• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Bút Ký Thủy Lan Vy

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Bút Ký Thủy Lan Vy

    VU VƠ NIỀM NHỚ
    *




    Buổi chiều, ngồi bên bàn cơm, quán nhà ông thượng sĩ, căn bìa, dãy đầu của khu trại gia binh trường bộ binh Thủ Đức,thằng Mạnh ( Nguyễn Huy Mạnh ( Quân báo), Hồ Huy Hải ( Trung Tâm Huấn Luyện Trường Sơn) Và tôi ( Chiến Tranh Chính Tri) bộ tam sên thuộc đại đội 21, trung đội 211, thường xuyên cơm nước ở đây vào những ngày học phòng, và buổi chiều học bải về sớm, từ ngày gắn alfa, bộ ba từ giã nhà bàn, từ giã …” Bốn người một mâm ‘
    Có những chiều trời mưa, tan lớp sớm, chưa tới 5 giờ chiều, ba đứa đã quay quần bên mâm cơm, ba thằng hai chai bia trâu, căn trại gia binh một căn, lấy phòng khách làm phòng ăn, kê được 3 bàn, không khí ấm cúng giống như cảnh cơm nước trong gia đình.Bà thượng sĩ chủ quán trông khoảng ngoài bốn mươi, với 2 cô con gái chạy bàn, cô lớn, bé Yến học đệ nhị, cô em, Trần thị Thu Giang học đệ tam, hai cô bé khá xinh, ba thằng tụi nầy, mặt mày trông cũng sạch sẽ, ăn nói hiền lành, nên cũng được cảm tình của chủ quán, nhìn qua cách chăm sóc bữa ăn, cho thêm trái ớt, thêm nước mắm … khỏi cần phải kêu phải gọi, bởi đã có những đôi mắt dõi theo bàn ăn nầy, mỗi tuần, tụi nầy trả tiền một lần…
    Trời mưa, cơm nóng..ly bia sủi bọt… nhìn qua khung cửa sổ, từng đại đội học bải lần lượt về nhập trại, poncho trùm đầu, súng garant cầm tay, lần lượt bước lên đồi, nhập vào cổng số 9, hình ảnh người lính với súng cầm tay đi dưới mưa, đã khắc đậm trong lòng tôi, buổi chiều quân trường, buổi chiều trời mưa dai dẳng, đố ai không khỏi nhớ Sài Gòn, giờ nầy, giờ tan trường, con đường Lê văn Duyệt xuống dốc Cầu Bông, con đường trong giờ tan trường, đậm màu áo trắng, những chiếc xe đạp mi ni, theo từng cơn gió tung bay tà lụa, quai nón nhung tơ, vành nón nghiêng che… hay là ngồi trong quán cà phê Hân, trên đường Đinh Tiên Hoàng, xéo bên kia đường, cạnh rạp Casino, là thạch chè Hiển Khánh. Ngồi ở hai quán nầy nhìn trời mưa, nhìn từng giọt cà phê chầm chậm nhỏ xuống, thình thoảng có những chiếc áo dài ướt mưa, một chút da thịt mập mờ, làm cho con đường đang trong cơn mưa, đang ảm đạm, chợt như bừng lên sức sống, rồi cũng không khỏi suy nghĩ vu vơ, cuộc chiến tranh nầy rồi sẽ đi về đâu, tuổi của chúng tôi, lứa tuổi tràn đầy sức sống, phải xếp bút nghiên, ra đi theo tiếng gọi của sơn hà, rồi cũng có chút phân bì nhỏ nhen, giờ nầy mình đang ở quân trường, thì ở Sài Gòn, có nhiều thanh niên cũng trạc tuổi mình, vững vàng bước trên đường phố, tay cầm chặc lấy tờ giấy hoãn dịch… mà chữ ký được đổi bằng tiền, bằng thân thế...
    Những người trai đang đôi mưa trở lại quân trường, rồi mai đây trên khắp chiến trường,sẽ phải đối diện với trò chơi sinh tử,,, tôi nhớ tới trang tư của các báo Sài Gòn, thường xuyên đăng những tìn buồn dễ gây xúc động cho người đọc…” Cố Thiếu úy Ngô Hồng Ch..… Anh dũng hy sinh vì tồ quốc tại chiến trường tam biên.Được truy tặng Anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, hưởng dương 19 tuổi… mỗi khi hồi ức là hình ảnh nầy hiện rõ trong trí tôi… Ba đứa vẫn ăn cơm từ ngày gắn Alfa cho tới ngày mãn khóa, tuyệt nhiên không có một lời ướm hơi hay chọc ghẹo, dù hai cô bé rất thùy mỵ dễ thương… Thường như biết tính tụi nầy, cô bé thường cho nghe dĩa nhạc có bản “ Tôi đưa em sang sông” với giọng ca liêu trai Thanh Thúy, bản nhạc mà ba đứa tôi đều rất thích, dù chưa có đứa nào gặp nghịch cảnh phải đưa em sang sông…bởi người yêu còn chưa có, thì làm gì có dịp đưa em…. Nhớ bữa cơm cuối cùng, từ giã ra trường, tôi thấy trong quán có nhiều đôi mắt như xa xôi như sầu lắng…
    Một lần có dịp ghé qua trường công tác, sẵn dịp ghé khối quân huấn lãnh bằng tốt nghiệp, tôi có trở lại ghé thăm quán, uống cà phê… bà chủ quán và bé Thu Giang đều mừng rỡ, biết tôi về một đơn vị tại Sài Gòn…ai cũng chúc mừng…
    Vậy mà đã bốn mươi năm trôi qua, Thằng Hải, lúc tôi đổi ra Pleiku, cuối năm 74, có gặp nó, Hải phục vụ tại Trung Tâm Huấn Luyện Trường Sơn, mấy tháng sau, trên đường di tản trên tỉnh lộ 7B, tôi có ý tìm nó mà không gặp, Thằng Mạnh về quân báo, sau xin qua làm trưởng cuộc Cảnh Sát ở Long Khánh, tôi cũng mất tăm nó từ ngày rời trường mẹ… Điều tôi nhớ về nó là số bảng xe honda ss của nó: PN 8796F và số xe Honda dame của tôi là GD 8796F… Mạnh số quân 68/144443, Hải 68/144445, số quân tôi ở giữa hai số quân nầy, hai đứa tụi mày bây giờ ở đâu, đọc được những dòng chữ nầy nhớ tìm đến tao., Trung Úy Trần Ngọc Trác, đại đội phó đại đội 21 của mình giờ chót mang cấp đại úy, hiện ở Ca Li tao có liên lạc thăm ông mấy lần.... và mới năm rồi.. Ông qua đời trong sự thương tiếc của gia đình và bằng hữu, Mạnh ơi! mày còn nhớ tụi trong đai đội gọi tao là Sơn Cò, tao đứng chuẩn đại đội 21 và khi tập họp tiểu đoàn tao cũng ở vị thế chuẩn của tiểu đoàn 2, đứng ở vị thế nầy rất dễ bị phạt, mỗi lần nghe tiếng còi tập họp( dế kêu) tao phải chạy ra trước, mày đứng sau lưng tao, những ngày đi học bải, thường tao vác cây trung liên, mày phụ xạ thủ vác theo thùng đạn, thực tập hành quân tao vác cây đại liên, mày cũng phụ xa thủ, ban ngày có nặng nề hơn anh em khác, nhưng bù lại tao gác ca đầu mầy ca nhì, nên xong ca gác, làm vài chai, cũng đủ ấm lòng chiến sĩ, với giấc ngủ thật ngon và tương tương đối đầy đủ giấc.
    Khóa mình là khóa học cuối cùng với cây Garant M1( ôm mà mệt), cũng là khóa đầu tiên học máy ngắm hồng ngọai tuyến XM16 ban đêm, và thực tập hành quân 3 tuần lễ cuối khóa, ôn tập lại các bài học chiến thuật đã học, tụi mình dựng lều chung, ba thằng ngủ một lều, thứ hai đi, chiều thứ tư về trại, và thứ năm đi, chiều thứ sáu về, khung cảnh phía sau đồi 4100, có đủ địa hình, địa vật như chiến trường thật, mầy nhớ có một trái 80 ly, rớt gần lều bộ chỉ huy tiểu đoàn, mà may mắn nó không nổ… thời gian ở quân trường có vất vả nhưng mà vui,với những kỷ niệm đầu đời quân ngũ …6 tháng học tại Thủ Đức cộng với 3 tháng ở Quang Trung, thêm một tuần nghỉ tết tại trại, vị chi là chín tháng quân trường… thời gian tuy ngắn ngủi nhưng rất nhiều kỷ niệm khó quên...
    Ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, bao giờ ta mới có dịp trở lại thăm trường xưa…? Khi mà cờ đỏ vẫn còn bay trên khắp nẻo đường đất nước…
    Những tháng ngày ra đơn vị, phục vụ tại tiểu đoàn tổng trừ bị cho các binh chủng trừ bị, cho quân khu, cho sư đoàn bộ binh, cho tiểu khu…Tôi luôn rày đây mai đó trên khắp bốn vùng chiến thuật, làm công tác dân sự vụ, công tác tâm lý chiến…và nhiều công tác linh tinh khác
    Nhớ lần tới Huế, bốn thầy trò tăng phái cho bộ chỉ huy chiến tranh chính trị tiền phương, đóng tại trại Nguyễn Tri Phương, dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Phan Phiên, tôi nhận lệnh trực tiếp từ thiếu tá Bá ( Thủ khoa khóa 13 Võ Bị) tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 10 CTCT, tôi còn nhớ chiếc C130 vừa đáp xuống phi trường Phú Bài, thì Cộng quân đã chào mừng, bằng mấy trái đạn pháo, trước mặt tôi là hàng hàng lớp lớp quan tài, chất trên những tấm pallet, phủ quốc kỳ, tôi nhẩm đếm phải trên trăm quan tài, mùi hôi nồng nặc, sân trải một lớp vôi bột dày, đã thấm nước từ quan tài rỉ ra, trở màu vàng sền sệt, tôi trút chai dầu gió Kim vào khăn tay, cho lên mũi, vẫn không át được mùi hôi, lần đầu tiên tới Huế, đế kinh không còn thơ mộng, mà là một đế kinh tiêu điều, mang nhiều vết loang lở của chiến tranh, tháng 8 năm 72, lúc mà Dù và Thủy Quân Lục Chiến, đều tạm dừng chân tại Huế, chưa chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị, trại Nguyễn Tri Phương, nằm phía bên nầy phi trường Tây Lộc, đi qua hồ Tỉnh Tâm sẽ tới đồn Mang Cá, bộ tư lệnh tiền phương Sư Đoàn 1, đang đóng tại đó với vị tướng tư lệnh lừng danh Ngô Quang Trưởng., sau một ngày tạm nghỉ ngơi. Tôi nhận lảnh một chiếc xe Dodge, bắt đầu công tác dân sự vụ, lần lượt tại nhiều trại tiếp cư đồng bào, chạy giặc Cộng Sản từ Quảng Trị, các trại tiếp cư nằm rải rác tại các quận Hương Sơn, Hương Thủy, Hương Trà… mượn tạm các cơ sở của trường học, đình chùa... Những cụ già gầy yếu, phải gạt nước mắt rời bỏ quê hương, vì người dân ở đây đã quá biết về sự dã man và tán ác của Cộng Sản, dù chung dòng máu Lạc Long, nhưng Bắc Cộng đã mất hết tính người. Toán chúng tôi tạm thời lập danh sách phát thức ăn, tặng phẩm cũng như một vài loại thuốc thông thường… Lúc bấy giờ Huế quá tiêu điều, nhịp cầu Trường Tiền sập còn nguyên đó, rải rác bên vệ đường vẫn còn những ngôi mộ chôn vội, kỳ tích dã man của lũ người sinh Bắc tử Nam, có tận mắt nhìn thấy cảnh người dân từ Quảng Trị, di tản vào Huế, mới thấy lòng người dân, sợ giặc Cộng còn hơn sợ dã thú, ác quỷ. Toán chúng tôi luôn cố găng làm tròn phận sự được giao phó. Chút quà tặng, những lời ân cần thăm hỏi, tình nghĩa quân dân được thể hiện là lúc nầy đây
    “…..
    “ Trời tháng tám Huế mưa buồn nhão đất
    “Ướt lòng tôi và lạnh cả tình quê
    “Cùng máu Việt mà lương tâm anh mất
    “Giết dân lành, gây tang tóc thảm thê

    “ Một tháng dừng quân đóng trong Thành Nội
    “Nhìn Phú Bài nhuộm trắng áo khăn tang
    “Hàng trăm quan tài phủ cờ thẳng lối
    “Tử sĩ oan ương, người sống kinh hoàng

    “Rồi ta cũng sẽ rời xa đất Huế
    “Cảnh lạ trời xa ta có thể quên
    “ Nhưng dân Huế không bao giờ quên dễ
    “Tủi nhục điêu tàn giặc đã gây nên
    ( Trích trong bài “ Một Lần Tới Huế” thơ của TLThảo)
    Ngày di tản từ Quân đoàn 2, về theo lộ 7B, tôi dẫn toán Dân Sự Vụ đi một lèo từ Kon Tum ( Toán tôi đang tăng phái cho Biệt Động Quân đóng tại B15) về Pleiku, tạm dừng quân mấy ngày tại hậu cứ trong Quân Đoàn, lại xuôi đường hướng Hàm Rồng, chạy len trong dòng xe rồng rắn, đi mà không biết rõ sẽ về đâu ! Hơn nửa tháng trời, băng rừng vượt suối, rồi tôi cũng bình an về tới Tuy Hòa, ngang qua Phan Rang, Phan Thiết, Bình Tuy. Từ Bình Tuy đón tàu về Long Hải, Rồi trình diện tại cục Tâm Lý Chiến, rồi tái phối trí tại trại Nguyễn Bỉnh Khiêm, rồi lại tiếp tục công tác dân sự vụ. Lần nầy công tác tại trại gia binh sư đoàn 22, đang tạm đóng tại trại Lam Sơn thuộc tỉnh Phước Tuy, mới tới có mấy ngày lại cuốn gói chạy ra Vũng Tàu… Thành phố Vũng Tàu lúc bấy giờ ( 27-4-75) rất đông đảo, không những dân lính mà còn có nhiều xe cộ, đa số là xe du lịch từ Sài Gòn ra… Vũng Tàu lúc bầy giờ, người Sài Gòn gọi khu nầy là hành lang nhân đạo… Có tin đồn, khi Sài Gòn thất thủ, Mỹ sẽ rước người di tản ở đây… Tin đồn vẫn là tin đồn, những người Sài Gòn có tiền của, đã sẵn sàng ở đây, nhiều gia đình có sẵn cả tàu. Chiếc xe dodge mới lảnh, loai tân trang, có cửa khóa phía sau, loại xe cứu thương dã chiến. Tôi cho tất cả quân trang vũ khí vào, khóa lại, đậu một nơi nào đó, rồi dẫn toán xuống Bến Đình, đón tàu hàng về Gò Công, về Gò Công dù sao đó cũng là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, với lại, tư lệnh vùng bốn lúc bấy giờ, là Tướng Nguyễn Khoa Nam. Một tướng lảnh trẻ, liêm khiết, tài ba, đời nào ông lại chịu đầu hàng Cộng Sản,về Gò Công trước là để thăm nhà, sau đó sẽ trình diện …. Tôi vẫn luôn nghĩ, vùng bốn vẫn vững vàng với ba sư đoàn thiện chiến…, vựa gạo miền Tây, thì lương thực không sợ thiếu. Mỗi người sinh ra trên cõi đời nầy, hình như đều có một mạng số riêng… Bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao ( Kiều)… Có ai ngờ, miền Nam phải chịu cảnh đầu hàng một cách nhục nhã như vậy… Bây giờ nhớ lại con tàu từ bến Đình về Vàm Láng, tôi còn kinh sợ, bởi tàu hàng chở quá tải, ngoài một số ít dân buôn, còn lại là quân nhân, mà đa số là khóa sinh truyền tin, đang học tại Vũng Tàu, ra giữa biển, lại gặp gió lớn, tàu mấy lần tưởng chìm…may mắn, dù không có cá Ông bảo hộ, như tàu của Nguyễn Phúc Ánh lúc băng qua biển nầy, tàu vẫn vào được Vàm Láng bình yên…
    Trong tâm trạng của phía thua cuộc, tôi khó biết được, đời tôi rồi sẽ phải ra sao? Với một niềm hy vọng mong manh, dù sao phía thắng trận cũng là người Việt, hòa bình rồi không lẽ máu lại đổ nữa hay sao???
    Ngày trại tù Hà Tây dẹp tiệm, tất cả tù nhân được chuyển về trại Nam Hà. Lần đầu tiên trong lịch sử chuyển tù của Cộng Sản, tù nhân không bị còng tay, được chỡ bằng xe khách ( chữ của VC, xe đò). Đoàn xe qua khỏi Ba Sao, xe bắt đầu đi vào vùng núi, xe bò từ từ lên dốc, chạy theo con đường ngoằn nghèo lên núi. Trại nằm lưng chừng núi, nhìn qua địa thế, tù nhìn thấy khó chấp cánh thoát khỏi trận thiên la địa võng nầy….
    Nằm trong dự án chuyển tù về Nam, các trại tù miền Bắc lần lượt đóng cửa, như Trại Vĩnh Phú, Trại Tân Kỳ, Trại Thanh Phong, Trại Hà Tây…, tất cả chuyển về Nam Hà, coi như trại chuyển tiếp, trại Nam Hà A, lúc bầy giờ đông vô cùng có lẽ phải trên hai ngàn tù.. tại đây anh em gặp lại nhau, sau những năm dài xa cách, vì mỗi người đểu đã đủ 8 tuổi tù… Cũng vui, Quang Minh Đỉnh là đây….Vì mới tới chưa có biên chế ,còn trong tình trang tạm thời, khỏi phải đi lao động, những ngày cuối tuần thật vui… Từng nhóm anh em xúm xít nhau, trà lá chuyện trò…Trại Hà Tây đến đây được mấy ngày, thì gặp trại Tân Kỳ cũng chuyển đến, tôi gặp lại La văn Ngàn, bạn đồng hương, trưởng ban 2 quận Hòa Đồng và Trung Tá Nguyễn Hùng Điện, nguyên tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 30 CTCT trong toán Tân Kỳ nầy. Mấy lần tôi vô khu F gặp tướng Văn Thành Cao. Những vị tướng lảnh khác biết cấp bậc tôi, mà giờ nầy còn ở đây đã ngao ngán thở dài..
    -Thằng em nầy trung úy, mà giờ nầy còn ở đây….Tôi nhìn thấy có một vài vị tướng lắc đầu, gặp lại các cấp chỉ huy cũ trong hoàn cảnh tù đày, điều làm tôi hãnh diện là các cấp trưởng của tôi vẫn giữ được khí tiết của một sĩ quan Cộng Hòa, dù là trong cảnh cá nằm trên thớt, như Đại tá Phan Trong Thiện, Đại tá Nguyễn Kim Bào,Trung Tá Thượng Tọa Thích Thanh Long, Trung tá Nguyễn Hùng Điện…Trong lao tù CS, những người trở mặt, từ đi hai chân xuống bốn chân, không nhất thiết là cấp bậc cao thấp, ngành nghề,học vấn, tuổi tác... Bản chất hèn là của riêng từng cá nhân, một nhạc sĩ, một văn sĩ, một cấp tá cho tới binh nhì... Chừng trở mặt là cứ trở mặt, một nhạc sĩ, từng có bằng cử nhân luật, một đại tá, binh chủng đồ bông, từng lảnh nhiều huy chương về bắn súng, một trưởng F một tỉnh vùng 2, một Quốc Gia Hành Chánh, phó một quận ở Hà Tiên... và còn nhiều nhiều nữa...đã trở mặt hãm hại bạn đồng cảnh... Có người bào với tôi, người ta đã biết hối lỗi, đã bỏ đồ đao, thậm chí còn thành Tiên nữa, thì còn nhắc chuyện cũ mà làm gì?. Phải nhắc chớ, làm sao bỏ qua được, có sống trong lao tù, mới thấy ghét cay ghét đắng mấy tay chỉ điểm, phài nhắc để làm gương cho thế hệ sau.. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống muôn đời vẫn nhắc.. Nhắc để mọi người biết đó là việc làm xấu mà tránh … " Con đường các anh đi đó...đúng hay sai anh...Mưa Hoa Kỳ...có làm anh nhớ, có làm anh xót những ngày trong tù hại nhau..." Sửa chút lời một bản nhạc.. ray rứt làm sao!! Có ở trong cảnh cùn khổ, mới thấy được bộ mặt thật của con người, ở cấp bậc nào, ở trình độ nào cũng có người khum lưng quỳ lụy..trước kẻ thù.!
    Toán được thả trên 80 người, từ trại Nam Hà A, xe chở đến ga Hàng Cỏ trước 9 giờ sáng, lòng tôi vẫn không quên, những đôi mắt của anh em thân thiết khi bắt tay từ giã, bởi chính tôi, qua hơn 8 năm lao tù, từ Nam ra Bắc, đã chứng kiến biết bao lần chia tay, lòng người ở lại, chỉ có người đã ở tù Cộng Sản mới hiểu rõ, nếu như người tù có bản án, thì chuyện sắp xếp tình cảm bước về cũng dễ dàng thôi, đàng này, cho tới ngày kêu tên, mới biết mình được thả. Xuống ga Hàng Cỏ, anh em được phép đi chơi tự do cho tới 11 giờ đêm, Gò Công có Anh Ba Cẩn ( Nguyên là cán bộ trung tâm Cải Huấn Gò Công) tình nguyện ngồi giữ đồ đạt cho anh em…cùng vài người khác nữa mà tôi không nhớ tên. Tôi cùng với Anh Nguyễn Hùng Điện, sóng bước đi khắp các đường phố … Anh em tôi rất thất vọng trước Hà Nội… Đất ngàn năm văn vật, mà tôi biết được, qua bài học trên ghế học đường, biết qua các tác phẩm trong Tự Lực Văn Đoàn, qua tiểu thuyết của các tác giả gốc người miền Bắc….là đây sao? Nó cũ kỷ, nó xô bồ, nó nghèo nàn, tìm được tiếng nói dạ vâng, khó hơn tìm người bị bệnh tiểu đường trong trại tù Cộng Sản…
    Cảnh bát nháo trên các toa tàu, khó có bút mực nào tả rõ, anh em thả về ngối chung 1 toa, có lẽ mỗi toa chở 100 người, riêng toa nầy rất thoáng vì không có nhiều hành lý và chỉ có hơn mười người không phải là tù, còn các toa khác, hành lý chất bít kín các lối đi… Chốc chốc nghe tiếng kêu cướp, cướp, bắt lấy nó…
    Đúng 12 giờ đêm tàu sẽ lăn bánh, 11 giờ 45, cán bộ trại lên toa, sau cái bắt tay chúc thượng lộ bình an, mỗi người tù được trao cho một tờ giấy ra trại, qua ánh đèn mờ mờ của toa xe, tờ giấy màu trắng ngà, loại giấy thô, còn vết của rơm rạ, lớn bằng nửa tờ giấy học trò trong Nam, cũng ghi tên tuồi, ngày bị bắt, ngày được tha. trong mục can tội, tôi thấy chữ viết tay, can tội Trung Úy, riêng trong mục mức độ cải tạo mọi người đều được ghi tốt, chỉ có tôi là chữ Trung Bình…Công việc hành chánh của trại tù còn luộm thuộm lắm,việc trật chính tả, trật ngày thả, ngày bị bắt… đều dễ dàng xãy ra… nhưng khiếu nại với ai và khiếu nại để làm gì…?! Chả lẽ bỏ chuyến tàu, trở về trại xin điều chỉnh…thì thôi cứ về… Chính điều sai trật nầy, khi diện H.O ra đời, nhiều anh em cựu tù nộp hồ sơ xuất cảnh, phải gặp nhiều khó khăn trong việc điều chỉnh giấy tờ, may là trại tù Nam Hà còn tới bây giờ, trường họp những trại tù khác đã xóa tên, thì thật là vất vả và tốn kém cho những ai có giấy ra trại bị viết sai.
    Khi tàu hú còi rời bến, anh em trong toa hầu như yên lặng, nhiều cảm giác tung rối trong đầu… may mà lúc đó tôi còn độc thân, tôi chỉ nhớ tới bạn bè thân thiết còn lại, đến mẹ, đến anh chị tôi, đến cô bồ tình nghĩa Văn Khoa…
    Tôi căng mắt nhìn suốt cảnh vật bên đường, cho tới khi tàu qua cầu Hiền Lương, hình như mọi người đều cảm thấy thoải mái và không khí hầu như mát diệu hơn trên đoạn đường bên kia vĩ tuyến...
    Bây giờ dù đã trên 15 năm sống đất tạm dung, có rất nhiều đêm mất ngủ, hay chợt thức giấc nửa đêm… tôi nhớ thật rõ cuộc sống của tôi, những ngày trong lao tù Cộng Sản…Ngày nào trí óc tôi còn minh mẩn… ngày đó tôi còn nhớ… Có người bảo, nhớ để làm gì… hãy quên hẵn đi, coi như đó là một vết nhơ đã được tẩy sạch rồi…
    “ Nhiều lúc muốn quên sống yên đời xa xứ
    “ Nhưng tâm tình đâu dễ xóa như mây…
    ( Thơ T.L. Thảo)



    Thủylanvy
    Viết tại kỳ Đà Động… July 4




    Con đi dưới lá cờ sao máu
    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...
    Similar Threads
  • #16

    Tôi học khóa 5 , Đệ Nhất Cấp
    Trường Trung Học Công Lập Gò Công
    -*-


    - Thành kính biết ơn quý Thầy Cô đã dạy dỗ tôi suốt 7 năm trung học
    - Thương nhớ bạn bè cùng khóa học đã từng chia xẽ buồn vui
    - Thương nhớ Gò Công, nơi chôn nhau cắt rún nay cách xa ngàn dặm

