảo thành công hơn cả khi anh viết về quê hương và gia đình. Đó là những câu dung dị, chân chất và phong phú nhất.Thể hiện được ý tình về nơi sinh thành và bày tỏ tình cảm đằm thắm, thiết tha với thân nhân như anh đã khiến lòng tôi xúc động.Mảng tình cảm nầy thật đa dạng và cụ thể. Viết như vẽ ra, bầy ra và chứng tỏ có kiến thức cao về sinh họat miền quê.
              Anh cho biết tỉnh Gò Công là một tỉnh cũng trù phú và chiến tranh hầu như không có mặt tại miền nầy dù hai tỉnh kế cận luôn luôn có những trận chiến ác liệt. Tác giả yêu quê hương mình qua cánh đồng, những rau gia vị, các món ăn:
              Nhớ đến quê mình sau vụ lúa
              Đất đồng hoang nẻ, nắng lung linh…
              ( Chuyển mùa)
              Con cá rô mề kho củ cải
              Dĩa rau dền luộc, ớt sừng trâu
              Trời mưa mát đất cây đơm trái
              Cơm buổi chiều hôm ấm ngọt ngào…
              ( Nhớ Cơm Nhà )
              Miếng đất quanh nhà rau quê hương
              Ớt chỉ thiên, ớt hiểm, ớt sừng
              Thêm ít giá, cà chua, xà lách
              Bia uống sao bằng đế Gò Công…
              ( Thấm đậm lòng Con)
              Và đây cũng là một chủ quan dễ thương:
              Đầu năm thắm sắc mai vàng nở
              Thương nhớ Gò Công đâu riêng ta…
              ( Thư Xuân Gửi Muội )
              Tình yêu của Thy Lan Thảo cũng phảng phất, pha trộn với tình quê hương dằng dặc:
              Em trưa mùng một, anh giao thừa
              Xuân muộn mà xuân đã đến chưa?
              Gió chướng Gò Công em có nhớ?
              Một mùa xuân cũ rất xa xưa
              ( Xuân Tha Hương )
              TÌNH BẠN VÀ TÌNH ĐỒNG NGŨ
              Tác giả có hai lớp bạn: bạn quê hương và bạn cầm súng. Ý thơ của anh dàn trải, nhắc nhớ kỷ niệm và nhớ thương không cùng làm chúng ta xúc động về một thế hệ trong bối cảnh chiến tranh kéo dài mười lăm năm. Kẻ ra đi vĩnh viễn người ở lại với niềm tưởng vọng triền miên. Nỗi xa cách thêm nặng cảm hòai. Tân Thành như một điểm linh tưởng chan chứa sầu thương.Mời bạn đọc tiếng lệ vừa vang lên trong tâm cảm của một chàng trai nặng tình nghĩa:
              Bích ơi! Nhắc nhớ làm sao hết
              Đất khách quê người gặp thấy vui..
              Ta ở nhà ta mà đất khách…
              ( Đất Người Gặp bạn )
              Mấy đứa bạn trai, đứa còn, đứa mất
              Thằng Đỉnh,thằng Tòan chết tuổi hai mươi
              Thằng Hùynh, thằng Sơn…tù đày Việt Bắc
              Đứa vượt biên, đứa ở lại ngậm ngùi…
              ( Hôm nào thăm lại trường xưa)
              Thật là một cuộc điểm danh đầy ảo não! Rồi anh tuôn lệ cho ngày tử biệt:
              Mỗi lần tin bạn đau buồn đến
              Tao khóc riêng tao, ứa tủi đời …
              ( Nghĩa Tình Vẫn Nhớ)

              Rồi anh hẹn ước với các người bạn đang sống mòn mỏi ở quê hương song chưa có nhật ký hồi hương chắc chắn vì tổ quốc vẫn còn bị tòan trị bởi một Đảng tự cho mình cái quyền lãnh đạo mãi mãi:
              Kẽm ơi, mai mốt tao về lại
              Khô cá sặt rằn mày đãi tao

              Rượu Gò Công xóa buồn oan trái
              Cụng ly mày cho thỏa lòng nhau
              ( Nhớ lắm bạn xưa)
              Gò Công là miền đất mơ và Tân Thành là khung trời viễn mộng luôn luôn hiện hình trong tâm thức dẫu cả ban ngày:
              Về Tân Thành, tôi mê hay tôi tỉnh
              Anh đừng buồn tôi nhắc chuyện trong mơ
              ( Sao Vẫn Là Mơ )
              THÂN NHÂN
              Một phần nội dung của tập thơ để mô tả cảm nghĩ về thân nhân mà anh rất coi trọng. Tấm lòng hiếu để, trái tim chung thủy và sự tôn kính chân thực được thể hiện khá xuất sắc. Tuy có ước lệ song sự thành thực làm người đọc thông cảm, dễ dàng chia sẻ cùng anh. Phần nầy tôi trích dẫn hơi dài vì muốn người đọc biết anh nghĩ ngợi và rung động ra sao đối với từng người:
              May mà em đợi từ tiền kiếp
              Thuở đất trời chưa nổi hôn mê
              Chút ấm mắt đời tươi tha thiết
              Tình em ý đẹp nghĩa phu thê…

              Em thêu lành áo năm xưa rách
              Trọn ý tình ríu rít đôi chim
              ( Em Thêu Áo Mặc Ấm Đời Anh )
              Chị ơi! Em vẫn chưa về được
              Chị gắng thay em chuyện cửa nhà
              ( Lòng Em Gửi Chị )
              Vẫn Mong Gặp mẹ trong thương nhớ
              Đất tạm dung buồn tím cả lòng…

              Buồn quá xứ người nuôi thương nhớ
              Tin ba nằm xuống con trong tù
              Được tin mẹ mất trời đông giá
              Mất hết đời con đen tháng tư…
              ( Mẹ Đến Trong Mơ )
              Hình như có chút hơi tay mẹ
              Trăn trở con khô giữa nắng hè
              Tất cả tâm lòng cho con trẻ
              Mẹ chờ mẹ đợi bước con về…
              ( Thâm Tình Con Nhận)
              Ngọai với mẹ luôn là thơ là nhạc
              Con chỉ còn tìm trong kỷ niệm xưa
              Năm mươi mấy tuổi nghe lòng tan nát
              Ngọai, mẹ bây giờ xin hỏi gió mưa
              ( Vẫn Thực Lòng Ta )
              Mai về thăm lại quê hương cũ
              Lối bước năm xưa, cỏ vệ đường
              Mắt em chắc sẽ mờ sương lệ
              Bởi thấy quanh mình cảnh cũ vương
              ( Vết Cũ Còn Vương)
              Ngày vào lính ba buồn nhưng ý khác
              Con đi xa đời trắc trở chênh chông
              Ba rõ hiểu đời trai là gan mật
              Phải gió sương mới rõ nghĩa phiêu bồng…
              ( Viết Cho Ba Ngày Father’Day)
              Như tôi đã viết nội dung thơ Thy lan Thảo chia làm năm nhánh. Chúng ta cũng có thể gọi đó là đóa hoa mai hay là năm cánh của một ngôi sao. Hoa thì rực rỡ ngát hương trong tân xuân, còn ngôi sao lấp lánh trên bầu trời trung thu.
              Về kỷ thuật dựng của Thy Lan Thảo quả có công phu. Sự sắp đặt niêm vần khá tự nhiên nên có nhạc tính. Rất ít vần thông mà thường là chính vận. Song đôi khi có hơi lạc vần như Rưng rưng vần với tình thân trong bài Nhớ Bạn Ngày Xưa.
              Tôi biết anh sáng tác khá nhiều thể thơ khác. Tôi không thấy anh cho biết sẽ in trong thời gian tới các thi tập mới. Rất mong anh lại cho ra mắt sớm các tập thơ nữa mà tôi tin sẽ được hoan nghênh. Tôi lại nghĩ: Anh nên đặt tên cho tập thơ như thi tập nầy. Chỉ trong trường hợp anh in tuyển tập thì anh lấy tên giản dị như Thơ THY LAN THẢO.
              Xin tri ân anh đã gửi tặng tôi thi tập nầy. Cảm phục ghi nhận một ý chí kiên cường của một chiến hữu. Thích thú biết bao một tâm hồn quê hương thắm thiết! Hân hạnh được làm quen với anh, một nhà thơ đầy triển vọng ở hải ngọai. Và mong chiến sĩ tiếp tục lên đường với nguồn nghệ cảm và sẽ thành công rực rỡ hơn nữa…

              HÀ TRUNG YÊN
              Thành Tân Cơ bang Lê Gia Hoa Kỳ thu Giáp Thân 2004
              Con đi dưới lá cờ sao máu
              Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

              Comment

              • #8

                THƠ THY LAN THẢO
                *
                MIÊN THỤY



                Đó là tên tập thơ của nhà thơ Thy Lan Thảo, mà tôi vừa nhận được vài hôm, khi bất ngờ anh có nhắc đến anh Thái Tăng An trong Cộng Đồng Người Việt tại Hoà Lan nơi tôi đang cư ngụ . Nói đến Thái Tăng An không ai là không biết nhất là chốn sinh hoạt của những người đã và đang là những người đóng góp và xây dựng cộng đồng qua các nhiệm kỳ vừa qua . Anh An đã đóng góp không ít cho nền văn hoá tại Hải Ngoại nhất là tại Hoà Lan, anh là một hoạ sĩ , Tuyển Tập Mùa Đất Thấp gồm gần 20 thi văn sĩ đã góp mặt chung do Cái Đình xuất bản vào năm 1998 đã do anh vẽ bìa và giúp trong việc ấn loát .

                Bỗng dưng câu chuyện tự nhiên quen biết nhau qua Thái Tăng An và một người bạn là anh Nguyễn Toàn bên Lê văn Duyệt , chúng tôi có cảm giác như cũng đã quen nhau đâu từ trước đó rồi . Tưởng cũng nên nhắc lại với anh TLT là tôi biết anh khi anh có mặt trên trang web của Cộng Đồng Hoà Lan ở nhiệm kỳ trước, tôi đã thấy hình ảnh của Thy Lan Thảo và trang thơ riêng mà Cộng đồng Hoà lan đã dành đặc biệt cho anh với giòng tiểu sử và một loạt bài thơ ở một vị trí trang trọng . Ngoài Thy lan Thảo và còn vài người khác như Lưu Thái Dzo , thơ Ý Nga v..v. Cho đến khi anh đóng góp mục thơ trên Trinh Nữ , tôi bỗng giật mình vì tôi không ngờ mình lại gặp nhau và cùng sinh hoạt dưới mái nhà Trinh Nữ.

                Sau đó anh TLT có nhã ý tặng tôi tập thơ để đọc, thường thì thi văn sĩ chúng tôi là vậy , lắm lúc như cảnh trao đổi tù binh, người này có cái khác hơn thì mang ra trao đổi . Câu này tôi nghe trước đó anh NMC nói với tôi, lúc đó tôi chỉ cười thôi , nhưng bây giờ nghiệm lại thì thấy quả đúng không sai

                Tôi nghĩ chắc anh TLT cũng như tôi thôi khi làm tập thơ hay làm một CD để gọi là để kỷ niệm lai cho mình sau này , thì phần lớn đều tự chúng tôi hoàn thành tất cả từ A đến Z , cho nên với tôi, tôi rất trân trọng những đứa con tinh thần vừa mới phôi thai , vì cả hai đều cân nặng và giá trị từ tinh thần lẫn vật chất như nhau.

                Cầm quyển sách in từ hải ngoại nó vẫn khác với một vài quyển sách in từ trong nước nhất là về phẩm, không như có một lần tôi nhận đuợc một tác phẩm in từ trong nuớc, sách và tên tác giả thì hay nhưng sách chỉ lật chừng mươi trang nó lại bung keo dán, rớt từ tờ một ra ngoài , nên đừng ham rẻ mà về VN in sách thì chỉ có nước phí công . Tôi dở trong dở ngoài cuốn sách xem thử một loạt, chọn bài nào ưng ý nhất sau đó xem tiếp, tính tôi là vậy ít có xem từ đầu chí cuối ngoại trừ đó là truyện dài .

                Bài đầu tiên tôi đọc là bài *Nỗi Đau Còn Mãi * , có lẽ cái tiêu đề nó giống hoàn cảnh của tôi nên tôi đọc trước , vì thật sự trong tôi cũng còn một nỗi đau mà cho mãi đến bây giờ vẫn chưa nguôi , bài thơ diễn tả cái đau xót của người con khi mất mẹ mà hoàn cảnh lại lạc lỏng trên xứ người . Chỉ thế đó thôi , nhưng mỗi câu thơ như có gì xoáy buốt trong trái tim tôi với hình ảnh Mẹ tôi tưởng như ngày nào chờ tôi về để vuốt mắt lần cuối cho bà trước khi lìa đời
                ------------
                Hơm năm mươi tuổi ngồi khóc Mẹ
                Đấng diệu hằng đã bỏ đời ta
                Mẹ đi mắt Mẹ mi buồn khép
                Hay vẫn hé chờ dáng con xa
                -----------------------

                Mẹ ơi có hiểu lòng con Mẹ
                Vẫn nhớ luôn thưong ủ kín lòng
                Sao Mẹ sớm lìa đời dương thế
                Lòng con rét buốt gió mùa đông

                --------------------------

                Mai này quang phục quê hương lại
                Con về vắng mẹ mất niềm vui
                Đời con luôn gặp nhiều ngang trái
                Dáng Mẹ bên con trọn bước đời

                Tôi đã đọc nhiều những bài thơ viết về Mẹ, nhưng không phải thơ ai cũng cho mình được sự cảm nhận một cách chân thành , lời và ý tác giả chỉ ngần ấy thôi không diễn tả màu mè hơn nhưng trong mỗi cấu mỗi chữ là mỗi tiếng nấc nghẹn ngào của riêng tôi . Tôi yêu Mẹ tôi nhiều lắm, nhưng thơ viết về cho Mẹ có là bao đâu.

                Ngoài việc thưong kính Mẹ , tác gỉả còn có một tấm lòng chung thủy đối với bạn bè, tôi đọc được sự chung thủy đó ở một bài thơ *Tin Bạn Tha Hương* , khi hay tin bạn mất ...như sau

                Tin mày nằm xuống tao nghe lạnh
                Buốt rét tận lòng nghẹn nhớ thương
                Tháng mười hai suơng mờ mỏng mảnh
                Tao khóc hay mưa giữa cõi thưòng

                Mười năm, ừ nhỉ nhanh hay chậm
                Mày tiễn đưa tao tận phi trường
                Hăm mấy năm trời cờn in đậm
                Kỷ niệm quân trường buổi gió sương

                -------------------------------

                Đất trời xa lạ tình ấm lạnh
                Tao vẫn viết thư thăm bạn bè
                Mầy kể cho tao nhiều tin tức
                Thằng nghèo thằng khá giữa trời mê
                --------------------------

                Hôm nay nhận được tin mày mất
                Tao tiếc cho đời lắm bể dâu
                NHÃ ơi phút cuối yên say giấc
                Mày hiểu làm người lắm khổ đau
                _________________________

                Nói về tình yêu thì không ai mà không có nhất là qua áng thơ, mỗi người có một tình yêu thầm kín và được suy tôn theo ngòi bút của riêng mình . Riêng TLT đã diễn tả tình yêu qua vẽ đẹp của cái thưở còn bụi phấn vướng sân trường, cái buổi còn chân sáo tung tăng và một Sài Gòn yêu dấu qua bài thơ Chiều Nam Hà, khi tác giả đang còn ngồi tù trong tại giam trên đất Bắc, ngồi đây nhưng lòng vẫn tưởng nhớ đến Sào gòn thất thủ, nghĩ đến tuổi thơ còn sót lại trên quê hương nhục nhằn, mái trường ngày xưa với bao kỷ niệm không chỉ là riêng cho chính tác giả đâu mà trong đó tôi như sống lại ngày nào còn mực tím và trang giấy học trò, ôi đẹp sao tà áo trắng bay bay trong gió mỗi khi chân sáo với đôi guốc mộc dịu dàng hàng ngày ném qua phố thị .

                Bên chân đồi anh đứng
                Sông Đáy im rất buồn
                Núi Nam Hà hoang vắng
                Mây chiều vương cô đơn

                ---------------------

                Một chút tình than thở
                Bởi tượng đá biết buồn
                Sài Gòn em có nhớ
                Chiều nhạt nắng vấn vương

                (Buổi chiều anh trước cổng
                Em chân sáo sân trường
                Tuổi học trò hoa mộng
                Em ươm đầy yêu thương )

                --------------------------

                Sài Gòn em có nhớ
                Hay ý vẫn vô tình
                Chiều Nam Hà im sợ
                Giữa núi rừng lặng thinh


                Câu hỏi còn lại là tại sao tôi lại viết về giòng thơ TLT và chịu khó đọc thơ TLT như thế, lý do đơn giản thôi là trong giòng thơ TLT đã nói lên những điều mà tôi nuốn nói, tôi muổn suy nghĩ... lời thơ chân thật viết từ trái tim thi nhân chỉ , mà sứ mệnh của thi nhân là làm sao mang đến cho người đọc một cảm thông khi nỗi niềm trong chúng ta cần được chia sẻ ...chỉ bao nhiêu đó thôi cũng đủ cho tôi yêu thích thơ người

                Bài thơ cuối cùng của TLT đã cho tôi sự thẳng thắng để tôi chọn thơ TLT mà đọc và mong được phổ biến thơ anh cùng khắp trên mọi nẻo đường .