    Bây giờ, tôi ngồi đây viết lại những kỷ niệm của ngày còn đi học, dưới mái trường trung học công lập Gò Công, tôi thấy đây là một việc làm tương đối khó với tôi, vì với một khoảng thời gian tương đối dài, hoàn cảnh sống trong xã hội có nhiều thay đổi, cũng như cuộc sống của cá nhân tôi, đã phải trải qua nhiều khúc quanh theo từng khúc quanh của thời cuộc. Tôi rời trường trung học Gò Công sau niên khóa 1965- 66, tôi là học sinh khóa 5 của trường
    Một khoảng thời gian hơn 8 năm trong lao tù Cộng Sản, và gần 9 năm sống trong xã hội Cộng Sản sau lao tù, đã một phần nào ảnh hưởng đến trí nhớ của tôi, nó không còn được minh mẩn như thời tôi còn đi học, nhưng lòng thiết tha với ngôi trường đã cho tôi một vốn liếng kiến thức căn bản, lòng quý trọng quý thầy cô, đã bỏ nhiều công sức dạy dỗ tôi, lòng thương nhớ bạn bè đã từng kề cạnh suốt 7 năm trường, tôi cố gắng ghi lại những gì tôi còn nhớ, dĩ nhiên không thể nào không có sự thiếu sót, nhầm lẫn ....
    Tỉnh Gò Công là một tỉnh lỵ nhỏ nhất của nước Việt Nam Cộng Hòa, nếu là quận, lại là một quận lỵ lớn nhất, thời Tây là tỉnh, thời đệ nhất Cộng Hòa, Gò Công là quận lớn nhất của tỉnh Định Tường, đệ nhị Cộng Hòa, Gò Công trờ lại thành tỉnh, sau ngày trời sập, tỉnh Gò Công trở thành hai Huyện thuộc tỉnh Tiền giang, bây giờ là thị xã Gò Công với hai huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây, thuộc tỉnh Tiền Giang, tỉnh nhỏ dĩ nhiên trường học cũng nhỏ, trường Trung Học Gò Công sinh sau đẻ muộn, năm 1960 mới có mặt trên danh hiệu và phải một hai năm sau, mới thực sự có cơ sở trường ốc riêng biệt...
    Trước đây, chữ khóa chỉ được dùng cho các khóa học quân sự hoặc hành chánh, chữ khóa không dùng trong trường học, nếu một người tốt nghiệp khóa 21 Thủ Đức, gặp một người tốt nghiệp khóa 10, thì chỉ biết người nầy là khóa đàn anh, mà không biết chính xác về nhiều chi tiết khác, thầy Nguyễn Văn Ba, giáo sư văn chương trường, là người đầu tiên sử dụng chữ khóa để chỉ danh, xác định những học trò cũ đến thăm thầy, sau nầy nhiều người thấy tiện nên dùng rồi quen. Muốn biết mình học khóa nào thì lấy năm thi tú tài phần 2 trừ cho năm 1961... Thí dụ như tôi học khóa 5 gặp một người đồng hương học khóa 16 chẳng hạn, tôi biết ngay anh nầy học sau tôi 11 năm, và cũng nhỏ hơn tôi trung bình 11 tuổi .
    Trước khi trường Trung Học Gò Công ra đời, tỉnh Gò Công có trường tư thục Khai Trí do Ông Hiệu Trưởng Bùi văn Tuấn sáng lập,dù chỉ là một trường đệ nhất cấp, nhưng cơ sở cũng khang trang, sinh hoạt thể thao phát triển mạnh, cũng có hội banh riêng và hai trường tư thục khác là trường Thăng Long và trường Huỳnh Phước.Tỉnh Gò Công là một tỉnh nghèo, xứ đồng chua nước mặn, làm ruộng đủ ăn đã là may, một số ít sống nhờ vào biển là các làng dọc theo duyên hải, cũng như vài làng sống nhờ huê lợi vườn tược như Vĩnh Lợi, Vĩnh Hựu ...Để vươn lên khỏi cảnh nghèo đói, dân chúng thường cho con em ăn học, mong đổ đạt, hầu thay đổi đời sống, vị trí trong xã hội ... Việc học hành phải lên tận Sài Gòn hoặc Mỹ Tho, thật nhiều tốn kém và khó khăn, tuy nhiên gia đình nào trì chí thì con em đa số đều đạt được sở nguyện, ít ra bước vào đời cũng tạm đủ nuôi thân ...
    Cả tỉnh Gò Công, năm tôi thi đệ thất, chỉ tuyển có 100 nam và 50 nữ, với số dự thi là 1.500 thí sinh, một cuộc đọ sức hào hứng nhưng quá gay go, các học sinh lớp nhất thường dự thi chỉ để lấy kinh nghiệm, vì tại trường Nam tiểu học tỉnh lỵ có 2 lớp Tiếp liên do Thầy Nhàn phụ trách, 1 lớp sáng và một lớp chiều, một trăm trò lớp tiếp liên cũng là thành phần gạo cội của đám thí sinh vừa rớt đệ thất, phải qua một kỳ thi mới được vào học 2 lớp tiếp liên nầy,Bên trường nữ tiểu học cũng có một lớp tiếp liên do cô Ngô Tuyết Huệ phụ trách, ngoài ra, còn có lớp tiếp liên bán công do thầy Tạo phụ trách, một vài xã có lớp luyện thi đệ thất nổi tiếng, như lớp nhứt thầy Tám Đủ ở Tân Phước, thầy Xuyên ở Hoà Nghị, thầy Chương ở Tăng Hòa, tại trường nam tỉnh lỵ có 7 lớp nhất, của 7 ông thầy đầy kinh nghiêm, đó là Thầy Bích, Thầy Sắc, Thầy Ngọc, Thầy Lượng, Thầy Thức, Thầy Đạt, Thầy Sấm .
    Lớp tiếp liên chỉ học các môn thi( toán, luận văn, câu hỏi thường thức ), còn lớp nhất phải học các môn phụ khác như hoạt động thanh niên, thủ công, vẽ, nhạc, pháp văn, thể dục, đức dục ... các lớp nhất trong làng xã, nhiều thầy cô đã vu vi bỏ các môn phụ, số học sinh thi đậu vào đệ thất, cũng là sự đánh giá khả năng của phụ huynh đối với ông thầy... Trong lớp nhiều thầy chỉ lo rèn những học sinh có khả năng, trò nào dở quá ... cho dở luôn với hy vọng có tỷ số đậu cao vào đệ thất ...
    Trong giảng khóa chính thức, nhiều thầy đã mở lớp luyện thi tại tư gia, một hai tháng hè trước ngày thi, lớp luyện thi đệ thất được mở ra khắp nơi, chính thức dạy tại trường Nam Tiểu học là thầy Nhàn, thầy dạy miễn phí cho học sinh lớp tiếp liên của thầy, còn những vị khác thì dạy tại tư gia. Tôi học lớp nhất với thầy Ngọc, ông thầy trẻ, có bằng đíp lôm thời đó, có tiếng là dạy giỏi, năm tôi học, thầy mới cưới vợ, thầy có nhà riêng là một căn phố sát bờ sông trong dãy phố ở Kho Muối, bên kia con lộ là xóm nhà cháy ( Trận hoả hoạn lớn nhất tỉnh thời đó )... Thầy dạy mỗi đêm 2 giờ chủ yếu là luyện toán, lớp đêm được hình thành tại bàn ăn nhà sau của thầy, học sinh đa số là học trò lớp thầy, có 2 trò nữ, một là trò Lê Kim Vun, em thứ 10 của thầy và trò Nguyễn thị Hồng em gái của trò Nguyễn văn Thắng ( hổn danh là Thắng Chín Tý ) nhà ở xóm Cỏ. Những trò khác là Võ Hiếu Để, trò Út, trò Cường chung lớp nhất với tôi, trò Nguyễn Hồng Điệp ( tiếp liên bán công ) Trần Thành Kỉnh ( tiếp liên thầy Nhàn ) Tiêu Thái Diện ( tiếp liên )... Mỗi tháng thầy thu 30 $ Riêng với tôi thầy không lấy tiền vì thầy là bạn với anh tôi .Thuở đó tôi đóng tiền thầy không nhận, tôi chỉ biết cám ơn mà sau đó, không biết mua quà biếu thầy, bây giờ nghĩ lại thấy còn mang nợ rất nhiều của thầy ( Nợ tiền nợ bạc còn dễ trả chứ nợ khai tâm rất khó trả ). Trong lớp đêm nầy người học trò giỏi toán nhất là trò Nguyễn văn Thắng, bài toán nào thầy chép đề xong thì trò là người nộp bài đầu tiên và đều trúng cả ... Trò còn dư giờ chỉ cho em gái là trò Hồng ... Học tài thi mạng năm đó trò Thắng rớt phải làm lại giấy khai sinh tên Nguyễn văn Hai, vào Tăng Hòa thọ giáo Thầy Chương và đậu vào khóa 6 năm sau, trong cuộc chiến vừa qua Thắng đã mất tích trên chiến trường Miên với màu áo Sư Đoàn 9.
    Thầy Ngọc bận chuyện phải đi Sài Gòn, lớp đêm giải tán, Ba tôi dẫn tôi vào trường Nam, xin với Thầy Nhàn cho tôi học lớp luyện thi cuả thầy ... Trong tình đồng nghiệp và cũng là chỗ quen biết với Ba tôi, Thầy Nhàn nhận lời, tôi vào trể nên ngồi bàn chót, phòng học nằm trong dãy trệt sát gần kỳ đài,phòng lớp nhì của thầy Núi .
    Thầy Nhàn dạy toán và luận văn, tôi còn nhớ, đề luận tự học sinh ra đề, với điều kiện, đề không có trong bất cứ quyển sách luận văn nào. Thầy mang bài về nhà chấm, hôm sau thầy sẽ đọc cho cả lớp nghe một vài bài luận văn hay. Tôi còn nhớ bài luận đầu tiên tôi tự ra đề như sau:
    " Buổi trưa trời nắng, trò hãy tả lại cảnh phu lục lộ làm đường mà trò đã chứng kiến "
    Hôm sau Thầy Nhàn gọi tôi đứng lên và nói với cả lớp
    - Các trò lắng nghe, học lớp nhất mà trò nầy viết được bài luận như thế nầy ... Cũng hôm đó thầy có đọc bài của trò Dương lập Phủ, trò Phủ gốc người Kiểng Phước, tả cảnh bắt ếch trong một đêm mưa .
    Thế rồi ngày thi đệ thất cũng đã đến. Buổi sáng hôm ấy, thành phố Gò Công có một sinh hoạt khác hẳn bình thường, dân chúng các làng dẫn con em ra tỉnh dự thi, khăn nón, cơm đùm, đứng tụ quanh trên các con đường trước trường nam và trường nữ tiểu học, nơi đặt hai trung tâm thi chánh của khoa nầy, Trên mỗi nét mặt của từng phụ huynh, người ta nhìn thấy được sự ưu tư, lo lắng. Ở thời điểm nầy, đây là một kỳ thi hết sức quan trọng, trước tiên là con em đi học được miễn phí suốt 7 năm liền, sau nữa là học trường công dù sao cũng ...dễ nên người hơn .Phòng thi của tôi nằm trong trường nhà đèn, phòng giữa dãy cạnh bờ sông( phòng mà thời sơ cấp, tôi học lớp ba B với cô Sáu Nghĩa). Buổi sáng thi luận văn và câu hỏi thường thức ... Bài luận đối với tôi tương đối dễ "Trò đã làm một việc thiện. Hãy kể lại" .Tôi làm bài với cảm giác dễ dàng nên tan trường đã ra về trong tâm trạng hân hoan thư thái. Buổi chiều thi toán. Đề toán gồm 2 bài, một bài toán phụ và một bài toán chánh ... Bài toán chánh là bài toán về động tử " một người khởi hành bằng xe đạp từ Vũng tàu lúc 8 giờ sáng, đi về Sài Gòn với vận tốc 23 km/giờ....Sau một giờ khởi hành thì xe đạp bị bể bánh, phải ngừng lại vá xe mất 15 phút. Cũng lúc 8 giờ một chiếc xe đò chạy từ Sài Gòn ra Vũng Tàu với vận tốc trung bình 54km/giờ . Hỏi hai chiếc xe sẽ gặp nhau vào lúc mấy giờ, điểm gặp nhau cách Sài Gòn bao nhiêu km, biết rằng Sài Gòn Vũng Tàu cách nhau 125 km.
    Tôi làm toán cũng thấy dễ dàng như đã từng làm trong lớp, thầy Ngọc đã ra biết bao đề toán về động tử nầy, nhưng khi rời phòng thi mới biết trật bài toán chánh ... Bài luận dù viết dễ dàng, với câu hỏi thường thức thuộc nằm lòng, vẫn thấy khó qua được kỳ nầy vì đây là kỳ thi tuyển.
    Tôi còn nhớ, quý thầy gác thi, có lẽ từ các trường làng về nên trông rất lạ, buổi sáng thi luận và câu hỏi thường thức trời nắng rất đẹp, tôi làm bài xong trước giờ, rảnh rỗi dò lại bài ... nhìn ngó mong lung ra sân trường ... Tôi nhìn thấy giám thị hành lang đi đi lại lại ... đều là những vị giáo sư dạy trường trung học mà hầu hết tôi đều biết tên như quý Cô Hồ ngọc Lệ, Trần Thành Mỹ, Giang thị Hạnh, Nguyễn Kim Hoa, Quý Thầy Trần Văn Kỳ, Nguyễn Văn Ba, Võ Văn Đài, Đoàn Huy Oánh, Vũ Ngọc An, Lê Quý An, Đào Vũ Thân ...Buổi chiều thi toán xong, tan trường thi, trời chuyển giông rất mạnh, cây đa trước trường nữ và hàng me trên đường Gia Long trước ty Tiểu học, đều bị gió đùa lả ngọn, lá me rơi bay đầy đường, bám trên áo, vương trên tóc người đi đường, tôi bước ra cổng trường thi, với lòng thật buồn, trên con đường trải đá xanh trước trường nữ công ... bụi cuốn mịt mù, quẹo qua đường Gia Long, rẽ mặt trước Bưu Điện, đi về hướng Cầu Huyện, tôi bước đi chậm chạp, dù trời đang chuyển mưa giông .... Hay không bằng hên, kết quả chấm đậu một trăm trò nam, không có tên tôi, vớt thêm 5 trò tôi đứng hạng 103 đồng hạng với trò Võ Hiếu Để và trò Trần Văn Bán, lớp nhất C của Thầy Ngọc đậu 5 trò có trò Trần Văn Tâm ( nhà gần ao trường đua, thường phải cắt cỏ cho ngựa ăn sau giờ học, đậu hạng khá cao )... Một kết quả rất khả quan lúc bấy giờ đối với học trò lớp nhất.Riêng lớp đêm luyện thi của thầy Ngọc, chỉ rớt có mấy trò là trò Út, Thắng, Cường ...
    Thủ khoa là trò Trương văn Xệ, học sinh lớp tiếp liên Thầy Nhàn, bên nữ là trò Trần Thị Phát ái nữ của thầy giáo Trần văn Đẩu. Đặc biệt là hai trò đậu thủ khoa bằng Tiểu học của hai trường Nam và nữ là trò Đổ văn Vân ( học trò thầy Sắc ) và trò Nguyễn Thị Hiếu đều không có tên ( và cả hai cùng đậu vào đệ thất năm sau ) Tất cả thí sinh trúng tuyển, chỉ có 3 trò là người miền Bắc, đó là trò Thanh con trai của Ông xếp bắc Cầu Nổi, trò Hoàng Mạnh Hùng Cường con của Ông Hoàng mạnh Hùng và là cháu của Thầy Vũ Ngọc An, trò nầy là học sinh tiểu học Sài Gòn, theo thầy An về Gò Công thi đệ thất, nên trò chỉ học có một năm là xin chuyển trường về Sài Gòn, bên nữ, trò Uông Từ Mỹ là ái nữ của Ông Uông văn Cần, Trường ty Công Chánh .Ngoài ra còn có trò Hùynh kim Cúc ( Cúc tóc vàng ) gốc nguòi Hòa Nghị nhưng có mẹ là người Bắc ;Nguyễn Hồng Điệp có ba gốc người tỉnh Nghệ An.
    Tôi còn nhớ khi thầy xướng danh thủ khoa ( kết quả thi được đọc tại trường nam tiểu hoc, thầy xướng danh đứng trong cửa sổ phòng đầu, phòng lớp nhất thầy Lượng), nhiều phụ huynh trầm trồ bàn tán, Một ông bác có đầu tóc ( Sau nầy tôi mới biết là ba của trò Huỳnh Công Hiệp, ở Kiểng Phước ) vừa cười vừa nói :
    - Ý là Xệ mà còn đậu hạng nhất chớ phải Săn thì còn đậu cao nữa. Tôi nghe một ông bác đầu đội nón nỉ xám trả lời :
    - Săn với Xệ gì anh, đậu hạng nhất rồi còn hạng gì cao hơn nửa hổng biết . ( Kỳ Thi đệ thất năm sau tôi cũng có đi xem kết quả, trên đường về tôi đi sau một phụ huynh và đã được nghe :
    - Người ta là Chơi ( Trò Nguyễn văn Chơi đậu thủ khoa, sau nầy là sĩ quan khóa 25 võ bị ) mà đậu hạng nhất, tao đặt mầy tên Siêng, mà mày trợt vỏ chuối )
    Rồi ngày khai trường cũng tới ( Niên khóa 1959-1960), Năm đó, trường chưa bắt học sinh mặc đồng phục, tôi mặc quần tây dài, áo sơ mi trắng may ở tiệm may Chí Thành, chiếc cặp da cũ truyền đời của người chị thứ Sáu, đang học khóa 2 cùng trường, đi giày săn đal đặt ở tiệm Tân Tiến, Tôi đi cùng với chị tôi đến trường, nữ mặc áo dài trắng, còn nam sinh thì đủ kiểu, quần dài cũng có, mà sọt cũng có, thường mang săn đal, dép nhựt, hay giày ba ta trắng ... vải quần tây thời đó sang thì đạc rông, ọt lông, thường là kaki xanh, vàng hoặc trắng .
    Mỗi học sinh phải mua ít nhất một huy hiệu trường, làm bằng kim loại ( hình mặt trời mọc có khắc tên trường ) có kim gài phía sau, nam gắn trên miệng túi áo, nữ trên hò áo ( sau nầy phù hiệu làm bằng vải, học sinh phải may dính hẳn vào áo )
    Lúc bấy giờ, trường trung học mới chỉ có ba dãy hình chữ U, hai dãy song song, mỗi dãy có 3 phòng, một dãy ngang có 5 phòng, giữa là một kỳ đài với cột cờ khá cao, trường đang xây cất thêm văn phòng phía trước. Hai lớp đệ thất nam học tại nhà xe của dinh Tỉnh Trưởng ( lúc đó là Quận ) đối diện bên kia đường, sân trường mới trồng mấy cây lim cao khoảng hơn thước.Trường báo giờ bằng một cái chuông, có quả lắc buộc vào một sợi dây, dùng tay để lắc chuông treo ở sà ngang phòng học đầu dảy bên trái ( năm tôi học đệ nhất giái chuông bị trò quỷ nào lấy mất, chú Hai Vũ Đình Lân phụ trách đi sổ các lớp vào lớp tôi tìm
    - Anh nào lấy giái trả lại ngay, có lẽ vì giận, nên chú nói ngắn lời, chúng tôi lủ quỷ có dịp cười thật đã ...Tôi nghe tiếng trò Năm ( Năm Lửa ) nhái giọng Bắc ... Trò nào cũng có hết lấy thêm làm chi ...) Lúc tôi lên đệ nhị cấp thì chuông được treo trên cành cây lim, sát văn phòng giám thị .
    Là một trường thuộc cấp Quận, nên dù đã tới ngày khai trường, các lớp học các cấp vẫn còn thiếu nhiều giáo sư. Năm nầy cấp lớp cao nhất trường là lớp đệ tam ( Hai lớp ban A một lớp ban B )... Học bên khu nhà xe rất thoải mái cho học sinh chúng tôi, vì xa mặt trời, giám thị băng ngang đường là chúng tôi đã trông thấy và hàng ngũ sẽ được chỉnh đốn ngay. Lúc đó giám thị là Thầy Châu Văn Giao, thầy thường băng qua lộ tay cầm cây roi ngắn ... Vào tới lớp, tay thầy nhịp roi vừa nói :
    - Tụi bây, cơm ghe bè bạn vào đây để giỡn phải không, mẹ! Hồi nảy thầy nghe trò nào chửi thề đó, đứng lên coi ...Con nít con nôi mà bày đặt chửi thề .. Tụi bây coi chừng tao ...Lần nào tụi quỷ chúng tôi nghe thầy rầy cũng cố nín cười, tội cho nhiều trò vì nín quá mà mặt đỏ như ... Quan Công ... Tính thầy nóng nhưng rất dễ, con gái thầy là trò Bích Liên học cùng đợt với tôi
    Một trăm lẻ năm nam sinh được phân chia theo thứ hạng, 50 trò đậu đầu học lớp thất A , và các trò từ hạng 50 về sau học lớp thất B .
    Tôi còn nhớ ngày khai trường có trò Lý Xéo ( khóa 4 ) đi lại khu đệ thất chúng tôi đang đứng, để xem mặt trò Cọp và trò Hùm ( trò Xéo sau nầy tốt nghiệp cán sự điện tử Phú Thọ, ra trường làm tại đài phát thanh SG, hiện định cư tại Úc ). Thời đó thầy Châu văn Giao và cô Sáu Hồ làm giám thị . Hiệu Trưởng là thầy Đoàn Văn Xếnh,thư ký trường là thầy Trần Văn Lợi, lao công trường là Chú Bọ... Mặc dù đã khai trường, nhưng lớp tôi mới có vài thầy dạy như thầy Đặng Xuân Chiếu dạy Công dân, thầy Võ văn Đài dạy Vạn Vật, thầy Nguyễn văn Hân dạy Việt Văn và Hán văn, thầy Phạm Hữu Thu dạy âm nhạc, thầy Võ văn Giàu dạy vẽ, thầy Vũ Ngọc An dạy Anh văn, sau ngày khai trường khoảng 2 tháng mới có đầy đủ giáo sư. Đây cũng là năm khóa 2 Quốc Gia Sư Phạm ( ban 3 năm ) ra trường, có khá đông tân giáo sư khóa nầy về trường, bắt đầu từ đây tương đối đã đầy đủ giáo sư
    Có một vài thay đổi nhân sự khi trường tương đối tạm đủ giáo sư .
    Thầy Hân về làm văn phòng, thầy Chiếu giữ chức thủ quỷ, thầy Đài chức giám thị. Lúc đó trường chưa có chức Giám học và Tổng giám thị .Các thầy cô đứng lớp đầy đủ như sau :
    Quốc văn và Hán Văn cô Nguyễn thị Nhẩn ( Khóa 2 QGSP) Cô cũng là giáo sư hướng dẫn lớp , Đức Dục Công Dân cô Nguyễn Kim Hoa ( Khóa 1 QGSP ban 3 năm), cô dạy hơn tháng xin ra làm việc văn phòng, thế cô Hoa là cô Giang Thị Hạnh ( khóa 1 QGSP, Người Châu Đốc ) Sau năm học nầy cô Hạnh chuyển về dạy tại quê nhà, trường Thủ Khoa Nghĩa, Anh Văn thầy Vũ Ngọc An, thầy có hỗn danh là An quắn, lúc đó trường có 3 thầy tên An, Lê quý An dạy anh văn cấp đệ lục và Phạm Đình An dạy sử địa, thay vì phân biệt bằng họ, lủ quỷ đâu có chịu, phải tìm một chữ nào vừa gợi hình, gợi ý vừa dui dẽ, Thầy Vũ An có mái tóc quăn, nên được gọi là An quắn, còn thầy Lê Quý An được gọi là An ngộp nước, lúc mới vào đệ thất tôi nghe hỗn danh nầy đã bắt cười khan ... tôi nhớ tôi có hỏi đàn chị lúc đó đang học đệ tứ ( khóa 2 ) là chị Phạm thị Lê... chị giải thích là tại vì môi thầy hơi hở giống như bị ngộp ...Hai sư phụ An, hiện tại đều ở Cali ... có đọc tới đây thầy cũng đừng phiền hà bởi vì ...thứ ba là học trò, phá mà không có ác ý ... Sử địa, toán Cô Nguyễn hữu Thơm ( Khoá 2 QGSP). Sau năm nầy cô Thơm đổi về dạy trường tiểu học Chi Lăng Gia Định phụ trách lớp tiếp liên, Lý Hoá và Vạn Vật thầy Đặng Hữu Danh ( Khóa 2 QGSP) Vẽ thầy Võ văn Giàu ( Người Biên Hòa ) Âm Nhạc thầy Phạm Hữu Thu ( Trường có nhiều thầy tên Thu nên thầy có hỗn danh là Thu mũi đỏ ) Thể dục thầy Nguyễn Như Thủy ( Khoá 2 QGSP,thầy thấp người, thường mang giày màu da trăn, gốc người Bình Dương )
    Ở niên khóa nầy, tình hình chiến sự tại Gò Công, vẫn trong tình trạng tương đối thanh bình, trong tầm mắt của người học sinh, chưa thấy cảnh chết chóc do chiến tranh gây ra ... Gò Công chỉ mới có một vài tên du kích về ám sát, khủng bố, rải truyền đơn, một số nhân viên Diệt Trừ Sốt Rét ( Đi xe hơi và xe gắn máy sơn màu vàng ) bị ám sát cũng như dụng cụ hành nghề bị phá hoại .
    Con đường học vấn còn quá thênh thang, khi mới bước chân vào đệ thất. Năm học lớp nhất chỉ có 4 ông thầy. Một thầy đứng lớp, một thầy dạy Nhạc, một thầy dạy Vẽ, một thầy dạy thể dục, giờ đây học với nhiều thầy cô quá, lại nhiều môn học mới .Trong số 160 trò chỉ có 25 trò chọn học sinh ngữ Pháp Văn nên trường bỏ luôn môn nầy, 3 lớp đệ thất A, B, C đều học Anh văn, nên nam nữ học riêng .
    Cả cuộc đời đi học, tôi chỉ thích học và học chuyên cần có 2 môn đó là Việt Văn và Sử, cũng vì yêu thích 2 môn nầy, nên lòng tôi vẫn rất quý Thầy Cô dạy môn nầy. Vào đệ thất, học Việt Văn với Thầy Hân tôi rất thích, bài thầy giảng về ca dao tôi vẫn còn nhớ từng lời, cũng như từng động tác của thầy diễn tả. Giọng nói của thầy không được trong sáng lắm nhưng không vì thế mà làm kém phần sinh động .... Thầy từ từ rút trong túi quần ra một chiếc khăn tay rồi làm động tác theo từng câu ca dao ... " Khăn thương nhớ ai ? khăn vắt trên vai ... khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất ...Sau 2 tháng Cô Nhẩn vào dạy thế ... Giọng miền Nam của cô, cũng chinh phục được cảm tình của học sinh, cô siêng cho làm luận mang về nhà chấm, trước khi phát bài, cô thường đọc cho cả lớp nghe tiêu biểu một vài bài luận ... Tôi còn nhớ những trò thường được cô đọc bài luận là trò Trương văn Tâm, Trần Văn Mươi, Phạm Ngọc Đắc và tôi .( Năm 1967 Trong mùa thi tôi có dịp ghé qua Trung tâm khảo thí gần sở thú, tôi có nhìn thấy cô Nhẩn, cô mặc chiếc áo dài xanh, đang tươi cười đứng trước ghi sê phát chứng chỉ tú tài 2 ban C, cô chăm chú dán mắt nhìn vào tờ chứng chỉ, cô vừa lãnh còn thơm mùi mực ...)
    Một chút về thầy Hân, đây cũng là một gương hiếu học của tỉnh nhà. Thầy dạy tiểu học khi đậu bằng đíp lôm, lúc tôi còn học sơ cấp thầy phụ trách lớp Tiếp liên cùng với thầy Đinh Ngọc Ẩn, khi trường trung học mới mở, do nhu cầu, nên quý thầy cô có bằng đíp lôm đang dạy tiểu học được mời lên dạy trung học. Khi có đầy đủ giáo sư thì quý thầy nầy trở lại làm việc văn phòng, thầy Hân vốn là người Hán...rộng ( cả nghĩa đen lẫn bóng ) lại trì chí chăm học, tự học lần lượt đậu tú tài phần một và phần hai ban D ( cổ ngữ ) Sau đó thầy ghi tên học ban sử địa tại đại học văn khoa Sài Gòn, thầy đã đậu cử nhân và trong 4 chứng chỉ có chứng chỉ quốc sử hạng Bình, và cũng trong hàng ngũ giáo viên tiểu học, chuyển lên dạy trung học, cùng lượt với thầy, có cô Trần Thị Lài, sau nầy là hiệu trưởng trường Thống Nhất Sài Gòn, cho tới niên khóa trước ngày sập tiệm cô là sinh viên năm thú hai, ban tiến sĩ khoa Nhân văn cuả đại học văn khoa Sài Gòn ... Một vài gương hiếu học tôi cố tình gợi lại, để tuổi trẻ lấy đó làm gương ... Trong lớp đệ thất nầy, có 3 môn tôi học bết bát nhứt là Vẽ , Thể dục và Âm Nhạc, ở niên khóa nầy tôi rất thích học môn Hán văn .
    Bởi thích môn văn chương, nên tôi còn nhớ, cô Nhẩn thường khuyến khích các bạn trong lớp mang sách vào trao đổi cho nhau đọc, năm đó cô dạy tác phẩm Nhị Thập Tứ Hiếu của Lý Văn Phức.
    Năm nầy trò Trần Kim Thăng được bầu làm trưởng lớp ( vợ Thăng là chị Đạt thuộc khóa 4 ở lại năm đệ nhị chung lớp ). Cũng trong niên học nầy tại Gò Công có một vụ bể hụi, mà báo Thần Chung Sài Gòn đã đăng trên trang nhất, tôi còn nhớ cột báo khá dài có đăng bức ảnh của thầy Đẩu và thầy Giáp chụp tại sân quần vợt trường Nam tiểu học, người chủ hụi là vợ của thầy Đẩu
    Niên khóa đệ lục bắt đầu, lớp học nằm trong khuôn viên trường, từ cổng đi vô dãy phía tay trái, 3 lớp đệ lục A,B,C nằm cạnh nhau, trong lớp có thêm một trò mới từ trường khác chuyển về đó là trò Nguyễn Bá Thoại, trò là cháu nội của Ông Huyện Bỉnh và trò Vũ Đình Chương con của chú Hai Vũ Đình Lân, một quân nhân giải ngũ, về làm lao công cho trường, trò Hoàng Mạnh Hùng Cường chuyển trường về Sài Gòn, bên lớp A có trò Nguyễn Thoại Trì chuyển về Chu văn An. Thành phần giáo sư giảng dạy đều mới. Quốc văn Thầy Nguyễn Văn Ba ( Khoá 1 QGSP . Sai Gòn ) Thầy có hổn danh là Ba Ton, gốc người làng Tân Niên Trung, là cháu nội của Đại Hương Cả Thuận, thầy dạy về tác phẩm Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi, dạy được 1 tháng, thầy xin ra làm giám thị, chỉ còn phụ trách môn văn một lớp đệ lục C, thầy Đoàn Huy Oánh, đãm nhiệm môn nầy, nhắc tới Thầy Oánh, trong trí tôi vẫn còn nghe rõ giọng nói của thầy, buổi trưa thầy đọc bài giảng văn Đôi Gi Đá của Tô Hoài, rồi bài Nhặt lá bàng, giọng của thầy đều đều kéo dài ... giữa khi ngoài trời rực nắng ... Giá lúc đó mà có chiếc chiếu trải ra thì ... hết ý, ngoài ra thầy còn dạy tác phẩm Bích Câu Kỳ Ngộ, đi dạy thầy thường mặc quần dài vải ọt long, có sọc xanh nhạt. Công dân Thầy Lê Hoan,thầy cũng dạy một tháng rồi lên văn phòng làm việc, sau thầy bỏ nghề dạy thi vào trường Quốc Gia Hành Chánh, ra trường làm việc ở Hậu Nghĩa, sau ngày trời sập, thầy ở tù vừa đủ tuổi để đi sang Mỹ theo diện H.O, thầy Võ Văn Quang dạy toán kiêm nhiệm luôn Công Dân, thầy cũng là giáo sư hướng dẫn ( Khóa 2 QGSP, hổn danh là Quang lùn, Quang niểng, Quang hột mít, sau 75 ở tù CS trên 3 năm, thầy được thả về tại trại Công Binh Thành Ông Năm Hốc Môn ... Ngày được thả thầy về chung với một học trò cũ khoá 6 là trò Võ Văn Chợ, Sĩ quan Không Quân ... Hai thầy trò trước khi chia tay có vào tiệm làm mỗi người một tô phở cho ấm lòng người chiến ...bại, thầy cũng ân cần viết mấy chữ gữi về thăm Ông Sáu Tống, nguyên quản lý trường Bán Công ... Người đã cho thầy ở trọ đi dạy suốt thời gian ở Gò Công, thầy nhờ trò Chợ chuyển giùm ... thầy đi dạy thường mặc quần dài màu đậm, xách cái tép có 2 quai màu da bò đậm, đi bộ từ nhà ông Sáu Tống dọc bên hông khám đường tới trường. Khoảng năm 68 tình cờ, tôi gặp thầy trên đường Lê Lợi Sài gòn, thầy mừng rở, kéo tôi vào quán Thanh Bạch uống nước, thầy hỏi thăm cặn kẻ về trường Gò Công ..., Anh Văn thầy Nguyễn Tiến Đức ( ĐHSP. SG ), thầy Đức có lối phục sức hết sức trẻ trung, thầy là con trưởng một gia đình đông anh em ... Tính nghệ sỹ, có thời gian thầy dạy môn vẽ, thầy thường bôi bảng bằng ...tay,Sử Cô Trần Thành Mỹ ( Khóa 1 QGSP. SG ), khi vào lớp, cô Mỹ thường đứng ngay giữa trước mặt học sinh, chờ lớp thật yên, cô vừa cúi đầu, miệng chào các em, sau đó mới bước lên bục vào ghế ngồi, cô gốc người Gò Công, là con một trong một gia đình giàu có, cha là Ông Hội Đồng Quảng, ngôi nhà 3 gian có nền đá xanh, cao cả thước, có tam cấp bước lên ở xóm Cỏ ,Địa lý thầy Ngô Đình Thu ( ĐHSP SG ) Lý Hóa thầy Trần Văn Huệ ( ĐHSP SG) thầy bị dị ứng mũi, lúc nào tay cũng cầm khăn, thầy rất thường khịt mũi, sau thầy chuyển về dạy trường trung học Chợ Gạo,Vạn Vật thầy Trần Quang Hoàng ( Khóa 2 QGSP. SG ) Thầy mang kính trắng, thầy cũng rất siêng học, sau mấy năm, lấy xong cử nhân giáo khoa Việt, tại đại học Văn Khoa Sài Gòn, trò Phạm Văn Tý xếp thầy vào họ mắt kép, sau khi nghe thầy giảng vạn vật bài Con Ong ( trò Tý tốt nghiệp khóa 23 võ bị, tử trận mất xác tại chiến trường An Lộc, vợ Tý kiên trinh thờ chồng ở vậy nuôi con tới bây giờ ). Sau ngày sập tiệm, sau khi ra tù cải tạo, thầy Hoàng nhiều lần bị bắt về tội vượt biên, để rồi khi diện H.O ra đời, thầy nộp đơn, được chấp thuận và ngày lên máy bay cũng đến, một buổi tiệc tiễn hành trước khi đi một ngày ..tan tiệc Thầy thu xếp đồ đạc rồi đi nghỉ; giấc ngủ ngàn thu đã đến với thầy, trời ơi! Định mệnh sao lại cay nghiệt với ông thầy khả kính, tôi nghe tin mà nước mắt lưng tròng.Môn Vẽ thầy Võ Văn Giàu, thầy gốc con nhà giàu ở Biên Hòa, thầy dạy vẽ nhưng đàn rất hay, mấy năm sau thầy chuyển qua dạy nhạc, trong lần các trường trung học thuộc tỉnh Định Tường dự thi văn nghệ tại Mỹ tho (năm 1962), trường trung học Gò Công có gửi đoàn văn nghệ tham dự, do thầy Đặng Xuân Chiếu làm trưởng đoàn, thầy Giàu dự thi với môn độc tấu đờn Vua Gia Long( violon) Xui cho thầy, mới kéo ò e mấy tiếng, dây đờn bị đứt, thầy phải thay dây và trình diễn lại ... dù bị trục trặc thầy vẫn chiếm giải nhì toàn tỉnh, vào lớp thầy kể cho nghe thành tích, tôi còn nhớ rõ lời của thầy - Cái gì cũng vậy, tình huống nào cũng phải bình tỉnh, tôi nghe giọng nói nhỏ của trò Tý kề bên tai tôi, từ bàn nhì phía sau - nếu không đứt dây chắc thầy hạng ....5, trong đoàn dự thi nầy về phía học sinh tôi còn nhớ có trò Đặng Xuân Thinh (Khóa 4 Trung Học GC, Chuyên viên Không Quân ) và trò Phạm Ngọc Đắc khóa 5, sau nầy là nhà thơ PNĐ Dạ Thảo, góp mặt thường xuyên trên đài phát thanh cũng như báo chí Sài gòn trong những năm 66, 67, Đắc đền nợ nước trong màu áo sư đoàn 7 sau khi tối nghiệp khóa 26 Thủ Đức. Ngoài ra còn nhiều bộ môn khác như kịch, vũ, đơn ca, họp ca phối họp với trường tiểu học, quận Gò Công đã mang về nhiều giải, vũ khúc "Dòng sông xanh " do cô Hồ Ngọc Lệ tập dượt, cô Mỹ hướng dẫn dự thi đã chiếm giải nhất, màn hòa tấu của ba thầy Sấm Sắc Lượng cũng chiếm giải nhất, Âm Nhạc Thầy Trần Trung Ngọc, Thầy Ngọc có hàm râu quai nón dáng người to cao trắng trẻo, thầy có cây đờn " Vua Gia Long " đựng trong một khung hộp, thầy vẫn thường kéo ò e cho đám đệ tử nghe, sau nầy, thầy là ca nhạc sĩ Tuấn Khanh.Trưởng lớp là trò Trần Văn Mươi, ( Mươi sau tốt nghiệp sư pham bổ túc ban 2 năm, bây giờ là nhân viên của trường). Năm nầy Hiệu Trưởng là thầy Ngô Văn Dư. Trong năm nầy tại quận Gò Công có Ông Phó Quận bị báo chí Sài Gòn tố cáo là Hạm. Tôi còn nhớ tờ Buổi Sáng trên trang nhất có đăng bài điều tra về phó quận Gò Công ... Mở đầu bài phóng sự là 2 câu thơ
    " Gò Công có biển Tân Thành
    Có tên Sáu lõ tung hoành dọc ngang ...
    Bởi còn nhỏ, nên tôi không nắm vững sự việc nầy lắm. Nhưng thời đó việc nầy đã làm xôn xao dư luận Gò Công, bây giờ trong trí nhớ tôi còn hình dung được dáng dấp của ông nầy, Ông đi làm bằng một chiếc xe gắn máy hiệu RuMi, một loại Vespa nhưng đầu máy trông thô hơn .
    Theo dòng thời gian tôi lên đệ ngũ, lớp có thêm trò Tốt là con của ông cò hiến binh mới đổi về, và trò Nguyễn văn Nhỏ thuộc khóa 4 học lại .Lớp học nằm cuối dãy ngang gần nhà để xe đạp .Thành phần giáo sư gồm quý vị thầy cô :
    Quốc văn Thầy Ngô Đình Thu ( ĐHSP SG ) Thầy Thu nhỏ con, tính vui vẻ , thầy dạy nghị luận đầu tiên cho tụi tôi, trước kia học văn tả cảnh nay học văn bình luận, tôi còn nhớ bài giảng mẫu của thầy là bài : Bình luận câu nói sau đây của Dương vương Minh ... Học như đi thuyền trên dòng nước ngược, không tiến ắt phải lùi. Công Dân thầy Nguyễn Phước Hải, thầy gốc người Long An, thầy dạy được một tháng thì đổi qua dạy lớp khác, mấy năm sau nhập ngủ khóa 16 Thủ Đức cùng một lần với Thầy Võ Văn Quang, Nguyễn Tiến Đức, Nguyễn Quang Thâu, Nguyễn văn Ba...khi ra trường, thầy về phục vụ trong ban Q, phủ đặc ủy trung ương tình báo, sau về làm trưởng phòng 2 tiểu khu Vĩnh Bình, vợ thầy ( sư nương ) là học sinh khóa 6 trường, gốc người Vĩnh Lợi, thầy Đoàn Huy Oánh, phụ trách môn Công Dân, nửa năm sau thầy Đặng Xuân Quang dạy thế, lúc tôi nhập ngũ vào thụ huấn tại Quang Trung, tôi lại học Chiến Tranh Chánh Trị với Thiếu Úy Đặng Xuân Quang, tôi còn nhớ một buổi trưa thầy Oánh dạy về các toà án ở Việt Nam, sau khi kể xong các loại toà ở Việt Nam, thầy hỏi có trò nào thắc mắc gì không, trò Nguyễn Ngọc Ẩn ngồi bàn nhất cạnh tôi đứng dậy
    - Thưa thầy ...Toà Bố là tòa gì ? Tôi còn nhớ thầy không trả lời mà dùng tay ấn đầu trò Ẩn bảo ngồi xuống, cũng trong giờ công dân nầy, lần nào vào lớp cũng vậy, sau khi mở sổ điểm ra là thầy Oánh gọi tên Đinh Văn Nhân và kế đó là Nguyễn văn Tạo, thầy gọi liên tiếp mấy tháng, sau cùng hai trò nầy trốn học giờ thầy luôn. Sau thầy đổi về làm ở phòng kế toán Nha Khảo Thí cùng với cô Kim Hoa, thầy Trần Văn Kỳ làm trưởng phòng, tôi nhớ không rõ hình như thầy được học bổng sang Úc lấy Master về quản thủ thư viện, thầy hiện tạm dung tại Úc, Anh Văn thầy Đoàn Trọng Thu, Sử Địa Cô Trần Thành Mỹ, những trang sử của niên khóa đệ ngũ là những trang sử hào hùng nhất trong lịch sử Việt Nam, đó là sử đời Trần với những vị vua và tướng tài kiêm văn võ, với những trận đánh vang lừng thế giới ... Tôi còn nhớ cô Mỹ giảng tới đoạn vua Trần anh Tông họp quần thần để công bố việc gả em gái là Huyền Trân Công Chúa cho Chế Mân, để đổi lấy hai châu Ô Lý. Giọng cô Mỹ trầm trầm ....
    “Tướng trần Khắc Chung nghe vua công bố xong vội vàng quỳ xuống tâu
    - Nếu bệ hạ cần 2 châu Ô Lý, thì xin cấp cho thần 500 tinh binh, chứ cần chi phải đánh đổi với công chúa Huyền Trân .
    Vua Trần Anh Tông ( một vị vua nỗi tiếng đẹp trai, đến nỗi bên Tàu rất nhiều vị quan rất muốn sang nước ta để được chiêm ngưởng long nhan ) tươi cười :
    - Ta biết với 500 tinh binh, khanh có thể lấy 2 châu Ô Lý dễ dàng, nhưng mà ... chiếm đất thì dễ chứ thu phục lòng dân không phải dễ ...
    Tôi còn nhớ cô ngâm nga 2 câu thơ, tôi vẫn thường tự hào đọc nhiều sách sử nhưng đây là 2 câu thơ mà tôi mới được nghe lần đầu :
    " Hai châu Ô Lý bao nhiêu đất
    Mà để cho ta mất cõi lòng ... để diễn tả nỗi lòng của Trần Khắc Chung với người yêu là công chúa Trần Huyền Trân .
    Thuở đó tôi nghe 2 câu thơ tôi thấy hay mà chưa thấy thấm ...Sau nầy nhất là lúc ra tù, tôi mới thấm thía với 2 câu nầy, diễn tả nỗi lòng của tướng Biệt Kích Trần Khắc Chung, Toán thầy Huỳnh văn Bổn ( Cử nhân Luật Khoa, trong 3 chứng chỉ cử nhân thầy có 2 chứng chĩ hạng bình thứ ) Gốc người Tân Tây, ngoài giờ dạy, thầy thường chơi bóng bàn và quần vợt, để khỏi nhập ngũ, thầy ra ứng cử hội đồng xã ấp, nên sau ngày sập tiệm, thầy không bị cải tạo và sau một khóa học luật Cộng Sản bổ túc, thầy hiện là luật sư tại tỉnh Tiền Giang, Lý Hóa thầy Trần Văn Huệ ( ĐHSP SG). Cũng là giáo sư hướng dẫn , Vạn Vật Thầy Đặng Hữu Danh, Vẽ Võ văn Giàu, Hán Văn Thầy Chương ( ĐHSP SG ) thể dục thầy Tô Vĩnh Khâm, gốc người Hòa Đồng, cùng một đạo với ông Hiệu Trưởng ( Cao đài phái Bến Tre ), thầy dạy thể dục mà học trò lớp vẫn ngồi trong phòng suốt giờ, thầy nói chuyện thời còn nhỏ của thầy... Thầy kể chuyện gia đình thầy từng nuôi quân của Huỳnh Phú Sổ cả mấy tháng trời ... Năm nầy hiệu trưởng cũng là thầy Ngô Văn Dư . Cuối niên học nầy Cô Trần Thành Mỹ tạm từ giã trường, trở lại Sài Gòn, tiếp tục học Đại học Sư Phạm ban Pháp văn, để rồi khi tôi lên lớp đệ nhất cô lại trở về trường, dạy Pháp văn lớp tôi. Cũng trong năm nầy trường có tổ chức giải bóng bàn toàn trường, thầy Đặng Hữu Danh (sau động viên là Sĩ quan Truyền Tin ) làm trọng tài, lớp tôi có nhiều trò ghi tên dự thi như Nguyễn Hồng Điệp ( Tiểu đoàn Hắc Long TQLC giải ngũ năm 72, khóa 3/69 đại đôi 41 Thủ Đức ) Trò Đinh văn Nhân( Cán sự Phú Thọ), trò Võ Hiếu Để ( Con trai thứ của thầy Đài , tử trận tại chiến trường Tây Nguyên, trong màu áo Biệt Động Quân cấp Thiếu úy năm 72 ) trò Ngô hoàn Toàn ( tốt nghiệp trường sĩ quan Đồng Đế , khóa 4/68 tử trận tại chiến trường miền Tây, trong màu áo Địa phương quân năm 71 )Tranh bán kết trò Để hạ trò Nhân với tỷ số 2/1 vào chung kết với trò Hồ Văn Sơn, lúc đó là học sinh lớp đệ nhị B ( Khóa 3/69 đại đội 41 Thủ Đức, sĩ quan quân nhu ) trò Để đã oanh liệt hạ trò Sơn với tỷ số 3/2 lãnh chiếc cúp vô địch toàn trường .
    Mùa hè cuối năm đệ ngũ, tôi không còn thảnh thơi nữa. Ghi tên học lớp hè do thầy Đào Vũ Thân hướng dẫn, lớp học được tổ chức trong miếu thờ Khổng Tử ... Tôi chỉ học có mấy ngày rồi bỏ ... bởi vì Thầy dạy có hay cở nào mà một lớp gần 200 học sinh ... Tai phải tốt, mắt phải tinh mới thu nhận được lời giảng của thầy, nếu không thì cũng Khổng Biết.
    Vào niên học đệ tứ, lớp vắng trò Tốt theo cha đổi đi đơn vị khác, tròVõ Văn Triệu bị lao phổi chết .Thành phần giáo sư năm nầy như sau :
    Quốc văn cô Võ Kim Hoa ( ĐHSP SG ) Gốc người Bình Ân, có người em gái là chị Võ Thị Lành từng đậu đệ thất thủ khoa, khoá 2 Trung học Gò Công , cô dạy tác phẩm Kiều , Đông Dương tạp chí , Nam Phong tạp chí ..., Công Dân thầy Huỳnh Văn Bổn , Anh Văn thầy Nguyễn Tiến Đức ( ĐHSP SG ) Hán Văn thầy Bùi Cận ( ĐHSP SG ) Sử Ký thầy Đoàn Huy Oánh,Địa thầy Trịnh Quang Lừng ( ĐHSP SG ), Toán thầy Tôn Thất Trấn Ninh, thầy Ninh động viên khoá 22 Thủ Đức, thầy ra trường chưa được một năm ...thầy đền nợ nước .. Thầy rất đẹp trai, da trắng tóc quăn dợn, lúc thầy thụ huấn ở Thủ Đức, nhân nghỉ hè năm học đệ nhất, tôi có đến trường thăm thầy và thầy Thinh dạy Anh văn ... Tôi còn nhớ khi ra khu tiếp tân, nhìn thấy đứa học trò cũ từ tỉnh lẻ lên thăm, thầy có vẻ ngạc nhiên lắm, Lý Hóa thầy Nguyễn Hoài Thi, thầy đi dạy bằng chiếc lam rết ta, thầy thường mặc áo sơ mi màu sậm, thầy dạy dựa theo sách vật lý của giáo sư Lê Văn Lâm, Vạn Vật cô Hoàng Thị Phương Thảo ( ĐHSP Sài Gòn ), Vẽ thầy Võ Văn Giàu, Thể thao thầy Đặng hữu Danh. Hiệu Trưởng Thầy Ngô văn Dư, Tổng giám thị thầy Võ Văn Đài .. Niên học 62-63 tình hình chiến sự Gò Công có nhiều biến động, Trung Đoàn 12, dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ chịu trách nhiệm an ninh toàn quận ( Giờ chót là Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ tỉnh trưởng Thừa Thiên ) Hai con gà cồ ( 105 ly ) được đặt trong dinh quận để yễm trợ cho các làng. Tôi còn nhớ buổi sáng ngày thứ tư, lúc vào học gần được một giờ, khoảng 9 giờ 25 sáng ( lâu quá nên không nhớ mấy tây !) trong những tuần lễ đầu của ngày khai trường, Cô Thảo vừa mới chuyển đời từ sinh viên sang giáo sư, cô đang ngồi trên bàn viết được kê trên một bục cao, từ bục cao bước xuống một bục thấp rồi mới tới nền xi măn ... Hôm đó hình như đụng trận hướng Tăng Hòa, nên mũi súng hướng thẳng qua trường. Cô đang ngồi lật sổ, bất ngờ tiếng súng départ xé trời, cô hốt hoảng đứng lên, chạy vội về phía bàn học sinh,mũi nhọn guốc cao gót của cô lọt vào khe bục, cô hụt chân té nằm dài, học sinh trong lớp, trò nào nhìn thấy cũng xót xa cho cô, nhưng lúc đó không có trò nào dám phụ đở cô dậy ... hình ảnh đó mỗi khi nhắc lại là như hiện rõ trước mắt tôi, lần đầu tiên cô nghe tiếng pháo, sắc mặt cô thất thần ..! Tôi còn nhớ cô mặc chiếc áo dài màu tím than ... Quý thầy dạy xong cuối tuần thường về Sài Gòn, sáng thứ hai theo xe đò xuống sớm, sau nầy thường bị trể giờ, vì Việt Công đã bắt đầu phá hoại mạnh, đấp đường, cuốc lộ, phá cầu thường xuyên xảy ra trên con lộ Gò Công Cầu Nổi. Trưởng lớp là trò Nguyễn Kỷ Nhựt, hai năm đầu trò có tên lót là Ký , sau đổi lại là Kỷ, sau khi rời trường Nhựt gia nhập Không Quân và là Thủ Môn sáng chói của đội bóng tròn không quân vùng 4 .
    Đây là niên học cần phải có kết quả tốt, tôi vẫn thích học văn chương và sử, dù là năm thi, các môn khác tôi chỉ nghe giảng trong lớp, về nhà thường chỉ thích đọc sách của thầy Hà Như Chi, quyển Việt Nam Thi Văn Giảng Luận nầy, tôi đọc như nằm lòng, tôi rất thích lối phê bình thật bay bướm của tác giả ... Sau nầy tôi có dịp học giảng khóa Kiều với Thầy Phạm Văn Diêu, trong giảng khóa thầy Diêu bình giảng từng câu một của tác phẩm Kiều ... nhưng tôi vẫn tham khảo thêm tài liệu từ sách của Thầy Hà Như Chi, ngoài ra tất cả các quyển sách luận đề, tôi đều đọc qua ( nhà tôi có Anh học P. Ký, có chị học Gia Long, có chị học khóa 2 trung học Gò Công nên tôi được thừa hưởng rất nhiều sách ) ngoài môn văn chương, sách gối đầu của tôi là Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, Việt Nam Tranh Đấu Sử của Phạm Văn Sơn, và sử theo từng lớp của Trần Hữu Quảng, huyền sử, dã sử, tôi đều đọc qua, cho nên diễn tiến lịch sử, tôi rất rành, gần ngày thi chỉ ôn lại vài niên hiệu là xong. Tôi nhẩm tính các hệ số các môn thi .. Tôi thấy có thể đậu với môn Việt văn và các môn phụ khác để bù qua toán lý hóa, nên trong học thi tôi chưa biết thức khuya dậy sớm là gì .
    Ba tôi dẫn tôi đi thi tại Mỹ Tho, gửi ở nhờ nhà người cô họ, Cô Sáu Kiên, chuyên sống nghề nấu cơm tháng, nhà cô trên đường Ngô Quyền, năm đó, cô cũng có người con gái tên Nga, cũng đang học thi ... Nga có thầy đến nhà kèm dạy, dù đã cận kề ngày thi, nhà cô là một căn phố dài có gác lửng ... Có khoảng trên 10 trò từ Gò Công lên trọ thi tại nhà nầy . Trai ngủ trên gác, gái ngủ dưới nhà, tôi còn nhớ gái có Kim So, Kim Lài, trai có Ngô hoàn Toàn ( Tứ B), Nguyễn Hoàng Hải ( Tứ bán công ) Hữu ( Tứ A ) Có Anh Minh ( Khóa 4 dẫn Toàn đi thi ) và nhiều tên khác mà với thời gian đành chịu không nhớ hết ...
    Lần đầu tiên xa nhà, tôi nằm cố dỗ giấc mà không tài nào ngủ được, quen ngủ với mẹ, bây giờ mất hơi, với lại các trò kia thức học bài rù rì hoài ... tôi hơi lo sợ vì phải thức suốt đêm, sợ e rằng ngày mai mất sức .
    Bài thi việt văn, luận có 2 đề, một đề văn chương và một đề luân lý,tôi còn nhớ, bình giảng câu nói của Ngô Tổng Thống trong bài diễn văn đọc trước nông dân tỉnh Long Xuyên : ". Tôi chọn làm đề nầy, bài giảng văn là bài thơ Con Muỗi, của cụ Phan Bội Châu ( Hay Phan Tây Hồ ? ) Tôi rất biết cái ưu điểm của một bài thi, là chữ nghĩa viết rõ ràng sạch sẽ, rất dễ có cảm tình với giám khảo chấm thi và tôi đã dễ dàng làm xong bài luận ... các môn khác tôi đều làm thoải mái chỉ trừ môn toán ... câu hỏi giáo khoa có 5 câu tôi làm được 4 câu, còn bài toán thì bù trất, tôi nhìn qua ngó lại thấy cũng nhiều tay cắn viết ... Không làm toán được, tôi ngồi tự cho điểm và cộng thử thấy trên số điểm đậu ... Tự mình làm, tự mình chấm ... chắc là có thiên vị ?!..Hôm sau theo bạn bè ra xe về ... Tôi đọc báo mới thấy dư luận phản ánh quá nặng về bài luận và bài toán, báo chí đã viết, thí sinh Trung Học bị .... muỗi chích. Bài thơ Con Muỗi là một bài thơ ...dở mà tác giả chưa hẳn chính xác là của cụ Phan. Còn bài toán thì hết thuốc chửa, nguyên văn một bài toán hình học không gian trong quyển sách toán đệ nhị của giáo sư Nguyễn văn Phú ( Thường thì Trung Học Đệ nhất cấp toán chỉ cho đề hình học phẳng )
    Đây là năm đầu tiên, kỳ thi chỉ mở một khoa trên toàn quốc, bộ quốc gia giáo dục quyết định cho nâng điểm bài giáo khoa toán lên 13 điểm, và mở thêm khoa thi kỳ hai .
    Trò Nguyễn văn Năng là trò giỏi toán nhất lớp đệ tứ B, vào phòng thi, trò làm dễ dàng dù bài toán của lớp đệ nhị, chú em ngồi bên cắn bút thấy trò Năng làm dễ dàng, khều tay xin chép, trò Năng không cho .. Khều qua khều lại, gặp giám thị khó, bắt gặp đuổi khỏi phòng thi, với đề nghị cấm thi 2 năm ( Sau trò Năng tốt nghiệp cán sự bưu điện, bị động viên Thủ Đức, ra trường tự hủy hoại thân thể được giải ngũ )
    Tôi còn nhớ gần ngày có kết quả, tôi đang đạp xe trên đường lên chợ, thì gặp trò Nguyễn Hồng Điệp, trò cho tôi biết là trò Lê Công Hoàn lớp tứ A đã đậu và trò còn bình luận ...
    - Thằng Hoàn đậu là mình đậu .
    Và khi công bố kết quả tôi và Điệp cùng đậu . Nhà tôi ở trọ thi, tất cả đều rớt hết, trường Gò Công năm đó, kỳ nhất đậu 36%... Qua kỳ nhì bạn bè đậu hạng Bình và Bình Thứ quá nhiều, cả lớp chỉ có một hai trò rớt. Tôi còn nhớ trò Trần Công Điệp, nhà ở đầu cầu Huyện, là em cũa cô giáo Ngà, có mẹ bán muối ngoài chợ ... Trò nầy có biệt tài là tất cả nhà trong xóm, có cây trái gì ngon trò đều có nếm qua hết. Như Nhà Ông Thôn Khoa có 5 con chó dữ, cổng ra vào cao vòi vọi thế mà cây xoài thanh ca trước nhà, trò ăn mỗi mùa khoảng nửa cây. Trò giang xe đò lên Sài Gòn để tình nguyện đi lính, xe tới Xã Lới, Việt Cộng chận ngang đường bằng mấy tàu lá dừa nên xe không dám qua, trò Điệp nóng máu, đi tới định dẹp mấy tàu lá cho xe chạy thì trong xóm bắn lóc chóc ra. Trò chạy ngược trở lại xe an toàn, nhưng trong lúc chạy, làm sút ra chiếc dép, im tiếng súng, trò chạy lại định lấy dép, thì viên đạn định mệnh đã kết liễu đời. Đây là người bạn học đầu tiên của tôi ăn đạn Việt Cộng .
    Bắt đầu từ năm đệ ngủ, phong trào đá banh trong lớp tôi bắt đầu lên, giữa 2 đội một và hai , vì hai đội nầy tuổi tác và sức vóc tương đối ngang nhau, đội 3 và đội 4 nhiều trò lớn hơn tôi tới 5 , 6 tuổi .Tôi ngồi bàn nhất phía cửa vào nên thuộc đội một, có trò Thoại ( Sĩ quan phát hướng viên tiểu khu Gò Công, trung ứng đội tuyển quân đoàn 4, thủ quân đội tuyển Gò Công ) rất mê đá banh và đá rất hay, thường vào buổi sáng thứ bảy, trò Thoại ít khi chịu ngồi yên, trò bận xếp đội hình để thách đầu với đội 2, thường ăn cá là ly nước đá của anh Nhạn hay anh Chơi, bán trước cổng sân vận động, hôm nào khá giả, thì có thêm miếng kẹo đậu phọng hay miếng bánh chao, bên đội 2 thì có Trò Nhân( Cán sự Công Chánh Phú Thọ ), trò Tạo ( Phó Ty Công Chánh Gò Công tử nạn trong công vụ bên cù lao ) và cũng trong năm nầy, tên Ông Bầu được ghép cho trò Thoại cho tới bây giờ ... Cũng trong năm đệ tứ, Công An Gò Công, có qua trường bắt nhiều học sinh hoạt động cho Việt Cộng ( lúc đó Chi Công An đóng tại tòa nhà có cây đa cạnh dinh Ông phó và trường nam ) lớp tứ A có trò Trần văn Tâm, Dương Hồng Hoàng, lớp tôi có Nguyễn văn Thắng, tạm giam một hai ngày gì đó rồi cũng được cho đi học lại ( trong trường học thỉnh thoảng vẫn có truyển đơn VC)
    Lúc bấy giờ lao công trường có thêm chú Giảng Văn Đa giải ngũ về làm cho trường, chú Nguyễn văn Sua thơ ký đánh máy ( chú mất năm 1990 vì bị phong đòn gánh tại bênh viện Mỹ Tho )
    Lúc bấy giờ đa số các Cô ở trọ trong trường thánh Té rê sa, còn các Thầy thường trọ nhà Ông Cả Tùng, một ngôi nhà ngói xưa có nền cao, 3 gian rộng rãi nằm đầu đường Nguyễn Trãi, người Gò Công cố cựu sinh từ khoảng thập niên 30 trở về trước đều biết chuyện Thầy Giáo Bá, là con Ông Cả, đã phải bỏ xứ ra đi ... Sau 75 thầy có trở về trong âm thầm lặng lẻ, rồi lại ra đi cũng lặng lẻ như lúc trở về ... Muốn biết chuyện của thầy giáo Bá, cứ hỏi những người lớn tuổi ... tôi không tiện kể ra đây ..Một ít thầy cô khác, ở rải rác một vài nhà quen như thầy Nguyễn hoàng Đạt ở nhà của anh em Hoà Bình, và ăn cơm tháng bên nhà trò Nguyễn Hồng Điệp, thầy Tăng như Bình ở nhà Ông trưởng ty công chánh, cô Hồ ngọc Lệ, Giang Thị Hạnh ở nhà cô Kim Hoa, thầy Nguyễn Hoài Thi ở nhà ông hiệu trưởng Khai Trí , thầy Võ văn Quang ở nhà Ông Sáu Tống, cô Mỹ Dung ở nhà thầy Châu văn Giao ...
    Một vài hình ảnh trước cổng trường vẫn rất khó quên trong trí nhớ của tôi ... Hai xe nước đá nhận đậu đỏ bánh lọt, của anh Nhạn và Anh Chơi, vẫn bán trước cổng sân vận động từ năm tôi vào trung học cho tới năm tôi rời trường,trên xe, có một chai keo bằng thủy tinh, đựng kẹo đậu phọng loại hình chữ nhật nhỏ, gói trong giấy, mỗi phong 10 miếng và bánh chao, sau nầy khi tôi vào lính mấy lần về phép có gặp lại 2 anh ... trong sắc phục Cảnh Sát Gò Công .