                Như bài thơ *Có tháng Tư nào không xót đau * dài lắm, tôi xin trích một vài đoạn mà tôi đọc với cảm xúc còn rưng rưng như mỗi năm khi nhắc nhở đến *Tháng Tư Về *


                Tháng tư đọc mấy gòng tin tức
                Nhắc nhở kinh thành phút tử vong
                Hăm mấy năm trời luôn ray rức
                Đau buồn hận tủi xót trong lòng

                ---------------------------
                ---------------------------

                Tháng tư đâu dễ cờ thay hướng
                Dưới trướng quân binh lắm tướng hùng
                Chỉ tiếc quân vương đem tình nước
                Dễ dàng dâng giặc chẳng nao lòng

                Tháng tư Vẫn cứ xoay vần đển
                Vẫn nóng trời xanh của nắng hè
                Ta vẫn âm thầm mong muốn lắm
                Cờ xưa bay lại , gió xuân về

                Cuối cùng tôi cảm ơn đến Thy Lan Thảo đã cho tôi tìm lại những hình ảnh Mẹ tôi và nỗi nhớ muôn đời, khi biết tin Mẹ nằm xuống mà tôi chưa về được , cảm ơn đến người tình thơ áo trắng một đời làm tôi vấn vương và cảm ơn Mẹ Việt Nam còn những người con mang dòng máu Mẹ và trái tim tự hào trước sau chung thủy
                Mẹ của con (trang 179)

                ------------------------------

                Ngày con đi Mẹ buồn nhưng không khóc
                Lòng Mẹ vui - mừng con thoát gông cùm
                Tuổi chất chồng nắng xế bóng hoàng hôn
                Vẫn thương nhớ vẫn nặng lòng lo lắng

                Mẹ nhắm mắt có được yên tròn giấc
                Hay vẫn còn trăn trở nghĩ về con
                Đất tha hương vẫn thương nhớ mỏi mòn
                Ngày phục quốc con về thăm mộ Mẹ


                Miên Thụy
                07/15/2007
                Con đi dưới lá cờ sao máu
                Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                Comment

                • #9





                  VẾT KHẮC HẰN SÂU TRÊN NỬA ĐỜI THY LAN THẢO
                  *



                  Gò Công! Gò Công!...Tiếng gọi mộc mạc thân thương của vùng đất mầu mỡ xanh tươi.Vùng đất của những người dân miền Nam thật thà chất phác, với cuộc sống thật thanh bình đạm bạc…chỉ cần ăn một chén cơm với cọng rau hái sau hè hay miếng cá kho vừa vớt được ngoài ao cùng một ngụm rượu đế cũng đủ để con người ta có một cảm giác vừa thỏai mái, vừa sung mãn…
                  Ruột nghêu xào sơ với tỏi
                  Lá me non, cà, giá, ngò om
                  Tháng năm mùa mưa vừa mới tới
                  Canh chua nghêu, rượu đế Gò Công.!

                  Cá kèo tháng mười đem kho chỉ
                  Chút hẹ nêm vừa thêm chút tiêu
                  Cơm gạo Sóc Nâu thơm lúa mới
                  Mẹ ơi! Con nhớ mẹ thật nhiều…!
                  ( Tình Xa Xứ)
                  Dĩ nhiên nơi đất lành thì chim đậu…chính đó đã là nơi nhà thơ Thy Lan Thảo được sinh ra và lớn lên trong vòng tay êm ấm của người mẹ hiền…trong nâng niu chiều chuộng của những người chị khà kính.Mẹ và chị đã hy sinh cả một đời mình để lo…để uốn nắn người con trai út…người em út được thành nhân.Từ sau biến cố 1975 mẹ và chị lại lần nữa bôn ba trên sóng đời tủi nhục để chăm sóc cho người con tù tội trong chế độ hà khắc của lũ vô thần.Hình ảnh của mẹ và chị đã được vinh danh trong dòng thơ chan hòa ưu ái của Thy Lan Thảo.” Vết Khắc Nửa Đời” phải chăng là những âm vọng từ nhớ nhung quắt quay gửi về người mẹ quá cố đáng kính và người chị thân thương sống còn trong tủi nhục…
                  Mẹ nhắm mắt có được tròn yên giấc
                  Hay vẫn còn trăn trở nghĩ về con
                  Đất tha hương vẫn thương nhớ mỏi mòn
                  Ngày phục quốc con về thăm mộ mẹ…
                  ( Mẹ CủA Con)
                  Tuổi chị lớn dần trong chinh chiến
                  Điêu tàn khói lửa khắp muôn nơi
                  Chị đành bỏ học trong buồn tiếc
                  Phụ mẹ trông em, chuyện đổi đời
                  ( Viết Cho Chị Hai)
                  Ngoài tình thương gia đình, giòng thơ Thy Lan Thảo còn triền miên trên quê hương, uốn khúc với bạn bè, thiết tha cùng chiến hữu.Tình đồng đội được mô tả sống động qua sự hồi tưởng của những ngày lội suối băng rừng xông pha giữa những cơn mưa đạn thù để giữ gìn màu cờ sắc áo…
                  Sông Ba nước vẫn tươi màu sóng
                  Cắt lối xuôi Nam giữa đạn thù
                  Mắt ướt cay nhìn quân đoàn trống
                  Pleiku, Phú Bổn…khóc tạ từ
                  ( Đêm Sông Ba )
                  Nửa đời Thy Lan Thảo đã trôi theo những thăng trầm của mẹ Việt Nam. Căm hận vì sự bất công và tàn nhẫn của chế độ độc tài Cộng Sản, thương tâm đau xót khi quê hương yêu dầu tơi tả lầm than, nghẹn ngào khi hay tin từng người bạn thân thương oanh liệt hay uất ức vĩnh viễn ra đi giữa cuộc đời bi đát, bùi ngùi cho gia đình sống tủi nhục trong gông cùm của loài quỷ đỏ v.v…
                  Đây là những vết khắc thật sâu đậm trong tâm khảm Thy Lan Thảo để từ đó những giòng thơ bật nứt mãnh liệt vươn lên.hãy lắng hồn và trầm mình trong “ VẾT KHẮC NỬA ĐỜI “cùng Thy Lan Thảo để thẩm thấu tình yêu quê hương dân tộc, tình gia đình nồng nàn, tình đồng đội thân thương bằng những lời thơ thống thiết…

                  XUÂN THỤY
                  Houston, August 2004
                  Con đi dưới lá cờ sao máu
                  Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                  Comment