    Trước cửa miếu Tiên Sư, cạnh trường, có anh bán sách, thường trải tấm ny long khoảng bằng chiếc chiếu, trên để khoảng trên 50 cuốn sách, một vài đầu sách giáo khoa đã xuất bản trước đó một vài năm, vài cuốn tiểu thuyết của Thanh Thủy, Nguyễn Ngọc Mẫn ...thỉnh thoảng mới thấy một vài quyển tên tác giả có chân trong Tự Lực Văn Đoàn .. sách bán giá bớt từ 35% tới 50%... Tôi nhớ anh ngồi trong nắng gió suốt mấy năm trời ... Trước cổng trường chỉ lưa thưa một vài cây dái ngựa , ( trái to giống như dái ngựa ) trái già tự nứt ra mà hột cây nằm trong những phiến mỏng bay lả tả trông rất đẹp mắt, nhất là cảnh xãy ra vào buổi trưa, học trò nữ nón lá nghiêng che...phiến lá trái dái ngựa là đà bay theo gió trông rất nên thơ, buổi trưa học trò chúng tôi chờ giờ mở cửa, tụ nhau đứng phơi mình trong nắng, có một số tụ mát tại dãy phố công chức trước tiểu khu, nhà của thầy Hoàng ba của trò Lê kim Hồng, học lớp tôi, đa số là các anh khóa 2 như Đinh văn Minh, Lưu văn Lai ,Nguyễn văn Út, Trần văn Hoàng...
    Sau niên khóa đệ tứ nầy, lớp tôi có trò Trần Văn Chót và Đào văn Xuân, từ giã trường để theo Việt Cộng, sau khi ở tù về, đọc báo Việt Cộng tại Gò Công, tôi mới biết Chót đã chết trong trận chiến vừa qua ... Được tin lòng tôi thấy bùi ngùi, thương cho bạn chọn lầm con đường đi, với cái chết nào trong cuộc chiến, người nằm xuống cũng đều nghĩ mình đã đền ơn tổ quốc, điều tôi chỉ tiếc là Chót không sống để chứng kiến ngày miền Nam hoàn toàn phỏng dế.... , để nhìn thấy được con đường Bác đi là con đường thật đầy...Bi Đát, tôi nghĩ vẩn vơ, viên đạn kết thúc đời Trần văn Chót, có phải được bắn ra từ một tay súng ... cựu học sinh trung học Gò Công !!??
    Ngồi đây, trên đất tạm dung nầy, cố nhớ để viết lại, khoảng thời gian tôi đi học, lòng thấy bùi ngùi nhớ tiếc ... Cái thời thong thả, vô tư, thật dễ thương, không bao giờ tôi tìm lại được ... Biết bao bạn bè cùng đợt đã quên hết ... may mà mình còn nhớ chút chút ... Cũng là một niềm an ủi, cho những chuỗi ngày sắp vào đông của cuộc đời ... Ở cái thời điểm, mà thỉnh thoảng nghe tin có người bạn học cũ, vĩnh viễn từ giã cõi đời ... Quý thầy cô, tình cờ trong đời tha hương, đọc thấy tên mình trong bài nầy, chắc lòng cũng sẽ vui, vì trong cuộc đời đưa đò bạc bẻo, ít ra cũng còn có người khách qua đò năm xưa, nhớ và nhắc đến tên mình .
    Tôi sẽ viết tiếp khóa 5 đệ nhị cấp trong một bài khác, cố nhớ lại để ghi nhớ công ơn Thầy Cô đã giảng dạy, để nhắc nhở bạn bè nhớ lại một thuở hoa niên ... Những điều tôi ghi nhớ còn thiếu sót rất nhiều, rất mong bằng hữu bổ túc ... Cũng như Thầy Bạn xưa nay mất liên lạc, tình cờ đọc được bài nầy hãy liên lạc về địa chỉ ...Thuylanvy@yahoo.com .Đất lạ quê người tìm lại nhau để nhắc lại cho nhau nghe một vài kỷ niệm xưa ... mà với thời gian nó đã rơi rớt đâu đó trên .... đường đời vạn nẻo.
    Houston , những ngày đầu tháng 9/2002

    thủy lan vy
    ( Viết tại Kỳ Đà Động )

    Con đi dưới lá cờ sao máu
    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

    Comment

    • #17

      MỘT THỜI ĐỂ NHỚ
      ***
      - Thân thương gửi các bạn học cùng khóa 5 Trung Học Công Lập Gò Công để cùng tỏ lòng kính nhớ và biết ơn quý Thầy, Cô đã tận tụy hướng dẫn, dạy dỗ khóa chúng ta suốt 7 năm trời.
      - Thành Kính biết ơn Ba Mẹ, đã để lại cho con một di sản nhân từ, hiếu đạo, cũng như đã cho con một trí nhớ khá tốt để viết nên hồi ức này.



      Sau kết quả kỳ thi Trung Học Đệ Nhất Cấp, tôi rất mong tới ngày khai trường, để được bước chân vào niên học mới. Dù kết quả thi đậu đã biết từ lâu, nhưng cứ mỗi lần có dịp đi ngang qua trường, tôi vẫn ghé vào, dán mắt trước khung lưới để xem lại kết quả. Không phải chỉ riêng mình tôi, mà nhiều trò quen cũng làm giống như vậy. Trước ngày khai giảng, học sinh phải làm đơn chọn ban học với 3 ban:
      - Ban A (khoa học thực nghiệm).
      - Ban B (toán)
      - Ban C (văn chương).
      Các học sinh trường tư, muốn vào học đệ tam, phải đậu trung học đệ nhất cấp hạng bình thứ trở lên mới được tuyển và nếu số học sinh xin nhập học quá số cần tuyển thêm, thì học sinh phải qua một kỳ thi tuyển.
      Đặc biệt, tất cả học sinh khóa 5 đều học Anh văn. Vì lúc mới vào đệ thất, số học sinh chọn học Pháp văn chỉ có 26 trò, nên không đủ để mở lớp. Vì vậy, các học sinh từ các trường khác chuyển về trường năm này, nếu học Pháp văn là sinh ngữ chính, đều gặp trở ngại và trong niên khóa mới này, vẫn không đủ học sinh ghi danh, để mở lớp cho ban văn chương C.
      Ngày khai trường rồi cũng đến, đa số đều đậu trung học đệ nhất cấp (hơn 80%). Vắng một vài trò như trò Trần Công Điệp, chết vì đạn du kích CS. Vài trò khác chuyển trường như Triêu. Trò nầy sau ra dạy Nông Súc tại trường cũ và đổi tên là Triệu. Triệu vào học trường Nông Lâm Súc cùng với trò Trần Minh Hồng. Hồng gốc người Bình Luông Đông, tính tình hiền hậu, điềm đạm, có thân hình cân đối và là học sinh giỏi của lớp, trội nhất là môn Anh văn. Hồng ngồi bàn 3, dãy sát cửa ra vào, thuộc đội 1. Hồng cũng thường đứng nhất lớp. Đầu bàn 3 là trò Nguyễn Hồng Điệp (có thân phụ gốc người Nghệ An, vào Gò Công lập nghiệp từ trước năm 1945). Hồng học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, sắp ra trường thì bị xe Mỹ đụng tử thương khi đang chạy Honda ở Gò Vấp. Tiếc cho người bạn, học giỏi mà yểu mệnh! Trần Công Hoàn (SVSQ không quân, khóa 26 TĐ, tử trận trong màu áo của SĐ 21), chuyển lên Pétrus Ký; bên nữ có người đẹp Tường Loan (hoa khôi của lớp đệ tứ C, với giọng ca rất truyền cảm, thường xuất hiện trong các tổ chức sinh hoạt văn nghệ của quận), và Bích Liên, cô nữ sinh đã bỏ trường lớp rất sớm. Bích Liên ‘’theo chồng bỏ cuộc chơi’’ (thơ Hàn Mạc Tử) lúc còn rất trẻ.
      Cấp đệ tam có một lớp ban A với 13 trò nam và 43 trò nữ, hai lớp ban B:
      - Tam B1 gồm trên 50 trò nam
      - Tam B2 với gần 10 trò nữ còn lại trên 40 trò nam
      Lớp ban A, học trò từ các trường khác đến khoảng 10 trò nữ như:
      - Trò Nguyễn Ngọc Vân con của thầy hiệu trưởng (hiện ở Canada)
      - Trò Thái thị Ngọc, con gái tiệm sách Thái Ngọc, Gò Công (đã qua đời tại Pháp)
      - Huỳnh thị Hoa, con gái thầy Tư Nhơn, y tá ở Gò Công (đã qua đời trong năm 2013 tại Gò Công)
      - Nguyễn thị Kim Kiều, con gái Bà Quận Các.
      - Trò Phạm Ngọc Quang, con trai Thầy Năm Răng dạy thể dục (còn một thầy Răng khác là Thầy Ba Răng dạy trường Khai Trí).
      Bên lớp B1 có các trò:
      - Nguyễn Ngọc Bích, con trai thầy hiệu trưởng
      - Trò Nguyẽn Thanh Quang, người Hòa Đồng
      - Trò Đỗ Hoạt, con trai trưởng của Thượng Sĩ Đỗ Khoát, thường vụ Trung Đoàn 12
      Lớp B2 có:
      - Nguyễn thị Bạch Mai, con gái thứ 7 của thầy giáo Huệ (đang sống tại San Jose)
      - Trò Nguyễn văn Chơi, qua từ trường Bán Công (khóa 5/68 Thủ Đức, tử trận trong màu áo Địa Phương Quân vùng 4). Chơi là con trai của Bà Năm, quán cá lóc, xóm Miểu Bà. Trò nầy năm 69 có học chung với tôi và trò Phan Thành Quang trong khóa 13, đại đội phó CTCT, tại quân trường Nguyễn Trãi (Biệt Khu Thủ Đô).
      Trong lớp B2 đã có sẵn một trò Nguyễn văn Chơi, nên rất phiền cho quý thầy cô giáo, nhưng lại rất vui cho lũ học trò nghịch ngợm, bởi mỗi khi thầy cô gọi đến tên Chơi là lúc nào trong lớp cũng ồn lên:
      - Dạ ‘’Chơi trước’’ hay ‘’Chơi sau" thầy/cô?
      Trò mới từ bán công qua là ‘’Chơi sau’’. ‘’Chơi trước’’ là đại úy trực thăng, SĐ6 không quân, thuộc quân lực VNCH. Hiện tại ‘’Chơi trước’’ là kỹ sư cơ khí, tạm cư ở Fortworth, Texas.
      Khai trường được khoảng hơn tháng thì Ngọc Vân, lớp tam A, phải chuyển trường về Sài Gòn, vì sinh ngữ chánh là Pháp văn, chuyển qua Anh văn không theo kịp. Trò Vân sau này trở về trường dạy học. Trong khi Bích là em của Vân, dù Pháp văn là sinh ngữ chánh, nhưng vẫn theo kịp và thuộc loại học sinh giỏi đều các môn, bạn bè các lớp đều nghe tiếng. Trò Bích chỉ học có một năm đệ tam, rồi theo thầy hiệu trưởng đổi về Sài Gòn. Sau Bích đậu tù tài phần 1 hạng ưu và tú tài 2 hạng bình, được chính phủ cấp học bổng sang Mỹ du học, hiện định cư tại Canada .
      Ba lớp đệ tam nằm trong dãy bên mặt, từ cổng vào thẳng góc với phòng giáo sư:
      -Lớp Tam A, sát phòng giáo sư, lớp B2 cuối dãy và B1 nằm giữa. Đặc biệt 2 lớp tam A và Tam B1, ghế bàn học sinh đóng theo kiểu mới, bàn có mặt bằng với 3 hộc. Loại có 2 hộc thì được đánh vẹc ni, ghế ngồi rời, theo kiểu ghế dựa. Dưới 4 chân của mỗi ghế ngồi đều có bọc cao su nhưng vài tuần là... mất hết, nên mỗi khi bắt đầu giờ học và ra chơi, lớp chúng tôi vang dội âm thanh ồn ào không thể quên được.
      Trong lớp chia làm 3 dãy bàn, 2 dãy bàn 3 hộc và 1 dãy bàn 2 hộc, cộng thêm lối đi hẹp nữa nên trông rất chật chội. Rất nhiều lần trong lớp, nhiều trò có việc phải đứng dậy, khi ngồi xuống, nếu vô ý là... lăn quay ra đất ngay.. Vì ghế ngồi bị những đứa quỷ phía sau dời đi mất, tạo cơ hội cho những trận cười còn vang vang trong trí nhớ tôi cho đến ngày nay.
      Tôi học lớp A, ngồi bàn đầu cạnh tôi là trò Đặng văn Đạt (khóa 2/69 Thủ Đức, hoa tiêu trực thăng, hiện ở Úc). Dãy bàn con trai ngồi sát tường, ngay cửa vào lớp.
      *Giám thị lớp là thầy Trần văn Lợi, ba của trò Trần Thị Thủy, chung lớp. Trưởng lớp là trò Lê Thị Xem (sau này dạy học) và phó là Trò Huỳnh Văn Đực (Sư phạm ban 2 năm, hiện định cư tại Mỹ)
      *Giáo sư hướng dẫn lớp là cô Võ Kim Hoa (ĐHSP ban Việt, SàiGòn), con gái thứ tư của bà Hai Khả gốc người Bình Ân, Cô dạy Quốc văn.
      Ngoài ra tôi còn nhớ:
      *Vạn Vật: Cô Hoàng Thị Phương Thảo (ĐHSP SàiGòn) hiện ở Cali
      *Công dân: thầy Huỳnh văn Bổn (ĐH Luật khoa SG), gốc người Tân Tây, hiện là luật sư tại tỉnh Tiền Giang
      *Pháp văn sinh ngữ 2: cô Đoàn Thị Mỹ Dung (Khóa 1 ĐHSP, ban Pháp văn Sài Gòn), gốc người Cần Giuộc, hiện ở Cali. Cô không ở trọ trong trường Bà (trưòng Bà cho nữ giáo sư ở trọ), mà ở trọ nhà Thầy Châu Văn Giao, giám thị trường.
      *Anh văn sinh ngứ 1: Thầy Đinh Đức Vượng, hiện ở Cali (ĐHSP SaiGòn, ban Anh Văn)
      *Sử Địa: Thầy Nguyễn Thái An, hiện ở Cali (ĐHSP Ban Sử Địa SG)
      *Toán: Thầy Nguyễn Hồng Sơn
      *Lý Hoá: Cô Bùi Thị Lang (ĐH Dược Khoa SG)
      *Thể Dục: Thầy Nguyễn Hữu Danh (Khóa 2 QGSP Ban 3 năm SG)
      *Thầy Tăng Như Bình (ĐHSP SaiGòn, hiện định cư tại Úc) phụ trách 2 lớp Pháp văn sinh ngữ 2 ban B.

      Trong lớp học, thường học trò hay ngán sợ thầy dạy Toán. Thầy Sơn dạy Toán, cao trên 1 mét 65, hơi mập, da trắng trẻo, có gương mặt gần giống Ðệ Nhất Danh Ca Cổ Nhạc Út Trà Ôn. Nhiều lần, tên Út Trà Ôn được viết lên bảng, trước khi thầy vào lớp. Thầy nhìn thấy chỉ mỉm cười (có lẻ thầy cũng thấy mình giống Út Trà Ôn thật). Thầy không ở trọ tại nhà Ông Cả Tùng, là nhà chuyên nấu cơm tháng cho nam giáo sư (nhà ở góc đường Nguyễn Trãi, đối diện với nhà Bác Chín Niệm, chủ tiệm vàng Diệp Thuận Lâm), mà thầy mướn 1 căn nhà, mặt tiền ngó ra bờ sông gần nhà thầy Sáu Tống và Trung úy Hài. Thầy đi dạy, vào lớp với hai tay không, túi quần sau lúc nào cũng căng phồng vì cái bóp quá nhiều giấy tờ (hay tiền).
      Cấp lớp đệ tam học buổi chiều, toán lại học vào 2 giờ đầu, nên trời còn nắng lắm, mà trường trung học ở tỉnh, dễ gì tìm thấy được cây quạt trần. Tới giờ thầy, trong lớp tự nhiên im như tờ. Nhiều hôm dù rất sợ thầy mà học trò cũng không nín được cười, vì mỗi khi vào tới lớp, thầy không cần xem lại tập, mà ung dung đọc tiếp bài, bắt học sinh chép. Một lần, trong giờ đại số, học trò vừa mới ngồi xuống, Thầy bảo:
      -Mở tập chép bài!
      Là cả lớp yên lặng chờ. Sự im lặng kéo dài khoảng 1 phút thì nghe thầy đọc lớn:
      -Nâng hai vế lên... (cân bằng phương trình). Thầy chưa kịp nói thêm gì thì nhiều tiếng cười đã khúc khích vang vang. Thường, thầy chỉ nhìn vào khu ồn ào, mà không rầy.
      Một lần khác, mới vào lớp, thầy lật sổ kêu trả bài; thầy gọi:
      -Lê văn Nay.
      Dân Nam Kỳ thì Nay nào cũng... Nai. Nay ngồi sau tôi 3 bàn, đầu bàn thứ tư, chung bàn với trò Diều. Thấy khá lâu mà chưa thấy Nay đi lên. Tôi cũng không dám quay lại nhìn (dở toán phải lo thủ than!). Phải một lúc sau Nay mới cóm róm, đi chầm chậm qua bàn tôi. Trò Đạt ngồi cạnh tôi vừa cười trong miệng, vừa thúc nhẹ cùi chỏ vào người tôi và nói nhỏ:
      - Ê, Nai dạt móng rồi!
      Thì ra, có trò quỷ nào đã dấu mất 1 chiếc sandal của Nay rồi, cả lớp bắt đầu cười và ... Thầy cũng... cười theo. Bây giờ ngồi đây, viết đến dòng chữ nầy, trong trí tôi vẫn còn rõ nét hình ảnh trò Nay (cao 1 mét 71) đi cà thọt với một chân giày một chân không. (Nay sau nầy là SVSQ Không Quân khóa 26 Thủ Đức, về lại Bộ Binh, học lại khoá 5/68TĐ, phục vụ tại tiểu khu Gò Công)
      Thề Dục:Thầy Nguyễn Hữu Danh rất trẻ và hiền (Thầy bằng tuổi với trò Mươi lớp B2) ... Lớp có 13 trò nam, nên tới giờ thể dục, thầy trò dẫn nhau ra nhà ở trọ của trò Lê văn Ba. (Ba sau này đã tốt nghiệp cán sự Điện Tử Phú Thọ, hiện sống tại Bình Xuân). Nhà ở trọ của Ba có ao nước rất trong và mát, chúng tôi thường đến để cùng nhau tập lội (miền Bắc gọi là bơi). Tôi biết bơi bập bõm cũng nhờ thầy Danh. Sau nầy thầy động viên, trở thành sĩ quan truyền tin. Có một lần tôi tình cờ gặp thầy trên đường Trần Quang Diệu. Thầy rất vui, dẫn tôi về nhà trong một con hẻm gần đó và kể cho nghe đời lính cùa Thầy.
      Niên học 1963-1964 có:
      - Thầy Nguyễn Ngọc Quang (Gốc người Gò Công) làm hiệu trường
      - Giám học là thầy Ngô Ngọc Hiệp (cử nhân Triết)
      - Tổng Giám Thị Thầy Võ Văn Đài và Nguyễn văn Hân
      - Tổng số học sinh trong lớp Tam A là 56 trò. Tuần nào, Thầy giám thị cũng nhờ tôi cọng sổ, nên tôi nhớ rất rõ.
      Ở khoảng thời gian này (năm 1963) Gò Công là quận, thuộc tỉnh Định Tường. Tỉnh trưởng là Thiếu Tá Lâm Quang Thơ (Thiết Giáp). Quận trưởng là Trung úy Tuệ. Quan 2 Quận Trưởng nầy rất thích đá banh. Thường mỗi tháng quận đều có tổ chức đá banh ít nhất một lần. Trung úy chủ toạ. Xe jeep ngừng trước cửa sân vận động, có ban quân nhạc dàn chào trước cổng. Sau lể khai mạc, trung úy thay đồ và ra sân trong hàng tiền đạo của đội tuyển Gò Công (hình như ông đứng vị trí Trung ứng). Tôi là một trong đám trẻ đã rất ngưỡng mộ Ông trong màu áo nhà binh ấy. Chừng tới phiên mình được mang 2 mai, sao thấy rẻ hơn bèo. Giặc ‘’cờ đỏ’’ cũng bắt đầu quậy phá mạnh ở các xã. Quốc lộ Gò Công - Cầu Nổi và Gò Công -Mỹ Tho luôn bị chuột bọ quấy rầy. Đường Saigòn - Gò Công có nhiều địa danh mà giặc cờ đỏ thường xuyên quậy phá, như Kinh Nước Mặn, Nhà Dài, Xã Lới, cua Cô Thủy... Hướng Mỹ Tho có Cây Me Treo Cổ, giáp hạt. Trò Nguyễn Ngọc Nhuận (lớp B1) đã từng bị VC bắt ở khúc đường Cây Me Treo Cổ khi về phép từ phi trường Biên Hòa, cùng một lần với thầy giáo Thuận; chồng cô giáo Huệ, rể Trung Úy Đẩu, và Chú Sáu Đinh (cán bộ diệt trừ sốt rét ) ông già vợ của Luật Sư Bổn. Nhuận được thả. Khi tôi thăm Nhuận, thấy hình tích của Nhuận trông tệ hơn con khỉ bị bỏ đói, và sau này, khi ở trong tù Cộng Sản, tôi nhìn thân thể tôi cũng không khác gì Nhuận ngày đó, nói đúng ra còn tệ hơn Nhuận nữa! Chú sáu Đinh và Thầy Thuận mất tích luôn. Quý thầy cô về Sài Gòn thăm nhà, lúc trở lại trường đều bị trể vì nạn đào đường, cuốc lộ này.
      Lớp tam A nằm sát bên miếu Tiên Sư. Nơi nầy thường xuyên dùng làm nơi để quan tài các tử sĩ. Có lúc có tới 4 quan tài ... Khói hương bay sang nồng lớp. Dù đã đóng cửa sổ, nhưng những tiếng khóc thương rất não lòng, luôn vang vang bên tai lũ học sinh chúng tôi. Mà cảnh này đâu phải một lần, cứ tái diễn thường xuyên. Đường đi vào các xã còn bi thảm hơn. Học trò cũng bị giặc trưng dụng đấp mô. Ðường đi học thật gập ghềnh, gian nan. Gia đình nào khá, cho con ra tỉnh trọ học. Nhà nghèo thì đành phó thác số mệnh cho trời, trong khi lằn tên mũi đạn nào có biết tránh né ai! Học sinh thời chiến tranh với ngoại cảnh như vậy, dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự học.
      Giữa năm học này, có trò Lý Ngọc Bằng và trò Ngô văn Bứa cùng lớp B1 cưới vợ. Bạn bè trong lớp nghe tin vui như Tết, tò mò theo hỏi ...đủ chuyện trên đời. Gần cuối năm, trò Chi lớp A ‘lên xe bông’ bỏ trường bỏ lớp, bỏ thầy cô...
      Niên học này, có một sự việc xãy ra, rất đáng buồn cho đời học sinh. Cũng bởi ảnh hưởng chính trị mà ra. Với tôi chữ CÁCH MẠNG ở Việt Nam, luôn bị dùng sai nghĩa, mà sử dụng sai nhiều nhất, phải nói là giặc cờ đỏ, từ cái xấu đổi thành tốt, thì chữ Cách Mạng ở đây được dùng ngược lại!
      Sau cái gọi là ‘Cách Mạng 1 tháng 11’, bọn Việt Cộng nằm vùng, khéo léo khai thác hoàn cảnh, để tạo nên xáo trộn xã hội. Chúng không tha đám học trò non trẻ, mà đã lợi dụng, đưa đám trẻ nầy vào một màn kịch do chúng dàn dựng ... Hầu hết các trường trên toàn quốc, đều có những cuộc xáo trộn do một nhóm nhỏ học sinh, bị mua chuộc, đứng lên kêu gọi học sinh trong trường, đả đảo ban giám đốc trường. Khoảng trung tuần tháng 11 năm 1963, lúc đó thầy hiệu trưởng Nguyễn Ngọc Quang mới về nhậm chức chưa đầy 2 tháng. Ngoài chức vụ hiệu trưỏng, thầy có phụ trách dạy một vài lớp Pháp Văn. Thầy tỏ ra đầy đủ khả năng, cũng như đạo đức trong chức vụ, lại là người sinh quán tại tỉnh nhà, nên được sự kính trọng của phụ huynh học sinh. Bởi vậy, nhóm xách động này, không tìm được lý do để đả đảo thầy hiệu trưởng, chúng chỉa mũi dùi qua thầy tổng giám thị Võ Văn Đài, một thầy giáo kỳ cựu, có khả năng và rất tận tụy với nghề. Thầy mang lại trật tự tuyệt đối cho trường. Ngoài chức tổng giám thị, thầy còn phụ trách một vài lớp Pháp văn.
      Cầm đầu nhóm học sinh này là trò Biếu đang học đệ nhị ban B, ‘Đại Diện Học Sinh’. (Trường lúc bấy giờ chỉ có tới cấp đệ nhị, muốn học tiếp đệ nhất phải lên trường Nguyễn Đình Chiểu và Lê Ngọc Hân). Buổi sáng hôm đó, có nhiều học sinh đến từng lớp kêu gọi học sinh bỏ lớp ra sân. Vài biểu ngữ được căng lên. Các bảng đen được trưng dụng, viết khẩu hiệu đả đảo, mang ra dựng trước sân cờ và trên các bệ cửa sổ văn phòng. Nguyễn Bé Sáu, đứng dưới sân cột cờ, đọc kiến nghị đả đảo Ông Đài, với vài lý do áp đặt. Tôi còn nhớ, Bé Sáu cầm tờ giấy học trò viết sẵn, miệng đọc mà tay run .... Một số học sinh khác, đi vòng theo rào trường, ngăn chận học sinh leo rào ra về. Thầy hiệu trưởng đứng ra dàn xếp, nhận hết mọi lỗi, với một phong cách thật ung dung khoan hòa; (dù không có, do nhóm học sinh này áp đặt) với lý do thầy là cấp chỉ huy, còn thầy Đài là cấp thừa hành, Thầy hiệu trưởng đã làm chùn bước đám học sinh phản động. Với lại không được sự hưởng ứng tích cực của học sinh toàn trường, và với những yêu sách không chính đáng, nên giải quyết tạm thời đã được đưa ra, là thầy Đài thôi giữ chức tổng giám thị. Cấp lớp đệ tam chúng tôi, chỉ có một vài trò hưởng ứng, mà những trò nầy năm học đệ tứ, đã từng bị công an cảnh sát bắt, về tội rải truyền đơn cho VC, như trò Nguyễn văn Thắng, Dương Hồng Hoàng, Trần văn Tâm ...Còn lại, đa số lúc ban đầu, vì được nghỉ học nên ham vui, sau đó biết rõ lý do, đều ngầm bất mãn nhưng vì sợ mà không dám phản ứng .
      Trong cấp lớp đệ tam, có trò Nguyễn Ngọc Bích là con trai thầy hiệu trưởng và trò Võ Hiếu Để, là con trai thầy tổng giám thị, hai trò nầy lại được cảm tình của bè bạn đồng cấp.
      Lúc bấy giờ, nếu có ai để ý nhìn ra đường, sẽ thấy bóng dáng của người chỉ đạo, đó là Trò Huỳnh văn Hoa (khóa 3 trung học Gò Công) đang học đệ nhất trường Nguyễn Đình Chiểu. Hoa đứng trên con đường đá phía sau trường, đường đâm thẳng góc với trường Nam Tiểu Học, núp ló dưới mấy gốc cây Dái Ngựa. Buổi họp mặt các học sinh cầm đầu tại nhà thầy Hai Sảnh, nằm trên đường Nguyễn Trãi, đối diện nhà bà Năm Sún (lúc đó Thầy Hai đổi lên toà hành chánh Mỹ Tho), nên nhà giao lại cho trò Nguyễn Bé Sáu ở trọ. Các bản kiến nghị đều được viết tại đây.
      - Biếu sau này gia nhập ngành Cảnh sát Quốc Gia, tôi không có dịp gặp lại.
      - Bé Sáu, gốc người Bình Xuân, tốt nghiệp Pháo Binh khóa 21 Thủ Đức. Sau cùng mang cấp đại úy chức vụ Pháo Đội Trưởng tại vùng 4. Có Cha là liệt sĩ, nên cải tạo có mấy tháng, hiện sống ở Mỹ Tho.
      - Huỳnh văn Hoa, gốc người Bình Ân. Thời học trung học ở trọ nhà Ông Hương Bộ Giáp ở Lộ Me. Hoa học dược năm thứ nhất tại Sai Gòn, bỏ học, vì bị cảnh sát theo dõi. Đăng lính khóa 23 Đà Lạt. Sau 4 năm ra trường về phục vụ tại tiểu đoàn 3 (Sói Biển) thuộc binh chủng TQLC, Hoa nộp đơn xin du học Hoa Kỳ. Khi sưu tra lý lịch, An Ninh Quân Đội phát hiện Hoa có người anh ruột, đang ở ngoài Bắc, nên không cho đi và thuyên chuyển về quân trường Đà Lạt với lời phê không được giữ chức vụ chỉ huy.
      Sau 75, anh của Hoa, theo "đoàn quân chiến thắng" về làm phó ty công an quận Gò Vấp. Đó là Ba Cứ gốc người Bình Ân (đã chết vì bệnh). Hoa ung dung vô trại cải tạo, lúc nào trên tay cũng cầm 1 cái radio nhỏ để nghe tin tức, trong lúc những bạn đồng cảnh khác, đều chung một tâm trạng lo âu, không biết rồi đây, ngày mai. cuộc đời sẽ ra sao? Ở chung với tôi trong trại tù Hòa Đồng mấy tuần, Hoa cùng một số đông anh em khác, chuyển qua trại bên Kiến Hòa. Hoa bây giờ sống tại Bình Ân làm nghề buôn trái cerises .
      Sau vụ ấy, tôi thấy thầy cô có vẻ uể oải, như chán ngán trước tình sư đệ. Thầy Đài thôi giữ chức tổng giám thị mà ra dạy lớp lại, không khí học đường mất đi cái vẻ thân thiết mật ngọt tình thầy trò ...
      Cũng trong năm học ấy, thầy hiệu trưởng có liên lạc, mời được một số sĩ quan quân nhân cố vấn Mỹ, đóng tại Gò Công qua trường dạy Anh Văn, vào trưa ngày Chúa Nhật. Tôi còn nhớ có Đại úy Dull, và một vài hạ sĩ quan thay nhau dạy. Ngày bắt đầu lớp Anh văn, thầy hiệu trưởng đã giới thiệu lớp với Đại úy Dull bằng tiếng Anh .
      Niên học đệ tam chấm dứt, để bắt đầu cho niên học mới đầy cam go, không phải vì chữ nghĩa mà vì thời cuộc. Chiến tranh ngày càng bộc phát mạnh. Năm đệ nhị ấy, trò nào sinh năm 1945 mà rớt tú tài, kể như mang... cánh gà chiên bơ và sẽ không còn lý do gì để hoãn dịch... Khóạ 5, trò trẻ nhất sinh năm 1948, trò lớn sinh 1945. 1945 là trên giấy tờ như trò Mươi, tuổi thật sinh năm 1943, tuổi Ngọ. Riêng với trò Mùi khỏi hỏi năm sinh cũng biết tuổi. Nhưng trò Tý, khóa 6, con thầy Giáp lại tuổi Sửu! Chỉ có trò Bích là sinh năm 49 nhờ nhập học miễn tuổi.
      Niên khóa 1964 - 1965 bắt đầu và ngày khai giảng bao giờ cũng vào mùa thu "trên trời có những đám mây bàng bạc ..." Ba lớp đệ nhị dời qua dãy ngang (có 5 phòng), gồm 2 lớp đệ nhất (mở lần đầu tiên tại Tỉnh Gò Công) và 3 lớp đệ nhị. Tất cả học sinh trường tư đậu bằng tú tài phần 1 đều được tự do xin vào học đệ nhất, tuy vậy sĩ số cả 2 lớp cũng chưa được 70 trò.
      Lớp đệ nhị A có:
      -Trò Uông Từ Mỹ, chuyển về trường Lê văn Duyệt, Gia Định.
      -Học trò mới có thêm trò Châu văn Nghĩa con của Ông Phó tỉnh trưởng, trò này hiền lành, nhưng lại thầm yêu một kiều nữ có mái tóc dài óng ả, ngã màu hơi vàng, chung lớp, ngồi trên một bàn (trò Nghĩa ngồi bàn thứ tư, dãy sát cửa sổ).. Nhưng rồi cũng chỉ là tình yêu ...học trò..
      -Trò Nguyễn thị Còn, tôi không nhớ ở đâu về, ngồi bàn nhì sát tường trái. Ngay trên vách có treo tấm bảng đen nhỏ ghi sỉ số, vắng mặt và hiện diện. Năm 70 tôi về phép, ngang qua bắc Chợ Gạo, trong lúc chờ đợi qua phà, tôi có gặp lại chị. Tôi xin nhại một câu thơ của Nguyễn Bính "Gặp em, tay ẳm tay bồng tay mang". Chị cho tôi biết là chị mới có... 4 đứa con thôi (!)
      - Trò Ngô thị Ngọc Lan là em của thầy giám học. Hình như Lan là một học sinh có giọng nói miền Trung đầu tiên đến với trường. Lan trọ học chung với người anh tại nhà ông Cả Tùng.
      - Trò Lê Kim Hoa, đến từ trường Châu Văn Tiếp, là ái nữ của ông trưởng ty tiểu học Lê văn Cang. Sau nầy Hoa tốt nghiệp sư phạm Sài Gòn dạy tại trường tiểu học Quận Tư và trở thành Sư Nương của bạn cùng lớp, vợ của sư phụ Đinh Đức Vượng, hiện ở Cali.
      - Ngoài ra, còn có một số anh chị rớt tú tài 1 học lại như các chị: Bạch Cúc, Rết (trung úy QLVNCH), Thảo, Liểu, Tươi (đại úy QLVNCH), Huyền Trân...
      - Bên Nam có các anh:
      *Thôn (tử trận với chức vụ đại đội trưởng, tiểu khu Gò Công)
      *Anh Mít hiện sống ở Gò Công
      *Trò Nguyễn văn Hiệp, gốc Tăng Hòa (tử trận ở vùng 4 lúc mang cấp thiếu úy)
      - Qúy thầy cô giảng dạy gồm có :
      *Quốc văn: thầy Bùi Quang Lưu (ĐHSP SaiGon) cũng là giáo sư hướng dẫn lớp
      *Công Dân: thầy Nguyễn Đức Trần
      *Pháp Văn sinh ngữ 2: Cô Lê Kim Xuyến (ĐH Sư Phạm SG)
      *Anh Văn: thầy Đinh Đức Vượng.
      *Sử Địa: thầy Trịnh Quang Lừng (ĐHSP Sai Gon);
      *Toán: thầy Nguyễn Sỹ Long (trường kỹ thuật Phú Thọ). Thầy Long hiện sống ở Sài Gòn, thầy mở lớp dạy luyện thi vào đại học.
      *Lý Hoá: Thầy Lê Hồng Chung (ĐHSP Sài Gòn). Trong lần đi chấm thi tú tài tại vùng 4, vào cuối niên khóa nầy, thầy Chung và thầy Xuân dạy sử điạ, đã tử nạn xe cộ trên đường đi chấm thi, sau khi mới ra trường được 1 năm. Thầy Chung là rể Gò Công, vợ thầy là chị Đổ thị Nguyệt, học khóa 3 của trường, là ái nữ của thầy Mười Cai, cũng là em gái thầy Đổ Hữu Long, giáo sư Pháp văn, từng du học ở Pháp về, đổ cử nhân luật, chuyển qua làm tại Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo, đậu cao học luật và đậu vào ngạch tham sự ngoại giao (đã qua đời tại Thuỵ Sĩ)
      *Vạn vật: cô Hoàng Thị Phương Thảo
      *Thể Dục: thầy Phạm Văn Răng (đã qua đời tại xã Bình Ân). Tôi học thể dục với hầy Răng từ năm tôi học lớp nhì.
      *Hiệu trưởng: thầy Nguyễn Phước Trạch (thầy Trạch có khắc con dấu "Cử nhân văn chương" đi kèm với tên thầy)
      *Giám học: thầy Ngô Ngọc Hiệp cũng là giáo sư dạy môn triết đầu tiên của trường
      *Tổng giám thị: thầy Nguyễn văn Hân
      *Giám thị lớp là Cô Ngô Tuyết Lệ (tốt nghiệp Sư Phạm Nam Việt).
      *Giám thị trường có thêm thầy Ngân và cô Võ thị Châu (ái nữ của Thầy Phương)
      *Gần cuối năm có thêm một cô thư ký thật trẻ, đó là Cô Huyền. Sau này trở thành bà hiệu trưởng, rồi chánh sở Giáo Dục Gò Công, bà Phan Văn Ba.
      *Trưởng lớp là trò Huỳnh văn Đực. Riêng đám con trai vì quá ít không đủ lập 1 đội nên phải tăng cường thêm 1 bàn có 2 trò nữ là trò Hồng và trò Lan. Tụi quỷ nhất trí bầu trò Hồng làm đội trưởng.
      Sau niên học nầy, Thầy Lưu bị đổi ra Bình Tuy, vì một tai tiếng mô phạm. Thầy Vượng đổi về trường Trịnh Hoài Đức, sau chuyển về Gia Long, Cô Xuyến đổi về Sài Gòn, hình như trường P.Ký.
      Thường mỗi cuối năm, trường đều có tổ chức giải bóng tròn giữa liên quân các lớp, liên quân đệ tam đá với liên quân đệ nhị và liên quân đệ nhất. Cấp đệ nhất là yếu thế nhất, vì tổng số nam sinh chưa tới 30 trò và đến cuối năm còn khoảng 20 trò. Đệ tam mạnh hơn vì có tới 5 lớp (sĩ số đông, dễ chọn cầu thủ hơn). Tôi còn nhớ:
      - Liên quân đệ nhị, dĩ nhiên do bầu Thoại làm thủ quân. Thoại học lớp nhị B1 (trước 75 Thoại là tuyển thủ trung ứng của đội tuyển tỉnh Gò Công và đội tuyển Quân Đội quân đoàn 4).
      - Trong khung thành có Nguyễn Kỷ Nhật, học lớp nhị B2, chụp banh cao, đẹp mắt, như Lưỡng thủ vạn năng Phạm văn Rạng (Nhựt là Thủ môn của đội tuyển không quân quân đoàn 4).
      - Hậu vệ có Đặng văn Đỉnh (tử trận rất sớm);
      - Nguyễn Văn Đầy (Quân Cảnh Tư Pháp Long Khánh, tử nạn sau 75 tại Gò Công)
      - Tiền đạo có Võ Hiếu Để (trung úy Biệt Động Quân) - Nguyễn Hồng Điệp (TĐ5 TQLC) - Võ văn Ba (khóa 23 Võ Bị) - Đinh Tường Lâm (đã qua đời tại Tân Tây) - Nguyễn văn Nhỏ - Nguyễn Thành Minh - Thọ ...
      Trí nhớ của tôi chỉ ghi được bao nhiêu đó… Nhưng tôi còn nhớ là đội liên quân đệ nhị đã oanh liệt hạ liên quân đệ tam gồm có Lê Bích Lâu, Phan Hồng Nghĩa, Nguyễn văn Chơi, Dương quốc Bình, Ngô văn Phò...
      Đặc biệt nhất là năm nào cũng có trận giao hữu, giữa giáo sư trung học Gò Công và trường Bán Công. Lợi thế nghiêng hẳn về trường Gò Công, vì trường lớn hơn và đa số giáo sư dạy Bán Công là từ trường công sang ..
      Trận đấu mang hài tính hơn là nghệ thuật và khán giả thuộc đủ thành phần các cấp, kể cả nữ giáo sư. Tính tò mò kích thích các học sinh, nên khán giả học sinh đông lắm, nhất là nữ sinh. Vì thường ngày, nhìn thấy thầy áo quần tươm tất, nay muốn được nhìn thầy phơi đùi cẳng thử xem sao, nên học trò rất háo hức, dễ gì được dịp nhìn thầy mặc quần đùi chạy ‘hai...ba chân’ trên sân! Tôi còn nhớ thầy Vượng dùng hết “10 thần công lực” vào hữu cước, nín thở, đá thật mạnh, thì trái banh lại... thong thả lăn khỏi chân thầy khoảng 5 mét! Có trận, thầy Sáu Tống, quản lý trường Bán Công cũng ra sân. Đám đệ tử Bán Công nhìn thầy Sáu Tống mà thương ... cái thùng nước lèo của thầy! Thầy mất khoảng năm 2000 tại Gò Công. Cũng như thầy Bảy (hỗn danh Bảy Ben) giám thị, cũng ra sân (thầy có nuôi đứa con lai, được đi Mỹ nhưng từ chối ở lại với quê hương. thầy mất cuối mùa xuân 2003.
      Năm nào cũng vậy, hội tuyển trường Công lúc nào cũng thắng trường Bán Công ..
      Rồi ngày thi cũng đến (hai khóa) sĩ tử ‘cơm ghe bè bạn’ (đây là bốn chữ Thầy Giao giám thị thường dùng) lên Mỹ Tho ứng thí; mỗi khóa thi chia ra làm 2 lọat:
      - Loạt đầu gồm các môn: quốc văn, toán (ban B) vạn vật (ban A) Lý Hoá. Nghỉ 2 ngày vào thi tiếp loạt 2.
      - Loạt 2 gồm sinh ngữ 1 và 2, sử địa , toán (ban A) Vạn Vật (ban B) công dân và nhiệm ý thể dục (đã thi trong cuối niên học).
      Nhớ mùa thi, thành phố Mỹ Tho thật là vui, vì có sĩ tử từ nhiều tỉnh về ứng thí tại hội đồng thi này. Ngoài Gò Công còn có Bến Tre, Kiến Phong ...
      Kết quả 2 kỳ thi, toàn trường đậu trên 40%. Một kết quả khả quan đối với một trường tỉnh nhỏ. Học sinh đa số nghèo, thiếu thốn sách vở và phương tiện. Một số bằng hữu không may mắn, chờ ngày trình diện nhập ngũ. Một số đã tử trận, mấy năm sau ngày nhập ngũ như: Diều, Đỉnh, Thọ... Một số tiếp tục xin học khoá sĩ quan rồi cũng anh dũng đền nợ nước như: Phạm Ngọc Đắc, một tay hào hoa, làm thơ rất có hồn với bút hiệu là PNĐ Dạ Thảo (SĐ7), Võ Hiếu Để (BĐQ), Ngô Hoàn Toàn (ĐPQ)... Và sau cùng, một số lạnh cẳng, đào ngũ về tỉnh nhà đăng lính nghĩa quân như Lâm, Minh...
      Niên học đệ nhất bắt đầu...
      Tỉnh Gò Công lúc bấy giờ chỉ còn an ninh tại châu thành tỉnh. Đi xa khỏi tỉnh là đã nghe cắc bùm. Tỉnh Trưởng là trung tá Trần Thanh Xuân, được yểm trợ quân sự bởi trung đoàn 12, thuộc sư đoàn 7, căn cứ đóng tại nhà thương Cao Cẳng (nhà thương này trước đây chuyên trị bệnh lao). Thiếu tá Nguyễn Hữu Duệ làm trung đoàn trưởng. Tỉnh lỵ thường xuyên bị VC pháo kích, gây chết chốc tang thương. Con gái thầy Năm Hương (bưu điện) và anh Nhạn Luân quân nhân, trong nhóm “Thơ 20 Gò Công”, cũng tử nạn vì đạn pháo.
      Hai lớp đệ nhất nằm cuối dãy ngang, đâm thẳng góc với khám đường. Tổng số học sinh cả hai lớp khoảng gần 70 trò. Gần phân nửa từ trường ngoài vào. Lớp đệ nhất B còn khoảng 4 trò gái. Có trò Xí từ trường khác vào (từ cần Đước). Bên nam, học sinh mới vào đông hơn. Các trò:
      - Dư (Trò nầy từng học chung với tôi hồi lớp chót, lúc đó trò tên Mông có lẻ là tên Tây phiên âm Việt, người Bắc,con trai duy nhất của chủ tiệm giày Tân Tiến)
      - Khải (từng học chung năm lớp 3 với tôi )
      - Điêu văn Danh, Đức, Nguyễn Hoàng Anh, Nguyễn Phước Tường (từ P.Ký về ), Khuýnh, Trượng (hỗn danh là Tạ Trượng). Tánh trò nầy hơi lạ. Hay ẹo ẹo với mấy trò nữ, mà lúc đó có vụ án Tạ Vinh hạm gạo vừa bị xử bắn, anh em không thích trò nên đặt cho hỗn danh này.
      Quý thầy cô giảng dạy gồm có:
      - Triết và Huỳnh văn Thạnh. Năm sau thầy Thạnh bỏ nghề, thi đậu vào cao học Quốc Gia Hành Chánh. Ra trường, làm ở phủ đặc ủy Công Vụ. Sập tiệm, qua Mỹ theo diện H.O 14. Đã từng lật trên năm cuốn lịch trong lao tù Cộng Sản
      - Lớp B: thầy Đỉnh (sau thầy cưới cô Trang, tốt nghiệp cao đẳng mỹ thuật, dạy vẽ cùng trường)
      - Pháp Văn: Cô Trần Thành Mỹ (Cô tốt nghiệp quốc gia sư phạm ban 3 năm, về trường dạy sử địa mấy năm trở lại học Đại Học SP học ban Pháp văn)
      - Anh Văn: thầy Lê(?) Hữu Thinh. Dạy được 1 tháng, thầy lên đường nhập ngũ cùng khóa 21 Thủ Đức với thầy Tôn Thất Trấn Ninh. Lúc đó thầy dạy Anh văn trong quyển La vie en Amerique. Ngày cuối trong lớp, Thầy trò rất quyến luyến bịn rịn chia tay ... Khoảng hơn tháng sau thầy có gửi một lá thư về thăm lớp. Tôi đứng lên đọc cho cả lớp nghe và giữ lá thư nầy cho tới ngày bị cưỡng chiếm. Giấy viết thư màu xanh, trên góc trái có in phù hiệu lửa hồng kiếm bạc với 4 chữ “Cư An Tư Nguy”. Chữ thầy viết nắn nót, mực màu xanh, đầy 2 trang. Câu nhập đề Thầy đã viết:
      "Nắng gió quân trường đã một phần nào làm phai mờ hình bóng các anh chị ..."
      Hè năm đó tôi có lên tận quân trường thăm thầy Thinh và thầy Tôn Thất Trấn Ninh, cũng như thăm trò Nguyễn Văn Nô đang học khóa 22. Hai thầy chắc cũng ngạc nhiên khi được gọi tên thăm (không có nuôi), và người thăm là người học trò cũ từ tỉnh lên mà lại là học trò nam?
      Thầy Thinh nhập ngũ. Lớp bỏ trống cho tới gần ngày bãi trường. Thầy Hà kim Phước mới phụ trách dạy tiếp mầy tuần. Thầy Phước ở trọ nhà Thầy Bảy Đài.
      - Sử, Địa: thầy Nguyễn Thái An
      - Toán: thầy Nguyễn Hữu Thông (ĐHSP Ban Toán SG). Dạy được nửa năm thầy cưới vợ. Tờ báo xuân Định Hướng của trường năm đó có đăng chia vui. Vợ thầy tên Cúc. Năm sau thầy đổi về trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho. Hiện thầy đã nghỉ hưu, nhưng vẫn dạy thêm toán, có đời sống tương đối đầy đủ.
      - Lý Hóa: thầy Huỳnh Ngọc Côn. Trong kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt, thầy đã ra đề thi giống như in đề thi tú tài cuối năm. Thầy tốt nghiệp ĐHSP SàiGòn... Sau Thầy bỏ dạy, ra ứng cử và đắc cử Nghị Viên Hội Đồng tỉnh Gò Công. Trong chánh phủ Dương Văn Minh, thầy là thứ trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục. Cũng "nhờ" những chức vụ này, thầy ‘’được’’ CS ưu ái bắt nhốt ngay những ngày đầu của tháng 5.1975, tại khám đường Gò Công và CS gửi thầy ra ‘học’ tận trại tù Vĩnh Phú. Hiện thầy định cư ở Mỹ theo diện Ô ĐI GHE.
      - Vạn vật: cô Hoàng Thị Phương Thảo. Sau niên học nầy, cô chuyển về dạy tại trường Gia Long, có nhà riệng ở Ngã Năm Bình Hoà
      - Thể dục: thầy Phạm Văn Răng
      - Hiệu trưởng Thầy Phan Văn Huấn, gốc người Tân Tây (Kiểng Phước?)
      - Giám thị lớp: cô Ngô Tuyết Lệ.
      Vào đầu niên khóa, mới học được mấy tuần, thì các bạn thi rớt tú tài 1, trình diện tại phòng tuyển mộ nhập ngũ nằm trong tiểu khu. Chỉ cách trường có một con đường mà từ sân trường nhìn qua thấy rất rõ vì chỉ ngăn che bằng một hàng rào kẽm gai. Trò Đặng Kim Định đã rưng lệ khi nhìn thấy người anh ruột là trò Đỉnh vẫy tay từ giã. Trong lớp có mấy trò tình nguyện nhập ngũ theo học khóa sĩ quan như trò Trương văn Phò (khóa 21 Thủ Đức). 3 tháng sau có trò Vương Văn Cọp, Nguyễn văn Nô, Nguyễn văn An tình nguyện khóa 22...