                  • #10

                    VẾT KHẮC NỬA ĐỜI
                    *


                    NGuyên Nhung xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc tập thơ Vết Khắc Nửa Đời của nhà thơ Thy Lan Thảo. Đây là tập thơ thứ hai của anh, trước đây chúng tôi đã có lần được gửi đến thính giả tập thơ đầu tay Thơ Thy Lan Thảo, xuất bản năm 2003, với nhiều bài thơ viết cho mẹ, cho em, cho quê hương Gò Công của anh, những bài thơ tuy mộc mạc chân tình nhưng đầy cảm xúc. Bây giờ qua tập thơ Vết Khắc Nửa Đời, Thy lan Thảo đã giữ lại cho mình và hiến tặng cho đời, hình ảnh cũng như những lời tự tình của một người lính trẻ tuổi đôi mươi ba mươi năm về trước, hình ảnh một người tù những năm tháng nhục nhằn đốt hết một đoạn đường thanh xuân, và cuối cùng là hình ảnh một người Việt tha hương luống tuổi, chưa một lần trở về quê cũ, nhưng tâm tình của hầu hết những bài thơ, anh dành trọn vẹn cho dĩ vãng, cho hiện tại với trùng trùng nỗi buồn,nỗi nhớ phảng phất qua những bài thơ.
                    Sơ lược tiểu sử của nhà thơ Thy Lan Thảo
                    Anh sinh quán tại làng Tân Niên Trung, Tỉnh Gò Công
                    Con út của một gia đình giáo chức, có 6 anh chị em. Anh sinh sống tại Gò Công và sau đó, theo học tại trường Đại học Văn khoa Sài gòn.
                    Tới tuổi tòng quân nhập ngũ, anh là SVSQ Trường Võ Khoa Thủ Đức, đơn vị cuối cùng ở vùng 2 chiến thuật. Sau năm 75, đi tù cho tới năm 83, anh được trở về xum họp với gia đình và định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO.
                    Đã xuất bản thơ Thy Lan Thảo năm 2003
                    Thơ in chung: Lai Láng Dòng Phù Sa năm 2001, Những Đóa Hoa Nở Muộn năm 2002, 25 năm Thi Ca Hải Ngọai năm 2003.
                    Và bây giờ, năm 2004, Vết Khắc Nửa Đời được nối tiếp ra đời, đến với độc giả yêu thơ bốn phương, những người đã từng đọc thơ của Thy lan Thảo trên nhiều báo chí tại hải ngoại.
                    Sức làm thơ của Thy lan Thảo rất bền bỉ, không vội vã đẻ ra thơ, nhưng những tâm sự buồn vui, những điều chợt thấy, chợt gặp, những cảm xúc đã được ghi vội xuống để làm kỷ niệm cho riêng tác giả, và sau đó được gửi gấm đến bạn đọc. Đọc thơ Thy Lan Thảo như nghe một bản nhạc buồn, mà ở đấy ta bắt gặp chút nỗi niềm của người lính, đi theo đoàn quân về phương Nam
                    . Xin quý vị thưởng thức đôi dòng thơ mà ở đó, tình đồng đội được anh mô tả rất sống động qua sự hồi tưởng của những ngày lội suối băng rừng, xông pha giữa những cơn mưa đạn để giữ gìn màu cờ, sắc áo:
                    " Sông Ba nước vẫn tươi màu sóng
                    Cắt lối xuôi Nam giữa đạn thù
                    Mắt ướt cay nhìn quân đoàn trống
                    Pleiku, Phú Bổn, khóc tạ từ. Bài thơ này được trích trong " Đêm sông
                    Ba”
                    Nửa đời của tác giả, đã trôi theo những thăng trầm của mẹ Việt Nam
                    . Căm hận, đau xót khi thân phận của chính mình và quê hương bị chà đạp, dày xéo tả tơi, nghẹn ngào khi hay tin từng người bạn thân thương oanh liệt đã nằm xuống vĩnh viễn đi vào lòng đất, thơ anh đã bật lên những tiếng nức nở, nhưng cũng đành chôn vào tim một niềm đau da diết. Đấy là những vết khắc sâu mà Thy lan Thảo đã ghi lại trong VKNĐ. Không chỉ có thế, nhà thơ trẻ Xuân Thụy là một người trẻ lớn lên sau cuộc chiến, nhưng cô cũng đã đọc, đã nhìn ra được nỗi buồn của nhà thơ đàn anh Thy lan Thảo , nỗi buồn quê hương, nỗi buồn của tình gia đình nồng nàn, những ngậm ngùi cho sự mất mát khi chia ly vĩnh viễn với những đồng đội của anh. Cô bé thi sĩ trẻ đã viết về đàn anh của mình như sau, về đất Gò Công là nơi địa linh nhân kiệt, ở đó đã có vị anh hùng Trương công Định, là gương sáng cho những con người yêu nước đất Gò Công ngưỡng mộ và noi theo:
                    " Gò Công, Gò Công,
                    Tiếng gọi mộc mạc thân thương của vùng đất màu mỡ xanh tươi. Vùng đất của những người dân miền Nam thật thà chất phác, với cuộc sống thanh bình đạm bạc:
                    " Ruột nghêu xào sơ với tỏi
                    Lá me non, cà, giá, ngò om
                    Tháng năm mùa mưa vừa mới tới
                    Canh chua nghêu, rượu đế Gò Công

                    Cá kèo tháng mười đem kho chỉ
                    Chút hẹ nêm vừa thêm chút tiêu
                    Cơm gạo Sóc Nâu thơm lúa mới
                    Mẹ ơi, con nhớ mẹ thật nhiều"

                    Còn gì nồng nàn, nhớ nhung bằng những món ăn dân dả quê mình, mà gạo ấy , canh ấy, con cua con cá lại do bàn tay của mẹ, của chị mình vun quén để cho mình những bát cơm ngon với tô canh chua, cá kho tộ. Giản dị vậy thôi, mà nhớ thật nhiều, mà thương quá đỗi, nơi đất Gò Công ấy, nhà thơ Thy lan Thảo được sinh ra, được lớn lên, được ăn học và khi trưởng thành để trở thành một người lính, xa mẹ, xa chị, xa ánh đèn thủ đô để dấn thân vào cuộc chiến. Để rồi sau đó người lính trẻ mang theo một tình yêu tuổi xuân vào tù, anh đã bị mất đứt tuổi thanh xuân đến hơn 8 năm ròng rã, khi trở về thì tất cả đã tan nát.
                    Bây giờ ở quê người, Thy lan Thảo dằn vặt với biết bao nỗi nhớ. Mẹ chết rồi không gặp, chị già rồi ai trông, xin mời quý vị đọc trọn vẹn bài thơ " Chút Tình GỬi Chị" của nhà thơ Thy lan Thảo, để cùng thổn thức với nỗi lòng của một người con, một người em khi nhận được tin nhà.
                    " Chút tình Gửi Chị"
                    Lòng ấm dần lên nét chữ quen
                    Cánh thư tình nghĩa từ Việt Nam
                    Chị ơi! Mẹ mất em còn chị
                    Một chút tâm lòng, một nỗi riêng…

                    Chị kể bạn bè hôm mẹ mất
                    Vẫn về đông đủ để chia buồn
                    Thân quyến hỏi thăm thằng con út
                    Chẳng thấy về đây để chịu tang…

                    Chị kể chị Hai đã thất tuần
                    Một đời thân chị vẫn gian truân
                    Vẫn lo chăm sóc đàn con cháu
                    Nay vẫn cô đơn sống cảnh buồn…

                    Chị Tư từ lúc ông anh rể
                    Bỏ cuộc đời nhơ gặp ông bà
                    May nhớ mấy đứa con chăm chỉ
                    Đủ ấm trời đông, mát gió hè…

                    Chị Năm với đàn con nheo nhóc
                    Một đời vất vả nặng thân cò
                    Đất Phan Rang cày lên sỏi đá
                    Bữa cơm no bụng đã là mơ!

                    Anh Ba trọng vợ hơn tình mẹ
                    Dù mẹ vẫn chiều, vẫn nể dâu
                    Phận em nói được gì thêm tủi
                    Thương mẹ trách ai, tóc trắng đầu.!

                    Hôm lễ Vu Lan chùa Giác Phước
                    Hằng năm chị vẫn đến dâng hương
                    Cầu xin cho mẹ cho non nước
                    Trọn chữ bình an khắp nẻo đường

                    Năm nay tháng bảy lễ Vu Lan
                    Vẫn khói hương thơm tỏa ngập tràn
                    Chị nhận cánh hồng hoa sắc trắng
                    Mắt tràn lệ đẫm ướt khăn tang…!

                    Chị kể lòng em thật xót xa
                    Nhục tháng tư đen, tủi nước nhà
                    Chị, mẹ nuôi em Nam
                    ra Bắc
                    Nhịn ăn, nhịn mặc có chút quà!

                    Đời em, tình mẹ chị thân thương
                    Đất lạ trời xa nhớ để buồn
                    Mẹ mất, bây giờ em còn chị
                    Bao giờ đoàn tụ tại quê hương?!
                    Qua thi tập Vết Khắc Nửa Đời , dày chưa tới 200 trang, Thy lan Thảo đã gửi đến bạn đọc 91 bài thơ, gói ghém trong đó đủ ý đủ tình. Sách in đẹp, cước phí 12 mỹ kim ủng hộ tiền giấy mực cho tác giả, nhưng cái chính mà anh mong mỏi, vẫn là tìm được những tâm hồn đồng điệu, để chia xẻ nỗi nhớ ngậm ngùi của tác giả cho quê hương, cho gia đình, cho một thời yêu dấu đã qua.
                    Xin trân trọng giới thiệu thi tập Vết Khăc Nửa Đời đến độc giả xa gần, muốn có sách, xin liên lạc với nhà thơ qua điện thoại:
                    713- 895- 7496 hoặc 832- 276- 8903
                    Chương trình giới thiệu Sách và đọc truyện do Nguyên Nhung phụ trách tới đây đã chấm dứt. Xin cám ơn các văn thi hữu, các tòa soạn đã gửi sách hoặc tạp chí, hay đặc san, bản tin đến chúng tôi, để tất cả những tác phẩm và tạp chí, đều được tiếp nhận và tới tay độc giả xa gần. Đó là niềm mong mỏi của người thực hiện chương trình này. Hẹn gặp lại quý thính giả vào chương trình kỳ tới, mỗi tháng một lần, trên làn sóng 900 AM, Đài Sài Gòn Houston.
                    NN xin thân mến chào tạm biệt quý vị.
                    Nguyên Nhung, 2004.
                    Con đi dưới lá cờ sao máu
                    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                    Comment

                    • #11

                      Cảm nghĩ về thơ ThyLanThao

                      -SĐ-




                      Tôi biết đến thơ ThyLanThao là một sự tình cờ, ngẩu nhiên . Những bài thơ đầu tiên đập vào mắt tôi là những bài:

                      "Trăng xưa vời vợi"

                      Bàn tay nào ve vuốt
                      Của một thời biết yêu
                      Trăng đêm vàng mà mượt
                      Vườn hoa nở thật nhiều
                      ...


                      -

                      "Nhắc chuyện tình xưa"

                      Giọng em nói thoáng chút buồn nuối tiếc
                      Nhắc nhớ về những kỷ niệm xa xưa
                      Thuở mười lăm áo trắng tuổi học trò
                      Mắt thanh thản - nhìn đời tia nắng mới
                      …..


                      -

                      "Mặn ngọt tình em"

                      Tự ngàn xa mây trắng
                      Chuyển thương nhớ thật đầy
                      Tình yêu vị ngọt mặn ?
                      Em hít hà than cay!
                      …..



                      Thật dễ thương, lãng mạng về một mối tình xa xưa .. Rồi sự thu hút kia đã đưa tôi từ bài thơ nầy sang bài thơ khác..
                      Qua đó đã cho tôi thâý, thơ ThyLanThao không chỉ nói lên tình yêu nam nữ, mà còn chan chứa bao la tình mẩu tử,
                      tình phụ tử,


                      VIẾT TRONG NGÀY GIỔ BA

                      Ngày ba từ giã xa dương thế
                      Thằng út trong tù có biết đâu
                      Tin dữ làm sao mà nhắn gởi
                      Địa ngục trần gian quá khổ đau
                      ...



                      tình tỷ đệ,

                      XA XÓT LÒNG EM
                      - *-

                      -Gửi Chị Gò Công

                      Thương chị với đồng lương dạy học
                      Vừa lo cho mẹ - gửi cho em
                      Ba tháng một lần ra bưu điện
                      Gửi cả tình thương , cả nhịp tim
                      ..!



                      tình bạn đồng đội,

                      CHÚT Ý THÁNG TƯ
                      *
                      -Gửi TRẦN CANG


                      Tháng tư trời vẫn hanh vàng nắng
                      Mây trắng bay bay , gió nhẹ vờn
                      Soi gương tóc đã pha màu trắng
                      Đất lạ âm thầm vẫn nhớ thương
                      ...



                      và tình quê hương Gò Công của anh.

                      GÒ CÔNG ƠI ! TA NHỚ

                      Đất tạm dung lòng bỗng chợt vui
                      Thư em một thoáng mát xuân đời
                      Sóng xưa ngược hướng về quê cũ
                      Em gái Gò Công ! em của tôi
                      ...



                      Tôi không sao quên được khi đọc bài "Thơ viết ngày Mother's Day" của anh .. Tôi đã lịm cả người..
                      Nêú không có tiếng phone reo, tôi không biết mắt mình đã ứơt sũng từ lúc nào...


                      Ngày con nhận được tin đau đớn
                      Mẹ bỏ cuộc đời đi cõi xa
                      Con thấy đất trời như đảo lộn
                      Nước mắt rơi rơi thấm ý nhà…!
                      ...





                      Người đời thường nói "QUÊN" là thần dược làm lành các vết thương..
                      Nhưng có lẽ với thi sĩ như anh thì vô hiệu.. Vì thơ anh đã nói lên tất cả tình sử của mình.
                      Đây, đôi dòng cảm nhận qua những bài thơ ThyLanThao là tiếng dội từ lòng, từ cảm xúc riêng tôi.
                      Mỗi bài thơ của ThyLanThao đều chất chứa sự xúc cảm tâm hồn tác giả.
                      Tôi khám phá thơ anh chưa vượt qua giới hạn khổ đau, song, luôn đẹp, luôn mang ý nghĩa yêu thương hạnh phúc thăng hoa.
                      Ngoài ra, ngôn ngữ thơ anh đã đi vào hồn một độc giả trẻ như tôi,
                      đang ngơ ngác tỉnh giấc trong nỗi xót xa của những người con lưu vong yêu thương cố quốc, mà rất dễ lùi xa trong tôi.

                      Xin cám ơn anh.

                      Sương Đêm


                      Thụy Sĩ,
                      07/2013
                      Con đi dưới lá cờ sao máu
                      Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                      Comment

                      • #12

                        Kỷ niệm Văn nghệ sĩ, Ký giả và Thân hữu...



                        THƠ THY LAN THẢO:
                        HOA NỞ TRÊN ĐÁ

                        • PHƯƠNG TRIỀU







                        Tiểu sử THY LAN THẢO: Sinh quán: Làng Tân Niên Trung, Gò Công. Cựu học sinh Khóa 5 Trung học Công lập Gò Công; cựu sinh viên Văn khoa Sài-gòn (ban Việt); Quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đơn vị phục vụ: Tiểu đoàn 50 Chiến Tranh Chính Trị (Sài-gòn), Tiểu đoàn 20 CTCT (Pleiku).
                        - Tù Trại Hà Tây & Nam Hà.
                        - Thả tháng 7-1983.
                        - Định cư tại Houston, Texas, theo diện HO 14.
                        - Bài thơ đăng báo đầu tiên năm học Đệ Nhị.
                        - Hiện có thơ đăng rải rác trên một số tạp chí ở Mỹ, Canada, Đức...
                        - Bút hiệu chọn từ thời học Đệ Nhị Trung học Gò Công.
                        Đã xuất bản: Thơ Thy Lan Thảo (2003) – Vết Khắc Nửa Đời (Thơ, 2004).
                        Thơ in chung: Lai Láng Dòng Phù Sa (2001) – Những Đóa Hoa Nở Muộn (2002) – 25 Năm Thi Ca Hải Ngoại (2003).


                        Khí phách thơ
                        Trước khi vào bài, tôi xin dành giây phút tưởng niệm hai người bạn vừa mới đi xa: Nhật Trường Trần Thiện Thanh và Trần Thúc Vũ.
                        Trần Thúc Vũ trước ngày ra đi vẫn còn cảm khái:
                        Này Tử Thần,
                        Người đã đến, đứng chi ngoài ngõ
                        Vào, cùng ta chơi nốt cuộc tồn sinh
                        Cờ đã sẵn, đây cuộc cờ định số
                        Ta bật hồng rọi thấu cõi u minh

                        Ta đã sống, tất nhiên rồi sẽ hóa
                        Tội cho ngươi lén lúc những mê cung
                        Ta như lửa sá gì ngươi hù dọa
                        Thuở binh đao, sinh tử cũng bằng không

                        Ta dũng sĩ, ôm mối hờn quốc nhục
                        Lặng hờn căm, lửa bốc những canh khuya
                        Thân con nợ, núi sông chưa báo đáp
                        Mới đành cam lưu luyến buổi phân lìa

                        Này Tử Thần, hãy chờ ta bước nữa
                        Cõi trăm năm khoảnh khắc còn là bao?
                        Hãy ngồi đó nhâm nhi, và hãy ngủ
                        Chốn thiên thu thê thảm những thương đau

                        Xong việc nước, ta lay người thức dậy
                        Rủ ngươi về thiên cổ một phen chơi!
                        (Thơ Trần Thúc Vũ - 13.4.05)

                        Bỗng dưng tôi chợt nhớ hai câu thơ của nghệ sĩ Phong Trần Tiến, trước năm 1975:
                        Những thằng đáng chết sao không chết
                        Để chết chi thằng đáng sống lâu!