      Mùa Xuân năm này, trường có ra tờ báo Xuân như thường niên. Nhưng đặc biệt là do một nhóm học sinh đãm trách, dưới sự hướng dẫn của một giáo sư phụ trách báo chí.
      - Đại diện học sinh trường là Trò Trần văn Mươi (Đệ nhất B).
      - Phó là trò Ngọc Anh (đệ nhị A 2)
      - Nguyễn Bá Thoại là Trưởng ban Thể Thao,
      - Nguyễn Văn Năm (hổn danh Năm Lửa ) là trưởng ban báo chí
      - Trương văn Tâm là trưởng ban xã hội ...
      Giáo sư hướng dẫn báo chí là thầy Lê Quang Hậu ( ĐH SP Ban Lý Hóa SàiGòn) gốc người Kiến Hòa, hiện định cư tại Úc. Tờ báo năm nầy lấy tên là Định Hướng. Tranh bìa do Lynh Uyên vẽ. Ban biên tập học sinh gồm 5 người: NH Lynh Uyên (Nguyễn Văn Năm), Nguyễn Tường Lynh (Nguyễn Phước Tường), Wũ Dạ Uyên (Phan Thành Quang), Phương Tâm (Trương Văn Tâm) và tôi, Thy Lan Thảo . Lúc tôi mới qua Mỹ, liên lạc được với Tường. Tôi đọc báo Gò Công thấy Tường có viết bài và ký tên thật là Nguyễn Phước Tường. Tôi có hỏi, sao không ký Nguyễn Tường Lynh (bởi tôi chọn bút hiệu không có ẩn ý, nên tưởng bạn mình cũng vậy). Tường chỉ cười mà không trả lời. 3 tháng sau ngày Tường mất, tôi có dịp nói chuyện với Trần Tới, bạn thân của Tường, tôi mới biết tại sao Tường lấy bút hiệu nầy… (Ôi, kiều nữ Hòa Đồng năm xưa , bây giờ ở đâu …??)
      Tờ báo do học sinh tự lên Sài Gòn mướn nhà in và tự trình bày. Chăm sóc tờ báo tại nhà in là Nguyễn Phước Tường 1 ngày, Thy Lan Thảo 1 tuần và Wũ dạ Uyên 1 tuần. Báo phát hành được coi là thành công rực rỡ. Tôi còn nhớ, 5 chúng tôi cùngthầy Lê Quang Hậu và vớiĐởm - Đởm đang học khóa 7 - xin đi theo ôm báo, áo quần thẳng nếp, cài nút tay cẩn thận vào ra mắt Trung Tá Tỉnh Trưởng. Với tờ báo có bản in đặc biệt mà ngay những trang đầu, có in hình Trung Tá Tỉnh Trưởng, đang ban huấn thị tại sân trường. Tôi còn nhớ Trung Tá Xuân lật sơ qua xem và ngỏ ý khen tặng các em học sinh đã làm được tờ báo. Chúng tôi chào từ giã. Trên đường ra về, Tường càm ràm :
      - Ông Tỉnh Trưởng không cho được vài chục ăn hủ tiếu
      Trong lúc đó cũng đã có rất nhiều mạnh thường quân ủng hộ 500$. Lúc đó 1 tô hủ tiếu tiệm chú Quây là 4$50, thuốc lá hiệu Ruby 3$ 4 điếu .. Nghe Tường càm ràm vậy, thầy Hậu cười mà không có ý kiến .
      Ban báo chí bỏ ra mấy ngày mang báo đến bán tại các trường Bán Công Gò Công. Trường Bán Công Hòa Đồng trong không khí sắp tết thật là vui vẻ. Ở trường bán công Võ Tánh Hòa Đồng, hiệu trưởng là cô Cúc rất trẻ (Trông rất xứng với Thầy Hậu ), nên toán bán báo lưu lại khá lâu, thật vui...
      Cũng trong dịp tất niên năm nầy, Tường có mời ban kích động nhạc The B.O.Y từ Sài Gòn xuống trình diễn tại sân khấu nhà trường, thiết lập trước dãy ngang ngay sau cột cờ. Ban nhạc nầy gồm có 3 học sinh trường P. Ký là Trần Tới (Sĩ quan đại đội CTCT, Gò Công, khóa 3/68TĐ); Nguyễn Hạnh Tân (Tân hiện là nhạc sĩ ở Sacramento, sĩ quan ANQĐ vùng 1. Hạnh đi lấy chồng. Bây giờ Tân trở lại với tên cúng cơm là Nguyễn Hữu Tân, thuộc hàng cháu của Ông Hồ Biểu Chánh). Còn 1 tên nửa tôi không nhớ. Sau ngày trình diễn tại trường, ban nhạc được tỉnh cho phép trình diễn trước phòng thông tin Gò Công 1 đêm, được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt.
      Trong năm nầy, trong lần tranh giải bóng tròn cuối năm, liên quân đệ nhất do bầu Thoại làm thủ quân đã đá một trận thật là thê thảm ... Gần cuối năm, đám nam sinh còn tại lớp khoảng gần 20 trò. Thoại phải năn nỉ từng trò để cho đủ 11 cầu thủ và chính Thoại đứng trung phong (Coi như bao luôn sân). Còn lại chỉ còn một vài tay đá được như Ba Trụi, Điêu văn Danh, Khải, Nguyễn Hồng Điệp... Trong lúc liên quân đệ nhị quá mạnh, và dù Thoại lúc đó là một tuyển thủ xuất sắc của Gò Công, nhưng bị kèm quá cứng, đành phải … ngửa mặt kêu trời !
      Đi sổ điểm danh vẫn là Chú Hai Vũ Đình Lân. Báo giờ vẫn là cái chuông từ ngày lập trường treo nơi cây lim trước phòng giám thị, mà có lần dái chuông bị trò nào dấu mất, báo hại chú Hai tìm quá mạng. Lao công vẫn là chú Bọ.
      Thi tú tài hai năm nầy vẫn mở 2 kỳ. Nếu đậu bài viết, thí sinh phải vảo thi vấn đáp môn sinh ngữ chính (Thí sinh tự chép 10 bài trong quyển sách đang học, như anh văn thì trong cuốn "La Vie ..", để trình giám khảo)
      Xong niên học nầy, có trò, tôi vẫn thường xuyên gặp lại. Có trò, chưa một lần gặp lại ... Giờ đây nơi xứ người tôi cố gắng liên lạc lại được khoảng trên 10 trò tại Mỹ và 4 trò tại Úc .
      Bạn bè học chung khóa 5 trở thành vợ chồng cũng khá nhiều. Có Huỳnh Thị Thải (Ca sĩ Huyền Trinh, ái nữ của Ô.Bà Nam Hòa Lợi) & Nguyễn Thoại Trì (con trai của Thương Gia Nguyễn thoại Kỳ ở Yên Luông), tình yêu chớm nở từ năm học đệ lục, bây giờ đã có cháu nội ngoại hiện sống tại Úc. Trần Kim Thăng & Nguyễn (?) Thị Đạt, sống rất nghèo ở xóm Cầu Tàu. Nguyễn văn Long & Võ thị Bạch Yến tuy sinh khác ngày mà chết cùng giờ cùng ngày, nằm cạnh bên nhau… Long là Thiếu Úy,Yến ra đơn vị ở Long Khánh thăm chồng. Trong những tháng ngày cuối cuộc chiến, Việt Cộng pháo kích, một trái đạn oan nghiệt đã rớt ngay hầm Thiếu úy Long và vợ đang ngủ. Trần văn Mươi & Lê Kim Vun hiện sống ở Gò Công. Nguyễn văn Dư & vợ là Kim Lan, đều tốt nghiệp sư phạm bổ túc. Huỳnh Công Hiệp & Trần thị Điệp hiện còn dạy học tại Tân Tây. Phan Tuấn Huệ, nhị B2, Hiệu trưởng trường Hưng Long & vợ là Ngô Thị Oanh, nhị A. Huệ mới qua đời trong tháng 6-2014 vì bệnh ung thư phổi.
      Anh chị em ruột học chung cấp có Lê thị Hinh (tam A) và em trai là Lê tấn Hân (B1) Gốc người Hòa Nghị. Nguyễn thị Cúc (tam A) và em là Nguyễn Thị Thuận (B2), con của Thầy Giáo Tây. Đổ văn Dư (Thất A) và Đổ văn Quít (thất B), gốc người Bình Luông Trung. Nguyễn Ngọc Bích (B1) là em của Nguyễn Ngọc Vân (tam A ) là con Thầy Hiệu trưởng .
      Khóa 5 nầy phải nói là không thành đạt lắm trong đường học vấn... Ta thử nhìn xem tổng kết toàn khóa:
      -Nha sĩ có trò Nguyễn Thị Thuận (có phòng mạch tại San Jose ). Đại Học Sư Phạm có trò Nguyễn Thị Hồng. Hồng cũng tốt nghiệp cử nhân Đại Học Khoa Học. Quốc gia hành chánh có trò Trịnh Ngọc Chung, Nguyễn văn Được (hổn danh là Đông Cung Thái Tử). Hầu hết bạn học đều gọi trò là Thái tử và hầu như quên tên Được. Sau khi ở tù Cộng Sản về, trò nầy ăn chay trường, lấy việc hốt thuốc Nam, xem mạch như là một việc giúp đời. Lý Kim Hoa, người Việt gốc Bông, cán sự Phú Thọ có trò Ngô văn Thành (Việt gốc Bông), Lê văn Ba hiện ở Bình Xuân, Phạm văn Minh (đã qua đời tại Bình Ân), Nguyễn văn Tạo (Tử nạn bên Cù lao lúc làm Phó Ty Công Chánh Gò Công), Đinh văn Nhân hiện ở cần Giuộc, Nguyễn thị Bạch Mai ở San Jose. Ngoài ra có trò Đinh Văn Tân đậu Cao Học tại Đại Học Khoa Học Sai Gòn hiện ở Canada. Đặng kim Định cử nhân đại học khoa học, dạy học ở Thủ Đức. Lê văn Năng cán sự Bưu Điện. Đổ văn Dư cán sự Điều Dưỡng (vợ qua đời mới tục huyền, hiện ở Yên Luông) ... Số còn lại lang thang ở các trường Văn Khoa và Luật Khoa. Giáo viên sư phạm 2 năm và sĩ quan Thủ Đức chiếm đa số. Khóa 23 Đà lạt có Trần Công Thu, Võ Văn Ba (Ba Trụi), Điêu văn Danh, Phạm văn Tý. Khoá 25 có Nguyễn Văn Được (Được răng vàng). Mang cấp Đại Úy trước ngày mất nước chỉ có mấy trò: Võ Văn Ba (tiểu Đoàn Phó Biệt Động Quân) Nguyễn Văn Chơi (Chơi trước), hoa tiêu Sư Đoàn 6 không Quân. Trương Văn Phò (Sĩ quan quan sát phi đoàn chiến tranh điện tử). Vương Văn Cọp (tiểu đoàn phó tiểu đoàn Linh Miêu - Kiến phong). Phan văn Bang, sĩ quan thiết kỵ Nguyễn văn Nô vừa có nghị định về chưa làm lể gắn lon. Trần Thị Tươi liên đoàn trưởng liên đoàn Sinh Viên Sĩ Quan nữ quân nhân... Theo phía bên kia có Nguyễn văn Khâu (hổn danh Khâu Lìn), Đào văn Xuân và Trần Văn Chót. Chót nằm xuống không biết đạn do bạn cùng lớp hay cùng trường bắn. Khâu hiện làm ruộng ở Giồng Bà Lẩy, từng tham dự trận đánh Đồn Giồng Đình, trong màu áo Tiểu Đoàn 514 của Việt Cộng. Còn Xuân thì không biết tin (trò nầy ngồi cạnh tôi suốt 4 năm liền thời đệ nhất cấp). Lính Cộng Hoà tử trận cũng khá nhiều: Ngô Hoàn Toàn, Nguyễn văn Diều, Nguyễn Ngọc Nhứt, Đặng văn Đỉnh, Nguyễn văn Long,Võ Hiếu Để, Phạm Ngọc Đắc, Đổ văn Quít, Nguyễn văn Thôn, Nguyễn văn Hiệp, Phạm văn Tý... Lao tù cộng Sản đày ra đất Bắc có Võ Văn Ba, trại Nghệ An - Trương văn Phò, trại Vĩnh Phú - Nguyễn kỳ Sơn, trại Hà Tây & Nam Hà. Trò Sơn cũng là trò ở tù lâu năm nhất trong khóa 5, với hơn 8 năm ... Chết mất xác có Tý (chiến trường An Lộc) và Quít (Thiết giáp vùng 1). Đa số tử trận còn độc thân, chỉ trừ có Tý, Đắc và Long là có gia đình. Đắc thời đi học rất bay bướm, đẹp trai, là con trai duy nhất trong nhà. Cha bị Việt Cộng vào nhà ban đêm bắt ra trước nhà chặt đầu trước mặt vợ con... Người bị quy tội làm chỉ điểm cho lính quốc gia, vì người sinh sống bằng nghề hớt tóc, thường xuyên cắt tóc cho lính ... Mẹ có tiệm tạp hóa ở Kiểng Phước. Đắc làm thơ từ năm học đệ tam. Có chân trong "Nhóm Thơ 20 Gò Công". Giữa năm đệ nhị vì bất đồng ý kiến với vài người trong nhóm, đã cùng với Thy Lan Thảo lập ra nhóm thơ "Hoa Tình Yêu" gồm có Thanh Dạ Vũ, Wũ Dạ Uyên, Ngô Bạch và Phương Vũ... Đắc ra trường không bao lâu, chưa trả được thù cha, đã tử trận, để lại 1 vợ và 1 con gái. Mấy năm sau vợ Đắc cũng bị thảm tử vì lửa trong một chuyến xe đò. Đứa con gái lớn lên rất xinh đẹp, hiện có chồng là Công An biên phòng ở Vàm Láng.
      Ngoài bằng hữu tử trận, số còn lại yên giấc nghìn thu cũng bằng nhiều cách khác nhau:
      Trò Trần thị Mầu (vợ của Thiếu úy Võ văn Huê) mất năm 1974 vì sinh khó. Nguyễn văn Tạo, phó ty Công Chánh Gò Công, công tác bên cù lao, nhảy lên máy cày lái qua cầu, cầu sập. Trò Nguyễn văn Năm, không biết có phải vì hổn danh Năm Lửa mà bị chết vì lửa. Năm đang làm hiệu trưởng trường tiểu học Long Chánh, có nghề tay trái là in lụa, nên thường đi Sai Gòn để mua vật liệu. Cuối năm 1990 Năm đón xe trước quán cà phê của người em ruột bên xóm đạo. Xe đông và quá chật, Năm ngồi trên một bao cà ròn chất ở lối đi giữa xe. Định mệnh đã khiến Năm ngồi trên bao thuốc pháo. Lúc bấy giờ tôi đang ở Sài Gòn, chị tôi nhắn tin cho hay. Tôi có vào bệnh viện Chợ Rẩy, khu phỏng thăm Năm. Nhìn hình tích của Năm thê thảm lắm.. Da mặt cháy nám loang lỡ, toàn thân băng kín, không còn lông tóc chi cả. 24 Tết tôi có về đưa tiễn Năm vào an táng tại Bình Luông Đông. Ngoài vợ chính thức (không có con), còn khá nhiều kiều nữ năm xưa (đã lén chồng) đến khóc lần cuối trước quan tài. Trần Thị Thủy (1991), trên đường đi dạy về ghé qua nhà ba má ở Ao Trường Đua, thấy mệt ngồi xuống bên đường rồi ... đi luôn! Dương thị Thủy, dạy học trường Tân Niên Trung. Đi dạy về quá giang xe với một thầy dạy cùng trường, để rồi quá giang luôn .. cuộc đời! Dỡ dang, sống nghèo nuôi 2 con. Con gái lớn mắc bệnh tâm thần nhưng rất đẹp. Thằng con trai là loại học sinh cá biệt. Trong lần đưa con đi trị bệnh trở về, lại có dẫn theo một bạn trai của con gái cũng bị tâm thần, về ngủ tại nhà gần xóm Miễu Bà, trong căn nhà đối diện với nhà máy xay lúa Lợi Nguyên của Bà Năm Sún. Thằng nhỏ trong đêm nổi cơn, vác búa đập đầu Thủy chết và hiếp con gái Thủy… Ôi, thảm thương cho cái chết của bạn đồng song!!! Tôi có đứng ra quyên góp bạn khóa 5, chút ít gọi là tấm lòng của bạn cũ gửi về cho Thuỷ lúc còn sống cũng như cho con Thủy sau thảm nạn. Dương Tấn Út, tốt nghiệp Sư Phạm 2 năm về dạy trường Vàm Láng. Sau ngày sập tiệm làm hiệu trưởng, rảnh rỗi đầy xe ba bánh chỡ cá kiếm them. Tính Út vui vẽ, có hổn danh là Út Xì từ ngày còn đi học. Lần họp mặt cuối năm của khóa 5, Út mời anh chị em mùng 3 Tết xuống nhà chơi và được sự đồng ý của các bạn. 27 tết, Út đi chợ Gò Công về bằng xe gắn máy, tới sân bay té bất tỉnh chỡ lên Chợ Rẩy ... đã ngưng thở! Trò Thái thị Ngọc, mất vì bệnh ung thư gan tại Pháp (theo lời kể của người anh ruột là Anh Thái Ngọc Vàng, nguyên tuyển thủ quốc gia về bóng tròn). Nguyễn Phước Tường ra đi từ ngày 30.4.1975. Tường bước chân rời khỏi đất Gò Công tại Trung Tâm Thẩm vấn gần lò heo cũ. Sau nầy, Cộng Sản sử dụng doanh trại nầy làm cơ sở Bảo Vệ Chính Trị. Một danh xưng mà hầu hết người của chế độ Sài Gòn nghe đến tên là đã ... lạnh cẳng! Tường xuôi theo dòng kinh đào nầy ra cửa biển Vàm Láng. Tường thành công trong nghề nhiếp ảnh. Đã đạt rất nhiều đẳng cấp quốc tế về nhiếp ảnh nghệ thuật. Có tiệm chụp hình luôn đông khách tại Sacramento. Tiền tài danh vọng đủ đầy. Sau chuyến đi Ý tham dự đại hội nhiếp ảnh thế giới, trở về, thấy trong người không bình thường ... Bác sĩ cho biết bị ung thư gan, thời kỳ cuối. 3 tháng sau Tường từ giã cõi đời, trong sự thương tiếc của hầu hết bạn bè. Theo di chúc, đám tang cử hành đơn giản. Phát tang trong vòng 4 tiếng đồng hồ, lại nhằm ngày thứ hai, thế mà cả thành phố Sacramento hết cả hoa tươi phúng điếu ... Tường chỉ có một đứa con trai. Thương cho Tường một người con có hiếu, một người bạn rất tốt, một người chồng chung thủy, một người anh cả mẫu mực trong gia đình, không hút thuốc không uống rượu... Sao vội đi Tường ơi !!!
      Bây giờ nơi xứ lạ quê người, ngồi nhớ để viết lại quá trình 3 năm học đệ nhị cấp tại trường Gò Công, lòng tôi cảm thấy bùi ngùi xúc động… Đã mất hết rồi một thời tuổi trẻ đã qua đi! Có ai phụ giùm tôi níu lại, một khoảng thời gian hoa mộng? Tôi đã gửi cuộc đời trong quân ngũ hết gần 7 năm và chôn chân trong lao tù Cộng Sản hơn 8 năm. Thúy Kiều sau 15 năm lưu lạc đã sum hợp đủ đầy…Còn tôi? Có ai trả lại giùm tôi khoảng đời đẹp nhất trong đời người mà đã bị Cộng sản làm cho mất mát đó ?! Những thương, những nhớ, buồn, vui, thù hận, đã ghi hằn thành những cơn ác mộng, mà hiện tại bây giờ, nhiều đêm tỉnh giấc, biết mình đang sống tại một quốc gia tự do, lòng tôi rất vui mừng… Tôi vẫn bận lòng luôn lo nghĩ về quảng đời đã qua, chứ làm sao mà quên cho được…!?!
      Lần từ giã ra đi, tôi đã đi thăm lại thầy cũ năm xưa. Hình ảnh Thầy Đài, tay run nằm trên ghế xích, đã làm tôi xúc động thật nhiều. Thầy nói chậm và nhỏ. Con gái Thầy, chị Thu Loan, phải lặp lại tôi mới hiểu. Tôi nắm tay thầy mà không cầm được nước mắt. Bởi vì tôi biết đây là lần cuối gặp Thầy. Tôi đi mấy năm Thầy qua đời ...
      Một số Thầy Cô cũ đã vĩnh viễn từ giã cõi đời. Một số Thầy Cô đã mấy mươi năm rồi chưa gặp lại. Bây giờ sống nơi đất lạ quê người, còn tìm lại được hơn mười Thầy Cô cũ, đó chẳng phải là niềm vui hiện tại của tôi ư? Tôi rất trân quý giữ gìn, để được thỉnh thoảng gọi phone, gửi điện thư thăm viếng, cũng như một số Thầy Cô cũ còn ở lại quê nhà. Thời đi học, trò nào lại không có lỗi. Bây giờ tóc đã hai màu, có trò đã đầy đủ cháu nội ngoại. Những lỗi lầm năm xưa đó, xin quý thầy cô, nêú còn nhớ, xin hãy bỏ qua cho. Riêng với bạn bè, cái nào vui, xin giữ lấy làm kỷ niệm. Cái nào buồn, xin tha thứ và hãy quên đi... ..
      Con đường lưu vong coi bộ còn dài.. Mong rằng các bạn đồng lớp, đồng trường xưa hãy vui vẻ tìm đến với nhau, để cùng nhau chia sớt những vui buồn trên khắp nẻo đường đất lạ…
      Tôi viết bài nầy lòng tôi nhớ lắm.. Dĩ nhiên, một mình trí nhớ của tôi, không thể nào ghi lại đủ đầy trọn ven.. Rất mong nhận được chỉ dẫn về mọi sơ sót trong từng năm học, cũng như mọi thành đạt hay mất mát của bạn bè ... Ngôi trường xưa bây giờ không còn một dấu tích nào của thời còn đi học...

      Viết tại Kỳ Đà Động, mùa Noel

      Thủy Lan Vy
      Con đi dưới lá cờ sao máu
      Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

      Comment

      • #18

        QUÊ HƯƠNG NỖI NHỚ
        *






        Hai con sam lật ngửa trên vĩ sắt, bắc trên bếp cà ràng đang cháy đỏ than hồng, mấy chân sam còn ngo ngoe, tôi dùng một que tre dài khơi mấy hòn than cho lửa bốc lên đều, miệng phì phèo điếu thuốc, nhìn màu da sam, từ màu đen đồng trở sang màu gạch nung…
        Mới trưa hôm qua tôi còn ở dưới làng Vàm Láng, nhậu với thằng cả Quan, thiếu úy Địa Phương Quân thuộc tiểu khu Gò Công mới nhận giấy giải ngũ mấy tháng qua vì đạn trúng cánh tay, bất khả dụng ba ngón tay của bàn tay trái. Đổ Thái Quan là bạn học chung 7 năm liền trung học với tôi, bạn bè cũ lâu ngày gặp lại, nó luộc một rổ tôm tích, với dĩa muối tiêu chanh, hai đứa lai rai nhắc chuyện đời,cũng hết một kết bia trâu lọai có trái thơm in trong nhản hiệu. Dân nhậu vẫn thường kháo nhau, mỗi kết bia trâu chỉ có một chai nhản có in thêm hình trái thơm, nước trong chai đặc biệt ngon hơn các chai khác, với nước cốt bia đậm đà hơn, tôm tích, một lọai tôm đặc sản của biển Vàm Láng, ngư dân đi ghe đáy về, mỗi ghe được chừng vài ký, thường dùng để biếu xén, hay giữ lại để người nhà nhậu chơi, con tôm nầy có hình dáng khác hẳn tôm càng, có hai càng to, không giống càng cua, cũng không giống càng tôm, trông ngoại hình không hấp dẩn, tôm lứa cũng cở tôm càng lớn, luộc chin, bốc vỏ bên ngoài, thịt bên trong dai và ngọt hơn tôm càng, nếu có thời giờ nướng lên, bảo đãm ngon hơn thịt rít nướng nhiều…
        Trước khi từ giã ra về, cả Quan không quên gửi cho tôi mang về vài ký khô biển, gồm khô Hắc Cấy ( cá đuối đen), Lịch Của, tôm thẻ ép xỏ lụi…và hai con sam cái khá to…
        Sau chuyến đi công tác tại Huế vào tháng 8 năm 72, công tác đúng một tháng khi Cổ Thành còn trong tay VC, tôi trở về hậu cứ lãnh tờ giấy phép 4 ngày, tôi phóng Honda về Gò Công, ghé thăm nhà qua loa rồi thì nhậu liên tục, bạn bè thời trung học làm việc tại tiểu khu đông quá, đứa nào cũng kêu cũng gọi, gặp bầu Thọai, sĩ quan phát hướng viên tiểu khu, sau một bạt ty Billard là một màn nhậu tại quán Quý Râu.Thế là hết một ngày, ngày hôm sau mới ra ngồi tiệm Lưu Sum, uống chưa hết ly soda chanh đường giải nghể là đã gặp Anh Ba Thương và Anh Tư Ảnh, cán bộ xây Dựng Nông Thôn, kéo ra quán Lạc Cảnh của Đại Úy Triêm, lại gặp Thiếu Úy Hồng, Nha ...và một số bạn cũ trong tỉnh đoàn, cũng hết mấy thùng bia black label, một ngày xuống Vàm Láng, trên đường ghé ngang qua Kiểng Phước, gặp Dương Quốc Bình, cũng bị thương tật mới giải ngũ từ Sư Đoàn 21 về, làm cũng hết mấy chai trước khi gặp Cả Quan…
        Sáng sớm hôm sau tôi rời Gò Công, trên chiếc Honda, bạn đồng hành có thêm hai con Sam, tới Sài Gòn chưa quá 8 giờ, ghé qua đơn vị xem có thư từ hay tin tức gì mới, rồi cùng với anh em trong toán xách chiếc Dodge hai cửa nhắm hướng Hốc Môn trực chỉ . Bác Năm, ngôi nhà gần quận tôi vẫn thường cho toán về đây nghỉ trưa, Bác hay tin tôi công tác từ Huế về nhắn tôi lên nhậu chơi.
        -Anh Thủy có cần em phụ giúp gì không? Ba bảo em ra bếp phụ với anh nè…
        Hương kéo dài tiếng nè thật dễ thương rồi nhìn tôi cười
        -Thiếu úy ngồi nướng sam trông điệu nghệ quá !
        Hương là con thứ của bác Năm, đang học đệ nhị trường Trung Học Võ Tánh Hốc Môn, tôi biệt phái công tác tại quận nầy hơn một năm trời, vẫn thường xuyên tới nhà Bác Năm nghỉ trưa, thỉnh thoảng bày tiệc nhậu, nên Hương cũng dễ thân quen với toán công tác của tôi, tôi vẫn xem Hương như người em gái, thường trong những lần nhậu trước đây, trong khi chờ làm mồi nhậu, Hương vẫn thường nhờ tôi chỉ dẫn về bài học trong lớp, nhất là môn việt văn.Tôi có khiếu về văn chương, lại có vốn liếng thọ giáo với Thầy Diêu, thêm tính siêng đọc sách nên mỗi lần giảng Kiều cho Hương nghe cô bé tỏ ra rất thích thú,vì thường tôi không đi thẳng vào chương trình học là phân tích về nội dung và hình thức, tôi thường phân tích tâm lý nhân vật và kể nhiều giai thoại về Kiều mà tôi biết được, cũng như đọc một vài bài thơ vịnh Kiều của một vài tác giả lỗi lạc trong văn học sử.
        -Có được em phụ giúp thì hay quá, tôi tiếp liền một hơi
        -Có mấy trái bưởi đỏ trên bàn, em gọt bỏ vỏ, rồi tách rời từng múi, bỏ hết vỏ lụa để trong tô cho anh, ra vườn cắt cho anh một ít rau thơm, lặt rửa sạch, nhớ cắt đọt lá quế, rau răm, húng cây, lột vỏ sẵn cho anh một củ tỏi, với vài trái ớt hườm chín, lọai ớt sừng trâu, hai trái chanh…
        -Anh Thủy…. Vẫn giọng nũng nịu kéo dài, từ từ chớ anh, anh dặn nhiều quá làm sao em nhớ cho hết …
        -Ờ thì em cứ làm đi, thiếu cái gì anh sẽ nhắc tiếp…
        Hai con Sam được trở qua trở lại mấy lần đã bắt đầu chín tới, mùi thơm dậy ngập mũi, tôi lấy một tô tai bèo bằng pha lê lọai lớn, một cái muỗng bằng inox đặt lên bàn, tôi tách vỏ lần lượt hai con sam, trứng sam tròn như trứng cá gún đặc cả bụng sam, Tôi dùng muỗng múc cẩn thận hết trứng sam ra tô, lọai bỏ tất cả những thứ không phải là trứng, vì tôi vẫn thường nghe nói, ăn đồ biển dễ bị ngộ độc nếu không biết rành rẽ về những độc tố trong từng loại, tượng tai bèo đường kính khoảng 3 tấc, dung tích khoảng trên 2 lít, đựng được hai phần ba trứng sam.
        Hương ngồi trên bộ ván cạnh bên chiếc bàn trong bếp, tay khéo léo lột bưởi, bàn tay ngón thon dài, trắng muốt, con dao bén, Hương gọt vỏ bưởi thành một sợi dây dài, bưởi được tách ra từng múi, mỗi múi được cô tách bỏ vỏ lụa, chỉ lấy từng tép bưởi đựng vào một cái tô
        -Em có nếm thử xem bưởi chua hay ngọt chưa? Hương không trả lời tôi hỏi mà cầm lấy một tép bưởi, khẻ chồm người lên đút vào miệng tôi
        -Anh ăn thử thì biết chứ gì…
        Bàn tay cô bé ngón thon mà dài, móng tay ửng hồng tự nhiên…hàng ngày đi học về, cô bé vẫn phụ với gia đình trong việc làm bún thế mà cô lại có bàn tay mướt quá, giống như những bàn tay của các vị tiểu thư khuê các trong các truyện diễm tình, với bàn tay nầy, theo như sách tướng vẫn ghi, tương lai người có bàn tay không phải vất vả chưa muốn nói là trở thành mệnh phụ.Tôi ngậm miệng vội, vị chua ngọt của bưởi tan nhẹ trong lưỡi lẫn với hương tay da thịt cô bé, trước cử chỉ thân mật của Hương, tôi cảm thấy dễ chịu vô cùng
        -Bưởi hơi chua như vầy trộn gỏi sam mới ngon, tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào đôi mắt ướt đen của Hương, mà từ đó như có một chút dịu dàng trìu mến tỏa ra…
        Tôi với tay lên vách lấy một cái chảo gang, tráng sơ miếng nước, bắt chảo lên bếp than hồng, chờ cho chảo vừa đủ độ nóng, tôi múc mở đổ vào vừa đủ ướt lòng chảo, lựa ba tép tỏi lớn, đặt lên thớt dùng lưỡi dao phai ép mạnh cho tỏi bể dẹp ra, một củ hành tiều xắt mòng, mở vừa sôi, tôi bỏ tỏi và hành vào phi, nhìn tỏi hành vừa trở màu vàng, hương thơm bay nứt mũi, tôi đổ tô trứng sam vào, dùng sạn đảo thật đều tay, độ mỡ vừa áo trứng sam, dùng giấy cầm hai quai chảo tôi trút vội tất cả trứng trong chảo ra tô, trút tô bưởi lên mặt trứng sam, chút muối, chút đường được rắc đều lên, tôi dùng hai đôi đũa trộn đều.
        -Bây giờ Hương giúp anh việc nầy, rau thơm xắt mỏng, ớt xắt sợi theo chiều dài rồi ngâm dấm, chanh lột vỏ tách múi, dùng muỗng tán nhuyển chanh, đâm tỏi ớt cho cay pha cho anh một cối nước mắm chanh ớt. Nước mắm nêm vừa ăn rồi vào xin má một muỗng nước cốt cơm rượu pha vào
        -Má, mà má ai vậy anh …Hương chu cái môi dài nhìn tôi.
        -Thôi mà má ai cũng được hết. Nước mắm chanh ớt mà có pha thêm nước cơm rượu em sẽ thấy ngon tuyệt vời… Có ốc gạo luộc chấm vào là hết sẩy nha em…cái nầy là bí truyền trong nghệ thuật pha nước mắm do cô thứ tư của anh truyền lại. Em nhớ để sau nầy có khách nhậu của chồng đến nhà.. pha cho người ta ăn, khoe tài nội trợ giỏi..
        Miệng nói, tay tôi vẫn trộn đều tô gỏi, những tép bưởi bị vỡ nước hòa lẫn với muối đường tạo một vị chua ngọt dễ chịu, mùi tỏi phi, mùi thơm của trứng sam nướng làm cho tôi bắt khịt mũi hoài, với ba cái dĩa bàn hình hột xoài, tôi sớt tô gỏi sang dĩa, dùng đũa muổng sửa lại cho khéo léo dễ coi, xong rắc rau thơm, phủ lên rau những sợi ớt đỏ au ngâm dấm cong queo lại được trang điểm sau cùng
        Hương đứng nhìn mấy dĩa gỏi không chớp mắt
        _ Anh hay quá, anh làm món gỏi sam thật tuyệt vời, trình bày trông đẹp mắt lắm, anh nhà binh mà còn biết chuyện nhà bếp nữa.
        Tôi trả lời ỡm ờ:
        -Mình là dân nhậu thì phải biết làm đồ nhậu, mai sau có gia đình, có vợ, có con, vợ con mình mình thương, mình quý, nhỡ có bạn bè tới chơi, gặp bạn nhậu mình phải lo tiếp đãi, mình ăn nhậu thì không thể bắt vợ con mình làm .. Với lại, làm trai là phải… xông pha khói lửa mà Hương.
        Nghe tôi nói, Hương khẻ chớp mắt, hình như cô bé đang suy nghĩ một điều gì… nhà bếp nóng, má cô bé thật hồng…Tôi không dám nhìn lâu…
        Tôi bước lên nhà trên, ngồi quay quần bên chiếc bàn tròn quen thuộc, ngoài Bác Năm chủ nhà, còn có chú Ba quay heo, anh Tám Nương, cán bộ thông tin xã Đông Thạnh, cánh nhà binh có Minh Đường, trước đây là toán phó của tôi, nay thụ huấn khóa sĩ quan đặc biệt, ra trường đổi về tiểu khu Kiến Hòa, hạ sĩ nhứt Thông tài xế và cai Ngà từ đại đội 403 CTCT Mỹ Tho lên chơi, Ngà trước cũng cùng đơn vị với tôi, sau chuyển về Mỹ Tho cho gần quê nhà…vợ, vợ Ngà là chị Nở, con thứ của ông chủ quán Hồng ở Bến Tre, đặc biệt Ngà rất mến tôi và tửu lượng cũng ngang ngửa với tôi
        Lúc tôi mới về trình diện tiểu đoàn, mặt còn búng ra…đủ thứ, mấy tay nhậu muốn dùng rượu để khắc chế tôi, nhưng sau mấy lần đọ sức, tất cả đều mến tôi vì khó có tay nào thấy được tôi say trừ phi tôi bị chồng độ
        -Cũng trưa trờ rồi, thôi mời tất cả vô bàn đi quý anh em, tiếng của Bác Năm chủ nhà, tôi ngồi cạnh Ngà, Thông ngồi bên Bác Năm, Minh Đường, Chú Ba quay heo và anh Tám Nương.
        Trên bàn, ngoài hai dĩa gỏi sam của tôi trộn, còn có một dĩa ếch xào đọt chùm ruột, mấy con khô Hắc Cấy, mấy con Lịch Của nướng vừa chin tới để trên dĩa kèm bên chén nước mắm me tỏi ớt để chấm khô
        -Lần nầy mình uống rượu mít, cây mít bên hông nhà tôi trồng năm năm nay đã có trái chiến, giống mít dừa, dày cơm lại rất ngọt, tôi phơi khô một ít, ngâm rượu mấy tháng nay.Giọng nói của Bác Năm luôn luôn nhiệt tình và thân thiện.
        Nói xong, Bác Năm bước lại tủ thờ, bê ra một keo tròn khoảng 5 lít, đầy rượu, sóng sánh vàng màu hổ phách, dưới đáy keo là xác mấy múi mít nướng cháy.Với đôi tay khéo léo, Bác chuyên rượu ra chai ba xị mang lại bàn kèm với cái nhạo sứ và một ly nhỏ.Bác trịnh trọng nghiêng nhạo rót đầy ly
        -Sẵn hôm nay có Thiếu úy vừa công tác ở Huế về, nghe nói Cổ Thành Quảng Trị bị quân Cộng Sản chiếm đóng, quốc lộ Quảng trị Huế trở thành đại lộ kinh hoàng mà Thiếu úy trở về bình yên, thiệt tôi mừng hết sức, với lại có thằng cháu rể là Minh Đường mới từ Trúc Giang về phép nên mình nhậu một bữa mừng sức khỏe bình yên.
        Vẫn như thường lệ trong mỗi lần nhậu ở đây, Bác Năm uống xong ly rượu đầu tiên là rót cho tôi ly thứ nhì, và sau khi tôi uống xong là vòng tua bắt đầu
        Cũng giọng nói rất hiền của Bác Năm:
        -Gắp đi mấy anh em,dĩa gỏi sam trông hấp dẫn quá, sam nầy từ miệt biển của Thiếu úy mang lên, chứ Hốc Môn muốn ăn dễ gì có, ổng trộn sam với bười, lạ mà ngon quá, ăn thử đi mấy anh em…
        Ngoài cổng có người dắt vội chiếc xe đạp bước vào, Bác Năm che tay lên mắt ngó ra cổng:
        -Thằng Tư Rổ, hôm nay chắc là đắc khách nên tới trể.
        -Xin lỗi, chào tất cả, Anh Tư vừa bước vào vừa chấp tay vừa nói
        -Định đến sớm mà khách mang xe lại sửa hoài, lại toàn là khách nữ, nên cũng khó từ chối nên tui mới tới trể…
        Anh Tư tự biết lỗi đến trể, với tay cầm nhạo, vừa rót vừa uống liền ba ly, theo đúng thủ tục bất thành văn chào sân nhập bàn( vào trể 3 ly, ra về sớm 7 ly)
        Uống xong, anh Tư cười tươi, với tay kéo cái ghế trống bên ngoài, đảo mắt nhìn một vòng quanh bàn, nhìn thấy tôi, anh kéo ghế đến ngồi bên cạnh.
        -Cũng gần hai năm mới gặp lại Thiếu úy, trông ông lúc nầy có nét phong trần hơn trước nhiều.
        Sau nhiều câu chuyện xã giao. Bàn rượu lại đầy tiếng cười nói vui vẻ, tửu nhập thì ngôn xuất, ở đâu cũng vậy…mấy thằng uống rượu là con Ngọc Hoàng. Đa số trong bàn mới ăn món gỏi sam nầy lần đầu tiên, nên cầm đũa gắp trợt lên trợt xuống, tôi nhìn mà cười khoái chí, tôi dùng muỗng múc gỏi vào chén rồi chan lên chút nước mắm ớt
        -Phải dùng muỗng mới múc được, trứng sam tròn vo làm sao mà gắp được mấy anh mấy chú.Tôi chỉ cách.
        Qua năm sáu vòng tua, rượu trắng Hốc Môn ngâm mít vừa thơm vừa có hậu, uống xong ly thấy ngọt cổ, nhưng độ bốc của rượu cũng rất nhanh…Thôi thì đủ thứ chuyện được bàn đến, từ chuyện Dù bàn giao cho Thủy Quân Lục Chiến để tái chiếm Cổ thành Quảng Trị, từ chuyện dân chúng Quảng Trị bỏ của chạy lấy người để tránh Cộng Sản, đến chuyện hòa đàm Paris, chuyện sam đeo cặp ở biển, con đực con cái đeo dính với nhau, bởi vậy dân gian thường dùng hình tượng nầy để chỉ các cặp tình nhân quá khắn khít “ đeo dính như sam”
        Người ta chỉ ăn con sam cái, vì con cái có trứng ăn mới ngon, con sam đực nhỏ hơn chỉ có chút thịt như thịt cua, sam để nằm thường cong đuôi lên đập xuống bất thường, rất dễ gây thương tích cho ai sơ ý bước chân ngang qua, con đực bắt được, ít ai mang về, vì tốn công mà thịt chẳng có bao nhiêu.
        Sau khi uống xong ly rượu vòng( uống rồi nói mới tin- ngôn ngữ trong bàn nhậu) Tôi khề khà:
        -Sẵn hôm nay nhậu gỏi sam, tôi có nhớ một câu đố về sam để tôi đọc cho quý vị nghe chơi
        Cả bàn im lặng nghe tôi nói
        -Mình đồng da sắt, cặp mắt trên lưng, sóng đánh tưng bừng, vẫn ôm đít vợ.Đố là con gì?
        Tư Rổ ngồi cạnh có vẽ khoái chí sau khi nghe xong, đứng dậy tay với lấy nhạo rượu rót ra ly đặt bên cạnh tôi, rượu rót khéo tay, đầy vun mặt, mời tôi
        -Thiếu úy uống rượu nói chuyện vui quá, tôi xin mời Thiếu úy một ly. Có tiếng ai đó. – Đá bổng đá bỏ nha…( có nghĩa là ly nầy không kể ly xoay tua)
        Thông tài xế nhìn ly rượu rót vun mặt mà cười ngất, bởi vì dân nhậu đều biết câu” cắt cổ hơn đổ rượu”ly rượu nầy cầm lên thế nào cũng phải đổ dù cho khéo tay cở nào.Ngà thì nhìn tôi với cặp mắt tin tưởng, vì Ngà thường xuyên nhậu với tôi, Ngà biết kinh nghiệm trong bàn nhậu của tôi có thừa, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ nầy…
        Tôi nhìn Tư rổ cười rồi xin phép trong bàn:
        -Tôi xin phép trong bàn được uống ly rượu mời của Anh Tư, nhưng mà Anh Tư chơi ngặt tôi quá, rót ly rượu đầy vun tránh sao khỏi đổ đây.
        Nói xong tôi khẻ cúi đầu xuống, dùng đôi môi cặp nhẹ miệng ly, đầu ngước dần lên, rượu chảy vào miệng không sót một giọt, tôi thong thả dùng tay trả ly lại bàn.
        Uống kiểu nầy rất dễ bị sặc rượu, mà sặc rượu thì khỏi phải nói, nhưng tôi cũng nhờ thường xuyên đi đây đi đó, tham dự nhiều buổi nhậu, nên các mánh trong bàn nhậu tôi đều rành sáu câu.
        -Thiếu uống khéo quá, mầy ngán ổng chưa Tư? Tiếng chú Ba quay heo,
        Thực tâm tôi không thích Tư Rổ, nhưng anh Tư thì rất mến tôi, hết hỏi chuyện nầy đến chuyện khác, nhiều lúc tôi muốn ngọng với anh luôn.
        Tư Rổ bỗng nhớ ra điều gì, chợt cười khan rồi khều nhẹ tôi
        -À nầy Thiếu úy, câu đối mà ông đọc cho tôi nghe mấy năm trước tôi đã nghe được vế đáp rồi.
        Bắt đầu Anh Tư thuật lại cho tôi và cả bàn nghe chuyện một lần về Gò công ăn cưới của anh.
        Tư Rổ là bạn thân của thằng Danh, thuở học chung khóa CB/XDNT ở rừng Chí Linh, thằng Danh vốn không xa lạ gì với tôi, nó học sau tôi mấy lớp chung trường trung học, nó là con Thầy Năm Ấn bên xóm Đạo Gò Công, anh nó là Trung úy Bời, tài xế Trực Thăng ở phi trường Cù Hanh, Bời là bạn học cùng đợt với tôi.
        -Tôi thấy tửu lượng Ông Thủy là tôi đã ớn rồi, ổng lại hù tôi là tửu lượng cở đó về Gò Công chỉ đứng rót rượu cho người ta uống chứ chưa được phép ngồi bàn nhậu, vậy mà trong tiệc cưới, tôi thấy chỉ có một vài tay uống mạnh, chứ đâu phải ai cũng mạnh hết đâu. Anh Tư cười rồi kể tiếp
        -Tôi nhớ tôi ngồi cạnh anh em Cò Tường, trong bàn có Anh Ba Thà ở Bình Luông Đông ra, Ông Hiệu Trưởng Hai …Vét với mấy người nữa, tôi thấy chỉ có Ông Hiệu Trưởng Hai là uống khá thôi, mấy người nầy chắc Ông Thủy biết,Tư khều tôi hỏi
        -Anh em Tường Khánh là bạn học với tôi, Giáo Hai học trước tôi ba năm chung trường trung học, Ba Thà là đàn anh xa, lúc ảnh mang Ách, tôi mới học lớp ba.Tôi trả lời Anh Tư
        Rồi Tư tiếp tục kể nhiều chuyện trong tiệc cưới, Tư có nhắc đến câu đối mà tôi đã đọc cho anh nghe trong lần nhậu trước thì được Cò Tường hưởng ứng ngay…
        -Gặp ai thì không đối được chứ tôi thì đã nghe qua vế đồi nầy rồi, Cò Tường ngâm nga:
        Trai Củ Chi chỉ cu hỏi củ chi
        Câu đối lại là: Gái Cù Mông, còng mu phải cù mông.
        Anh Tư dứt lời cả bàn cười rộ
        -Hay lắm, dù hơi tối nghĩa nhưng cũng tạm chấp nhận được.Tiếng của Minh Đường.
        Rượu qua thêm vài vòng tua, dĩa lươn xào đã cạn, dĩa gỏi cũng vơi, một vài giọng nói đã bắt đầu lên tong…
        Tư Rổ chợt đứng dậy, Anh rót một ly rượu đầy hướng về tôi mời.
        -Mời Thiếu úy một ly, uống xong tôi có điều thắc mắc xin được hỏi
        Tôi cầm ly, cám ơn anh Tư rồi uống cạn
        -Được, anh cứ tự nhiên hỏi, cái gì tôi biết tôi sẽ trả lời anh…
        -Chẳng qua là trong tiệc cưới, có người nhắc đến Sơn Vương, một tướng cướp lừng danh của thập niên 40-50, mà trong bàn chỉ nói phớt qua, Thiếu úy có thể kể cho tôi nghe rõ hơn chút nữa được không?
        Nghe Tư Rổ hỏi xong, tôi chợt tỉnh hẳn người, Người Gò Công rất ít người biết về thân thế của Sơn Vương, mặc dù Sơn Vương sinh quán tại làng Hòa Nghị tỉnh Gò Công, nhất là ở lứa tuổi sinh trong thập niên 40 như tôi thì dễ có mấy người biết; cũng may là tôi biết chuyện Sơn Vương là nhờ nghe ba tôi kể cho cả nhà nghe nhiều lần, lúc tôi còn học tiểu học, tôi có dịp đọc một truyện ký đăng nhiều kỳ trên nguyệt san hình như là nguyệt san Đời Sống xuất bản đầu thập niên 50 với tựa đề là “ Côn Sơn Khói Lửa”…Cũng nhờ cò bộ nhớ tương đối tốt, nên tôi còn nhớ lỏm bỏm, nếu gặp ai khác ở Gò Công mà bị Tư Rổ hỏi câu nầy chắc là khó trả lời trôi…
        -A, Tôi cũng có biết sơ về Ông Sơn Vương, hôm nay nhậu với gỏi sam ngon quá, mình nhậu thẳng chỉ một bữa, uống thêm vài ly nữa rồi tôi sẽ nói sơ qua về Sơn Vương, có dịp nào khác, rảnh rỗi hơn tôi kể rõ hơn được không anh Tư.


        Sơn Vương
        Tư Rổ xem ra đã ngấm rượu, Minh Đường cũng chẳng khá hơn, ngồi yên không nói, vuốt tóc liền tay…có lẽ sắp lên dầu sống( sắp cho chó ăn chè)Thông thì chỉ cười, Bác Tư và tôi cũng đã gần tới mức, uống thêm hai vòng nữa tôi bắt đầu kể.
        - Sơn Vương chính tên là Trương văn Thọai, quê quán làng Hòa Nghị tỉnh Gò Công ( Nhìn hai chữ Sơn Vương một nhà văn thường viết về Nam Kỳ Lục Tỉnh cho ông nhập quốc tịch Miên) Ông tổ của Sơn Vương là thuộc tướng của Chúa Nguyễn Phúc Ánh, lúc Nguyễn Ánh đại bại về trú đóng ở Côn Sơn, bị quân Nguyễn Lữ truy kích vây đảo, Nguyễn và một số tùy tùng lén thoát được vòng vây, ghe nhỏ trôi giạt trên biển, lại bị bão nhận ghe sắp chìm, may nhờ có cặp cá Ông, kê lưng kè ghe vào bờ, Chúa vào được đất liền , hỏi dân mới biết đây là Vàm Láng thuộc Gò Công, nhớ ơn cá Ông cứu tử nên khi chúa thống nhất sơn hà lên ngôi hoàng đế, ngài sắc phong cho cá Ông chức Nam Hải Đại Tướng Quân, cho dân làng lập đền thờ tại Vàm Láng, từ đây dân đánh cá gặp cá Ông lụy đều phải mang xác về chôn cất, tang chế 3 năm…Cho tới bây giờ mỗi năm vào ngày rằm tháng 6 dân làng đều có tổ chức cúng Cá Ông thật linh đình…Khi về tới Gò Công, Nguyễn Vương họp với quân Võ Tánh trú đóng một thời gian ở làng Hòa Nghị, lại bị Tây Sơn tiếp tục try kích, Nguyễn Vương bỏ chạy về Mỹ Tho, Võ Tánh ở lại cố thủ ở đầm Vạn Thắng, cạnh ao Đồn Binh.
        Tron Trong lúc gấp rút phải rời Côn Sơn Nguyễn Vương bí mật cho chôn dấu tất cả ngọc ngà châu báu, vẽ họa đồ cất giữ, hầu sau nầy có dịp sẽ tìm lại.Ông tổ của Sơn Vương có một bản sao của bản đồ nầy, khi Nguyễn Vương chạy về Mỹ Tho, ông không chạy theo mà ở lại cùng Võ Tánh, sau lập nghiệp ở Hòa nghị nuôi niềm mơ ước chiếm được kho tàng…Nhưng đời ông tàn mà vẫn không thỏa ước, mấy đời sau cũng không có người lên đường tìm kho tàng vì Côn Sơn không phải là nơi dễ đi lại, mà kho tàng lại được bí mật chôn dấu trong ngọn núi Ma Thiêng Lãnh, ngọn núi có tiếng là hiểm độc, bản đồ nầy truyền tới tay anh ruột của Sơn Vương, ông nầy quyết định lên đường đi tìm kho tàng, nhưng ngày ra đi của người thì có mà ngày trở về thì không, tấm bản đồ cũng mất tích luôn.
        Nhờ có xem qua bản đồ nên Sơn Vương còn ghi nhớ trong trí, nên ông quyết định lên đường tiếp bước của Anh mình, Sơn Vương vốn học năm thứ hai chương trình Pháp, nên nói tiếng Pháp trôi chảy, võ nghệ thụ huấn gia truyền cũng đã đạt được trình độ tuyệt kỷ, để tìm đường ra Côn Sơn ông bước vào giang hồ băng nghề viết tiểu thuyết và bán sách, nghề nầy chỉ để che mắt lính kín, nghề ăn cướp của ông mới là nghề chính, ông chuyên ăn cướp của nhà giàu Pháp chia cho dân nghèo, Ông cũng có nhiều bộ hạ, cũng nhiều lần bị bắt, cũng nhiều lần vượt ngục…án chồng chất ông bị lưu đày Côn Đảo, thế là bước đầu ông đã tọai ước mơ.
        Tại Côn Sơn, với khả năng cá nhân, ông lần lượt chinh phục và lấy cảm tình của giới chức cai ngục ở đây, nhờ nói và viết trôi chảy tiếng Pháp, Sơn Vương được thực dân Pháp tin dùng, sữ dụng làm việc văn phòng, nhiều lần trong đêm ông đã lén đi lên núi Chúa trong rặng Ma Thiêng Lãnh để tìm kiếm kho tàng.Trong lúc làm việc văn phòng tại đây, ông có tình yêu với cô giáo Hoa là con gái của Vệ Liển.Cô Hoa có lẽ không sắc nước hương trời, nhưng là hoa hiếm nơi hoang dã, nên đã làm rung động con tim của một tướng cướp lừng danh.
        Khi Nhật đảo chánh Tây, Sơn Vương đứng ra lãnh đạo Côn Sơn, đầu hàng Nhật, tạm thời được xem như chúa đảo.Tây trở lại nắm quyền, Côn Sơn bị Pháp tái chiếm, Sơn Vương bị bắt, còng tay giải về Chí Hòa, Cô giáo Hoa tiễn chồng ra tận cầu tàu, nghẹn ngào đau xót nhìn tàu từ từ ra khơi…
        Về khám Chí Hòa ông lại lên ngôi vương ở đây, cho tới cuối thập niên 50 Ông lại bị đày ra Côn Đảovới bản án tất cả là 65 năm, thời đệ nhị Cộng Hòa, Tổng Thống Thiệu đặc xá cho Sơn Vương vào khoảng năm 1972, ông có về Gò Công thăm lại quê hương sau đó trở lại Sài Gòn.Trong việc tìm kho tàng, ông gặp một đối thủ kỳ phùng đó là lão già Pha, võ nghệ trội hơn ông nhưng tuổi tác cao hơn, nên đã xảy ra nhiều trận quyết đấu bất phân thắng bại trên núi Chúa.Lão Pha từ Huế vào, có trong tay bản đồ kho tàng, nhưng chưa tiện khai quật mang đi, nên hàng đêm lão Pha vẫn rình rập trong núi để canh giữ và đã chạm trán với Sơn Vương nhiều lần,
        Đại khái chuện Sơn Vương là vậy, hôm nào rỗi rảnh tôi sẽ kể đầy đủ chi tiết hơn về việc tìm kho tàng trong núi Ma Thiêng Lãnh.
        Tôi ngừng kể, nhìn qua một lượt, Minh Đường đã gục xuống bàn ngáy từ hồi nào, Bác Năm ngáp lên ngáp xuống, mặt mọi người đều đã lạc thần vì lậm ma men, Tư Rổ khoái chí đứng dậy rót một ly rượu đầy tràn ướt cả bàn với giọng nhừa nhựa:
        -Tôi khoái Thiếu úy quá, hỏi cái gì ông cũng biết, Tư nói chưa dứt câu đã ngã nghiêng dựa lên mình Thông tài xế, mắt lờ đờ, miệng vẫn còn lãm nhãm
        -Tôi khoái Thiếu.. tôi khoái Sơn Vương…

        THỦY LAN VY
        (Viết tại Kỳ Đà Động, để nhớ những ngày công tác CTCT tại Hốc Môn)




        Con đi dưới lá cờ sao máu
        Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

        Comment

        • #19

          ĐÂU DỄ PHAI MỜ
          *

          Đang phi hành tỏi, chờ vàng, thả cá vào chiên sơ, rồi cho mật ong, nước mắm vào kho...Thì có tiếng phone reo...
          Nhà thơ Võ Ý từ Cali gọi sang...Anh bảo tôi là nhân chứng sống, trong cuộc di tản đầy máu và nước mắt, về trên tỉnh lộ 7B, anh cho biết là đại hội Phố Núi sắp khai mạc tại Cali, Anh cần có một bài viết về cuộc di tản nầy, và anh bảo tôi phải viết, bài viết không dài quá 2 trang, và phải hoàn tất nội trong ngày nay.Viết xong, email sang cho anh,để anh sắp xếp đọc trong ngày hội,Nói xong anh cúp phone...
          Kêu trời không thấu,Cuộc di tản 2 tháng trời mà bảo tôi viết 2 trang...Trong khi tôi đã có 2 bài viết về cuộc di tản nầy, 2 bài với tổng cộng hơn 12 trang.Bây giờ tôi phải rút từ 12 trang xuống còn 2 trang.Vì tôi chưa nhận giấy giải ngũ, nên cấp trên ra lệnh là tôi phải thi hành,có gì khiếu nại sau. Một lần tuân lệnh cấp trên, buông súng, bị lưu đày biệt xứ hơn 8 năm mà cũng chưa tởn.Thực ra, anh Ý chỉ hơn tôi có cái đế (ảnh Trung Tá, tui Trung Úy) mà ép tôi quá...Nhưng dù gì thì lúc lưu đày ra Bắc,tôi và ảnh cùng chung đội rau, tại trại tù Hà Tây, mấy năm trời vui buồn có nhau,...Vậy là tắt lửa, vô khỏ computer liền may ra mới kịp.
          *



          Xe chầm chậm ngang qua cổng Quân Đoàn, mới hơn 6 giờ sáng, trời lành lạnh sương mờ...Hình ảnh người lính gác cổng trong tư thế tác chiến, không bao giờ phai mờ trong trí tôi, mỗi khi có dịp hồi ức lại, ngày giờ năm tháng mà tôi củng đồng đội chung đơn vị, phải rời bỏ quân đoàn, ra đi mà lộ trình không biết phải đi về đâu? Không nhận bất cứ mệnh lệnh nào củă một cấp trưởng, ra đi chỉ là việc tự phát, thấy đơn vị bạn bỏ đi .. cũng đi theo, chỉ vậy thôi .
          Là một đơn vị trừ bị cho vùng hai chiến thuật, các toán Chiến tranh chính trị hành quân, thường xuyên tăng phái cho đơn vị bạn. Đơn vị 201CTCT của tôi vừa từ Kon Tum về hậu cứ quân đoàn, khoảng 10 ngày trước khi di tản, đang công tác tăng phái cho Biệt Động Quân tại B15, khi Biệt Động Quân rút đi, đơn vị tôi tự động rút về Pleiku, trong thành phố KonTum lúc bấy giờ, loa phóng thanh ra rả... Lệnh Đại Tá Tỉnh Trưởng, cấm quân nhân ra khỏi tỉnh với bất cứ lý do gì... Là đơn vị tăng phài, nên đoàn xe của Đại Đội 201 qua cầu Dakpla dễ dàng...
          Về quân đoàn, doanh trại tiểu đoàn đóng cạnh truyền tìn, có một đêm, giặc pháo ngay vào quân đoàn... Tin tức xấu lan truyền cùng khắp, kể từ khi Ban Mê Thuộc tạm coi như thất thủ...Buổi sáng trước ngày di tản, Trung úy Quế, ban 3 Tiểu Đoàn, dừng xe gắn máy trước sân tiểu đoàn, anh cho biết là hầu hết các đơn vị trong quân đoàn đã di tản, chỉ còn thiết giáp, truyền tin và mình ...
          Anh em xôn xao bàn tán, tiểu đoàn như rắn mất đầu, vị tiểu đoàn trưởng bay đi đâu mất... Trước khi đi, người còn dặn lại tiểu đoàn phó trông coi tiểu đoàn, ông bận đi họp ở quân đoàn... Tiểu đoàn phó mới từ Sài Gòn đổi ra chưa tới 3 tháng ...Tôi thì cũng từ Sài Gòn ra được gần 5 tháng ... Cũng đều từ Tiểu Đoàn 50 CTCT thuyên chuyển về đây.
          Đêm đó, tất cả quân nhân trong đơn vị không ai ra lệnh, tự động quay quần bên nhau, ngủ ngoài sân... Hình như ai cũng sợ đơn vị ra đi bất thình lình, mình bị bỏ lại..
          Sáng sớm, tiểu đoàn phó cho lệnh phá kho, anh em được thêm khá nhiều lương khô, cũng như đạn dược..
          Tôi thấy thương cho người lính gác cổng quân đoàn vô cùng... Thượng phiên không biết có người thay không? Điếm trưởng không biết có còn không? Quân phong, quân kỷ, trong những ngày sau cùng, giết rất nhiều quân nhân không dám tự ý rời đơn vị...
          Mấy chiếc M48, còn thật mới đậu rải rác gần cổng .. Nòng súng buồn bã chỉa xuống đồi ... Xe qua khỏi cổng, trên ghế trưởng xa, tôi còn ngoái đầu nhìn lại cổng quân đoàn, hình như tôi linh cảm .. đây là hình ảnh cổng quân đoàn mà tôi được nhìn lần cuối..!
          Con đường Hoàng Diệu, và nhiều con đường khác trong thành phố, dù còn sương mờ, dù còn quá sớm để bắt đầu một ngày mới ... Vậy mà đường nào cũng rộn rịp, xe cộ đủ loại, xe nhà binh nhiều nhất.. Gương mặt mọi người đều mang nét " giới nghiêm", hình như trong đầu mọi người đều mang nhiều thắc mắc mà chẳng ai giải đáp giùm cho...
          Đoàn xe của Tiểu Đoàn 20 , sau khoảng nửa giờ ngừng trên đường Hoàng Diệu, để nghe ngóng tình hình..Vị tiểu đoàn phó ra lệnh lên đường theo sau đoàn xe quân cảnh vừa chạy ngang.. Xe chầm chậm theo về hướng Hàm Rồng.. Tôi nhìn rạp Diệp Kính một lần cuối..Cũng như tôi đã nhìn trường trung học Pleime, khi xe từ quân đoàn ra tỉnh..Pleiku không phải là quê hương... Nhưng là đất của quốc gia, bỏ đi thì lòng nào lại không luyến tiếc...!
          Tôi nhìn phía trước, tôi nhìn phiá sau ... xe đâu mà nhiều quá, xe lô bồi, xe nhà, xe đò, các loại xe quân đội... rồng rắn chầm chậm bò đi. Gần tới Hàm Rồng, xe trước rẽ phải, băng lề chạy cày trên đất cỏ... một khoảng khá xa mới thấy lờ mờ dạng một con lộ... mà có lẽ từ lâu không người qua lại.
          Lính trên xe nhiều người biết... Con đường nầy dẫn đến Phú Bổn...Đoàn xe vẫn êm ả chạy, chưa thấy gì là nguy hiễm, chưa nghe tiếng súng ..
          Xe qua Thung Lủng Hồng... Rải rác một vài chiếc GMC bị lật.. vài xác quân nhân nằm sãi tay bên ba lô súng đạn.. có lẽ tại nạn ...Rồi đoàn xe rồng rắn cũng tới được Phú Bổn...Lính gốc miền Nam có vẽ vui vì được về Nam, dù trên mặt vẫn đầy nét lo âu ... Lính người địa phương, mặt mũi đâm chiêu vì chuyền đi bất ngờ... xa người thân xa vợ xa con...
          Đêm Phú Bổn tương đối an toàn, Trung Tá Lò văn Bảo củng vài cận vệ.. đi bộ qua từng xe di tản, an ủi đoàn quân.. ..
          Rồi lần lượt tới Phú Túc, tới Củng Sơn, tới bờ sông Ba...
          Có những khúc xuyên rừng, công bình ủi dường, đốt lửa cháy rực, Biệt động quân, súng cầm tay dàn an ninh hai bên đường rừng, nhiều em lính quá trẻ, tuổi chưa tới 20.. Họ lặng lẽ cầm súng trong thế sẵn sàng chiến đấu... Không biết họ có nghĩ gì về đoàn quân đang xuối Nam, và thân phận của người lính an ninh đoạn hậu rồi sẽ ra sao?? Một sự bỏ rơi tàn nhẫn quá...!!
          Tôi thấy xa xót trong lòng khi nhớ tới những người lính trẻ nầy... Hình ảnh hào hùng đó khó phai mờ trong tôi .
          Từ bờ bên kia Sông Ba theo đập Đồng Cam về Hiếu Xương mới là đoạn đường đầy máu.... Biết bao nhiêu xác quân nhân chết trong tư thế dơ tay đầu hàng, bọn quỷ người, từ phiá sau bắn tới đoàn lính thất thế đã đầu hàng... trong đám thi thể nầy có Đại Úy Klang thuộc tiểu đoàn 20CTCT. Đập Đồng Cam ngâp tràn xác chết, xác dân lẫn lính, khi trời kêu ai người đó phải dạ.. Chứ làm sao cải được. Đoàn xe chạy sát bên nhau, người đi bộ khít bên nhau .. Phiá trên núi, nơi mà ngày trước quân đội Đồng Minh Đại Hàn đã xây nhiều công sự phòng thủ, giữ an ninh con đường 7B nầy, bây giờ bỏ hoang, cộng quân chiếm đóng, từ trên đó, cứ tà tà bắn xuống đoàn người ... bia di động!!
          Khi sắp tới quận Hiếu Xương, tin Thiếu Tá Hải tử thương, người của sở 2 liên lạc ( Nha Kỷ Thuật) vị sĩ quan trẻ tuôi, kinh nghiệm trận mạt đầy người, đang trực tiếp chỉ huy thuộc cấp mở đường máu, xe của ông bị 1 trái B40... Tin nầy đã gây bàng hoàng xúc động, cho hầu hết quân dân trên đường di tản
          Buổi chiều , trời đã nhạt nắng, tiếng súng đã dịu đi nhiều ... Lá cờ vàng thân thương, được một anh lính địa phương của quận Hiếu Xương phầt bay chào đón đoàn quân di tản .
          Dân quận Hiếu Xương đứng đầy hai bên đường, hôm đó là ngày rằm, chén cơm, cái bánh, trái chuối, điếu thuốc, được người dân ần cần trao tận tay người lính...
          Tôi nhận một chén cơm, với đôi đũa, có tàu hủ kho tương ... từ tay một cố gái trong tuổi đôi mươi, ăn vội thật ngon, nghe cay cay khoé mắt, lần đầu tiên trong đời lính, tôi cảm nhận được tình quân dân thắm thiết, tình dân đối với lính Cộng Hòa.
          Lịch sử dù đã sang trang .. Nhưng sự thật bao giờ cũng phải trả lại sự trung thực cho lịch sử, ai trách nhiệm về việc ra lệnh cuộc rút quân nầy... Sinh mạng người lính, nói đúng ra , là sinh mang của thuộc cấp ... sao ai đó nỡ lòng nào, bỏ con mình trong biển lửa... bao nhiêu oan hồn trên tử lộ 7B... Vẫn còn oán hờn vất vưởng... Bao giờ cờ xưa dựng lại .. Có ai nhớ lập đàn tràng cầu cho sinh linh siêu thoát ?!
          Những cái chết, lẽ ra phải hào hùng, trả đền ơn sông núi ..Thì họ hình như bị bức tử, chết mà không biết mình chết cho ai, cho mục đích gì?
          Cầu mong vong linh quân dân cán chính tan thây, nát thịt trên con đường lộ máu, vì sự tính toán sai lầm của cấp lảnh đạo, sớm siêu thoát.. Thượng Đế, Chúa, Phật ở xa người quá... không biết có thấu hiểu nỗi lòng của người lính Việt Nam Cộng Hòa, cuộc chiến tàn đã bao năm rồi mà vết thương đau vẫn còn như mới ngày hôm qua.
          Thy Lan Thảo .
          ( Viết tại Kỳ Đà Động ... ngày 9/9/2012 )
          Con đi dưới lá cờ sao máu
          Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

          Comment

          • #20

            CHUYỆN NHỚ TRONG ĐỜI
            *


            -Viết để nhớ những ngày trên lộ 7B…
            ( Con đường di tản quá dài, đầu đã tới sông Ba khúc đưôi còn tại Pleiku, tôi may mắn đi trong khoảng đường tương đối ít gian nguy…)