                        Sau tháng Tư Đen 1975, qua những trại tù từ Nam ra Bắc, tôi đã gặp rất nhiều bạn trẻ và rất quý mến họ. Hầu hết những người trẻ tuổi này đều giữ được khí phách và tiết tháo của những chàng trai thế hệ. Kẻ ngã ngựa, cho dù sa cơ thất thế vẫn ngẩng cao đầu và đứng vững trên hai chân.
                        Ở trại tù Sơn La, một người bạn trẻ nói với tôi, “Anh ạ, vào đây là chúng ta đã mất hết, chỉ còn lòng tự trọng nên phải ráng giữ thôi!”.
                        Những người bạn trẻ đó, qua bao năm tù vẫn hơn một lần cười nói hồn nhiên, “Nhằm nhò chi ba cái lẻ tẻ! Cứ mặc kệ, bi nhiêu bi!...”. Những người bạn trẻ đó sống đúng như lời nói, không hề chịu khuất phục, cũng chẳng bao giờ than van ca cẩm.
                        Phải chi ngày đó màu mây trắng
                        Đừng ngược trời xa mưa tháng Tư
                        Anh về áo trận buồn cay đắng
                        Bụi cuốn tương lai... cảnh mịt mờ... (*)

                        Chị ạ, cuộc đời em trôi nổi
                        Kể từ khi xếp chiến bào xưa
                        Tám năm em sống trong lao cấm
                        Đời vẫn thường quen với gió mưa! (*)

                        Tám năm hay mười lăm mười bảy năm, họ vẫn không hề lung lay khí phách. Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin nói về khí phách của người cầm bút, đặc biệt là của những người làm thơ. Khí phách thơ. Xin một ngoặc đơn ở đây. Rằng, nếu nghĩ theo một cách nào đó thì lời nhạc hay cũng là lời thơ trác tuyệt.
                        Những người làm thơ này, có người tôi biết trước 1975, có người tôi chỉ mới biết sau này ở hải ngoại.

                        Thế hệ thanh niên hào kiệt
                        Thy Lan Thảo là một trong những người trẻ tuổi đã tiêu hao tuổi thanh xuân dưới những gông cùm khắc nghiệt qua những trại tù và sau này là tác giả những vầng thơ dâng tràn khí tiết. Có thể nói rằng Thy Lan Thảo cũng như những người trẻ tuổi đó là tiêu biểu cho cả một thế hệ thanh niên hào kiệt và hào hoa. Khi phục vụ dưới cờ, họ biết rõ ràng họ chiến đấu cho mục đích gì. Khi thất thế sa cơ, mang thân vào tù ngục, họ biết họ phải sống thế nào. Và, trong những năm tháng lưu vong, họ vẫn còn nguyên ý chí và ý thức trách nhiệm. Họ đã không tiếc công sức, tiếp tục đóng góp vào cuộc tranh đấu chung, bằng một thái độ hiếu hòa nhưng dứt khoát.
                        Những người trai thế hệ đó đã sống có thủy có chung trong tự tình dân tộc. Họ không ngăn được gió trở cờ, nhưng cũng cương quyết không chịu trở cờ theo gió. Họ đã trải qua một đoạn đời tù ngục điêu linh, nhưng giờ đây họ vẫn phơi phới hào sảng trong tình người. Họ quyết liệt chống lại ác gian, cực lực lên án độc tài, nhưng họ không vì bản thân mà kêu gọi hận thù, kêu gào sắt máu. Điều hiển nhiên là họ không bao giờ chịu rời vị trí để thỏa hiệp với những kẻ đày đọa đồng bào và làm cho đất nước lầm than.
                        Anh đã về đây giải phóng dân
                        Để người vô tội chết trăm lần
                        Xa con xa vợ tan nhà cửa
                        Bức tử miền Nam – giải phóng quân (*)

                        Vết chàm đậm đen của một giai đoạn lịch sử dân tộc, biết đến bao giờ mới phai mờ, bôi xóa được?
                        Trời tha hương - đất người lập xuân
                        Tháng ba giỗ hội của toàn dân
                        Ta quên sao được con đường máu
                        Từng bước về Nam - đất mất dần... (*)

                        Có người thiếu phụ chít khăn tang
                        Bên xác chồng tay ẵm xác con
                        Mắt khô dòng lệ xa xăm lắm
                        Ta thấy quanh ta gió oán hờn (*)

                        Một số không ít những người trai thế hệ bây giờ cầm bút. Họ đã chiến đấu, đã chịu lao ngục, đã hao hớt hình hài sức khỏe, bây giờ sống cảnh lưu vong. Họ viết. Bình tĩnh và khách quan. Niềm hy vọng là được nhìn thấy một quê hương tự do, dân chủ và nhân quyền.
                        Ngày mai giặc trả ta sông núi
                        Không phải dàn binh đánh trận thua
                        Không phải dựng cờ quân phục quốc
                        Mà nhân tâm dậy... sóng xô đùa! (*)

                        và ngọn cờ chính nghĩa sẽ phấp phới trên quê hương:
                        Chị ơi, nhắc Mẹ dùm em với
                        Gắng sống vài năm sẽ có ngày
                        Một sáng cờ vàng bay phất phới
                        Em về ôm Mẹ trọn vòng tay... (*)

                        và:
                        Bao giờ quang phục quê hương lại
                        Về đập Đồng Cam đến Sông Ba
                        Lập đàn cầu độ hồn oan trái
                        Giải bớt niềm đau của nước nhà. (*)

                        Nhà văn Hồ Trường An viết về thơ Thy Lan Thảo như sau:
                        “... Thơ của Thy Lan Thảo phản ảnh nguyên vẹn tiếng nói chung của một thời đại mất mát hạnh phúc, một giai đoạn đen tối lầm than của dân tộc. Tiếng thơ anh là tiếng thơ chung. Tiếng than van của anh là tiếng than van của đồng bào suốt hậu bán thế kỷ 20. Một loại tiếng thơ buồn, đóng góp vào nỗi buồn chung của chủng tộc, của tổ quốc chúng ta...
                        ... Đề tài của thơ Thy Lan Thảo vốn thật gần gũi với đa số độc giả đã trải qua bao cuộc thăng trầm của tổ quốc, bao vận nước nổi trôi từ cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh, kinh qua cuộc nội chiến giữa Quốc - Cộng, qua thời gian sau ngày Miền Nam thất thủ cho tới ngày sống tha hương nơi hải ngoại. Dĩ nhiên chúng đã được các nhà văn nhà thơ lưu vong vốn ưu thời mẫn thế của chúng ta khai thác trên 20 năm qua. Nhưng mỗi người khai thác một cách khác nhau, bằng thái độ, bằng góc độ cái nhìn, bằng khía cạnh nhân sinh quan khác nhau. Ở Thy Lan Thảo là thái độ dịu dàng, đôn hậu, đằm thắm. Anh không hung hăng với kẻ thù, anh không rền rĩ quằn quại với số phận cay nghiệt. Anh cũng không phóng mắt vào hoàn cảnh nào khác ngoài những hoàn cảnh và những biến cố kế tiếp nhau xảy đến cuộc đời anh. Anh không phóng chiếu cái nhìn vào viễn tượng lộng lẫy ở chân trời thi ca nào khác. Anh nắm bắt những gì anh cảm xúc, những gì anh hiểu biết, không để tham vọng lôi cuốn anh vào những cuộc phiêu lưu sa đà khi sáng tác thơ. Thơ anh do đó tuy không tân kỳ và lộng lẫy, nhưng được cái tính khiêm tốn và chân thật...” (Trích LAI LÁNG DÒNG PHÙ SA, Hoa Ô Môi xuất bản, 2001)

                        Dòng thơ liên tục
                        Tôi đã đọc thơ Thy Lan Thảo từ những năm đầu thập niên 60, khi tôi phụ trách trang thơ cho các nhựt báo Ngày Mới (Chủ nhiệm: Hoàng Phố), Nghị Luận (Chủ nhiệm: Việt Sơn Nguyễn Gia Luyến).)
                        Lúc đó Thy Lan Thảo ở trong Nhóm Thơ 20 – Gò Công. Và, hơn bốn mươi năm qua, Thy Lan Thảo vẫn không ngừng làm thơ. Thy Lan Thảo chỉ làm thơ, không viết văn. Đối với thơ, Thy Lan Thảo như một người tình thủy chung như nhứt. Anh gìn giữ tấm lòng đó như đối với quê hương đất nước và với đồng bào ruột thịt.
                        Thơ Thy Lan Thảo không phải chỉ có những lời cảm khái, những lời bi phẫn mà đã có không ít những bài nói về quê hương:
                        Canh tập tàng nêm thêm chút muối
                        Đọt bầu đọt bí lá mồng tơi
                        Ngan ngát rau dền bông bí đỏ
                        Mẹ húp con chan - ngọt ý đời (*)

                        Anh dẫn em về quê Tân Trung
                        Tháng năm còng lột, mắm thơm lừng
                        Khế chua, chuối chát, ngò om, quế
                        Tự Đức còn khen món bảo trân (*)

                        về người cha:
                        Đời của ba luôn thật thà chơn chất
                        Kính trọng thầy, mến bạn, quý bà con
                        Ba truyền lại cho con nhiều ý thật
                        Đạo đức, nhân từ - cao quý nào hơn... (*)

                        về tình mẫu tử:
                        Ngày tiễn con đi - mắt Mẹ buồn
                        Tuổi già tóc bạc - trắng như sương
                        Tám mươi ba tuổi còn đưa tiễn
                        Mẹ khóc - con đi ướt bước đường.