            Đầu năm 75, trung đoàn 45 thuộc sư đoàn 23 bộ binh được lệnh rời Hàm Rồng về lại Ban Mê Thuộc. Đại đội 201 CTCT đang tăng phái cho trung đoàn đóng tại Hội Quán Tây Nguyên cũng được lệnh lên đường tăng phái cho bộ chỉ huy Biệt Động Quân vùng 2 đang trú đóng tại B15,thuộc tỉnh Kontum, đơn vị tăng phái được chỉ định đóng quân tại kho gạo của tỉnh… Thế là anh em từ giã Hàm Rồng, từ giã các buôn làng thân quen vẫn thường ngày đến làm công tác dân sự vụ tâm lý chiến như làng La Sơn, Plei ô Ngo…tại Kon Tum đơn vị vẫn công tác như thường lệ đến các buôn làng thuộc quận Đắc Tô mới, làng Pa-ra-đi…để khám bệnh phát thuốc, hớt tóc … cho dân làng .Sáng đầu năm âm lịch cả đại đội tăng phái đều có mặt tại sân cờ bộ chỉ huy BĐQ để tham dự lễ thượng kỳ đầu năm. Đại Tá Tất chỉ huy trưởng đến tận hàng quân bắt tay từng sĩ quan tăng phái…
            Ngày 13-3-75, Anh Cải, đại đội trưởng lên bộ chỉ huy họp về cho biết là bộ chỉ huy BĐQ đã rời Kon Tum… Thế là anh em trong đơn vị tự động thu xếp gọn ghẻ chờ lệnh về Pheiku.. Tôi ngồi ghế trưởng xa trên chiếc Dodge có tất cả 13 người, xe lăn bánh lúc 13 giờ ngày 13-3-75…tôi cũng thấy hồi họp vì con số 13 nầy, đoàn xe gồm 5 chiếc, 4 dodge,một jeep chậm chậm rời kho gạo hướng về cầu Đakpla…. Mấy chiếc loa phóng thanh của ty dân vận chiều hồi liên tục đọc đi đọc lại thông cáo của Đại Tá Hùng, tỉnh trưởng Kontum… Nội dung thông cáo là kể từ giờ phút nầy cấm tất cả các quân nhân ra khỏi tỉnh…
            KonTum vẫn rất yên lặng, không nghe một tiếng súng nổ, là đơn vị tăng phái nên quân cảnh gác cầu, chốt đường ra tỉnh không xét hỏi…. Con đường KonTum- Pleiku tuy xuyên núi nhưng tráng nhựa rất phẳng phiu… tuy nhiên khi xe gần tới Chư Pao anh em cũng cảm thấy hồi họp, ghìm tay súng sẳn sàng trong tư thế phản phục kích…Bởi ‘Một chiếc khăn tang một tấc đường” ( Quên tác giả)là đây. Rồi đoàn xe cũng bình an về tới hậu cứ đóng trong quân đoàn 2
            Pleiku lúc nầy thường xuyên bị pháo kích, phi trường Cù Hanh ăn đạn liên tục… Đêm 17 tháng 3 đặc công đánh vào quân đoàn nhưng chẳng gây thiệt hại gì đáng kể vì vị trí quân đoàn trên cao, lực lượng phòng thủ tinh nhuệ có M48 yễm trợ, thà đánh nhau ngoài mặt trận còn thấy dễ chịu hơn là ngồi chờ pháo…Đơn vị về đây chỉ tạm thời trực ứng chiến chờ lệnh. Là đơn vị CTCT trừ bị cho quân đoàn II, chúng tôi thường phải rày đây mai đó tăng phái cho các lực lượng trừ bị, hay các sư đoàn, tiểu khu thuộc quân đoàn 2, trung đội di chuyển bằng một chiếc xe dodge có cửa, kéo theo một cái rờ mọt.Trên xe chất chứa đủ vật dụng sinh họat thường ngày…nồi niêu soon chảo, gạo, mắm, muối, dầu lửa, bếp dầu…, nên việc ra đi trong cuộc di tản nầy trung đội chúng tôi không lấy gì làm bở ngở, không phải chịu cảnh thiếu ăn thiếu uống như nhiều đơn vị khác.Tôi nhớ hoài buổi sáng hôm ấy khi hay tin quân đoàn đã rút đi nhiều đơn vị… Ông Tiểu đoàn trưởng xuất thân khóa 14 VB, ra phi trường về Sài Gòn còn không quên phone về đơn vị ra lệnh cho Tiểu Đoàn Phó trông coi việc ứng chiến của đơn vị vì ông đang… bận họp ở quân đoàn, mạng sống ai không quý, ông tiếc mạng của ông mà bỏ cả đàn em bơ vơ, về Sài Gòn ấm cúng bên vợ con..quân mà thiếu cấp chỉ huy..??Ông tiểu đoàn phó mới từ Sài Gòn đổi ra chưa tới 3 tháng nên rất khó thích ứng với tình hình, bởi không dám quyết định vì cứ ngỡ xếp đi họp ở quân đoàn.Lúc bấy giờ quân đoàn chỉ còn lại tiểu đoàn 20 CTCT, cạnh bên là Truyền tin, thiết giáp… còn lại các ban phòng đều vắng lặng như tờ. Bởi không có lệnh nên đêm đó quân nhân các cấp trong doanh trại tiểu đoàn đều ra sân nằm cạnh giao thông hào dù không có lệnh, có lẽ vì sợ ngủ trong phòng sẽ ngủ quên khi đơn vị di chuyển bất thình lình, nằm ngoài sân, nhìn trăng sao với giấc ngủ chập chờn trong lo sợ…một đêm yên lành trôi qua… Sau khi hội ý với một số sĩ quan, Tiểu đoàn phó ra lệnh phá kho lương thực, nhờ vậy mà anh em có thêm được một số khẩu phần lương khô lọai C của Mỹ, không tiên liệu được đoạn đường sẽ đi qua nên bỏ lại gạo rất nhiều… Đoàn xe của tiểu đoàn( Gồm bộ chỉ huy, đại đội hành chánh và đại đội 201) trên mười chiếc, xe jeep tiểu đoàn phó dẫn đầu, đến xe các ban và nhóm xe đại đội 201 bọc hậu, cũng nón sắt, súng đạn cầm tay, đoàn xe chầm chậm tiến ra cổng…Điếm canh vẫn còn lính gác. Sáng hôm đó trời có chút sương, chút gió nhẹ lành lạnh trong cảnh trống vắng của quân đoàn,mấy chiếc M48 vẫn yên vị nơi cổng chính ,binh sĩ gác cổng vẫn giữ đúng tư thế, nhưng cảnh vật hình như mất vẽ sinh động, tạo cho anh em một không khí khá căng thẳng. Vẫn không biết đi về đâu, đi ngả nào,xe ngang qua trường Trung Học Pleime, phía sau là trại gia bình của tiểu đoàn, tôi ở trọ trong nhà của trung sĩ Hiếu nằm trong trại gia binh nầy, xe chầm chậm ngang qua mà không dám ngừng lại vào nhà lấy thêm hành trang, vì sợ trể lạc đơn vị, đoàn xe tạm dừng trên con đường có dinh ông tướng… Anh em xuống xe đứng trên lề, dưới tàn những cây thông già cỗi, nhìn trên đường người qua lại tấp nập vội vàng dù trời còn lờ mờ tối…Tôi nhìn thấy một anh trung sĩ BĐQ tay cầm chai rượu Martin đi về hướng tôi, anh nhìn tôi cười cười:
            -Trung úy uống 1 nắp cho ấm lòng, rượu nầy lấy ở nhà ông tướng…Tôi cầm chai rót uống liền 2 nắp rượu đầy… thấy ấm lòng .Tuy có hơi lo lắng, vậy là ông tướng đã đi rồi.Tôi cũng mới từ tiểu đòan 50 CTCT thuyên chuyển ra đây gần 4 tháng nên cũng không rõ là dinh của ông tướng nào, có lẽ là dinh của Tư lệnh vùng. Xe cộ vẫn tiếp tục xuôi hướng Hàm Rồng, xe quân đội ngoài quân nhân còn có thêm gia đình binh sĩ, thùng rương chất đầy ắp.
            Trời sáng tỏ, anh em trong đơn vị hầu hết đều chưa ăn sáng, tôi thấy một vài anh em lấy phần gạo sấy ngâm nước. Đại Úy Thiện( khóa 18 TĐ, (đã có nghị định thăng cấp thiếu tá nhưng chưa làm lễ gắn lon tân thăng) nhìn thấy một đoàn xe jeep quân cảnh chạy ngang, ông ra hiệu cho anh em lên xe nối đuôi đoàn xe quân cảnh, ngang qua rạp hát Diệp Kính quẹo trái về hướng Hàm Rồng.Với 2 bông mai trên ve áo, tôi không biết một chút gì về lộ trình sẽ đi, chiếc trước chạy, chiếc sau chạy theo, tạo thành một đoàn xe rồng rắn không biết dài tới bao nhiêu cây số, khi bắt đầu nhìn thấy núi Hàm Rồng, tôi thấy đoàn xe rẽ mặt leo lên bờ lề, chạy băng đồng hình như đang chạy dưới chân một ngọn đồi thấp, bên đường có vài chiếc xe quân đội chết máy nằm rải rác, xe bắt đầu vào con lộ đá có dấu vết tráng nhựa loang lỡ, nhưng tương đối dễ chạy hơn lúc băng đồng. Tài xế chiếc dodge là hạ sĩ Đặng Giác, cũng trạc tuổi tôi, sức vóc khỏe mạnh có gia đình nhà cửa ở KonTum, rất vững vàng ôm tay lái, tới thung lủng Hồng, một tấm bảng gắn trên hai trụ có khắc rõ chữ Valey Rose, một vài chiếc GMC bị lật, xác binh sĩ chết nằm rải rác khoảng trên 10 người… Đòan xe vẫn chạy với tốc độ chậm, bụi cát mịt trời, tuyệt không nghe tiếng súng, rải rác nhà dân bên đường, người lớn trẻ em ra sân nhìn đoàn xe chạy, mấy em trong xe tôi gốc miền Nam cười vui như những lần được về phép,Trung sĩ Bùi Ngọc Mỹ thằng em vẫn ăn cơm chung với tôi, với tay chuyển cho tôi một bịt cơm sấy với lon thịt ba lát khui sẳn, tôi không thấy đói nhưng vẫn phải ráng ăn, bởi tôi linh cảm con đường đi sẽ còn nhiều bất trắc lắm…Lòng tôi cũng có chút vui khi được về Nam nhưng cũng ngổn ngang trăm mối, tại sao cả quân đoàn phải bỏ đi trong lúc chưa thấy bóng dáng một tên lính sinh Bắc tử Nam nào, tại sao ra đi mà không có lệnh lạc gì cả, lộ trình để đi cũng hoàn toàn không biết, rồi tin chiến sự từ đài V.O.A, BBC, áp lực Cộng quân nặng nề trên nhiều mặt trận, Đài Quân Đội, đài Sài Gòn vẫn phát thanh những bản tình ca, vẫn ngọt ngào tình em hậu phương với người trai tiền tuyến… Đầu óc tôi rối mù… Thôi thì, mệnh số do trời..Bài học Hán văn thầy Bùi Cận dạy tôi học năm đệ ngũ tôi vẫn còn nhớ….Nhất trác, nhất ẩm, giai do tiền định… hơi đâu mà lo…Với máy C25 bên cạnh tôi mở máy liên tục liên lạc với các bạn cùng chung đơn vị: Thái tăng An, Như ,Chấn,Nguyễn Hữu Cải …
            Đến Phú Bổn, trời xế chiều, xe cộ tràn lan, đoàn xe đơn vị tôi dừng sát bên lề đường, tất cả xuống xe ngơ ngác nhìn chung quanh. Đã thấy hầu hết các sắc lính tại quân đoàn… Người ta dừng, mình dừng lại chẳng lệnh lạc gì cả, trời chiều xuống dần, dù cuối tháng ba nhưng sương trời và gió tạo một cảm giác lành lạnh… Tôi thấy có một toán quân nhân , có máy truyền tin đi bộ quanh các con đường… Thì ra là toán lính địa phương, Trung Tá Lò văn Bảo, tình trưởng và một số sĩ quan, tôi còn nhớ Trung tá Bảo dáng cao ráo, to con, gương mặt hiền từ chậm rải nói với anh em di tản:
            -Các anh em yên tâm tìm chỗ ngủ , tôi đã cho hai đại đội địa phương quân giữ an ninh… Tôi nghe lệnh mà trong lòng thấy không an, quân đoàn tự dưng bỏ chạy …hai đại đội mà nhầm nhò gì… thôi thì ai sao mình vậy …giày dép còn có số mà…
            Tôi cùng họa sĩ Thái Tăng An( Mỹ Thuật Huế)Bạn cùng khóa,khoát thêm áo jacket, hút thuốc vặt nhìn thiên hạ. Anh Nguyễn Hữu Cải( Đại đội trưởng, chết trong tù CS) họp anh em sĩ quan bên vệ đường, anh có được 1 mẫu bản đồ tiện tay xé được trong phòng tiểu đoàn trưởng trước lúc ra đi, Anh chỉ sơ qua về lộ trình sẽ đi…theo như dự đoán của anh… Tôi chẳng buồn quan tâm. Người ta đi đâu mình theo đó, súng bắn trúng ai người đó chết hơi đâu mà lo cho mệt…. Trời tối hẳn, anh em đã cơm nước xong xuôi, Trung đội Chính Huấn của Trung úy Như( khóa 1/69)bắt đầu làm việc, chạy chung đơn vị có vợ chồng ca sĩ Xuân An của sư đoàn 23 tháp tùng theo. Anh em xếp thành vòng tròn, sẵn khẩu phần C với cà phê thuốc lá Mỹ…Tiếng đàn dạo lên, Xuân An cất giọng, đây là giọng ca xuất sắc nhất của quân đoàn 2 lúc bấy giờ…. Giọng ca ngọt ngào, lời ca phù họp với bối cảnh đã thu hút khá đông anh em đơn vị bạn đến nghe… Thái Tăng An và tôi nằm trên bờ đê cỏ:
            -Ê chạy giặc mà giống đi picnic quá mậy.
            Tôi cười đồng ý. Nằm nhìn sao trời, hút thuốc Lucky, uống cà phê nóng nghe nhạc sống … còn thua ai nữa. Người xe tuy đông, tuy ô họp mà đêm yên lặng lắm… Gịong ca của Anh Xuân An cao vút réo rắt lòng người…”Bỏ làng ra đi mang theo tiếng nói con tim…”… Tuyệt nhiên không nghe một tiếng súng, thỉnh thoảng trên bầu trời có lóe sáng lên, một vài trái hỏa châu hình như từ chi khu bắn lên, các cô bé chính huấn của đại đội như Mỹ Chi, Phương Hòa…cũng lần lượt góp tiếng hát ngọt ngào, trời đầy sương, ngập ngụa không khí núi rừng, những giọng ca ngân vang xa thu hút khán giả càng lúc càng đông, Tan buổi nhạc bất đắc dĩ, giấc ngủ chập chờn đến với mọi người, ngày mai rồi sẽ tới đâu???
            Trời chưa sáng mà mọi người cùng thức dậy, nước rửa mặt rất khó tìm, một số quân nhân thuộc một vài ngành tự động tháo bỏ phù hiệu như CSQG, ANQĐ, QC…, tiếng máy xe bắt đầu nổ, âm thanh thật ồn ào, khói xe bay mù mịt, một số xe từ từ lăn bánh về hướng quận Phú Túc, tiểu đoàn tôi cũng bắt đầu lên đường, còn giữ được đội hình lúc đi, nhiều chiếc xe jeep của đơn vị bạn bị bỏ lại vì bị bề kết nước, bởi đoàn xe chạy, ngừng bất thường, thắng không kịp là ủi đít .Nắng dần lên, sương tan và trời bắt đầu nóng, khói xe và âm thanh động cơ, tiếng gọi nhau trong ánh nắng chói chang làm cho con người rất dễ mệt, Nhưng trong bước đường sinh tử mọi người đều cố gắng.Cho tới quá trưa đoàn xe tràn ngập quận Phú Túc, hàng ngũ rối loạn không còn thấy lối đi . Mọi người ngơ ngác nhìn nhau.Trong đoàn quân chẳng có một sĩ quan nào biết được lộ trình cuộc di tản nầy, tôi thấy có vài sĩ quan mang cấp trung tá, dân theo lính cũng rất đông hầu như là nửa dân nửa lính, thương cho dân bám theo lính mà lính nào có được lệnh lạc gì đâu. Một chiếc trực thăng đáp xuống một khoảng đất trống nhỏ vào lúc giữa trưa.Tôi đứng cách xa trực thăng nhưng cũng nghe được tiếng anh em bàn tán
            -Tướng Cẩm tới thị sát có mang theo hai hạ sĩ quan quân cảnh với mục đích giải tỏa lộ trình bị nghẻn.Tướng Cẩm hỏi xem ai là người có cấp bậc cao nhất ở đây.Tôi thấy có một vị trung tá lên tiếng.Tôi không nghe rõ được lời đối đáp nhưng cũng được thuật lại đại ý
            -Anh Trung Tá mà không chỉ huy được đoàn quân nầy
            - Tôi không có khả năng, Thiếu tướng xuống chỉ huy đi.
            Trực thăng mang tướng Cẩm bay đi, với rất nhiều cặp mắt ngơ ngác nhìn theo. Tội nghiệp hai anh quân cảnh xé vội phù hiệu rồi lẫn vào trong đám loạn quân….
            Rồi đoàn xe cũng bắt đầu di chuyển, đoàn xe quá dài nên người ở khúc nào chỉ biết chuyện ở khúc đó. Tiểu đoàn tôi có lẽ đi vào khúc giữa.Đường bắt đầu xấu dần. xe chạy với tốc độ thật chậm, chiếc nầy ủi đít chiếc kia là sự thường. Một vài xe chết máy vì hết xăng, rất nhiều xe jeep chết máy bị đẩy vào bìa rừng… Số lượng người mất xe càng đông, xe nào còn trống có người quen thì được cho lên, đa số ôm súng mang ba lô đi lếch thếch lẫn lộn với đám dân, giữa cái nắng tháng ba của vùng cao nguyên, hành trang và nắng gió làm cho người mau mệt, khi đã mệt rất dễ sinh quạu quọ.Xe qua những đám rừng thưa, lửa than đốt rừng còn cháy đỏ, Biệt Động Quân biên phòng trong tư thế tác chiến đứng thành hàng hai bên đường bảo vệ cho đoàn quân di tản. Tôi nhìn thấy nhiều em binh sĩ Biệt Động Quân còn quá trẻ, súng cầm tay với lưởi lê tuốt trần hướng mắt nhìn về hướng rừng, quên đi sinh mệnh của mình để giữ an toàn cho đoàn người di tản.Tôi đi chưa biết rồi sẽ tới đâu, riêng các em còn đứng đó không biết đến bao giờ, sự sống còn của anh em lấy gì bảo đãm, lòng tôi rất cảm kích trước những con người biết tuân thủ kỷ luật quân đội.Cũng tại quận nầy, Anh Cải ra lệnh xe nào giữ hồn nấy cố gắng về tới nơi an toàn. Tôi ngơ ngác, nơi nào là nơi an toàn đây.??
            Một vài người hiểu rõ lối đi cho biết đoàn di tản đang tiến lần tới quận lỵ Củng Sơn thuộc tỉnh Tuy Hòa, người đi bộ vẫn bước nhanh hơn xe đang chạy, trung sĩ Mỹ chỉ tôi
            -Ông xem kìa, Ông thiếu tá đang ăn trái bầu sống…
            Tôi nhìn theo tay chỉ của Mỹ, mắt tôi nhìn thấy một quân nhân không rõ binh chủng vì người đang mặc áo khoác, tay cầm trái bầu loại bầu có eo cổ giống như trong hình vẽ bầu cua cá cọp, ông bẻ ra từng miếng cạp ăn ngon lành. Đa số người di tản đến ngày thứ ba đã bắt đầu hết lương thực, vì cuộc di tản xãy ra quá vội vàng không ai kịp chuẩn bị, riêng đơn vị tôi vì thường xuyên đi công tác dân sự vụ nên lúc nào trên xe cũng tạm đầy đủ gạo thóc mắm muối…, Nắng bắt đầu ngã chiều mà đoàn xe vẫn đi chưa tới đâu, tôi mở tầng số máy C25,tôi rà đai bất cứ tầng số nào, có lúc liên lạc được với dân con gà( Sư đoàn 23) còn ở Phú Túc, có lúc liên lạc được với toán đã tới phi trường Củng Sơn, xe vẫn chậm rì lăn bánh, toán công binh chiến đấu của quân đoàn vẫn cưa cây, mở đường, mấy chú lính trong toán nấu nước ngâm gạo sấy, tôi ngồi trên nóc xe chân thòng trên nắp đầu xe, vừa ăn cơm gạo sấy với thịt ba lát với chút muối tiêu vừa nhìn trời đang bảng lảng hoàng hôn, chút hơi lạnh của núi rừng phần nào xoa bớt cơn mệt mỏi, trời tối nhanh, muỗi rừng được dịp tunh hoành chit cắn, tiếng ồn ào dịu dần theo với bóng đêm tràn về… Xe tôi cũng vào tới phi trường Củng Sơn. Phi trường khá rộng, phi đạo lót vĩ sắt, tôi chỉ chỗ cho tài xế lái vào một khoảng đất trống, đầu xe hướng về cổng phi trường, khoát lên người chiếc áo jacket, quấn lên cổ chiếc khăn, kéo mủ lưởi trai sụp xuống, tôi vẫn còn thấy lạnh, muỗi bớt cắn vì phần thịt da ít lộ ra ngoài, sương xuống mịt mờ chẳng mấy chốc mà người tôi đã thấy ướt nước, Tôi nằm trên đầu xe tay kẹp cây M16 sát người, thằng Mỹ đệ tử nằm kế bên cũng khư khư ôm cây AR15, trong thùng xe là đàn bà con nít ngủ ngồi, chú tài xế và anh toán phó trong cabin xe, còn lại rải rác trải poncho nằm cạnh xe. Sương nhiều quá không nhìn thấy sao trời, tôi nằm dù thật mệt mỏi nhưng dễ gì dỗ giấc ngủ, bây giờ mới hết tháng giêng âm lịch, mà tháng giêng là tháng ăn chơi, hiện tại tôi cũng ăn và đi lang thang, không chơi là gì…Tôi nhớ Sài Gòn vô cùng, tôi nhớ giảng đường 2, giảng đường 4, tôi nhớ mấy cây phượng bên hông trường, tôi nhớ tới mấy nhỏ bạn thân từ năm nhiệm ý,tôi trở lại giảng đường sau gần 4 tuổi lính, nhỏ Ngọc, nhò Sang, Thơ, Hoàng Cúc,Dung Bải Xàu, Ngọc Hà Gò Vấp, nhỏ mắt nâu , con nhỏ mà khi đi chung có dịp gặp người quen tôi vẫn thường giới thiệu là vị hôn thê, mới hôm Noel, tôi về phép kẹt phi vụ ở lại Sài Gòn cả tháng trời, Tôi ngoan ngoản như con mèo con trở lại lớp Việt Hán, lớp văn Minh Việt Nam, chăm chỉ hơn cả sinh viên thuần túy, tạm quên đi Phước Long đã vào tay Cộng Sản… Thanh An đang ăn đạn pháo tơi bời… Con bé đêm nay ngồi học bài không biết có nhớ đến tôi không, bé có hay biết gì về quân đoàn đang tháo chạy mà sĩ quan cấp úy như anh không biết một chút gì về lý do di tản cũng như lộ trình di tản…Bên tai.tôi tiếng ngái đều đều của thằng Mỹ…, tôi nhớ.tôi chỡ bé vào quán biên thùy, dĩa tôm càng nướng, rau sống bánh hỏi, 33 khui rót vào ly nước vàng sóng sánh, tôi lột vỏ tôm gắp bỏ vào chén em không quên sớt tương xay vào một dĩa nhỏ…Tôi thiếp đi lúc nào không biết…
            -Dậy Trung úy có xe chạy rồi. Tiếng hạ sĩ Giác tài xế … Thì ra tôi chưa tròn được giấc mơ tại Phi trường Củng Sơn.Tôi bật dậy gon gàng, khóa an toản súng, móc túi lấy thuốc châm lửa
            - Thủng thằng chờ xe đi kha khá rồi mình hãy chạy theo.Anh em lo ăn sáng cho chắc bụng, mấy ngày nay yên tình còn hôm nay chưa biết ra sao, nghe nói rời Củng Sơn là bắt đầu rời cao nguyên về đồng bằng, mình sẽ di chuyển đến Sông Ba rồi vào Tuy Hòa.Tôi nói sơ về lộ trình rồi tạm làm vệ sinh buổi sáng bằng chút nước trong bi don, rất nhiều chú lính cũng như dân làm chuyện đệ tứ khoái ngay bên đít xe…cũng may ăn ít và không có rau rát nên đa số đều bị bón nếu không thì mùi xú uế chịu sao cho thấu…
            Đoạn đường bắt đầu rời quận Củng Sơn thật là gay go, vì có nhiều suối và công binh phải phá rừng mới có lối cho xe chạy, có con dốc 45 độ khoảng 30 thước, cuối dốc phải quẹo thẳng góc không thì xuống suối, thình thoảng một vài trái đạn 60 ly rớt ven rừng, có lẽ đề lô giặc chưa điều chỉnh kịp tọa độ…Tin giây thép lạc dừa cho biết là sư đoàn Thép và Sao Vàng ngỡ quân đoàn rút về Quy Nhơn nên đã dàn quân phục kích trên quốc lộ 20, nay biết hướng di tản đã bắt đầu đuổi theo…Theo thì theo vì có muốn chạy mau cũng không thực hiện được.Cũng tin cho biết là sở kỷ thuật vùng 2 hợp với công binh chiến đấu mở đường dưới sự chỉ huy tổng quát của chuẩn tướng Tất tư lệnh Biệt Động Quân vùng 2 vừa tân thăng…Cả giờ chưa di chuyển được trăm thước, cát bụi theo gió bám đầy người …”Nếu chẳng quen nhau lung, đố nhìn ra được”, tôi mỉm cười khi nhìn thấy mặt đầy bụi của anh em mà nhớ thơ của Phan Khôi. Trời tối mịt xe tôi vẫn chưa thấy được bờ sông Ba… Xe tạm dừng trong ánh sáng le lói của từng bếp củi tạm nấu cơm bên đường, thực đơn của toán vẫn u như kỳ, gao sấy thịt ba lát muối tiêu….Trời lạnh, cơm nguội lạnh nuốt muốn ngay cổ….Đọan đường còn dài còn lắm gian nan, phải cố ăn mới có sức mà đi, bìa rừng có vài con suối có nước nên việc “nước’ tạm thời thong thả, rửa mặt rửa soon nồi thoải mái, tôi với Thái tăng An rủ nhau ra suối tắm, khoảng suối nhỏ nhưng nước trong uốn khúc bên gốc cây cổ thụ, cũng có khá đông người đang tắm… đang kỳ cọ tai bỗng nghe tiếng cười nho nhỏ…âm thanh con gái… thì ra bên kia thân cây có 3,4 cô bé có lẽ là học sinh Trường Trung Học Pleime đang tắm, dưới ánh trăng tôi nhìn thấy rõ đường nét thiên nhiên qua áo vải ướt bó sát lấy người. Tuổi trẻ ai mà thấy cảnh nầy mà không say đắm nhìn…!!
            -Ê An, về Sài Gòn mày phải vẽ lại cảnh nầy nha An…Tao đặt tên tranh là “Thiếu nữ tắm trăng”. Về lại chỗ nằm,mở đài BBC, phóng viên của đài tường thuật cảnh di tản y hệt như những gì mắt tôi đã thấy, tai tôi đã nghe, tôi có cảm tưởng cha nội phóng viên nầy đang đứng lãng vãng gần tồi, tôi còn nhớ một câu trong bài bình luận: cả quân đoàn di tản trong tình trạng bi đát tuyệt vọng như vậy mà Sài Gòn hình như không muốn biết tới….Từ những bản tin nầy anh em trong đoàn di tản tinh thần có xuống vì không còn niềm tin ở Sài Gòn tìm cách mở đường tiếp viện… Thôi thì thân ai nấy lo. Hầu hết các đơn vị đều phân tán không còn hệ thống chỉ huy nữa… Đơn vị tôi đã được lệnh tan hàng từ Phú Túc, toán nào tự lo cho toán đó, thực ra sống chết do trời, không có Đà lạt, Thủ Đức hay Đồng Đế gì cả …Có Tề Thiên Đại Thánh xuất hiện chưa chắc đã chỉ huy nỗi đoàn quân nầy…Dưới mắt tôi anh em quân nhân vẫn còn giữ được tác phong kỷ luật dù đang ở trong một thế cờ hết sức bi thảm.
            Tôi nhìn Trung Tá chỉ huy trưởng trường thiếu sinh quân vùng 2 đang dẫn đoàn quân nhi đồng di tản, đồng phục nghiêm chình di chuyển theo hàng dọc, các em với nét mặt thật bình thản, vững vàng bước trên lộ trình đầy chông gai…. Không biết các em đã đi bộ như thế từ bao giờ….Vị Trung tá quân phục còn tươm tất, thắc lưng mang súng colt, tay cầm gậy bước đi thoăn thoắt dù tuổi cũng đã khá cao…Lòng tôi hết sức ngưỡng mộ, tôi chỉ cho mấy em trong toán tôi nhìn, hành trang của các em TSQ trông nhẹ nhàng, chỉ một ba lô trên lưng cũng không lấy gì nặng lắm, vũ khí thì em có em không…Các em không nói cũng không cười.Đoàn xe ùn tắc trên khoảng nầy mất mấy ngày, cứ mỗi lần bị pháo, đoàn xe lại rối lọan lên, mạnh xe nào nấy lũi vô rừng, cơm nước đang nấu dỡ dang ngã đổ tùm lum, trẻ con lạc cha mẹ khóc vang rân, tôi và thằng Mỹ ẵm từng em bỏ lên xe chờ yên pháo tìm cha mẹ chúng trả lại, bây giờ tiểu đoàn chỉ còn xe tôi lạc trong đoàn xe bạn, những xe chung đơn vị sau nhiều lần bị pháo đã thất tán…Ban ngày trời nắng, tôi với thằng Mỹ cầm súng vào trú nắng trong rừng, hoa bằng lăng trổ tím rất đẹp mắt, tụ năm tụ ba trên bờ suối nhiều thiếu nữ rất trẻ da rám nắng như mới từ biển Vũng Tàu về.
            Một hôm tôi và Mỹ đang lang thang trong rừng,tôi nhìn thấy hai quân nhân đang gối đầu trên rễ cây ngủ say sưa, lại gần mới biết là Thái tăng An, và nhà thơ Kim Tuấn, với bản nhạc nỗi tiếng “Từng bước chân âm thầm”, tôi dùng mũi giày lay An dậy
            -Ê, sao lại ngủ bờ ngủ bụi vậy tụi
            Thằng An ngáp dài…:
            -Đói cả ngày nay mà lười quá ngủ cho đã có chết cũng no con mắt. Thằng Mỹ nhìn 2 ông lười, nó chạy về xe lấy cơm sấy.Hai ông lười ăn xong tỉnh táo xin thuốc hút.Tôi cười cười nhìn Kim Tuấn:
            -Chạy giặc phải chạy cho lẹ chứ …Từng bước từng bước thầm hoài thì làm sao tới bến được.
            .Rồi đoàn xe lết từng tấc cũng tới dược bờ sông Ba. Buổi sáng đầu tiên trên bờ sông Ba, sương mù dày đặc, mọi người lùm xùm trong áo jacket, có người khoát thêm poncho, có người chơi luôn cái mềm cho đủ ấm, ngồi chùm nhum trên từng xe hút thuốc…mắt mơ màng phần mệt mỏi phần lo lắng, muỗi cắn, sương lạnh, vắt đeo….Đường còn xa mà trước mặt sông lớn chắn ngang , ơi Sài Gòn, Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi, con đường Cường Để, dốc cầu chữ Y, ngả tư Bình Hòa…liệu tôi có còn thấy lại hay không …?!
            Bài học chiến thuật của trường bộ binh Thủ Đức, bài cuối cùng tôi còn nhớ rất rõ: Lui Binh Cấp Tiểu Đoàn, thực tế tôi chưa từng tham dự cuộc lui binh cấp tiểu đoàn nào mà nay lại nằm trong trận lui binh tới cấp quân đoàn, sĩ quan cấp úy như tôi đành chịu phó mặc mạng sống do trời…
            Mặt trời lên, sương tan, cảnh vật trông rõ, công binh phát quang khoảng trống canh bờ sông, bên trái là cánh rừng thưa, qua bên kia bờ sông đi thêm trên cây số rừng thưa là tới đập Đồng Cam, đi dọc theo con lộ 7B nầy một bên là đập nước, tới một cánh đồng, xa phía trong là rừng, bên trái là triền đất kéo dài khoảng cây số tới rừng và những ngọn đồi, ngày xưa Đại Hàn xây nhiểu lô cốt trên những ngọn đồi nầy, con lộ nầy bỏ hoang từ ngày Mỹ rút, Một anh trung sĩ thuộc chi khu Củng Sơn nói sơ cho tôi biết về lộ trình phía trước…
            Tôi lần mò tầng số trên máy C25, gặp một số anh em sư đoàn 23 còn ở Phú Bổn, còn đoạn đầu tôi không biết đã tới đâu, nước sông chỗ sâu nhất tới rún, Thiết giáp vòng dây kéo từng chiếc quân xa, mất khoảng 10 phút mới qua tới bên kia bờ , chuyền xe được kéo phải chi trả ít nhất là 10.000$, giá trung bình thường là 20 ngàn, mười xe qua tới bờ chết máy hơn phân nửa, xe được kéo phải nổ máy đều, nếu máy tắt là nước vào ống bô kể như bỏ xe….
            Nơi khúc sông kéo xe là khúc cạn nhất, Công binh sẽ bắt cây cầu dã chiến tại đây, xe tôi đậu cách xa khúc sông nầy khoảng một cây số, cứ thế mà lết dần từng mét một, có đi tắm giặt cũng phải trực người ngồi ôm vô lăng, chứ xe trước nhít tới mà mình dậm chân thì xe sau sẽ hất xe mình ra khỏi hàng
            Dưới lòng sông Ba có rất nhiều cồn cát nổi cao lên khỏi mặt nước, cồn tròn khoảng 10 mét vuông, trời càng trưa càng gay gắt nắng, mọi người xuống sông giỡn nước, nước sông Ba trong thấy đáy, mát vô cùng, tầm nghịch xong lên cồn ngồi, đàn bà con gái lúc đầu còn e thẹn, sau vài ngày rồi cũng dạn dĩ ra, cũng tầm nghịch bơi giỡn dưới sông, thỉnh thoảng một vài trái đạn 60 ly rót xuống, một điều hết sức may mắn là xe chen chút sát bờ mà đạn cứ rớt ùm xuống sông, Tôi nhìn thấy nhiều lần trái đạn rớt chui ngay cồn chui xuống sâu mới nổ hất tung những người ngồi trên cồn tung lên rớt xuống nước lũm chũm, hết hồn chút đỉnh chứ chẳng sao cả, mấy trái đầu còn sợ, pháo riết rồi quen, cứ an ủi bằng câu trời kêu ai nấy dạ, ba bốn ngày đầu tôi thấy ông trời vẫn chưa kêu ai…!
            Triệu chứng kiết lỵ đã thấy xãy ra cho nhiều người lớn tuổi vì đoàn người quá đông mà phóng uế bừa bải, nước sông dù vẫn lặng lờ chảy nhưng đã bị ô nhiễm nhiều rồi, với lại khó nấu nướng món gì trọn vẹn vì giặc pháo thường xuyên mà mỗi lần pháo là đoàn xe rối lọan, càn bừa chạy tránh đạn. Tôi đã thấy trên nhiều xe lô bồi nhiều người đàn ông tụt luôn quần ngồi chờ tháo dạ.. sau 3 ngày bệnh lỵ xuất hiện tôi thấy bụng tôi ngầm đau… rồi trong phân có lẫn máu. Mấy chú lính hết tình chăm sóc cho tôi, cố gằng rang gạo nấu lấy nước cho tôi uống, với một vài chén nước gạo rang mà tôi đi ngòai khoảng trên 20 lần trong ngày, tôi đã gầy mà bây giờ bị bệnh như vầy, mắt sâu má hóp, nhìn qua mặt nước dáng hình tôi trông thật thảm, đau như cắt ruột sao lại là đệ tứ khoái được đây??… Tôi thấy trong mình tôi rã rời, ngồi không muốn vững, miệng đắng mà lạt nhách…Tôi nghĩ dại… có lẽ bên bờ sông Ba nầy tôi không còn dịp gặp lại người thân nữa. Buổi sáng quá đói và mất ngủ tôi thều thào gọi thằng Mỹ đến, tần mần tháo dây thẻ bài, tay móc bóp trao cho nó. Thằng Mỹ nhìn tôi có vẽ ngạc nhiên - -Nếu mày về được tới Sài Gòn, mang những vật nầy trao cho gia đình tao, nói rõ cho nhà tao biết về cái chết của tao. Thằng Mỹ mắt đỏ hoe:
            -Vài bữa là hết ông đừng có lo…Ông nằm nghỉ để tôi bắt lửa nấu cho ông chén cháo.Không biết nhờ ân sủng nào mà trong tình trang suy sụp thể lực như vậy mà bệnh lỵ của tôi lại thuyên giãm và mấy ngày sau là tôi bình phục dù trong người rất yếu, dù chẳng có uống một viên thuốc nào
            Thuốc hút bắt đầu khan hiếm, một gói thuốc capstan giá thường là 400$ nay 2.000$ một gói mà tìm đỏ con mắt không ra, phần rỗi rảnh nên buồn miệng cứ hút luôn, xe lô bồi cạnh tôi có lẽ nhìn mặt tôi thấy có cảm tình sao đo.., một cô xẩm độ tuổi đôi mươi vứt qua cho tôi 1 cây thuốc bastos xanh, Tôi cám ơn rối rít, móc tiền ra trả nhưng người thiếu nữ gốc Hoa nầy khoát tay không nhận, còn nở một nụ cười thật tươi, một chút tình quân dân, tình em hậu phương…!
            Cứ thêm một ngày thì lượng xe và người càng tăng dần…. Nhít qua nhít lại rồi đoàn xe cũng vào được đội hình hàng tám…Nhìn thấy cảnh chết máy của các xe kéo qua sông, với lại tiền không có nhiều nên đa số đành sắp hàng chờ cầu phao.Si Núc, lọai trực thăng vận tải bắt đầu chỡ vĩ sắt đáp cạnh bờ sông, dân lính ùng ùng tranh nhau lên phi cơ dù phi hành đòan hết sức ngăn cản… Tình trạng nầy lặp đi lăp lại sau mỗi lần phi cơ đáp xuống, người ta tranh nhau lên quá tải, phi công sợ nặng nên cất cánh trước khi đóng bửng, một vài người lính đeo theo càng trực thăng, tôi cũng thấy nhiều lần phi cơ bắt đầu bình phi, bửng sau từ từ khép lại …có vài người sẩy tay rơi xuống trông như chim…Tôi nghe thuật lại rớt như vậy mà không có ai chết chỉ bị sứt tai gãy gọng thôi…Cảnh trông thật kinh hồn hơn trên màn ảnh ci nê, những cảnh thực mà trong đời người khó có dịp trông thấy lại …
            -Gạo thóc vẫn là việc nan giải, nhiều bà Sơ đi tìm mua gạo để có cơm cho các em nhỏ, tôi lại trích phần gạo chia sớt với các em. Có một vài chị tới ngày sinh nở… mấy người thân chạy táo tác tìm người đở đẻ, poncho quay tạm che gió… rồi tiếng hài nhi khóc chào đời… chìm lẫn trong tiếng súng đạn ầm vang. Phía bên kia bờ sông tiếng súng vẫn râm rang, phía sau hướng Củng Sơn cũng vang rền tiếng súng…Tình thế …kẹt cứng… lưỡng đầu thọ VC
            Những ngày tôi lê lếch trên bờ sông Ba là những ngày đầu tháng hai âm lịch, Đêm mùng 6 tôi nghe đài BBC tả cảnh Sài Gòn, Bà Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu đang chủ tọa lễ Hai Bà Trưng, người bình luận :… Sài Gòn hầu như không cần biết đến đoàn quân rã ngũ đang đi trên tử lộ cố tìm ngõ sống về Nam, người bình luận còn nói thêm…. Hầu hết các quân nhân đều tỏ ra bất mãn với vị tổng tư lệnh Nguyễn văn Thiệu họ thề sẽ về tới Sài Gòn tìm hỏi tội ông ta tại sao đã bỏ rơi bao nhiêu sinh mạng đã phục vụ dưới quyền ông.
            Trong một vài buổi sáng có những chiếc trực thăng bay thấp trên đầu đoàn quân di tản. trên trực thăng rải xuống nhiều lọai thực phẩm: Cơm vắt đựng trong túi ny lon nhỏ, sữa họp, bánh mì ổ, mì gói, gạo sấy… với những tờ truyền đơn bươm bướm có in hàng chữ: Con đường các bạn đi còn dài, còn nhiều chông gai, chúc các bạn may mắn( tôi nhớ đại ý như vậy) ở dưới có in hàng chữ Cơ Quan Công Giáo Bác Ái, Nhìn cảnh thực phẩm rơi xuống, lòng tôi bi hài trộn lẫn, Người ta dành nhau, những vắt cơm rơi trúng đầu không nói chi, họp sữa , tôi nhìn thấy nhiều lần rất may mắn là rơi trúng vai, người lính nhăn mặt biểu lộ cảm giác đau rồi cười khum xuống nhặt họp sữa. Tôi cũng thấy có nhiều chiếc trực thăng đáp xuống phía cách xa đoàn xe, họ thả vài người lính xuống rồi cất cánh, những người lính không quân nầy đi len lõi vào đoàn xe ra giá kiếm khách, hình như giá tối thiểu cũng phải 10.ngàn đồng( bằng ½ tháng lương chuần úy ). Những người lính nầy kiếm khoảng 10 người rồi cùng đến tọa dộ đã định sẵn, Cũng không thiếu những người thừa dịp ăn theo…Trong bất cứ tình huống nào, con người vẫn nghĩ ra cách làm tiền, dù cho đồng tiền đó có vương mùi máu… Những người còn ở lại đều có ý bất mãn trước tình huynh đệ chi binh… tuy thế mà rất nhiều lần tôi không hề thấy một xạ thủ nào canh bắn trực thăng dù việc làm nầy rất dễ dàng , bắn vô tội vạ, Đồng lương lính quá thiếu thốn chăng? Thiếu thốn thì ai lại không thiếu, sao lại nỡ để mất đi tình huynh đệ. Trước cảnh tình quá bi đát nầy, hơn 10 ngày không có cách gì qua sông, mà giặc phía sau đã gần kề, phía trước chưa mở xong đường máu, tôi nêu ý kiến với anh em trong toán
            -Trong hoàn cảnh nầy, tôi không ép anh em theo tôi, anh em cứ tự nhiên canh chừng trực thăng đáp xuống đu theo về trước, Tôi quay qua Mỹ:
            - Mỹ, mày ba lô gọn nhẹ đi đi, về ghé nhà tao, nói tao sẽ về sau..Thằng Mỹ sau mấy lần canh me cùng 2 chú lính đi thoát được… lại thêm mấy chú lính cùng tiểu đoàn chạy lạc gặp tôi xin tá túc, có thêm đông càng tốt. Một phụ nữ trạc 25 tuổi tay bế em bé khoảng 10 tháng tuổi, tay dắt 2 con thơ, từ 3 và 5 tuổi đến trước mặt tôi mếu máo xin được đi nhờ xe… Trên xe đa số là đàn bà con nít, vợ con anh em trong toán, thiếu phụ còn cho biết chồng là Trung úy Thiết Giáp bị thất lạc… Tôi ngần ngừ nhìn mấy mẹ con rồi quyết định cho lên ngồi trên cabin xe… Tôi nhìn thấy thái độ bất mãn của mấy chị em ngồi phía sau xe…, họ ganh tỵ với người lạ sao lại được ưu đãi. Tôi làm lơ như không thấy…. Giúp được cho ai điều gì trong khả năng thì cứ giúp. Tôi không nhớ rõ bao nhiêu ngày nhưng chắc hẵn là không dưới 10 ngày thì cầu phao mới làm xong, giữa cầu hình như là 2 vĩ sắt bắt trên trái nổi vì khi xe chay ngang qua, vĩ sắt chìm xuống mặt nước khoảng 2 tấc.Mỗi lần sang sông chỉ một chiếc xe… Pháo địch tăng nhiều, phía đập Đồng Cam tiếng súng vẫn ầm vang, nhiều trái đạn chỉ cách cầu khoảng 10 mét, lòng sông đầy cát nên khi đạn nổ chỉ có nước và cát văng xa… Có mấy lần tôi chỉ đứng cách trái pháo chừng 5, 6 mét, cát văng lên mặt, tay rát rạt, anh em thảo luận rồi đồng ý lần lượt mỗi hàng xe một chiếc qua cầu, Trong hàng cử một quân nhân có dáng “Ngầu” cầm súng trước trước đầu hàng xe, tám người canh cho xe qua cầu, khi xe của người gác nầy qua cầu thì toán lại cử người khác, cho tới 4 giờ chiều thì tôi được hàng xe đề nghị gác hàng xe với lý do trong hàng toàn lính trẻ, tôi có lon lá dễ ăn nói hơn. Đám đệ tử sửa lại nón sắt cho tôi, một cây AR15 với 2 băng đạn, Trung sĩ Khâm còn màu mè gắn lên dây ba chạc tôi 2 trái mini lựu đạn, Khâm cũng không quên bẻ bâu áo cho lộ 2 bông mai ra ngoài… Nó cười cười :Trông Ông cũng ngầu lắm……Nhịp độ pháo của giặc tăng dần, Délô của tụi nó trong hàng quân nên độ chính xác ngày càng thấy rõ, lòng tôi thấy hồi họp lắm vì xe tôi đã tiến dần lên, thứ 10, rồi thứ9…hạ sĩ Đặng Giác, nón sắt áo giáp, bên cửa xe treo lủnh lẳng cây M16 với 2 băng đạn, miệng ngậm điếu thuốc, tôi đi trước đầu xe hướng dẫn xe qua cầu, nước sông đã bắt đầu lớn, bấy giờ là 5giờ 20 chiều, trời lành lạnh và hoàng hôn đã đến, 2 bánh xe trước chạm vào vĩ sắt, nước ngập gần nửa bánh xe…
            Ầm ầm, hai trái đạn nổ cách trung tâm cầu khoảng 5 mét, cát bay mù mịt, tôi mở mắt nhìn qua làn bụi … Nhờ ơn trên không sao …Đề lô đang điều chỉnh gần chính xác cây cầu rồi… Tôi nhìn lên bờ thấy Chấn( khóa 3/68, cùng đơn vị)hàng xe xếp cách tôi khoảng 5 chiếc, đang đứng nhìn tôi hướng dẫn xe, xe lên dốc lên bờ….Tôi khoác vội nước sông rửa mặt, và tự nhiên thấy tối sầm lại, tôi vội ngồi xuống, thằng Khâm nhảy xuống xe xốc nách tôi lên xe… Có lẽ vì ăn uống thất thường,vì sau cơn đau kiết lỵ, vì mất ngủ và vì quá căng thẳng tôi bị suy nhược?
            Trời chiều xuống thật nhanh, đường rừng cũng tương đối bằng phẳng, rất nhiều xe tấp vào những gốc cây tạm nghỉ chờ sáng. Xe tôi cũng tìm một vị trí tương đối có nhiều xe chung quanh, tạm dừng chân. Trung sĩ Khâm trong toán chính huấn bắt được một con bọ chắc là của ai sút chuồng, vợ chồng Khâm bận rộn lo nấu nướng, một bao củ hành tây sấy khô , thực phẩm của Mỹ, tôi cũng không hiểu Khâm tìm nó ở đâu, với con dao Khâm khéo léo lột da con bọ, Khâm nhìn tôi cười mỉm:
            -Lọai nầy phải làm khô chứ không rửa nước, tôi sẽ xào mặn nó với hành tây, ớt khô và muối.
            Trời tối thật nhanh, muổi bắt đầu tấn công dữ dội. Vợ Khâm, cô ca sĩ chính huấn cũng vừa xong nồi cơm, mấy gia đình chung xe cũng đã nấu xong cơm, bên ánh đèn pin, ánh sáng đủ tỏ soi chập chờn mặt mọi người… Mười mấy ngày nay mới được ăn cơm ngồi đàng hoàng, với cơm nóng đúng nghĩa.
            Đêm trong rừng lành lạnh, sau một đoạn đường ăn uống thất thường, bệnh họan húp cháo mấy ngày, hôm nay được ăn cơm nóng với thịt bọ xào củ hành, tôi ăn thấy ngon miệng làm sao, làm 4 chén mà miệng còn muốn ăn nữa… Tôi nhớ tới những bữa giổ, ngày tết, tiệc cưới nhà hàng, những tiệc nhậu ở Thanh Hải, Lưởng Nghi, Biên Thùy… Chưa có bữa ăn nào mà tôi cảm thấy ngon như hôm nay.
            Đêm nay trăng mười bốn lên sớm… Ánh trăng muôn thuở vẫn ngời sáng tuy có bị chút sương mù, tôi nhìn chung quanh, xe của các bạn đồng hành cũng đều cơm nước xong , mọi người đang chuẩn bị sửa soạn cho chỗ nằm, tôi nằm trong cabin với tài xế để tiện việc luân chuyển lái xe, vì một người ôm vô lăng suốt ngày rất khó chu toàn…Tôi mồi điếu thuốc, nhả từng ngụm khói… Sài Gòn bây giờ ra sao? Tại sao Sài Gòn không có kế họach khả dĩ an toàn cho đoàn quân di tản, hiện tại đài phát thanh Sài Gòn cũng như đài quân đội không có lấy một câu bình luận về việc rút bỏ quân đoàn.Cô bé mắt nâu chắc là lo cho tôi lắm, mẹ tôi và ba tôi có lẽ suốt ngày cầu nguyện cho tôi,người chị thứ năm của tôi đang ở Hàm Rồng, chồng chị phục vụ trong Sư đoàn 23, trung đoàn rời Hàm Rồng lên Ban Mê Thuộc, không biết bây giờ chị tôi và 2 cháu nhỏ ra sau… tàn điếu thuốc, mắt tôi nặng, giấc ngủ tôi biết sẽ đến rất dễ dàng… Tôi đâu có biết sau giấc ngủ nầy, ngày mai tôi và các bạn đồng hành sẽ phải đi trên con đường đầy máu và nước mắt… Gian nan rồi cũng qua, chỉ còn lại là ký ức, vui, buồn, thương, hận… đâu dễ gì trong một sớm chiều mà nhạt phai …
            Tôi ngồi đây, viết lại những dòng chữ nầy, trong ký ức, hình ảnh năm xưa hiện rõ trước mắt, cuộc chiến nào mà không tàn khốc, tiếc cho quân đội miền Nam không thiếu anh hùng, không thiếu lòng can đãm….Nhưng cơ trời vận nuớc… Nguyện cầu anh linh quân dân cán chính bỏ mình trên lộ 7 sớm siêu thoát

            Viết tại Kỳ Đà Động Tháng 12-2005

            THỦY LAN VY
            Con đi dưới lá cờ sao máu
            Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

            Comment

            • #21

              MỘT KHOẢNG ĐƯỜNG TỈNH LỘ
              -*-


              -Thương nhớ gửi anh em 201, Kính nhớ anh linh Đại Úy Klang bị sát hại tại Đập Đồng Cam




              Tin Thiếu tá Hải tử thương đã làm cho anh em quân nhân và dân chúng trên con đường cặp theo đập Đồng Cam bàng hoàng thương tiếc. Ông là người của sở 2, chỉ huy mở đường máu trên con lộ 7B nầy.Tôi nhận được tin nầy vào khoảng xế trưa, chiếc xe jeep của ông bị bắn hất tung xác ông ra khỏi xe cháy nám đen cùng với 2 sĩ quan khác, một người tôi còn nhớ tên là Đại Úy Hồ Đăng Nhựt . Anh em lôi hổ vùng hai vẫn kiên cường phá chốt tiến lên từng thước đất…Tiếng súng đã diu dần. xe nhút nhít tuy chậm mà có tiến về hướng quận Hiếu Xương…
              Chiếc Dodge của tôi với nhiều vết đạn loang lở, kiếng chắn gió bể to hơn bàn tay, đó là kết quả của mấy lần Việt Cộng pháo kích vào quân đoàn, đơn vị tôi đóng cạnh Truyển tin nên đã bị ăn khá nhiều đạn, cũng may là không bị thiệt hại về quân số, bây giờ trên xe chỉ còn có 4 tay súng, còn lại là đàn bà con nít trên chục người. Hạ sĩ Giác vẫn bình tỉnh lái xe, tôi ngồi ghế trưởng xa,giữa tôi và tài xế là ba mẹ con, vợ của một sĩ quan thiết giáp lạc chồng xin quá giang, phía sau lính tráng, vợ con chen chút nhau ngồi, chiếc rờ mọot chất đầy ấp vật dụng, từ bếp dầu, gạo, thức ăn,ba lô quần áo, mùng mền, ghế xếp…những vật dụng cần thiết của toán mỗi lần đi công tác.
              Trên mỗi gương mặt bơ phờ vì mất ngủ thiếu ăn, đoàn quân vẫn vững tay súng, lầm lũi theo đoàn xe chậm bước… Như vậy là các chốt đã bị Lôi hổ bứng gốc…Vận tốc bắt đầu tăng dù vẫn còn di chuyển rất chậm… Hình như trong tâm mỗi người lính, mỗi người dân đều đang nguyện cầu, xin ơn trên hộ trì cho buổi về được tới nơi tới chốn… Liên tiếp bao nhiêu ngày, thần kinh quá căng thẳng với cái chết cạnh kề… Giờ phút nào cũng trông thấy cái chết, vì đoàn quân quá dài, di chuyện thật chậm, Cộng quân từ trên núi bên trái cứ nhắm đoàn quân mà bắn, viên đạn nào không phá xe thì cũng lấy đi một sinh mạng, may mắn không chết thì cũng gây một vết thương.Những công sự chiến đấu mà trước đây mấy năm, quân đội đồng minh Đại Hàn xây phòng thủ dọc theo núi, bây giờ là trú điểm của tử thần, réo gọi hồn quân dân đang di chuyển trên lộ 7B nầy. Bên trái con đường, đập Đồng Cam đầy xác chết, những xác chết từ mấy ngày qua nổi bập bềnh trên mặt nước, căng phù da đen sạm, nhiều sợi dây chuyền vàng hay dây thẻ bài căng khuyết vào cổ…Hình ảnh ghê rợn đó luôn luôn có trước mắt; cứng lòng cở nào cũng phải xót xa.. Người chết tạm coi như yên thân, người sống rồi sẽ ra sao?. Nạn tai còn bao nhiêu lần gian khổ nữa,…Buổi chiều khi chiếc xe tôi vừa qua khỏi cầu phao thì một chiếc GMC không biết vô tình hay cố ý trật bánh giữa lòng cầu ngay chỗ tiếp giáp với mặt nước… vậy là đoàn xe trên mấy trăm chiếc phải nằm tại chỗ mà Cộng quân thì đang truy kích gần kề… Số người bỏ xe băng sông ngày càng nhiều, tạo cảnh lê thê lếch thếch trên đường di tản…Tôi còn may mắn hơn rất nhiều người, còn di chuyển bằng xe, hầu hết các xe jeep đều bị bể kết nước, bị hất ngã bên vệ đường, số xe bất khả dụng càng lúc càng tăng dần, số người lếch thếch lội bộ ngày càng đông, không hiếm đàn bà con trẻ, một vài hình ảnh tôi vẫn còn nhớ rất rõ, một ông chú khoảng ngoài 40 tuổi, tay dắt một con ngựa đi dưới ruộng cặp theo lộ, cứ mỗi lần nghe tiếng súng nổ là chú cố gắng đè con ngựa nằm xuống, một người trung niên khác tay cầm khung sườn xe đạp, cũng lầm lũi từng bước trên ruộng cặp theo đường, tôi hiều, tài sản của người đã mất hết, chiếc xe đạp cũng không còn bánh.. có lẽ tâm quá rối loạn, nên người vẫn đi trong vô thức mà có lẽ người chẳng biết mình đi đâu, tay đang cầm cái gì…Sinh mạng con người trên đoạn đường nầy rẻ hơn bèo… Tôi gặp một chiếc xe jeep dân sự sơn màu trắng bạc mang số xe ẩn tế, có lẽ là của một ty sở nào đó, xe nằm bên vệ đường, trên xe có 4 xác chết, với một thiếu phụ ngoài tuổi 40 còn sống ngồi bất động trên xe… Xa xót trong lòng nhưng chằng ai làm gì được trước số phần quá cay nghiệt, đã dành cho quân dân quân đoàn 2…Người đàn bà nầy rồi sẽ ra sao?!
              Đoàn xe rồi cũng tiến dần qua khỏi vách núi.. Đã thấy xa xa có nhà dân, tôi nghe tiếng súng lại nổ dòn dã từ toán đi đầu, và từ phía trong xóm nhà dân lá cờ vàng, lá cờ thân yêu với ba sọc đỏ được một người lính cầm cán phất vội vàng, tiếng súng im ngay, thì ra lính địa phương quân của quận Hiếu Xương đã bắt tay được toán mở đường… Mọi gương mặtcủa đoàn người di tản rạng rỡ hẳn lên, sinh khí trở lại trên từng gương mặt quân dân, trời chiều bảng lảng, nắng nhạt dần mọi người cảm thấy dễ chịu rồi những nhà dân bắt đầu xuất hiện, dân chúng, đàn ông, đàn bà, trẻ em đứng dọc theo hai bên đường, người mang nước, người mang cơm, bánh, trái cây… đoàn xe vẫn chầm chậm tiến, tôi ngồi trên đầu xe với trung sĩ Mỹ, tay với nhận chén cơm từ tay một cô gái bên đường, cơm trắng với tàu hủ kho… Tôi nhìn chén cơm, lòng không khỏi xúc động… Thì ra hôm nay là ngày rằm… Tình quân dân lần đầu tiên trong đời lính tôi thấy thật rõ, thật thấm thiết… Anh lính Cộng Hòa ơi! Mừng cho anh về từ cõi chết… Tôi nhìn cô gái với nụ cười thật duyên dáng…. Chén cơm trắng tôi ăn thật ngon miệng.. vào tới quốc lộ xe rẽ trái hướng về Tuy Hòa… xe qua cầu Đà Rằng,nước sông ròng sát đáy, chiếc cầu nầy do Công binh Việt Nam Cộng Hòa xây dựng, cầu dài và rất đẹp, trời đã sẫm tối, thành phố Tuy Hòa đầy vẽ nhộn nhịp vì lính quá nhiều, xe nhà binh xuôi ngược khắp các nẻo đường, lính tráng thì áo quần vương đầy cát bụi, mặt mũi bơ phờ , mắt quầng thâm mất ngủ. Tôi cho xe ngừng tại một ngã tư nơi có dãy phố lầu, có lẽ là trục lộ chính của tỉnh lộ, đậu xe sát lề đường chọn một khoảng hành lang của dãy phố lầu làm điểm nghỉ qua đêm…Không tìm được nước rửa mặt… lại gạo sấy thịt ba lát….cố ăn vội vàng để rồi còn phải ngủ lấy sức tiếp tục con đường còn xa dịu vợi, mà hơn mười ngày nay, có ngày nào ngủ được hơn 2 giờ đâu.Gia đình binh sĩ và mấy chú lính trải poncho quây quần bên xe nằm nghỉ, ngoài đường đã hơn 10 giờ đêm, mà vẫn còn ồn ào xe qua lại…khung cảnh ban đêm không có được vẻ mát dịu yên lành, đêm nặng nề, đêm chờ đợi…, tôi thức giấc mấy lần trong đêm, dù thân xác quá mệt mỏi mà vẫn không tìm được một giấc ngủ an lành…, châm thuốc hút đi vòng xem anh chị em ngủ, trên nhiều hành lang khác, nhiều toán người cũng đang ngủ như toán của tôi, cũng có nhiều anh em thức hút thuốc ngồi nhìn ra đường..,.Ngày mai chưa biết rồi sẽ ra sao??
              Buổi mai trời lành lạnh dù là đang trong những ngày cuối tháng ba… Trời có nhiều sương mù, nước còn ván đọng trên thành xe… Mọi người nhậm lẹ ngồi dậy, thu xếp lại hành trang, tìm chút nước rửa mắt qua quít, tôi đi dọc theo lộ tìm mua được mấy ổ bánh mì nguội, mềm xèo, chia cho anh em ăn sáng, vợ con người sĩ quan thiết giáp, nhắn lại lời cám ơn và từ giã tôi, tôi hiều tại sao chị lại dắt con ra đi sớm, chị bỏ đi dù biết rất khó tìm phương tiện về Nam, phải chăng vì những ánh mắt không mấy thiện cảm của các chị ngồi phía sau, thấy tôi ưu đãi cho mẹ con chị ngồi chung cabin với tôi… Thấy người họan nan thì thương, trong hoàn cảnh nầy giúp ai được việc gì thì tôi cố gắng làm, khi thấy việc làm đó không có gì hại tới mình, tới anh em là được rồi…
              Xe lên đường khi mặt trời chưa lên, theo hướng quốc lộ xuôi về Nam…Giác tài xế vẫn vững vàng tay lái trên quốc lộ… Rồi cũng tới thành phố Nha Trang an toàn, tất cả những quân nhân đều bị gom vào trại tiếp cư, riêng toán của tôi có mang phù hiệu hình tam giác, với số 20 nằm trong tâm vòng lục đại chiến, nên được thong thả vào thành phố ( vì tại Nha Trang cũng có một đại đội của tiểu đoàn 20 đóng quân tại đây), xe giảm dần tốc độ, trên đường phố tôi thấy xe quân đội xuôi ngược, dù chưa mất trật tự, nhưng khung cảnh vẫn nhìn thấy được có lắm nỗi bất an. Xe ngang qua Pháp Đình. Tòa án hình như mới xây trông uy nghi lắm… Chữ Pháp Đình nét to chữ vàng óng ánh… Tôi thấy có một xe quân đội cũng chạy chậm chậm ngang qua, quân nhân trên xe không biết nghĩ gì, đã bắn lên trời một băng M16, âm thanh dòn dã ngay trước…Pháp Đình., đơn vị của tiều đoàn nằm trên đường ra Hải Học Viện, sau phi trường., đại đội 204CTCT, Anh Uông Đại Lực, khóa Nguyễn Trãi 1 hiện là đại đội phó đơn vị nầy, anh là niên trưởng trước tôi 3 lớp tại trường Trung Học Gò Công.Ngay buổi trưa hôm đó, Nguyễn Thế Phương( Chinh Tri Kinh Doanh ĐL, Khóa 9/68), dẫn tôi tới một khách sạn mà anh quen. Tại đây tôi được tắm với vòi hoa sen, với xà bông Dove, thôi thì chà vuột xà bông đôi lần mới trôi hết bụi đường xa, thay quần áo trận sạch sẽ, tôi cảm thấy người nhẹ nhàng, Phương đã ngồi sẵn trên bàn ăn, chỉ có hai anh em, tô canh chua cá biển, dĩa thịt gà kho sả ớt mặn, dĩa rau sống, cơm trắng còn bốc khói… Tôi ăn với cảm giác ngon miệng vô cùng, bây giờ tôi đã quên tên khách sạn, nhưng vẫn còn giữ được liên lạc với Anh Phương.Về đây sắp xếp chỗ ăn nghỉ xong,Tiểu đoàn bị thiệt hại nhân mạng không đáng kể, anh Đại úy Klang bị bắt và bị giết tại bờ sông Ba gần đập Đồng Cam, hai ngày sau, đại đội nhận lệnh phân toán công tác, tại các trại tiếp cư thuộc thành phố Nha Trang.Tiểu đoàn trưởng bỏ anh em chạy từ Pleku vẫn còn giữ chức cũ.Thân mình cũng chạy tóe khói, mà bây giờ lại đi ủy lạo những bạn đồng hành… Toán tôi phối họp với các toán cứu trợ thuộc các tôn giáo, từ Sài Gòn ra cũng có, từ địa phương cũng có, ngoài những nhu yếu phẩm cần thiết như gạo, dầu ăn, chiếu mền… Còn có bông cải tươi, không biết từ đâu chỡ về.. Buổi cơm trưa, thằng Mỹ luộc bông cải chấm nước tương dầm ớt ăn cũng thật là ngon… Công tác khoảng chưa tới tuần lễ, buổi trưa về ăn cơm, mấy chú lính bàn tán… Tiểu Đoàn trưởng dông nữa rồi…Lòng tôi thấy buồn lắm, cấp chỉ huy mà tệ vậy sao? Tấm bảng kẻ chữ Quân Đoàn 2, buổi trưa tôi còn thấy treo vững vàng lắm mà!!… Tôi âm thầm ra lệnh cho anh em trong toán chuẩn bị hành trang du lu… Xếp dọt, mình dọt, ngu gì ở lại, sau kinh nghiện lần ra đi tại Pleiku… nắng còn le lói buổi chiếu, tự tay tôi cầm lái, vì hạ sĩ Giác không chịu đi mà muốn về lại KonTum…theo sự chỉ đường của Trung Sĩ Mỹ, thằng em lúc nào cũng cạnh kề bên tôi, tôi theo dòng xe, cũng nối đuôi nhau, tuy chưa mất trật tự lắm… hướng Ba Ngòi chầm chậm tiến., xe bị ùn tắc trước cầu Ba Ngòi, xe tôi cách cầu khoảng trăm thước, Anh chị em xúm xít bên lề đường cho buổi ăn tối, trời tối hẵn, đèn nhá nhem với số lượng người cũng như xe cộ đông đảo, hơn 9 giờ đêm, trong lúc một người đang chuẩn bị ngủ thì một tiếng nổ vang trời từ cầu, xe rục rịch di chuyển ngược trở lại, tôi trở đầu xe, chạy chầm chậm theo đoàn xe, tôi thấy tay lái khó điều khiền, xe có khuynh hướng lấn lề, một chị ngồi phía sau nói lớn:
              -Coi chừng Trung úy ngủ gục!
              Tôi biết tôi rất tỉnh, nên ngừng xe lại, Thằng Mỹ cũng lẹ làng nhảy xuống xe theo tôi… Thì ra bánh xe sau bị xẹp.May là trong xe có bánh sơ cua, có dụng cụ tháo mở ốc xe.. vậy mà mấy thầy trò lui cui cả giờ mới thay được bánh, trong lúc đoàn xe thối lui đã khuất dạng phía xa, trời tối thui, yên lặng bao trùm thật đáng ngại, rồi tôi cũng lái bắt kịp đoàn xe,,,Đêm đó có ngủ nghê gì đâu, thấy yên lặng nhiều xe chạy trở lại hướng cầu, năm xe rồi mười xe, rồi cả đoàn xe quay lại… Thì ra cầu bị sập, tôi cũng không biết chính xác lý do, có tin là A 37 thả bom phá sập cầu chặn đường về Nam,
              Trời sáng dần, tôi mon men đi đến chân cầu …tiếng động cơ xe nổ máy vẫn ầm ỉ, tiếng người nói chuyện vẫn ồn ào, dù trời chưa sáng hẳn, tôi không biết tên con sông là tên gì? Bề ngang cũng hẹp tựa như con kinh trước nhà tôi ở Gò Công, nước ròng cạn sát đáy, không phải nước ròng mà tại mùa nắng, nên sông không có nước, Giữa dòng là một khe nước nhỏ, nước trong vắt chảy lững lờ, đáy sông là cát khô cứng với khá nhiều đá cụi, viên to bằng trái banh, nhỏ cũng bằng nắm tay… rất nhiều xe đã qua được sông, cũng lắm xe chết máy nằm ụ rải rác…Tôi đứng hút thuốc quan sát, Thằng Mỹ chắc lưỡi:
              -Khó ăn quá ông!Cái dốc thẳng đứng, tới mí nước lại phải ôm cua thẳng góc Phần có nước chảy cát lại mềm…
              Tôi theo con dốc xuống lòng sông đứng quan sát thật gần chiếc GMC đang qua sông, tôi nhìn từng chiếc từng chiếc qua sông
              -Cũng không khó lắm đâu,vô số mạnh, chạy số hai, tới mí nước sang qua số một, làm sao vô số một cho đúng lúc, đừng để kẹt số thì xe không bị chết máy lún cát.
              Tôi trở về xe, bắt đầu cho xe lăn bánh theo dòng,tôi ra lệnh, tất cả đều xuống xe, phụ đẩy phía sau khi xe vừa cán mí nước,tôi đề pa bằng số 2, kéo cần số mạnh, xe vừa chí mí nước, tôi trả cần số về số một, cộng thêm mấy lực đẩy phía sau, tiếng xe rú lên với âm thanh ngọt ngào…Xe quẹo cua theo triền sông lên mé…thế là xe tôi qua được, và bắt đầu chạy khi mọi người trong xe đều yên vị…Đường quốc lộ khá tốt, xe lưu thông cũng thưa thớt vì trời chưa sáng hẳn.Tôi lái từ từ khoảng 30-40 mile/giờ, hai bên đường vắng vẻ, nhà cửa lưa thưa, đồng ruộng trống vắng…
              Phan Rang trước mặt tôi, quê hương của Tổng Thống thì đời nào ổng bỏ cho Cộng Sản chiếm??!!Tôi chạy qua vài con đường trong thành phố Phan Rang, chạy cho biết, rồi bắt đầu rời tình.Xe ngược chiều cũng nhiều, đường tráng nhựa nhưng cũng có nhiều ổ gà, dù đường lạ, tôi vẫn giữ tốc độ tối đa của xe Dodge là 60 miles, xuôi về Phan Thiết, thằng Mỹ, thỉnh thoảng mồi cho tôi điếu thuốc, trên xe yên lặng, gương mặt mọi người như vơi bớt đi niềm lo lắng… vì tai không còn nghe tiếng súng, mắt không còn nhìn thấy cảnh chết chóc.
              Xe qua khỏi cây cầu vào Phan Thiết, tôi bớt ga và dừng bên lề trái, mặt tiền phố thị hai bên khang trang, căn phố trước mặt tôi là một tiệm vàng, xe cộ vẫn rộn ràng qua lại. Tôi cho mọi người thong thả đi kiếm mua thức ăn tươi. Tôi và thằng Mỹ đứng cạnh xe nhìn ông qua bà lại. Gió Phan Thiết thổi khác gió Nha Trang, hình như trong gió có bụi, Trời nắng gay gắt có lẽ đã đứng bóng.
              -Mời Trung Úy vô nhà dùng cơm
              Tôi hơi ngỡ ngàng trước lời mời của một bà chị khoảng ngoài 30 tuổi( tuổi tôi lúc bấy giờ đang ở tuổi hàng hai) thì đã nghe chị nói tiếp
              -Đông quá, tôi thấy ai hiền hiền tôi mới dám mời vô nhà dùng cơm…
              Tôi cười xả giao nhìn chị có ý hỏi:
              -Tôi có thằng em nầy nữa,Chị gật đầu đồng ý.Một anh Trung úy đứng gần tôi thấy vậy cũng xin chị cho ăn cơm, vì mấy ngày nay chì ăn có bánh mì khô, chị cũng đồng ý
              Ngôi nhà nằm trong con hẻm, nhà một căn, phòng khách rộng rải, lót gạch bông, ngồi ghế giây lát, chị bưng mâm cơm với 2 phần cho tôi và Mỹ, sau đó một mâm cho anh trung úy kia. Phần ăn là một món canh và một món mặn thit kho.Bụng đang đói, sức còn trai tráng, chị phải hai lần mang thêm cơm trắng…gặp dịp là phải ăn thật no… vì chiều nay hay ngày mai….biết rồi sẽ ra sao? Ăn xong chị mang trà rót mời uống… Khi cám ơn từ giã ra đi, chị còn cho mỗi người một gói thuốc President có đầu lọc, đây là lọai thuốc có giá đắc nhất lúc bầy giờ ( 400$/1 gói)và chị cũng không quên gửi lời chúc thượng lộ bình an…
              Thì ra, trong cảnh hỗn mang, hoa hồng vẫn nở…Hình ảnh dịu dàng, với khuôn mặt trái soan của chị tôi nhớ mãi, nhớ để giữ làm kỷ niệm, một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời . Tôi không biết tên chị… Với thời gian tôi không còn nhớ vị trí nhà chị, tôi cũng không có ý định trả ơn, vì tôi biết tôi không có dịp nào trở lại đây lần nữa, tôi chỉ biết nhớ để lấy đó làm niềm vui, mỗi khi nhắc đến con đường di tản. Tấm lòng của người dân làm cho ngưới lính Cộng Hòa xúc động… Thì ra có gương mặt hiền hiền nhiếu lúc cũng đở khổ.
              Trời gay gắt nắng, tôi lái xe hướng về Bình Tuy, tiếng súng không còn nghe thấy trên đoạn đường nầy, con đường tráng nhựa tuy nhiên cũng có rất nhiều ổ gà, tới ngã ba Bình Tuy trời đã xế chiều, Bên mặt lộ có một xóm nhà, tôi cho xe tấp vô lề dưới bóng mát của nhiều cây to, đã có nhiều xe cũng dừng lại đây, người nằm kẻ ngồi …trong cảnh màn trời chiếu đất, lân la tìm hiều thì ra muốn vào tỉnh, phải bỏ tất cả vũ khí lại, đó là lệnh của Tướng Nhật, tư lệnh chiến trường Bình Tuy. Tướng Nhật rút kinh nghiệm của các tỉnh mà đoàn quân di tản đã đi ngang qua, người lính cùn đường, trong tay lại có vũ khí, dễ trở nên nguy hiểm…
              Lúc học ở quân trường, huấn luyện viên vũ khí, cũng như sĩ quan cán bộ, thường xuyên nói với khóa sinh:
              -Súng là vợ, đạn là con, các anh phải bảo trì cẩn thận, không bao giờ để súng đạn thất lạc.
              Bây giờ là thời chiến, lính lại không có vũ khí trong tay thì…khó coi quá. Bởi vậy, từ ngả ba Bình Tuy tới nơi giải giới vũ khí, tôi nhìn thấy xe quân đội, san sát đậu nép bên lề, quân phục thì đủ mọi binh chủng,cũng có rất nhiều quân nhân bỏ súng lại vào tỉnh, số súng càng ngày càng chất cao, nhìn cảnh nầy lòng tôi rất hoang mang, tôi không thể nào hiểu được, có lẽ cấp tá, cấp tướng đứng trước cảnh nầy cũng khó hiểu như tôi…Chỗ dừng quân tương đối gần nhà dân nên việc nấu cơm cũng dễ dàng, thực ra chỉ có nồi cơm, còn thức ăn vẫn là thịt ba lát với muối, đâu có hàng quán gì gần đây để mua thức ăn tươi, với lại tiền bạc của anh em trong toán cũng rất là eo hẹp…
              Khá đông bạn đồng hành trên vệ đường, hàng ngày tôi được nghe nhiều chuyện bi hài trên đường di tản vừa qua, trong nhóm nầy có một chị biết bói bài và xem chỉ tay… Tôi thấy chị xem cho nhiều người…Trong lúc rỗi rảnh tôi cũng chìa tay nhờ chị xem giúp… Về gia cảnh, vẫn cha mẹ anh chị đang trông chờ, người yêu cũng đang nóng lòng… Chị còn nói tiếp về tương lai, mà sau nầy nhớ lại tôi thấy chị phán rất đúng
              -Sau nầy, một hai năm tới, Trung úy đi đâu cũng có lính mở đường, ngủ trong thành tường cao, có lính canh gác cẩn thận….Lúc đó tôi nghĩ là quân nhân thì ngũ trong trại lính có lính gác… chuyện đó đâu có gì là lạ, chứ đâu có ngờ tôi vào tù, đi có lính canh, ngủ có lính gác…!!
              Toán của tôi nằm ở đây gần 4 ngày, buổi trưa bên kia đường, một ngỏ khác vào tỉnh, Thiết giáp di tản đụng với lực lượng giữ an ninh tỉnh. Mấy trái đạn hỏa tiển Tow bắn thiết giáp lật ngang, vài binh sĩ tử thương, tôi có đến gần xem, một anh lính thiết giáp, bị xe đè còn sống, miệng không ngớt kêu cứu… Lý Nguơn Bá cón sống chưa chắc nhấc được xe lên…thì thôi đành chịu, thương cho anh lính, chết dần trong đau đớn...
              Tôi thấy một đoàn xe khá dài tương đối còn giữ được nề nếp, chiếc xe jeep dẫn đầu có gắn sao… Tôi nhận ra ngay Tướng Lâm Quang Thơ, đang chỉ huy dẫn trường võ bị về, đoàn xe nầy nhập tỉnh dễ dàng…
              Cuối cùng tôi quyết định vào tỉnh, chiếc dodge có một hộc nhỏ hình vuông nằm gần bình xăng chứa được 4 khẩu M16, tôi cho súng vào, dùng khóa khóa lại…. Xe từ từ ngang qua toán quân cảnh kiểm soát… Tôi cho toán quân cảnh biết, cả toán là quân nhân thuộc tiểu đoàn 20CTCT, nên xe thong thả qua trạm kiểm soát, không bị lục tìm kiếm vũ khí cất giấu
              Tôi chạy chậm chậm trên lề đường, tìm một quán bên đường uống nước.Những ly cà phê đá chưa kịp uống xong, thì có một chiếc xe jeep đậu sát đầu xe tôi, người tài xế chạy vội đến bên tôi. Thì ra hạ sĩ Tăng Đình Hùng, chú tài xế của Đại úy Thiện, lúc tôi còn ở Tiểu Đoàn 50CTCT,sau đó Hùng thuyên chuyển về nguyên quán, và hiện là tài xế cho tham mưu phó CTCT tỉnh. Hùng mừng lắm khi gặp lại tôi, dù trong hoàn cảnh nầy…, lúc còn ở Sài Gòn, tôi cũng có đôi lần nhậu với Hùng, và chú em nầy cũng rất mến tôi. Thế là cả toán theo nhau về nhà Hùng tạm trú… Hay không bằng hên, giữa cảnh đường phố xuôi ngược, đủ các sắc lính mà Hùng nhận ra tôi, Chiều hôm đó dù đang trong cảnh loạn lạc, hai thầy trò cũng cưa gần hết hai chai chó chồm với một dĩa mồi và mấy chén cơm đạm bạc…, tuy đạm bạc mà đầy tình nghĩa….
              Tin tức đến dồn dập, tỉnh nầy rồi tỉnh kia thất thủ, binh sĩ đến Bình Tuy có thể sẽ tái trang bị trở ra tái chiếm Đà Nẳng, đường về Sài Gòn bị tắc nghẻn tại Rừng lá, Cộng quân làm chủ tình thế tại khu vực nầy, có mấy chiếc xe liều mạng chạy qua đều bị bắn cháy, chính vì vậy mà tôi nấn ná tại Bình Tuy, chờ mở đường, sau đó, có nhiều tin tức không mấy sáng sủa, tôi quyết định rời Bình Tuy, tất cả đồ tế nhuyển trên xe giao lại cho Hùng, tôi, Mỹ và vài người lính nhờ Hùng chỡ ra bến tàu., mấy chị em gia đình bình sĩ đều quê ở vùng hai, nên nấn ná ở lại chờ về lại nhà, xế chiều mấy thầy trò xuống đò máy xuôi về Long Hải.Nước ròng nên phải hơn 6 giờ chiều tàu mới bắt đầu khởi hành, chạy cặp theo bờ biển, mút tầm mắt là rặng cây xanh lờ mờ…
              1 giờ khuya ( Khoảng ngày 7 hay 8 tháng tư-75 )tới biển Long Hải, nước ròng phải đậu cách bờ khoảng hơn 200mét, ai muốn vào bờ sớm thì lội nước, bằng không chờ sáng nước lớn lên đò sẽ cặp bến.
              Trời tối đen, tôi thử bước xuống nước, may quá nước chỉ tới rún, tôi và Mỹ với mấy chú lính vai mang ba lô lội nước vào bờ…. Trên bải biển tràn ngập người, poncho và chiếu trải sát vào nhau chúng tôi phải dò từng bước mới đi vào được khu phố, đi vào thật sâu mới tìm đườc một hành lang còn trống để mấy thầy trò ngả lưng tạm chờ sáng….
              Buổi sáng, lại gặp may mắn,người chủ chiếc xe hàng đồng ý cho 4 anh em tôi lên xe miễn phí, với điều kiện thu tiền 20 người khách trong trật tự cho lên xe. Chuyện nầy không khó với chúng tôi và xe tới Sài Gòn an toàn
              Tôi đón xe ôm về ngả Tư Bình Hòa, nhà chị tôi ở đó, Hỏi thăm tình hình qua người anh rể và người em rể, tin tức không được sáng sủa lắm, nhiều cấp chức cao đã bỏ ra đi… dù sao tôi cũng phải về Gò Công thăm ba mẹ, anh chi… gia đình đang trông tôi từng ngày từng phút.
              Sau một ngày về thăm nhà,tôi trở lại Sài Gòn bằng Honda, đường quốc lộ Gò Công Sài Gòn, 58 cây số, vẫn xe xuôi ngược trong khung cảnh bình thường .Tôi trình diện tại Cục Tâm Lý Chiến, doanh trại Tiểu Đoàn 50CTCT( Trại Nguyễn Bỉnh Khiêm) bây giờ tạm thời cho các đơn vị CTCT di tản tạm trú.Chức vụ Tiều đoàn trưởng được bàn giao tại ban quân xa, với thành tích bỏ đơn vị 2 lần, Tiểu đoàn trưởng đương nhiệm( Khoa14) bàn giao cho Thiếu tá Minh, Tham mưu phó CTCT Lâm Đồng, người dẫn thuộc cấp từ Lâm Đồng về Sai Gòn an toàn, được tổng cục bổ nhiệm chức vụ tiểu đoàn trưởng,tôi tạm thời bỏ tiền ra mua quân trang, giày, mũ, tại tiệm quân trang đường Đinh Tiên Hoàng. Tại trại Nguyễn Bỉnh Khiêm tôi thấy Tiểu Đoàn 10CTCT với quân số chưa tới 30 người kể cả tiểu đoàn trường là Thiếu tá Chấn.Mỗi tiểu khu lèo tèo vài người trong khối CTCT, đa số về tới Sài Gòn, nhiều người không còn tha thiết ra trình diện, vì mặc cảm bị bỏ rơi… Sau ngày Ông Thiệu từ chức, đại đội 201CTCT tái phối trí tương đối đầy đủ như bảng cấp số, Tổng cục tăng cường cho mấy chiếc quân xa, dưới sự hướng dẫn của thiếu tá Xuân, tiểu đoàn phó, ra trình diện hậu cứ Sư Đoàn 22 đang tạm đóng tại trại Lam Sơn thuộc tỉnh Phước Tuy… Đây là nơi tạm cư của gia đình binh sĩ thuộc Sư Đoàn 22, tiền phương thì đang hành quân tại Long An, dưới sự chỉ huy của Trung Tá Lê Tuấn Trí , Trung đoàn trưởng, Anh Trí là niên trưởng chung trường trung học Gò Công với tôi, anh học trước tôi hai lớp Cho tới ngày 27 tháng 4, mặc dù đang sống trên “ hành lang nhân đạo”( người Sài Gòn lúc bất giờ gọi đường ra Vũng Tàu là HLNĐ) Khi Phước Tuy tràn ngập Cộng quân, dân quân lại lếch thếch chạy ra Vũng tàu, tôi dẫn toán CTCT ra Bến Đình (với vài người lính), đón tàu hàng về Vàm Láng Gò Công, trước là gần nhà sau là tôi tin tưởng vùng 4 có tướng Nam, một tướng lảnh tài ba lúc bấy giờ.Cuối năm 74 tôi là cán bộ huấn luyện trong chiến dịch Kiện Toàn An Ninh Lãnh Thổ Quân Đoàn 4, được Tổng Cục CTCT tăng phái cho quân đoàn 4 tôi có dịp nghe nói nhiều về Tướng Nam, câu chuyện thực mà nghe như huyền thoại,tại trận tiền ông chỉ biết tiến mà không bao giờ biết lui…
              Tôi đặt chân lên Vàm Láng khoảng gần 4 giờ chiều ngày 28-4-1975.sáng hôm sau, trên chiếc Honda của Trung Sĩ Khâm , hai thầy trò với một khầu 45, trực chỉ hướng Sài Gòn, con đường liên tình lúc bấy giờ đầy đủ các hiệu xe thuộc vùng 4, vì Long An đang giao tranh dữ dội, xe miền Tây đều phải chạy ngả Mỹ Tho về Gò Công, rồi lên Sài Gòn.Hai thầy trò mặc đồ trận, qua bắc Cầu Nổi, tôi gặp 1 chiếc GMC chở quan tài phủ quốc kỳ, theo sau là một chiếc xe jeep , trường xa là thiếu tá trưởng ban tài ngân sư đoàn 22. Chạy tới cầu Ông Thìn thì xe tắc nghẻn, thiết giáp đang đụng với chính quy Bắc Việt ở đây. Đồng thời lệnh giới nghiêm 24/24 được ban ra trên trục lộ. Tôi quyết định trở về Gò Công dù trong giờ giới nghiêm, hai bên đường rất nhiều chiếc lều căn tạm, bạn hàng bày hàng hóa ra bán, người đi kẻ lại tấp nập dù là có lệnh giới nghiêm. Tới bắc Cầu Nổi đò máy ngưng chạy, cổng xuống bắc đóng lại. Tôi nhìn thấy một chiếc xe nhà, trên xe có hai người trung niên ngồi băng trước..Người tài xế vào mượn điện thọai, sau đó cổng mở, chiếc xa nhà nầy xuống đò, tôi vội cho Khâm chạy xe theo, nhờ mặc đồ trận nên xe tôi cũng được xuống, cùng với một chiếc xe chỡ hàng nhỏ mà người ngồi băng trước là nghệ sĩ Tùng Lâm. Sau nầy vào trại Hà Tây tôi mới biết chiếc xe nhà nầy là của Anh Tống, chỡ anh Xuân, cả hai là Thiếu tá trường và phó Ty cảnh sát Long An
              Tôi bắt đầu chạy từ KonTum về luôn tận quê nhà, tôi chạy khá nhanh thế mà vẫn còn thua Cộng Sản, Tôi lại khăn gói vào tù từ trại Tù Huyện Tây Gò Công, chuyển lên Mỹ Phước Tây, ra Hà Tây, và được giặc thả tại trại Nam Hà ngày 29-6-1983.
              Giày dép còn có số huống chi con người, những ngày cuối cuộc chiến tôi ở ngay Vũng Tàu có biết bao nhiêu tàu ra khơi…Tôi quyết định về Gò Công, tôi biết Tướng Nam không bao giờ đầu hàng, nhưng tôi quên làm tướng là phải chết theo thành. Bởi vậy khi vào tù gặp các anh bạn về từ tàu Việt Nam Thương Tín, tôi không bao giờ dám chê trách các anh về việc trở về. Chê làm sao được, khi mà con sông Bến Hải nhỏ xíu, mà sau năm 1954 Bắc Nam mịt mờ tin tức, thì xuyên qua một cái biển Thái Bình Dương mênh mộng,,,, biết đến bao giờ, mới biết được tin tức của người thân, dầu sao chết trên quê hương, vong hồn chắc cũng sẽ đở tủi hơn là chết nơi xứ lạ quê người...Trong lúc chinh chông trên đảo Guam, có biết bao nhiêu người chưa kịp từ giã gia đình, tình thương vợ thương con, thương cha thương mẹ..ray rứt xa xót trong lòng, xứ người lạ nước lạ cái biết làm sao mưu sinh..Thôi thì trở về có làm nô lệ cho Cộng Sản cũng cam tâm… Nhưng hòa bình rồi, cùng là người Việt chắc Cộng Sản cũng không nỡ nào..Mọi người đều lầm,
              May mắn sau cuộc đổi đời, mình còn sống sót, biết bao anh linh tử sĩ xác vùi tạm bợ bên đường, phơi nắng gió làm mồi cho kên kên, quà quạ… Tạm dung xứ người, mình vô tổ quốc, phải chăng oan trái của người Việt Nam, thế hệ mình phải trả… bởi cha ông mình từng xóa tên cả một quốc gia trên bản đồ thế giới..

              Viết tại Kỳ Đà đông. Tháng 6 năm 07

              Thủy Lan Vy
              ( Đoạn đường di tản quá dài, tôi may mắn đi vào đoạn tương đối không gặp nhiều gian nguy, tầm nhìn của từng người trên từng đoạn đường có khác nhau là do thời gian và không gian khác nhau)

              Con đi dưới lá cờ sao máu
              Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

              Comment

              • #22

                BIẾT MÀ QUÊN !
                *

                Biển Tân Thành Gò Công
                *Gửi các bạn cựu học sinh khóa 5 Trung Học Gò Công

                Những tháng ngày dài đăng đẳng trong tù, có biết bao nhiêu nỗi thương niềm nhớ gửi về Gò Công. Với 2 năm tù trong Nam,tôi còn có dịp gặp gỡ thân nhân, khi thì mẹ, khi thì chị đến trại thăm nuôi vào mỗi tháng, kể từ ngày lưu đày ra đất Bắc, suốt hơn 6 năm dài, chỉ một lần duy nhất tôi được gặp lại chị tôi, điều mà tôi vẫn tưởng là mơ, không ngờ là chị tôi có thể vượt hàng ngàn cây số, dù chị và gia đình đang sống trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, để ra thăm tôi, phải chăng tình huyết thống đã giúp chị tôi vượt mọi trở ngại để thực hiện chuyến viễn du ra Bắc, kể từ sau ngày sập tiệm, với đồng lương giáo chức, chị phải cán đáng hết mọi việc nhà, từ việc nuôi dưỡng cha mẹ, cho đến việc lo quà cáp thăm nuôi tôi. Một tấm lòng chị em rất đáng trân quý, một bông hoa rất đẹp đã nở trên đường chông gai mà tôi đã đi qua kể từ sau ngày mất nước .
                Trong lần gặp gỡ, dù chỉ hơn 6 giờ nhưng có biết bao nhiêu chuyện để nhắc nhớ về người thân, về Gò Công nơi chôn nhau cắt rốn yêu mến của tôi. Hình ảnh của các chị tôi, cha tôi, mẹ tôi,anh tôi cứ mãi ẩn hiện trong giấc ngủ lưu đày . Ai từng chịu cảnh tù không bản án, ai từng sống trong chế độ CS mới thấu hiểu được lòng tôi .
                Trại tù Hà Tây, một trại tù lớn gần trung ương nhất, cách Hà Nội chưa tới 30 km, đây là khu vực địa lý ôn hòa nhất đất Bắc, có nhiều di tích lịch sử, có con sông Nhuệ uốn khúc lượn lờ, có trại tù binh Mỹ, mà trong thời chiến có lần không lực Mỹ đã độ bộ bằng trực thăng để giải cứu tù binh nhưng thất bại...
                Tại trại Hà Tây lúc cao điểm, số tù lên tới gần 2.000 tù, riêng số tù nhân gốc người Gò Công lại khá đông, nếu tính chung với Mỹ Tho thì độ khoảng 200 người được chuyển từ khám đường Mỹ Tho, khám đường Gò Công, trại tù Mỹ Phước Tây, trại tù Chùa Phật Đá ...ra đây trên chuyến tàu Sông Hương vào tháng 6 năm 1977 .
                Những ngày mưa bão là những ngày tù nhân được nghỉ lao động, CS không phải thương gì người tù thuộc chính quyền miền Nam cũ, nhưng mỗi khi sương mù xuống thấp, hay mưa giông sắp đến là chúng đều đánh kẻng thu quân, không phải chúng lo cho sức khoẻ cuả tù nhân mà chúng chỉ sợ cảnh trời nhá nhem, chúng khó bề kiểm soát, tù sẽ trốn chạy .
                Mùa Đông mưa bão, trời rét mướt nằm trong phòng đắp mền ...nhớ nhà nhớ cửa, bao kỷ niệm một thời cứ lần lượt hiện ra trong trí... hay những người tù thường quây quần bên nhau uống trà nói dóc, khỏi đi lao động có khỏe người thật nhưng mà bụng đói rất khó chịu vô cùng, những bàn cờ tướng được bày ra, đánh cờ chống ... đói , những lon gô trà nóng được nấu vội lên, ngồi nói chuyện tào lao cho quên đói, cho quên đi thân phận tù đày ...
                Với đám Gò Công, nói chuyện vòng vo một lúc, rồi cũng quay về với kỷ niệm Gò Công, biết bao nhiêu chuyện được gợi lại, từ nhân vật, đường phố, hàng quán,thức ăn, người đẹp ...bây giờ ngồi viết lại những dòng chữ nầy, trên miền đất tự do tôi vẫn cứ tưởng là đang nằm mơ ...
                Gò Công nhỏ bé, Gò Công nghèo nàn, vì nằm trên đường cùn, vì nước mặn đồng chua ...Chuyện Gò Công ai cũng biết, nhưng không nhắc lại quên .
                Tôi tạm viết lại những chuyện về Gò Công mà trí nhớ tôi còn ghi lại như sau .
                - Hai hàng dừa trồng trước " Nhà Việc Thành Phố " là do ý kiến và xuất tiền túi của Ông Thôn trưởng Nguyễn Tấn Khoa, trồng xong còn dư 10 cây, Ông đem về trồng trên bờ đê sông, trước nhà Ông, đường Tổng Đốc Phương, ở xóm Cầu Huyện, từ đầu thập niên 50,con kinh bị lấn làm nhà ở, nhiều cây dừa bị đốn bỏ, khoảng năm 83 tôi ở tù về, còn nhìn thấy một vài cây, và đã cao gần tới ...trời .
                -Chị Tiêu Quý Huê, cựu học sinh nội trú trường Gia Long vào đầu thập niên 1950, đã đậu bằng Trung Học Đệ nhất cấp, khoá đầu tiên( Trước khoa nầy , học sinh thi bằng Cao Đẳng Tiểu Học , hay bằng Thành Chung) hạng ưu, là người nữ sinh đầu tiên mang kết quả ưu hạng cho Gò Công,Chị tốt nghiệp đại học sư phạm là giáo sư Trường Ngô Quyền Biên Hoà, chồng chị là Thiếu tá Nguyễn Ngọc Trác, thuộc khối quân huấn trường bộ binh Thủ Đức .Anh Trác qua đời mấy năm nay tại Cali.
                - Sàn phòng ngủ trong nhà Bà Năm Sún ( Có thể nói bà là người đàn bà giàu thứ hai của tỉnh Gò Công, sau Bà Tư Nối Lâm Tố Liên ) lót gạch bông màu xanh có một hộc ngầm bề ngang bằng cạnh cục gạch bông, bề dài bằng chiều dài hai cục gạch bông, sâu khoảng 3 tấc, thợ lót rất khéo, mắt nhìn khó biết, nằm ngay chân giường đầu tiên từ cửa phòng đi vào, có lẽ bà dùng để cất quý kim, sau 75, bà bị CS bắt giam, tịch biên nhà cửa, ghép tội làm Việt Gian thời đánh Tây, thập niên 80 CS trả nhà lại nhưng bà khảng khái không nhận, sau đó, tuổi già sức yếu, buồn nhân tình thế sự, Bà qua đời tại Gò Công .
                -Một tướng cướp nổi tiếng vùng Sài Gòn Gia Định vào thập niên 30, đó là tướng cướp Sơn Vương, gốc người Hoà Nghị,tên thật là Trương văn Thoại, ông là một nhà văn, một nhà võ, chuyên cướp của Tây và nhà giàu, trọng nghĩa khinh tài ... Ông bị lưu đày qua nhiều nhà tù.. Khám Chí Hòa và Côn Sơn là 2 nơi giam ông lâu nhất.. Thời Nhật đảo chánh, ông là chúa đảo Côn Sơn, thời đệ nhị Cộng Hoà ông được ân xá... Ông có vê Gò Công thăm lại quê hương, có ghé nhà thăm ba tôi.. Lúc tôi còn trong quân đội, điều nầy làm tôi tiếc hoài vì mất dịp diện kiến với một nhân vật mà tôi hằng kính phục.
                \ - 10 khóa đầu của trường Trung Học Công Lập Gò Công, chỉ có một cặp song sinh, thuộc khóa 8 trường, đó là hai anh em Võ hiếu Nhơn và Võ hiếu Nghĩa, là con trai của thầy Võ văn Đài, giáo sư Pháp văn, tổng giám thị trường .
                -Một thầy giáo đã sống trong nghề dạy học, đã từng đứng lớp giảng dạy từ lớp năm tới lớp đệ nhất, đó là thầy Phan Thanh Sắc, thầy xuất thân từ ngạch trật Giáo viên sơ cấp ( Tôi không nhớ rõ lắm, dân dã gọi là thấy giáo làng), lúc đó thầy chỉ học xong đơ dèm nê hay tro dèm nê gì đó...rồi xin đi dạy học, thầy dạy tại trường tiểu học Tân Thành ... sau chuyển về dạy tại trường Nam tiểu học tỉnh lỵ, thầy có chí, trau dồi chữ nghĩa, thầy đậu Trung học đệ nhất cấp, chuyển qua ngạch giáo viên tiểu học, thầy đậu tú tài ... tới tuổi động viên thầy nhập ngũ hình như khóa 12 hay 13 gì đó, ra trường về làm huấn luyện viên tại Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp, đúng 4 năm thầy giải ngũ về dạy học tại tỉnh nhà... lần lượt thầy đậu tú tài hai, chuyển lên ngạch giáo học cấp bổ túc ..Thầy ghi tên học Văn Khoa Sài Gòn, lần lượt đậu dự bị, rồi chứng chỉ Văn Minh Việt Nam, Nhân Chủng ...chuyển ngạch giáo sư đệ nhất cấp rồi học tiếp tục đậu chứng chỉ Tâm Lý Xã Hội và Ngữ Học Việt Nam hay gì đó tôi quên... để hoàn tất văn bằng cử nhân chuyên khoa Nhân Văn... chuyển lên ngạch giáo sư đệ nhị cấp. Thầy lên tới tột đỉnh của nghề giáo ở tỉnh, thầy được sở học chánh thời Quốc Gia đề bạt giữ chức hiệu trưởng trường trung học cấp 3 Tân Niên Tây. 12 cấp lớp trong chương trình học của thời Quốc Gia thầy đều có dạy qua .
                -Trường Trung Học Gò Công có một chị trong khai sinh ghi sinh quán tại tỉnh Trương Công Định ( Thời VM cướp chính quyền đổi tên tỉnh Gò Công thành tỉnh Trương Công Định ) Chị sinh đúng vào thời điểm VM cướp chính quyền. Đó là chị Phan Thị Bích Phương, cựu học sinh khóa 4 Trung Học Gò Công, Chị cũng là người học sinh đầu tiên mang về cho trường Gò Công cấp bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp hạng Ưu, Chị tốt nghiệp Đại Học Y khoa Sài Gòn trước năm 75, hiện định cư tại Úc; người thứ hai đậu hạng Ưu bằng T.H.Đ.N.C là Anh Trương Văn Triệu, cựu học sinh khóa 6 trung học Gò Công, sau Anh tốt nghiệp Cán Sự Điện Phú Thọ, đồng thời đậu Tú Tài 1 ban B hạng Ưu, tiếp tục học đổ kỷ sư Công Chánh Phú Thọ. Từng là giám đốc công ty Veco vùng 4 trước 75 và giám đốc công ty khai thác đá miền Nam sau 75, anh qua đời hơi sớm vì một cơn bạo bệnh tại Sài Gòn.
                -Một thầy giáo nỗi tiếng viết chữ đẹp của tỉnh G.C là thầy giáo Mai, thầy được các đồng nghiệp đương thời tặng cho hổn danh là Thầy Mai Quẹt, vì Thầy có dáng đi " trên cơ" Sạt Lô", những học sinh tốt nghiệp bằng tiểu học trước thập niên 50, bằng cấp đều do thầy viết bằng ngòi viết ronde. Ngoài ra những bài thơ ngâm vịnh đề trên sổ lưu niệm GC đều là bút tự của thầy .
                -Người đàn ông mập nhất tỉnh GC trong thập niên 50-60 là Ông Hội Đồng Lê Văn Nảng , bất cứ người nào mập cũng được ví " mập như Hai Nảng " .Ông từng mấy lần ra ứng cử dân biểu nhưng không đắc cử.
                -Quan chủ tỉnh sửa sang thành phố Gò Công rất đẹp là Ông Chánh Tham Biện Trực ( Ngạch Đốc phủ sứ gốc người Bình Dương ), ông cho xây vườn hoa trước trường Nam tiểu học, hồ cá trước trường Bà Phước, công viên trước lăng Trương Công Định, lối đi trong công viên có trải sỏi,có treo nhiều giỏ rác, có nhân viên thường xuyên kiểm soát, nhân viên nầy mang trên ve áo 2 chữ CV,có nhân viên cắt cỏ bằng phảng, cũng như chăm sóc hoa kiểng, Ông cũng chỉ thị cho trồng hàng dương trên đường sau dinh tỉnh trưởng và bên hông ao trường đua ... để 2 con đường nầy trở thành hai con đường tình thơ mộng ...
                -Quan chủ tỉnh phá hết công trình đẹp của tỉnh GC là Trung Tá tỉnh trưởng thời Tết Mậu Thân, Ông cho gở đá cẩn piscine về xây lô cốt để phòng vệ dinh tỉnh, đây cũng là thời VC quậy phá nhất tỉnh GC, không có nơi nào trong tỉnh gọi là an ninh. Sau tết Mậu Thân, ông mất ghế tỉnh Trưởng, Ông về giữ chức trưởng phòng 4 Trung tâm huấn luyện Quang Trung
                - Quan chủ tỉnh có công, bình định trắng Gò Công là quan sáu Lê Văn Tư, Ông về nắm Tỉnh Trưởng sau tết Mậu Thân, thừa hưởng gia tài của quan 5 để lại, nhìn đâu cũng thấy vết chân Việt Cộng, trừ nóc dinh tỉnh trưởng, Ông giao hết quyền hành chánh cho phó Tỉnh Trưởng,phối hợp hành quân với Sư Đòan 7, ngày đêm chỉ huy lùng sục kiếm VC đánh, kết quả là Gò Công trở thành tỉnh yên nhất miền Nam, kéo dài cho đến ngày 2 - 5 - 75 mới thấy mặt VC chính quy về tiếp thu tỉnh .
                -Có hai gia đình cùng họ Phan, một trên đường Nguyễn Trãi, một trên đường Huyện Chi( hay Huyện Nguơn?) ...mỗi gia đình đều có trên 5 người con, đều là gái, đều có nhan sắc và học hành khoa bảng, đó là gia đình Cô sáu Hồng và gia đình Thầy bảy Ai..
                Khi những người con gái nầy bắt đầu trổ mã, thì hai ngôi nhà bị khuất sau một khu rừng rậm rạp vì có quá nhiều hào kiệt mang cây Si đến trồng trước nhà.
                - Một Ông Đốc ( Đốc học Chánh ) tận tụy với nghề là Thầy Võ Văn Giáp,trong tờ khai sinh đầu tiên của ông, chánh lục bộ ghi tên ông là Võ thị Giáp, ngoài giờ làm việc thầy thường đạp xe đạp lòng vòng các đường quanh trường, để kiểm soát học sinh không chịu về nhà, đi chơi lang thang : bắn kè, đánh đáo ...cũng như trước giờ học, Ông đi quanh các đường quanh trường, để đuổi những gánh hàng rong, thức ăn bám bụi có thể có hại cho sức khoẻ của học sinh. Thầy cũng là Hiệu Trưởng tiên khởi của Trường Trung Học Công Lập Gò Công , Thầy qua đời tại Vĩnh Long, trong sự chăm sóc tận tình của người con trai lớn là Bác Sĩ Võ Văn Kỷ.
                -Một thầy Giáo từng nổi tiếng là cầu thủ có hạng của tỉnh Gò Công, Thầy có biệt danh là " xe lửa Biên Hòa " vì trong trận đấu, thầy tranh banh chạy rất nhanh, đó là Thầy Giáo Núi.Thầy rất hiền, đạo đức, lúc tôi học, thầy dạy lớp nhì, tại trường Nam Tiểu Học Tỉnh Lỵ
                - Một trọng tài mà dân ghiền đá banh Gò Công đều có cảm tình, đặc cách phong danh hiệu FIFA ...miệng cho Ông đó là Chú ba Toản, Ông nhỏ con nhưng lanh lẹ, xử phạt phân minh( đôi khi cũng phạt vị nễ đội nhà), Ông cầm còi trọng tài trên sân cỏ Gò Công có lẽ trên 30 năm, chưa có một cầu thủ nào dám ...lỗ mãng với ông.Nghề tay mặt của Ông là thợ thiếc
                - Vô địch quần vợt suốt một thời gian thật dài đó là thầy giáo Châu văn Lượng ( Con trai Ông Đốc Phủ Độ ) Ông đánh banh hay mà diễu cũng hay, vì không có đối thủ, nên mỗi khi ra sân thầy đều phải chấp đối phương, hình thức chấp của thầy cũng rất ngộ nghỉnh, Thầy có khi tay xách vợt, tay xách một thùng thiếc, cứ đánh một trái banh xong phải gỏ vào thùng một cái, có lúc ông đánh một tay tay còn lại thọt vô quần ...
                Thầy cũng là một thể tháo gia của tỉnh Gò Công, thập niên 50, Gò Công thường tổ chức đua xe đạp, đội cua rơ của tỉnh nhà khá đông ( thỉnh thoảng cũng có một vài xe ...sườn ngang dự thi ), thầy thường dẫn đầu đường đua bằng chiếc xe ..ếch pà của thầy, ngoài ra thầy cũng là một đệ tử ...Lưu Linh có hạng, có lẽ do đánh banh cá độ nên uống quen miệng, thầy từng là chủ quán nhậu trước 75 tại Gò công .Trước ngày nghỉ hưu Thầy là giáo sư Thể Dục của Trường Trung Học Gò Công
                - Một học sinh trung học Gò công, hoàn tất chương trình trung học trong vòng 4 năm đó là trò Nguyễn văn Tám, sinh năm 1948 tại làng Bình Xuân Gò Công,có cha theo Việt Minh mất tích, vì ở làng quê nên đi học trể, lẽ ra tuổi của trò phải học khóa 5 của trường, thì trò học tới khoá 9, cuối năm đệ lục trò đậu Trung Học Đệ nhất cấp, sang trường Bán Công, trò học đệ nhị và đậu tú tái phần một, trở lại trường công, học năm đệ nhất và đậu tú tái 2 ban B, nhờ hoàn cảnh gia đình có anh trong quân đội, trò được hoãn dịch và lấy xong bằng cử nhân tại trường Luật Sài Gòn ( hiện sống ở Cali)
                - Trong trận hải chiến với quân Trung Cộng tại đảo Hoàng Sa, một cưụ học sinh trường trung học Gò Công, có góp phần xương máu, đó là trò Ngô văn Ơn, khoá 8 T.H.G.C.Các chiến hữu còn sống sót cho biết Ơn bị thương gãy tay, trước khi tàu chìm và đeo được phao an toàn, bơi trên biển, nhưng sau đó mất tích. Hạ sĩ Ngô Văn Ơn
                - Một phó thị trưởng hành chánh Mỹ Tho, sau 75 không bị VC bắt bỏ tù đó là Anh Võ Văn Phận, cựu học sinh xuất sắc của khóa 2 Trung Học Gò Công, Anh xuất thân là giáo viên Sư phạm Cấp Tốc Sài Gòn, đậu cử nhân luật vào học Cao Học Q.G.H.C ra trường giữ chức Phó thị Trưởng Mỹ Tho, quan phó rất thanh liêm và yêu mến dân, hiện sống bằng nghề nuôi heo tại GC, có lẽ buồn đời, anh trở thành một đệ tử lưu linh rất có hạng tại Gò Công.
                -Trường Trung Học Gò Công có hai trò học miễn một tuổi đó là trò Bùi Oanh Yến( sinh năm 1947 ) khoá 3 và trò Nguyễn Ngọc Bích( Sinh năm 1949 ) khoá 5, Đặc biệt trò Yến là học sinh trường có 2 năm, tam ban A và đệ nhị ban B. Trò Bích chỉ học duy nhất có 1 năm lớp đệ tam B1. Và đặc biệt là cả hai đều là con của hai ông hiệu trưởng Nguyễn Ngọc Quang và Bùi văn Tuấn
                -Một cựu học sinh Trung Học GC có cấp bậc cao nhất trong QLVNCH đó là anh Lê Tuấn Trí, cựu học sinh khoá 3 Trung Học Gò Công,Cựu sinh viên sĩ quan khoá 21 Đà lạt, Anh mang cấp Trung Tá, chức vụ Trung Đoàn Trưởng thuộc Sư Đoàn Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà, trước khi trời sập, Anh chỉ huy Trung Đoàn ( vừa tái phối trí từ vùng 2 về ) tăng phái cho mặt trận Long An, Trung Đoàn Anh đã xoá tên nhiều tiểu Đoàn chính quy Bắc Việt, hiện anh đang sống tại Arizona
                - Một cựu học sinh GC thăng cấp nhanh nhất đó là Anh Nguyễn Văn Huỳnh, gốc Xã Thạnh Trị, Cựu học sinh khóa 6 THGC, xuất thân khóa 8/68 Thủ Đức, Tháng 4-75 đặc cách Thiếu Tá ( ra trường gần 6 năm thăng 4 cấp ) đã chỉ huy Tiểu Đoàn ( thuộc Trung Đoàn 12 ) đánh tan một tiểu đoàn chính quy Bắc Việt, tại mặt trận Long An, trong những ngày cuối cuộc chiến, Anh cũng là một cựu tù chính trị lâu nhất của trường THGC : 12 năm rưởi, lưu đày từ Nam ra Bắc ...Người thứ hai là Anh Nguyễn Duy Chí, gốc người Cầu Nổi, Cựu học sinh khóa 8 THGC, xuất thân khóa 6/69 Đồng Đế, mang cấp bậc Đại Úy chức vụ Đại Đội Trưởng Trinh Sát thuộc Trung Đòan 11 vào Tháng 3-75 .Huỳnh và Chí đều bị lưu đày ra đất Bắc.
                -Một cựu học sinh Gò công thăng cấp chậm nhất là Anh Võ Văn Kiến, cựu học sinh khóa 7 THGC, xuất thân khóa 2/69 ( Tiểu đoàn Đinh Tiên Hoàng, Quang Trung & ĐĐ31, TĐ3 Thủ Đức ) xong giai đoạn 2 gắn Alpha chuyển qua quân trường không quân, ngày trời sập Anh vừa phục chức Binh nhì thuộc SĐ 9 BB...sau mấy tháng làm Lao Công Đào Binh. Sau 75, anh sống bằng nghề dạy học, tại Cao Lảnh, hiện nghỉ hưu và đang mang bệnh ...phải ăn bằng ống dẫn.
                - Các cựu học sinh trường Nam Tiểu Học GC thập niên 50-60, có lẽ đều có ngồi trên hai cục đá tròn làm bằng đá mài, đặt bên hướng Tây góc hồ tắm, cạnh ngã tư đường Gia Long, cánh trái là đường A. De . Rhôdes( trước trường nữ Tiểu học ) và đường Trương Công Định ( trước Trường nam Tiểu Học ), màu đỏ thẫm, trông rất đẹp mắt, hai viên đá nầy là công trình của Chú Thợ Nhâm, người làng Tân Niên Trung thực hiện .
                -Một đám cưới rước dâu bằng trực thăng , chú rể Nguyễn kim Long tự lái, sau đám cưới, Cò Tường, Trưởng Phòng Đặc Biệt, Ty Cảnh sát Quốc Gia- Gò Công nhận được nhiều đơn khiếu nại của dân, gần nơi bải đáp trực thăng, vì nóc nhà bị gió cánh quạt thổi tróc .
                -Một giọng ca được nhiều cảm tình nhất của trường Trung Học Gò Công nói riêng của Tỉnh GC nói chung đó là chị Huỳnh Thị Thải, cựu học sinh khóa 5 Trung học Gò Công, là ái nữ của Ông Bà chủ tiệm Nam Hoà Lợi, Chị là ca sỹ Huyền Trinh, nhưng bỏ nghề khi lập gia đình, hiện định cư tại Úc .
                - Một ngôi nhà được xây cạnh Lăng Trương Công Định, gồm một từng lầu mà tất cả 4 bức tường đều đúc bê tông ( nhà xây không sử dụng một viên gạch nào cả ) và chỉ xây với ...2 người thợ mà thôi, Chồng làm thợ chánh, Vợ làm thợ phụ, thời gian kéo quá dài, cũng rất khó nhớ chính xác, có lẽ trên 10 năm mới xây xong, cũng là một kỳ công của một vợ chồng ...người Gò Công .
                -Ngày Tổng Thống Ngô Đình Diệm đi kinh lý Quận Gò Công, Ông không tới tỉnh bằng đường bộ, cũng không đi bằng đường hàng không mà đi bằng đường biển, tàu cập bến Vàm Láng, có một thiếu nữ mặt áo dài trắng rất duyên dáng đến dâng hoa cho Tổng Thống, thiếu nữ gốc người Tân Niên Tây, tên Đinh Nguyệt Anh, sau là giáo viên trường nữ công và chuyển qua làm ở ty nông nghiệp, sau lập gia đình với giáo sư, luật sư Huỳnh văn Bổn .
                - Có một số học sinh Trung Học Công Lập Gò Công thắc mắc, làm sao biết mình học khóa nào của trường, dễ ợt, cứ lấy năm mình đi thi tú tài hai, trừ cho 1961 là sẽ có số khóa mình học. Thí dụ thi tú tài hai năm 1966, ta lấy 1966 trừ cho 1961 sẽ có kết quả là số 5, như vậy trò là học sinh khóa 5 trung học Gò Công .
                Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, bắt quân cán chính đi cãi tạo, một hình thức lao động khổ sai, Chúng thường lên lớp kêu gọi mọi người hãy quên đi dĩ vãng môt thời làm "tay sai Mỹ Nguỵ" hãy hướng về tương lai mà cùng nhau xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa ...mặt khác khi bắt viết kiểm điểm, tự khai, chúng lại bắt anh em phải nhớ rõ từng chi tiết, vừa bắt quên lại vừa bắt nhớ, Cộng Sản thường ...không giống ai ...Tôi cũng lật hơn 8 cuốn lịch, nên trí nhớ dù tốt đến đâu cũng bị chai mòn đi nhiều...Đất lạ xứ người cũng cố gắng nhớ lại vài chuyện về Gò Công, gọi là một chút quà trong lúc trà dư tửu hậu ...
                Một vài chuyện đặc biệt về Gò Công kể hoài còn hoài, tiêu biểu nhớ lại một vài chuyện còn trong trí, buổi ly hương ghi lại làm quà cho đồng hương gọi là một chút nhớ thương về Gò Công ...
                Viết tại Kỳ Đà Động, Quý Thu 1999