                        về tình yêu đôi lứa:
                        Anh vẫn nhớ tình yêu ngày mới lớn
                        Tuổi mười lăm - áo trắng ngọt sân trường
                        Của một thời vụng dại biết nhớ thương
                        Đôi mắt ướt - hàng mi che cong vút

                        Lòng rộn rã - mỗi lần tan lớp học
                        Theo em về bóng mát lá me bay
                        Bước theo sau nhìn đôi bóng ngã dài
                        Gió e thẹn đùa reo trên tóc rối (*)

                        về tình nghĩa vợ chồng:
                        Áo anh đã cũ nhưng bền chắc
                        Nhờ có tay em vá lại đời
                        Một chút ấm lòng bên đôi mắt
                        Nhìn nhau tha thiết ý song đôi... (*)

                        Điều đáng ghi nhận là ngay cả trong những bài nói về tình mẫu tử, gia đình, tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng cũng đều rạt rào tình cảm quê hương đất nước. Người con trai đất Gò Công này đã dâng trọn một tấm lòng sắt son cho quê hương đất nước. Anh đã bày tỏ được nỗi niềm của một thế hệ. Tuy nhiên, đọc thơ anh, ta thấy rõ là chính anh cảm thấy rằng những điều anh bày tỏ vẫn chưa hết. Và, anh sẽ còn tiếp tục viết.

                        Xin đọc hai bài thơ tiêu biểu của Thy Lan Thảo:

                        MỘT CHÚT LÒNG XIN GỞI QUÊ HƯƠNG

                        Biển oán hờn ai dậy sóng trào
                        Miền Trung - oan khốc nổi ba đào
                        Thê lương đâu chỉ riêng đền miếu
                        Mà cả trời Nam khóc thảm đau!

                        Đất tự ngàn năm vốn cỗi cằn
                        Dân cày sỏi đá chẳng no ăn
                        Trời đày lũ lụt hàng năm đến
                        Dậy sóng miền Trung - tựa thác ngàn...

                        Thiên tai đe dọa hoang mầm sống
                        Bạo đảng đâu cần nghĩ tới dân
                        Chỉ biết gom tiền chăm sóc đảng
                        Rượu ngon, gái đẹp - rất ân cần

                        Cũng giống da vàng nguồn Lạc Việt
                        Bạo quyền hoang dã tựa hùm beo
                        Sói lang nhìn đảng còn kinh dị
                        Đất nước thê lương - dân khổ nghèo...

                        Sông Hương một thuở dòng xanh mướt
                        Núi Ngự mơ màng ẩn đế kinh
                        Thọ Cương - vẳng tiếng gà xao xác
                        Vỹ Dạ hương cau ngập ý tình

                        Hôm nay nước bạc reo đầu sóng
                        Cuồn cuộn âm binh - dáng tử thần
                        Núi đá ngàn năm hoang lở sụp
                        Sá gì đền miếu với nhà dân!

                        Hương Giang chắc hẳn buồn cay đắng
                        Bởi lượn nước xanh đã trở dòng
                        Bao xác thân trôi đùa nước trắng
                        Lệ buồn vét cạn - khóc dòng sông

                        Tìm đất nào chôn được xác cha
                        Mẹ nằm không chiếu đắp thân già
                        Tuổi thơ ngơ ngác không nơi tựa
                        Đảng có nhìn - có thấy xót xa?

                        Vạn dặm tình xa một giống giòng
                        Mù khơi đục mắt khóc miền Trung
                        Thê lương Trời hỡi sao dành cả
                        Con cháu Âu Cơ - đất Lạc Hồng?

                        Một giọt máu đào - vạn xót xa
                        Non sông ngàn dặm vẫn quê nhà
                        Xác trôi rã xác - tan nhà cửa
                        Người sống - lạc thần, xương bọc da!

                        Một chút lòng riêng xin gửi đến
                        Đau buồn chia xẻ với quê hương
                        Nước ơi! Đã tạo cơn hồng thủy
                        Sao chẳng dìm sâu lũ giặc cuồng?
                        19-12-1999
                        THY LAN THẢO

                        BÀI THƠ TRẢ LỜI

                        Người viết bài thơ gửi đến tôi
                        Bằng lời chua chát trách trêu đời
                        Bài thơ nhớ Mẹ tôi thường viết
                        Là lúc lòng tôi vắng tiếng cười

                        Nỗi nhớ khôn nguôi ngày xa xứ
                        Lòng tôi tan nát buổi ra đi
                        Người ơi có biết từng câu chữ
                        Phân tấm lòng tôi - bước viễn ly!

                        Lòng tôi trân quý thương và nhớ
                        Nhưng buổi thay cờ - loạn nhiễu nhương
                        Tôi vẫn không quên lời minh thệ
                        Trước nghĩa trung đài tỏa khói hương

                        Tổ quốc điêu tàn trước bạo quân
                        Toàn dân nghèo đói khổ trăm lần
                        Uổng đời chiến sĩ không tròn ước
                        Chịu tiếng ươn hèn - sống nhục thân

                        Người trách tôi thương tôi nhớ Mẹ
                        Sao lại không về thăm Việt Nam
                        Nhỡ mai nhang khói buồn cô lẻ
                        Bóng Mẹ bơ vơ khuất nẻo trần!

                        Tôi hiểu người ơi, Trung với Hiếu
                        Một thân nhiễu loạn xẻ làm đôi
                        Tôi về Mẹ có tăng thêm tuổi
                        Hay để giặc kia ngạo nghễ cười?

                        Mẹ tôi, tôi hiểu lắm người ơi!
                        Người đã cho tôi cả cuộc đời
                        Mẹ vẫn khuyên tôi ngày trở lại
                        Là lúc cờ xưa ngập cả trời

                        Quê hương quang phục người sẽ thấy
                        Bước giữa rừng cờ có bóng tôi
                        Giặc thù trả lại ta sông núi
                        Mắt Mẹ lòa mây vẫn rạng ngời.
                        9-8-99
                        THY LAN THẢO

                        Texas, tháng 7 – 2005
                        PHƯƠNG TRIỀU
                        ____
                        (*) thơ THY LAN THẢO
                        Con đi dưới lá cờ sao máu
                        Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                        Comment