                THỦY LAN VY
                Con đi dưới lá cờ sao máu
                Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                Comment

                • #23

                  CHÚT NHỚ ĐỜI TÙ
                  *
                  - Viết để nhớ những tháng ngày trong lao tù CS, gửi các anh em trong đội chăn nuôi và đội rau trại Hà Tây





                  Cô em gái đọc mấy bài ký của tôi, viết nhớ lại những ngày tháng sống trong lao tù Cộng Sản, đã không dẳn được nhiều thắc mắc, nên gọi phone nói chuyện với tôi thật lâu, đại để cô bé hỏi tôi, tại sao viết chuyện lao tù, mà người đọc thấy cảnh sống thoải mái quá vậy, hay là huynh muốn đề cao chế độ lao tù của Cộng Sản....!?
                  - Đừng vội đội nón cối cho huynh muội ạ! Một câu nói đã có không biết từ bao đời :"Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại " thì có người tù nào được sống trong cảnh sung sướng đâu, nhất là ở tù Cộng Sản. Bạn bè của tôi vượt thoát qua Mỹ ngay sau ngày trời sập, nói chung, những người không bị Cộng Sản giam cầm, khi đọc những bài ký tôi viết ,đều đã có nhận xét giống như nhau, ở tù Cộng Sản sao mà …vui thế!!
                  Ngày 30 tháng tư đã đến với người miền Nam, như một cơn đại hồng thủy,biết bao thảm cảnh đã xãy ra, nhà nào không có người đi cải tạo (ở tù), nhà đó không là Cộng Sản nằm vùng, thì … cũng là gia đình …không giống ai.
                  Trong Cung Oán Ngâm Khúc, có hai câu, mà tôi càng đọc, càng thấy thấm thía trong những tháng ngày sống trong lao tù Cộng Sản:
                  ‘ Giết nhau chẳng phải Lưu Cầu
                  “ Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa
                  Trong cảnh tù, ngoài tâm lòng buồn đau thương nhớ, người tù cải tạo còn bị hành hạ về tâm trí lẫn thể xác, biết bao nhiêu lần tự khai, bao nhiêu lần tự kể tội mình, nhiều người có cha tử trận, phải đau đớn tủi nhục viết nên câu.”Bị cách mạng trừng trị” Ôi! Còn gì đau tủi cho bằng. hàng ngày phải lao động khổ sai, tối phải " ngồi đồng" nghe phê bình, kiểm thảo, ngồi tới gục lên gục xuống .......… Tôi nhớ tới những bài học lịch sử khi còn ngồi dưới mái nhà trường…. Quân Tàu dã man, bắt dân ta lên rừng, tìm ngà voi, xuống bể, mò ngọc trai, hay thực dân Pháp tàn ác, giết hại dân lành vô tội…Tôi cười trong nỗi đau đớn thấm thía, Tàu và Tây là người ngoại quốc, tụi nó có chung huyết thống với mình đâu mà bảo chúng phải thương dân mình, Cộng Sản, hay giặc Bắc phương, cùng chung một huyết thống, mà họ lại có trái tim, suy nghĩ khác hẵn người miền Nam, có thể gọi họ là bọn người dã man, man rợ, thú đội lớp người… đều đúng cả.
                  Có vào sống trong địa ngục trần gian, mà tặc quyền Cộng Sản gọi bằng cái ngụy danh Trại cải tạo, mới thấy được nỗi lòng của những người tù không bản án, không được xét xử, không được tự biện hộ cho mình…đếm tháng ngày trong tù trôi qua, bằng những ngày lao động khổ sai, làm hơn trâu mà bụng lúc nào cũng đói…
                  Tất cả những chuyện khổ nhục trong tù, đều đã được anh em đồng cảnh viết lại, dưới đủ mọi hình thức…Trong cảnh sống tội tù như vậy, mà cứ “ngồi…rù, gãi háng”… thì trước sau gì cũng phát uất mà chết…chỉ sớm ra an nghỉ nơi hàng dương( nghĩa trang tù) Nên trong cảnh khổ, cần phải tìm thấy cái vui, phải xây niềm tin và hy vọng, được như vậy mới có đủ sức chịu đựng, mà đếm ngày tháng trôi qua …trong trại tù. Có người mới vô tù một vài tháng, đã ra người thiên cổ, có người gỡ từ tờ lịch, gỡ hơn 17 cuốn, mà khi giặc thả về vẫn sống bình yên cho tới ngày nay, điển hình như Thiếu tá Phan tấn Ngưu, trưởng F Tây Ninh, Nguyễn Đức Thắng, Phủ đặc ủy Trung Ương Tình Báo, Tướng Lê Minh Đão, Phạm Gia Đại…cái tâm, cái chí của người sống trong tù Cộng Sản, một phần nào quyết định mạng sống của người tù… Trong cảnh khổ nào cũng có cái vui dù là… vui sao nước mắt lại trào...
                  Tôi vào tù năm 28 tuổi, cái tuổi tương đối đẹp nhất của đời người, rồi tôi cũng thong thả lật từng tờ lịch, lật hơn 8 cuốn giặc mới thả về… Cho tới ngày hôm nay, sau hơn 30 năm, cảnh sống trong tù, vẫn còn đến với tôi, trong nhiều giấc mơ đầy kinh dị, tỉnh giấc, mà trán và lưng còn đẫm mồ hôi, để rồi biết mình đang nằm cạnh vợ trong căn phòng ấm cúng… lòng thật sự biết mừng vui.
                  Cô em kết nghĩa rất ý họp tâm đồng với tôi,cô bé tiểu muội, thường thêm bớt một vài chữ trong bài viết, làm cho câu văn tôi viết, sáng và rõ nghĩa hơn ra,tiểu muội thường bảo tôi kể lại cảnh sống trong tù cho cô nghe… Thời gian nơi đất tạm dung nầy quá sít sao, nợ áo cơm, tuổi ngày càng chồng chất, thể xác đã quá mệt mỏi, sau những biến động quá lớn lao trong đời người, trí nhớ một phần nào đã suy giãm, đó cũng là sự tự nhiên của đời sống con người… Tôi vẫn hứa hoài mà vẫn không có dịp kể… Bây giờ ngồi viết lại một khoảng thời gian ngắn tôi đã trải qua trong trại tù Hà Tây ( Trại nằm tại xã Mỹ Hương, trong phủ Quốc Oai, thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, gần con sông Nhuệ…)
                  Trong trại Hà Tây có 3 đội tương đối được no đủ, đó là đội nhà bếp, đội xay xát và đội chăn nuôi, đội nhà bếp ( khoảng 25 người) có no đủ thật, nhưng ăn no trong sự bớt phần của bạn tù đói, đội xay xát ( chỉ có 3 người): thường được bồi dưỡng ( chữ của giặc) bằng gạo hay tấm, đội chăn nuôi no đủ là nhờ sự tháo vát của người tù, chăn nuôi có 2 nhóm ( khoảng 20 người) Một nhóm nuôi heo, một nhóm nuôi cá, nhóm nuôi heo chỉ quẩn quanh bên chuồng heo, toán nuôi cá, trông coi 5 ao cá trại, phải kiếm rong, cắt cỏ hàng ngày cho cá ăn, nên được đi thong thả trong trại để tìm cỏ, hết cỏ được đi ra ngoài làng dân, vào mùa đông, nhiều hôm phải lên tới huyện Thường Tín mới có rong, cỏ…Mùa hè, nước cạn, sửa lại bờ ao,trám lại những chỗ rò rỉ, dưới lòng ao là cát, trong lớp cát nầy có nhiều con trai, kể luôn vỏ mỗi con trên kí lô, anh em lấyruột trai, phi tỏi xào sơ, bỏ vào nồi cháo đã nở, thêm hành, rắc tiêu, vậy là có được nồi cháo ....quý giá vô cùng … món ăn rất ngon, khó tìm trong tù… ngay cả ngoài đời... ConTrai ẩn mình dưới lớp cát mỏng, rất dễ bắt. Nhờ đi đây đó tìm cỏ, nhóm nuôi cá nầy được biết nhiều làng chung quanh trại, như làng Phượng, làng Rùa… Những ngôi làng mà thuở còn đi học, đọc tiểu thuyết của Thanh Thủy, hay của các tác giả ngoài Bắc, bây giờ mới được tận mắt nhìn thấy ..Chung quanh làng, cũng lủy tre bao bọc, có ngỏ vào, có trạm canh, đường đi có nơi lát gạch tàu, tôi thấy thật quen, đất Hà Tây, lại có nhiều di tích lịch sử,do khí hậu ở Hà Tây tương đối tốt nhất đất Bắc, lại cách Hà Nội chưa tới 30 km, nên khi quân Tàu sang đánh chiếm được Thăng Long, thường trú quân ở Hà Tây, nhờ biết chút đỉnh chữ Hán, nên tôi biết được nhiều ngôi cổ mộ, của một vài vị tướng thời xa xưa, nhiều cái giếng nước có từ xưa( giếng thơi); cứ 2 tù kéo một xe cải tiến ( loại xe tay dùng chỡ nặng), ra tới ruộng đồng thì anh em thương lượng với nhau, chia ra một tù cắt cỏ, một tù đi bắt rắn, cá, ốc… Mua gom quần áo của anh em tù, ra bán lại ngoài dân, mua trà, gạo, đường của dân, đem về bán lại cho anh em, trót lọt vài chuyến, cũng bị bắt một chuyến, dù đã đút lót cán bộ an ninh trại cũng như võ trang, các vụ mua bán linh tinh bị bắt thì làm kiểm điểm, hàng bị tịch thu, móc nối với dân, nhờ ra Hà nội bỏ thư, sau khi nhận gom chừng vài chục lá thư của bạn tù, chuyện nầy rất nguy hiễm, bị phát giác là bị biệt giam ngay…Dân ngoài đó nghèo, nên đồng tiền cũng rất dễ mua chuộc. Tóm lại, các cách kiếm sống của tù đội cá, đều tự lực làm bằng công sức, nhiều khi bị trả giá cũng rất đắc, biệt giam,cấm nhận quà hàng quý, cấm thăm nuôi…
                  Cuối năm 1981, đội chăn nuôi giải tán, bàn giao cho hình sự, anh em bị phân tán về nhiều đội khác nhau, tôi và gần 10 anh em khác, bổ sung về đội 3 rau xanh do Anh Hải, Trung tá Nguyễn Hữu Hải, nguyên trường E vùng 2 làm đội trưởng…Anh Hải rất khéo léo trong đời sống sinh hoạt thường ngày, cán bộ không bắt bẻ, anh em không phiền hà...
                  …Tay cặp chiếc chiếu, kèm theo một xách trĩu nặng, tay còn lại cũng một xách cồng kềnh, tôi đứng trước vị trí mà anh buồng trưởng đã chỉ định chỗ nằm, hai chiếc chiếu còn liền sát mí nhau, một anh đang ngồi tay cầm ống diếu cày, tôi biết tên, Anh Riệp khóa 10 Võ Bị,cạnh chiếu của anh, dưới mắt tôi là một chú bé con đang say sưa ngủ, thế nằm cong như con tôm càng kho, mặt áp xuống chiếu, tôi đo thử bằng mắt, chú bé nầy cao chưa tới 1m55, lòng tôi lại thắc mắc, sao lại có chú bé con trong đội nầy?? Anh Võ văn Ca, đội phó đang ngồi cạnh chiếu nầy với tay khều chú bé
                  -Dậy, dậy xích chiếu cho thằng em đội cá nằm, ngủ hoài vậy mậy.
                  Tôi thấy chú bé trở mình, ngồi dậy hết sức gọn gàng, tay dụi mắt, mặt tự nhiên:
                  -Đại Úy Khanh, bộ Tổng Tham Mưu chào thằng em mới về đội.
                  Thì ra tôi lầm, người mà tôi tưởng là chú bé con, đã có gương mặt già dặn, lớn hơn tôi cũng phải bốn năm tuổi, tôi nghe cách chào hỏi hơi lạ trong cảnh tù, sau giây phút ngỡ ngàng, tôi khẻ gật đầu chào lại anh :
                  -Tôi là thằng Mỏng, đội cá, bây giờ là láng giềng của anh. Anh Riệp xích một chút, Khanh xích một chút, một khỏang trống khoảng 3 tấc hiện ra, vẫn thường quen với cảnh đổi phòng, tôi cũng chẳng cần thắc mắc, về bề mặt quá hẹp cho một thằng cao 1m72, dù là thật ròm, thật mỏng như tôi, cứ trải chiếu rồi … rộng hẹp đâu cũng vào đấy thôi.
                  Đời ở tù có hai điều khổ, thứ nhất tự khai, thứ hai đổi nhóm… nỗi khổ thứ nhất không ảnh hưởng tới tôi nhiều, với gần 7 năm lính, qua 3 quân trường và 2 đơn vị, qua 3 cấp bậc và duy nhất một chức vụ, nên bản tự khai của tôi, chưa kín hết 2 trang giấy học trò. Điều khổ nầy chỉ thực sự đúng, với mấy anh trong ngành tình báo, và với những anh,có số tuổi lính trên 10 năm, bởi phải thận trọng trong lời khai, phải cố nhớ lại những gì đã quên, bút sa gà chết…Còn chuyển nhóm, thì gia tài tù chẳng có gì đáng giá, nhưng lại đều là những vật dụng cần thiết, những vật bén nhọn cất dấu nay phải mang ra, cán bộ thấy là tịch thu, phải bỏ công tìm lại cái khác, người bạn tù láng giềng đã quen hơi nay phải nằm gần người lạ, lại phải mất một khoảng thời gian dài, mới hiểu được tâm tính nhau, trời sinh mỗi người mỗi tính, gặp phải người khó chịu, không vệ sinh, cần cổ mềm, tính hay luồn cúi, làm ăn ten… thì rất phiền cho cuộc sống đời tù…
                  Chỉ trong vòng gần nửa giờ, vật dụng chiếu mền, đâu rồi cũng ra đấy, tôi cầm bao thuốc rê ra vấn, mắt nhìn quanh buồng, buồng nào cũng vậy, ngày nghỉ,cũng có người nằm ngủ dật dờ,có người lăng xăng bếp núc, cũng có nhiều kỳ thủ, đang khom lưng ghìm nhau từng nước cờ, từng trên là sòng xì phé, tôi nhận thấy hầu hết người trong sòng, là những tay dân cử, thuộc hai nền nhất nhị Cộng Hòa, như dân biểu họ Vũ, dân biểu họ Lý, dân biểu Mô Lô Tu, nghị viên bắp sú… Dãy đối diện với tôi là Quốc vụ Khanh Phạm Thái, nhạc sĩ Vũ Thành An, dân biểu Trần cảnh Chung…Tôi nhả từng ngụm khói, đã hơn 5 năm trong lao tù… Lòng tôi bỗng thấy nhớ rất nhiều về những ngày sống ở Sài Gòn…Cô bạn mắt nâu bây giờ đi dạy học, chữ thủy chung của thời mạt vận nầy, biết có còn giá trị hay không, ở đây, tình vợ chồng mà người ta còn dứt bỏ được, huống chi chỉ mới là tình yêu …Trong cảnh tù cải tạo, viễn ảnh tương lai thật mịt mờ, bởi người tù không có bản án, ngày trở về thật mờ mịt.
                  Hiện trường đội rau, nằm bên hông phải trại, cách một cái ao là khuôn viên của các đội mộc, rèn và cưa xẽ, từ ngày trại cho thăm nuôi, cho tiếp tế thoải mái, thì cảnh tù cũng trở nên dễ chịu hơn, những cơn đói không còn kéo dài dai dẳng nữa, với lại đã hơn 5 năm rồi, người nào cũng tự nhận được vị trí của mình, lè phè được lúc nào hay lúc đó, lao động tà tà, có chút quà cáp biếu xén, quản giáo cũng trở nên dễ tính;tôi và anh Riệp với anh Ca chung tổ hai, Khanh thuộc tổ một,về đội nầy, tôi biết thêm rất nhiều cán bộ trong phủ đặc ủy trung ương tình báo, cũng như sĩ quan cao cấp bên ngành Cảnh Sát, tháng 10 trời Hà Tây còn nóng lắm, bầu trời trong veo chưa có nét gì biểu hiệu mùa thu sẽ đến, tôi thấy Khanh đang cuốc trở mấy luống rau muống, làm đất chuẩn bị trồng su hào, hôm nay trông Khanh vui lắm, vừa cuốc vừa hát liền miệng, anh Hải đội trưởng và cán bộ Bội ( Trung Úy) quản giáo, đang đứng bên cạnh ao rau cần, cạnh luống của Khanh, bàn tính vét ao trồng rau cần, cho mùa đông sắp tới…giọng Khanh hát càng lúc càng lớn, từ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây, Khanh bắt qua Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh, Tôi nghe Khanh lái sang Tiếng Chày Trên Sóc Băm Bo…. “Người dân Băm Bo, cái bụng không no, chỉ lo đánh giặc” Khanh chống cuốc nhìn tôi cười cười, rồi hát tiếp….”đánh như con kẹt…”. Bội quản giáo đang vui vẽ với Anh Hải bỗng nghiêm sắc mặt
                  -Anh Khanh hát bôi bát gì thế, không có văn hóa chi cả, vào ngay văn phòng viết kiểm điểm…, mấy anh em tôi đang cuốc đều ngưng tay, cười thoải mái.
                  Khanh là vậy đó, tôi nằm cạnh nên có dịp chứng kiến nhiều cảnh vui bất ngờ, nhiều buổi tối Khanh đang nằm chèo queo, chợt ngồi lên ngay ngắn, tay khỏ khỏ vào không khí, làm động tác như đang thử micro rồi diễn giảng:
                  -Đây là bài diễn văn, của chủ tịch mặt trận tổ quốc tỉnh Tiền Giang, đọc trong ngày lễ Phật Đản, Khanh cười cười :
                  -Thằng Mỹ nó đi rồi, mà nó còn cài lại nhiều cái độc địa, bàn máy đánh chữ thì không có dấu, bọn cán ngố thì luôn tỏ ra thông manh…
                  ……Kính thưa quý vị!
                  Hôm nay là ngày lễ Phát Đạn, trước mặt chúng tôi có rất nhiều Dao như Dao Phát,dao Thiến Chúa, Dao Cạo Dái, dao Cò Dọc, dao Bà Hai…Dao Củ Sì…tất cả cũng đều là Dao.
                  Anh ba Ca khều tôi thắc mắc
                  -Ê Dao Củ Sì, Dao Cò Dọc là đạo gì vậy Mỏng
                  -Tịnh độ Cư Sĩ và Cơ Đốc đó Anh . Anh Ca đang uống nước chợt cười ngang, sặc sụa nước văng đầy mặt Khanh.
                  Trời mùa Đông, Hà Tây có đêm xuống 3, 4 độ C, Anh em tù thường lấy mùng may cập vào mền, sau vài đợt thả, mùng mền dư nhiều… tối mùng giăng 2 lớp, phủ mền trùm kính, phải nửa giờ sau mới tìm được hơi ấm, vài tiếng đồng hồ phải đi tiểu, hí mền chui ra, để khi chun vào còn giữ được hơi ấm, có đêm, tôi đang thả hồn về Sài Gòn, Honda đang lên dốc cầu chữ Y, thì bị Khanh khèo cẳng dậy
                  -Ê Mỏng dậy coi ban nhạc Cảnh Sát đang hòa tấu, còn gì bực mình cho bằng đang ngon giấc mà bị khều dậy, nhưng nghe đề tài cũng lạ nên không càm ràm, Khanh ra vẽ bí mật chỉ lên tầng trên.. thì ra tầng bên nầy là Thiếu Tá Trân, trưởng F, áo quần lùm xùm, tay cầm chai thuốc bơm mũi, đang ngước mặt lên trời thở rò re, vì cơn suyển, bên kia là Cò Ngưu, trưởng F Tây Ninh, cũng không khá gì hơn, đang lấy hơi lên..Cũng từng trên góc cuối là Thiếu Tá Nguơn, trưởng E vùng 3 cũng đang thở như kéo đờn cò; thật tình giận cha Khanh hết sức, đang ngủ ngon mà bị phá, trở lại dỗ giấc, không phải dễ giữa đêm trường lạnh như cắt da.Khanh còn bình luận nho nhỏ:
                  -Tuổi còn trẻ mà có nhiều quyền hành, dễ sinh ra sa đọa, hậu quả bây giờ là…đủ thứ bệnh
                  Tôi để ý thấy Khanh ít giao du với ai, thường lủi thủi một mình, miệng thì nghêu ngao đủ đề tài, lúc đầu mới về đội, tôi hơi bực mình vì cái miệng của Khanh, rồi thời gian cũng quen đi, Khanh thường hát những bản nhạc với lời thay đổi nghe ngồ ngộ
                  -‘ Anh đi đâu về mà lòng thòng trên cu dưới dái, Anh đi đâu về mà lòng thòng dưới dái trên cu, chỉ 2 câu mà Khanh láy đi láy lai cả chục lần, mắt mơ màng, ngó về hướng trời xa, nhìn ra bên ngoài cửa sổ..., anh Ca nhiều khi phải lên tiếng
                  -Thôi Khanh, nó thòng xuống tới đầu gối rồi, mà mầy còn ca hoài.Chưa chịu im, Khanh hát tiếp:Lặng nghe tiếng pháo tiễn ai qua cầu, đời lắm phong trần…cu có gai. Hát xong Khanh còn cười hi hí rồi tự diễn giải, trơn lui mà người ta còn bắt chuồn chuồn , có thêm gai thì …hết sẩy hén Anh Ca...
                  Tô Ngọc Riệp nói thều thào vừa đủ tôi nghe; Bác Hồ chết nhằm giờ thiêng, cho nên con cháu đứa điên đứa khùng. Bác Hồ chết nhằm giờ trùng- Cho nên con cháu đứa khùng đứa điên
                  Đổi đề tài, Khanh kể chuyện ..dài Cộng Ngố, thường Khanh mở đầu câu chuyện bằng 1 nụ cười rồi đến 2 chữ vui lắm.
                  -Thằng cán bộ vào Nam tham quan trở ra khoe với anh em tù.
                  -Tôi mới vào Lam, trong đó cũng chả có gì ( Thói dóc láo không chừa)…
                  -Thế cán bộ vào Nam có xơi trái cây trong Nam không? Một anh tù hỏi
                  -Có xơi, nhưng trái cây trong Lam cũng tàm tạm..Kể tới đây Khanh cười, Anh Du giận lắm, mới hỏi từng loại trái, sầu riêng thì chê thối bỏ mẹ, măng Cụt, lôm chôm, ổi, bười 5 Roi, sơ ry… Thằng cán bộ đều cho tàm tạm. Anh Du hỏi tiếp
                  -Thế cán bộ có xơi Trái Dứng không… Hà trái lầy cũng tàm tạm…tên cán bộ trả lời.
                  Trời mùa đông, buổi tối trong phòng, thường yên ắng hơn mùa hè, vì lạnh, nên anh em vô mùng sớm… nằm đó chớ đâu có ngủ nghê gì, chốc chốc lại vén mùng chui ra, làm một bi thuốc lào… năm bảy năm xa nhà, ai không thương không nhớ, nầy cha mẹ, anh chị em, người vợ đầu ấp tay gối, rồi những đứa con… cảnh cũ biết còn không? Người xưa biết lòng có thay đổi?…trong ánh sáng nhá nhem, có người lấy hình vợ con ra xem lén lút trong mùng, thỉnh thoảng, cũng nghe tiếng thở dài não nuột… Tôi thấy Khanh vén mùng, vạch chiếu lấy cây đóm, nhồi thuốc vào nỏ, Khanh không hút ngay mà nhìn qua ngó lại, mặt trông buồn lắm… sau khi kéo một hơi, ém khói, rồi chiêu một ngụm nước, Khanh treo ống điếu vào đinh … Khanh đang ngồi yên như say thuốc ….Đột nhiên Khanh không nói lối, mà xuống ngay một câu vọng cổ…” Không, Hoàng hậu Tô Nương không phải là người mang dú dã, vì chính ta đây đã thấy bả thay ….đồ - Và ta đã trông rõ mặt Bác ..Hồ.Tôi thấy Anh Riệp nằm cạnh, lồm còm ngồi dậy vạch mùng hỏi Khanh:
                  -Ê, Bác có nhiều râu không mậy?!
                  Tôi với ba Ca nghe hỏi mà cười ngất.
                  Con trai mụ Sửu ( thượng sĩ công an) năm đó 9 tuổi chơi quanh quẩn, làm sao lại lọt xuống giếng, tụi nhỏ la lên, Thuần( thiếu úy ANQĐ) đang nấu cám heo trong đội chăn nuôi, gần trại gia đình, nghe tiếng ồn ào chạy ra xem, biết chuyện Thuần nhảy xuống vớt thằng nhỏ lên, nó đà bất tỉnh, Thuần vác lên vai chạy mấy vòng, xóc nước cho thằng nhỏ, nhờ vậy chú nhỏ mới tỉnh dậy, Thượng sĩ Sửu cám ơn rối rít, sau đó có mang 2 cân ( trong Nam gọi là kí lô) đường cho Thuần bồi dưởng ( Chữ VC), nhưng Thuần nhất quyết không nhận.. Từ việc đó anh em trong đội gọi Khanh là con trai bà Sửu( có lẽ mụ tuổi sửu sinh năm 1949) vì tướng tá nhỏ con của Khanh. Nghe gọi như vậy, Khanh cũng chẳng phản đối gì.
                  Khanh là vậy đó, tôi cũng ít khi nghe anh nhắc chuyện gia đình, thỉnh thoảng, thấy anh có nhận quà , anh sống rất giản dị,ăn uống dễ dàng, những bản nhạc anh hát thường không có bản nào đúng lời.. với Những Đồi Hoa Sim anh đã hát…” những người con gái, ôi những người con gái nghèo mà ham làm bà…Chuyện một hôm nàng mê ông Thiếu úy mang bầu nên phá thai…Với thơ TTKh thì anh ngâm, để châm chọc Trung Tá Nguyễn Tấn Quân Nhu, người ít tắm nhất của đội... Xuân thu nhị kỳ mới thấy ngài đứng bên hồ nước: Người ấy thường hay vuốt dế tôi - Thở dài khi hửi dế tôi hôi- Bảo rằng không tắm nên" hay dối"- Em sợ tình ta cũng vỡ thôi...…
                  Có khi Khanh nghiêm trang, ngồi thẳng lưng giả giọng cụ Hương, đọc bài diễn văn bàn giao chức tổng thống cho Dương văn Minh,giả giọng già chậm rải…” vận mệnh quốc gia không phải là cái khăn mu soa, mà muốn giao cho ai thì giao; có lúc anh nhái giọng tông tông Thiệu làm nguyên bài diễn văn Tổng Thống đã đọc trước ngày ngưng bắn…” Cộng Sản dùng dao, ta dùng súng, chúng dùng súng ta dùng trọng pháo, chúng dùng trọng pháo ta cho máy bay dội bom lên đầu chúng.
                  Thường buổi tối chúa nhật, anh em tù thường vô mùng sớm, vì phải dưởng sức cho thứ hai còn đi lao động, Khanh thì cả ngày ngủ gà ngủ gật, đêm anh em vô mùng, Khanh thức nằm đó, mắt ráo hoảnh..Có lần Khanh khều tôi kể chuyện lính sinh Bắc tử Nam.
                  -Ê thằng Mỏng biết không, tụi lính chính quy Bắc Việt xâm nhập vùng bốn, có giao liên dẫn đường, mà vùng bốn có rất nhiều sông, kinh đào, một lần tới kinh Dương văn Dương, gần khu trù mật Mỹ Phước Tây, mấy anh sinh Bắc mới hỏi giao liên làm sao qua sông
                  -Thì lội qua chớ còn làm sao nữa.
                  Thế là mấy anh sinh Bắc xoắn ống quần, vác ba lô từ từ lội xuống nước, kinh sâu trên 2 thước cha con chúng té uống nước lớp ngớp bò lên. Tới bờ liền xổ tiếng Đan Mạch
                  -ĐM. Sâu bỏ mẹ, không bảo ông bơi mà bảo lội…Khanh cười thoải mái, rồi khoát tay ra hiệu bảo tôi nằm yên
                  -Chưa hết đâu, tối trời chúng cần xử lý nhu cầu khoái thứ tư, bò ra đồng trật quần ngồi nhìn sao trời, xong việc bức cỏ chùi, đứng dậy còn nghe thoang thoảng mùi thơm…bèn chặc lưỡi:
                  -Trong Nam, cả cơm lắm tiền, tới cỏ chùi đít cũng thơm. Thằng Mỏng mày biết tại sao không? Chúng ra ngồi trúng chỗ rau mò om mọc…Miệt Đồng Tháp Mười có nơi rao om mọc kín cả khu ruộng.
                  Một buổi chiều chúa nhật, Khanh ra hội trường xem anh em trang hoàng, chuẩn bị cho ngày lễ 2 tháng 9, tối đêm đó Khanh có đề tài mới:
                  -Chiều nầy ở ngòai hội trường vui hết sức, Mỏng mày biết không, khi Anh Ry họa sĩ đang khắc mấy chữ dưới hình Bác Hồ, anh mới khắc chữ chưa bỏ dấu câu "Đời đời nhớ ơn Bác"; mày biết Trung Tá Đào Mỹ Ngọc, chỉ huy trưởng pháo binh sư đoàn vùng 3, chấp tay sau đít, đứng nhìn một hồi, ông cười cười đọc chậm chậm mà lớn
                  -Đói đói nhớ ớn Bác.
                  Mắc cười lắm, mấy tay yếu bóng vía, đứng gần ông Ngọc, bỏ lãng đi hết, tiếng Việt mình hay thiệt, chỉ khác dấu là nghĩa trái nhau liền.
                  Trại Hà Tây có một điều làm anh em tù thắc mắc, và có lẽ tới giờ phút nầy cũng không ai tìm ra được giải đáp, đó là những số hiệu của mỗi tù viên. Tất cả tù cải tạo đều có số tù, trước con số là 2 chữ, phần nhiều là CT rối tới 3 số, cũng có nhiều anh mang 2 chữ CP, có anh CU, CR… mà những tù có cùng số chữ giống nhau, cũng đều thuộc ngành nghề khác nhau, nên không thể nào đoán ra ngầm ý của 2 chữ tắt nầy, chữ CT tạm thời giải thích là cải tạo, thế thì những chữ kia có nghĩa là gì.bản thân người viết bài nầy mang số CT 919, số nầy được đóng vào lưng áo, khổ chữ cao khoảng 2 tấc.Trại cả mấy ngàn tù, cán bộ chỉ cần nhìn và ghi tên số tù, là truy ra tên tù ngay, chứ làm sao cán bộ trại biết tên hết được.Trong một buổi tối, Khanh nghe anh em thắc mắc chuyện nầy, đang nằm đắp mền, Khanh ngồi dậy
                  -Chuyện nầy có gì đâu mà không hiểu, CT là cá tra, CU là cá út, CR là cá rô, CP là cá phi, tụi mình là cá đang ở trên thớt Cộng Sản…Nói xong Khanh cười hí hí rồi nằm xuống, tiếp tục kéo mền đắp, như không có chuyện gì xảy ra…
                  Ngày tháng cứ dần trôi, thỉnh thoảng trong năm, trại cũng có thả năm mười người, cứ sau mỗi đợt thả là anh em uể oải ra thấy rõ, thừa dịp khai bệnh ở nhà cũng thoải mái được ít hôm,nhớ hôm thả tướng Lâm Văn Phát, cán bộ giáo dục đọc quyết định thả … Lâm văn Phát can tội thiếu tướng, có tiến bộ trong quá trình học tập cải tạo …Anh em tù ngồi nghe đều cười rút rít, mới có hơn 5 năm, mà tướng được thả còn hàng hà cấp úy ngồi đây, Cộng Sản là vậy đó, nhiều cái nghịch lý, Cộng Sản vẫn làm được, tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu cảnh chia tay, có người nằm cạnh chiếu, có bạn đồng hương, cùng khóa, ăn cơm chung, cùng đơn vị, nếu chia tay là vui, thì Quốc văn Giáo Khoa Thư không viết” Ôi! Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy”,cứ sau mỗi đợt thả, gia tài tù của tôi, có thêm vài món, khi thì cái chảo, lúc là cái mền… Năm tháng chất chồng đời tù cứ trôi, người tù đều đã biết rõ mình là ai, một số làm ăn ten nay cũng hồi chánh, trở về với chính nghĩa quốc gia, những tay cần cù lao động để được hưởng mức ăn cao, nay đều thấm mệt, một số bị cụp lưng, rồi thấy lòng hối hận, vì đã trót ngu nghe lời lao động tốt, tiến bộ tốt, để được tha về sớm.. Từ mất lòng tin( Trong lúc Tổng Thống đã từng nói “Đừng nghe những gì CS nói…’) trở nên lao động lè phè … cảnh sống tù trở nên thoải mái nhiều nhờ diệt bớt ăn ten.
                  Mỗi ngày ra lao động, người tù cũng có ý đồ, ít ra cũng có dịp tìm rau, củi, đóm để tối về nấu nướng…trưa chiều thu quân, sau khi báo cáo số tù nhập trại, anh em xếp hàng đôi, lột nón cầm tay bước qua cổng trại, với cặp mắt công an nhà nghề, của cán bộ an ninh trực trại, nhìn từng người một, bởi ở lâu năm, nên nhóm cán bộ trực, rành rẻ từng cá tính tù viên, thường nhửng ngày cuối tuần hay trước khi có lễ lớn, là các đội đều bị nhóm thi đua khám xét từng người. Ở trại Hà Tây, anh em không thể nào quên được tên trưởng ban thi đua Đổ Công Thành ( Quốc gia hành chánh). Đây là một tên chó săn, rất thính mũi, tổ chức hệ thống báo cáo dày đặc, và tên Thành sau hơn 5 năm được giặc thả về…Sau nầy có Triệu râu, Trung tá trưởng một phòng thuộc Quân Trấn Sài Gòn, xin xỏ cán bộ an ninh mấy lần, để được đề cử làm nhân viên thi đua…đây là một con người bần tiện nhất trại tù Hà Tây, không thể nào kể hết những việc làm nhơ nhớp của tên nầy.
                  Trại xét mặc trại, anh em lận củi, thức ăn vào cứ lận …Anh em thường nói…”qua không qua thì hoát
                  Một buổi trưa đi làm về, cán bộ Từ, trực trại ( thượng sĩ) và trung sĩ Hùng an ninh, cùng với 4,5 nhân viên ban thi đua, chận ngang cửa xét từng tù viên, Tùng thuộc đội ngói, lận trong lưng một vật gì khá lớn, cán bộ Hùng chộp ngay anh ra khỏi hàng, thò tay vào áo lôi ra…Tất cả anh em tù chứng kiến đều bật cười …, thì ra một con truyền giống nam, mà ngòai Bắc gọi là con Bùi Giái, được nắn rất công phu, trong trạng thái hùng dũng thuộc loại …đai gia, trông rất sống động, có cả hai trứng vịt thật gồ ghề, cán bộ Hùng giận xanh mặt, bắt Tùng vào ngay phòng an ninh viết kiễm điểm..Trưa đó Khanh thích lắm, ngồi cười hoài, chốc chốc lại khen Tùng có hoa tay, nắn thật giống, thấy cả gân. Đất sét hầm chín màu đỏ gạch nặng khoảng 1 kilô. Khanh kết luận câu chuyện bằng hai chữ “quá đã"…
                  Qua tin tức thăm nuôi, người nhà cho biết ở Hàm Tân, mới thiết lập trại tù mới, đã có nhiều nhóm anh em tù ngoài Bắc, được chuyển về Nam bằng xe lửa và nhốt tại trại Z30D thuộc tỉnh Hàm Tân, nghe tin nầy, anh em thấy phấn khởi, tù đâu cũng là tù, nhưng dù sao về Nam, không khí cũng dễ chịu hơn, gia đình gần gủi hơn, dễ thăm nuôi hơn, đở tốn kém hơn, đề tài trong câu chuyện hàng ngày của anh em tù, là việc chuyển trại, bao nhiêu “thầy bàn “ trong trai được dịp bình luận, nào là về Nam để chuẩn bị cho Mỹ bốc đi, nào là về Nam để rồi sẽ thả hết…
                  Sáng thứ hai, ra sân chờ đi lao động, anh em thấy có 1 cái bàn đặt trước sân ( cái bàn nầy mỗi khi xuất hiện được anh em tù, gọi là bàn hương án, lập bàn nầy, thường để cán bộ giáo dục nói chuyện hay trai trưởng muốn dặn dò điều gì với tù, đọc lệnh tha, đọc quyết định kỷ luật... thế là anh em nhao nhao bàn tán, có đợt tha ? có anh nào bị kỷ luật?...
                  Tới giờ kẻng đánh xuất trại, anh em tù ngồi chồm hổm, theo thứ tự từng đội, trước cửa hội trường như thường lệ, cổng trại mở ra, anh em thấy thiếu úy Bốn, cán bộ giáo dục( tên Bốn nầy là cán bộ giáo dục mà lại có giọng nói ngọng,nên thường bị anh em nhái giọng nhạo báng), thượng úy Nhận, trại phó ( tên nầy ốm, cao da thâm đen, mặt lúc nào cũng đằng đằng sát khí, anh em tù gọi hắn là Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cù Thiên Nhận, tên của một nhân vật võ lâm trong truyện kiếm hiệp Kim Dung)) Anh em bàn tán xù xì, chỉ có hai tên nầy, mà không có Đại Tá Mô, trưởng trại, thì chắc không có gì quan trọng.
                  Sau một vài thủ tục nghi thức, Bang Nhận bắt đầu nói, Nhận khẳng định với anh em, là trại nào chuyển về Nam chứ trại Hà Tây nầy không có, và sau một vài câu dặn dò quen thuộc về nội quy và lao động, anh em bắt đầu xuất trại. ..
                  Đêm tối, chờ đánh kẻng ngủ, thường trong buống có nhiều hình thức sinh họat, chỗ thì uống trà bàn thời cuộc, chỗ thì cờ tướng, giải đoán tử vi xem trong tuần có quà không? Đêm nay gần đi ngủ mà tôi chưa thấy Khanh có mục gì mới, vẫn mãi miết cầm tờ báo xem say sưa… Tôi không phải chờ lâu, tôi thấy Khanh ngồi bật dậy… ngó qua ngó lại rồi bắt đầu đọc lớn;
                  -Cuộc họp quốc phòng tối cao, được tổ chức tại thủ đô Mút Ku, giữa Nhật và Liên Sô, Trưởng phái đòan Liên Sô là Nguyên Sóai Móoc-Ku-Ra-Đốp, trưởng phái đoàn Nhật là Đại Tướng Đút-Ku-Dzô-Mu-Kô, ngoài ra còn có phó thủ tướng Liên Sô, đồng chí móoc-Ku-dra- Koi… Phải có một màn trật trờ, Khanh mới chịu đi ngủ.
                  Hai ngày sau, trưa thứ tư tan tầm, buổi trưa trời bắt đầu đổ cơn mưa lớn, mưa dai dẳng cho tới giờ lao động chiều, anh em vui vẻ, mưa khỏi phải đi lao động, khoảng 3 giờ chiều, trời còn đang mưa, cán bộ giáo dục đi vào từng buồng, kêu gọi anh em yên lặng, nghe đọc tên chuyển trại về Nam và không quên dặn dò anh em nào có tên, phải khẩn trương gọn nhẹ, đồ đạc chuyển đến buồng 8( Buồng mà trước đây anh em Biệt Kích ờ , tù hình sự cũng thường ở đây) .
                  Đội rau có 2 anh có tên :Thiếu tá Minh( Phi công vận tải) Đại Úy Khanh( Bộ Tổng Tham Mưu), Đại úy Phạm Văn Quý( phi đòan Thần Phong) bên đội Phạm Thái
                  Anh em phụ sắp xếp đồ đạc cho mấy anh di chuyển, Khanh vừa xếp đồ vừa nói:
                  -Mới thứ hai, Ban Nhận nói không chuyển trại, mà nay lại chuyển, Ông Thiệu nói không trật được,đã bảo đừng nghe những gì…Khanh bỏ lững câu không nói tiếp, mà nhìn anh em cười
                