                        • #13

                          THƠ THY LAN THẢO


                          Thơ Thy Lan Thảo đã được đăng trên các tạp chí tại thành phố Houston và nhiều nơi khác.Trong thơ anh bàng bạc những tình cảm của Gò Công, quê hương của anh.Tôi biết và quen nhà thơ Thy Lan Thảo trong một dịp tình cờ.Một hôm anh Khôi, người bạn rất chân tình, từ Cali qua Houston , rủ tôi đến thăm một người bạn của anh .Khi chúng tôi đến nhà, một người đàn ông trung niên, dáng cao gầy bước ra chào hỏi.Giọng nói của anh rất nhỏ nhẹ và chậm rải.Qua đôi câu giới thiệu, tôi được biết đó là nhà thơ Thy Lan Thảo.Tôi có thiện cảm với anh từ buổi đầu sơ ngộ.Cách đây vài tuần, anh gửi tặng tôi tập thơ mới nhất của anh:”Vết Khắc Nửa Đời”.
                          Ngoài những hình ảnh của Gò Công, thơ của Thy Lan Thảo còn chan chứa tình yêu gia đình và bằng hữu.Anh thường nhắc đến người mẹ già và những người chị thương quý của anh.Thú thật, tôi chỉ biết Gò Công bằng những ngọn sóng chập chùng khi tàu cặp cầu Vàm Láng để mua thêm thức ăn cho chuyến công tác hải hành.Đơn vị của tôi lúc đó là Hải Đội 3 Duyên Phòng, căn cứ tại Cát Lỡ Vũng Tàu.Tôi còn biết thêm một chút về quê hương của nhà thơ Thy Lan Thảo qua những trái cherry thơm ngọt, do người bạn cùng đơn vị, quê Gò Công, trở về sau những ngày phép.Nhưng qua thơ anh, đã cho tôi biết những mặn mà mà tình cảm cùa Gò Công và anh đã nói giùm tôi điều chưa nói:
                          ‘ Chiều hai mươi chín ra đường gặp
                          Một lão tóc râu đứng chặn đường
                          Nhìn ta ông bỗng cười vui lắm
                          Rồi lắc đầu mắt đẫm lệ vương
                          …..
                          Ông chửi lũ hèn gan đất sét
                          Cố quyền tham vọng tướng nhà tuồng
                          Ta thấy chú mầy mang áo trận
                          Bên hông súng đạn thấy mà thương
                          …..
                          Ta lấy đường đi vô doanh trại
                          Hai mươi năm nghĩ thấy mình điên
                          Ông lão cụt giò ta nhớ mãi
                          Tỉnh hơn mấy lão tướng ươn hèn!!
                          ( Nhớ chuyện người điên trang 20-21)
                          Có lẽ những người làm thơ thường mang tâm trạng, không thể quên những chuyện cũ, chuyện xưa.Kỷ niệm lúc nào cũng nặng trĩu trong tâm hồn.và nhà thơ đem tâm tư đó trải trên trang giấy trắng.Thy Lan Thảo đã viết:
                          “Chiều nay mưa gió giăng cùng khắp
                          Chầm chậm mình ta lái xe về
                          Thứ sáu cuối tuần buồn muốn khóc
                          Mưa tuôn ướt nhớ thắm tình quê !
                          …..
                          Chị ơi! Đất lạ trời xa xứ
                          Tuần lễ năm ngày nợ áo cơm
                          Cuối tuần ngồi viết thư cho mẹ
                          Còn lại cho con- trắng ý buồn
                          …..
                          Ta vẫn trong dòng xe tiến bước
                          Gió mưa vẫn ngập trắng freeway
                          Đất nước quê mình ai biết được
                          Người xa vạn dậm vẫn thương về !
                          ( Nỗi Nhớ Khôn Nguôi trang 34-35)
                          Và thơ Thy Lan Thảo không thể tách rời Gò Công với con người đa cảm của anh:
                          “Em sẽ về thăm lại Gò Công
                          Hai mươi năm lẻ, Ý như lòng
                          Mắt vương nhớ khói lam chiều nhẹ
                          Sáng lạnh, sương mờ phủ trắng sông!!
                          …..
                          “Em về thăm lại quê hương cũ
                          Ta ở đây vẫn giữ trong lòng
                          Đất khách quê người thân lữ thứ
                          Tình quê khắc đậm chữ Gò Công
                          ( Tình Quê vẫn Nhớ trang 46-47)
                          Thơ Thy Lan Thảo đáng yêu ở sự chân tình, phát xuất từ tâm hồn đa cảm của anh.Người ta thường nói”văn là người”.Và ta có thể nói’Thơ là trái tim của con người”.Nhà thơ Thy Lan Thảo đã viết những lời thơ bằng trái tim của mình.Lời thơ không bóng nhoáng, không màu sắc giả tạo.Anh viết thực, nói thực bằng con tim rung động qua ngôn ngữ thi ca.
                          “Trời vẫn quen và đất vẫn quen
                          Chỉ buồn thân phận sống ươn hèn
                          Mấy năm sương gió đường chinh chiến
                          Một tháng tư về nhục tủi đen…!
                          …..
                          Houston
                          tháng tám trời rực lửa
                          Bỗng nhớ Nam Hà núi đá vôi
                          Chiều về vai vát oằn thân, củi
                          Nắng đổ hào quang bước xuống đồi
                          …..
                          Trời Houston đất người xa lạ
                          Ta bước trên đường nắng tự do
                          Bạn xưa có kẻ quên đau nhục
                          Vững bến cần chi nhớ tới đò…
                          ( Vẫn Nhớ Nam hà trang 118-119)
                          Quả thực nhà thơ Thy Lan Thảo đã đóng góp vào vườn thi ca hải ngọai những đứa con tình thần bằng tim óc của anh.và chúc anh tiến dài và vững chắc trên con đường sáng tác


                          NGUYỄN VĨNH CHÂU
                          Houston, tháng một năm 2005

                          Con đi dưới lá cờ sao máu
                          Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                          Comment

                          • #14

                            THY LAN THẢO và VẦN THƠ LỤC BÁT
                            *


                            THAY TRÂU KÉO CÀY

                            Một hôm đang kéo ách bừa
                            Chợt vui với ý mới vừa thoáng qua
                            Em đừng nghĩ ngợi xót xa
                            Bước anh vẫn vững mặn mà mồ hôi
                            Xin em đừng tiếc nụ cười
                            Cho đời khinh bạc cho người đổi thay
                            Năm xưa tay súng miệt mài
                            Bây giờ anh thế trâu cày ruộng hoang…
                            ( Trích trong bài:TRẠI TÙ MỸ PHƯỚC TÂY , trong tập thơ" Vết Khắc Nửa Đời")
                            Tôi biết Thy Lan Thảo rất ít làm thơ lục bát.Hiếm hoi lắm.Có lẽ cũng xúc động lắm anh mới dàn trải tình cảm mình bằng lối thơ nầy.Thơ 6-8 như một bình nguyên rộng, như dòng sông dài âm điệu trầm thắm.Nếu giữa đêm khuya, chìm sâu vào tĩnh lặng đọc khúc thơ buồn 6-8.Ôi, tình ta phiêu dạt về đâu! Mỗi chữ, mỗi câu là mỗi nhịp phách gõ mạnh hồn mình.cảm giác đó tôi đã gặp khi đọc bài thơ trên của Thy lan Thảo.
                            Lời thơ bình dị lắm mà ý tình cũng sâu thẳm lắm.Ai từng “thay trâu kéo cày” sẽ dễ dàng cảm nhận hình ảnh bi phẩn nhưng hào hùng nầy. Bởi vì người tù Trại Mỹ Phước Tây đã trở thành con trâu kéo. Phần vì con người đã bị giáng cấp một cách phủ phàng, tàn nhẫn. Vậy mà vẫn hùng. Vậy mà “bước anh vẫn vững”.Kẻ thù muốn anh ngã quỵ để vỗ tay vui.Kẻ thù muốn anh phẩn nộ để có cớ hành hạ thêm thân xác. Nhưng anh “ Chợt vui với ý mới vừa thoáng qua”.
                            Anh không cho biết “ý mới” là ý gì và dường như chúng ta cũng không phải tha thiết bận tâm về ý nầy, miễn sao anh “ vui” là được.Vui là thắng, thắng kẻ thù một cách oanh liệt. Vui để nâng đôi bàn chân anh đứng vững đi tới.
                            Tôi cũng đã “thay trâu kéo cày”nơi đó.Nhưng tâm tình thua anh nhiều bậc.Tôi đã không vui.Tôi đã ngước mặt lên trời nghiến răng thù hận.kể như tôi bại trận, kể như kẻ thù đã thành công trên bản thân tôi. Vì lẽ đó, lần đầu tiên trên đất khách , tôi gọi điện thọai cho anh để Thy Lan Thảo biết rằng bài thơ lục bát nầy hay lắm.Tôi cũng muồn cảm ơn anh đã cho tôi nhớ lại một hình ảnh – tưởng đã quên-“thay trâu kéo cày”
                            Em đừng nghĩ ngợi xót xa
                            Bước anh vẫn vững mặn mà mồ hôi
                            Thy Lan Thảo cũng không cho biết em là ai. Có phải là một tri âm nào đó. Hay “em” chính là những ánh mắt lóe lên niềm xót xa, thương cảm của những người dân quanh vùng. Không phải dân chúng bên ngoài của trại tù đều khinh ghét tù nhân. Chúng tôi thường nhận được những cái nhìn xẻ chia, chúng tôi thường nhận được những củ khoai ném vội và người cho quay mặt về hướng khác như không có gì. Tất cả những quen thuộc đó xãy ra bằng sự câm nín và âm thầm. Nếu không, dân bị tội liê
                            n hệ, tù bị kiểm điểm. Như vậy thì cho dù”em” là ai đi nữa, em vẫn là người đứng cùng giới tuyến với chúng tôi.và em hãy cất dấu những “ xót xa” thật sâu trong cõi lòng, đừng cho tôi bắt gặp, đừng cho kẻ thù nhìn thấy.bắt gặp, tôi sẽ yếu lòng, bắt gặp, kẻ thù sẽ trù dập em.Nhưng thế nào đi nữa, tôi vẫn biết ơn em,,,
                            Em thấy mà, anh vẫn vững với những bước chân ngạo nghễ trước mặt quân thù. Và em biết không. Anh “năm xưa tay súng miệt mài”. Anh tự hào đã làm như vậy. Bạn bè anh cũng rất tự hào đã làm như vậy. Chỉ tiếc một điều, trên chiến trường anh đã thua. Anh đã trở thành tù nhân của giặc, nên” bây giờ anh thế trâu cày ruộng hoang’.
                            Nhưng cuối cùng, em thấy đó, Anh vẫn thắng.
                            Cám ơn Thy Lan Thảo đã cho tôi được một dòng nhớ và một tự hào vì anh.
                            ĐÔNG QUYÊN
                            Con đi dưới lá cờ sao máu
                            Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                            Comment

                            • #15



                              Tập Thơ Thứ 3
                              Con đi dưới lá cờ sao máu
                              Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                              Comment

                              Working...
                              X
                              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom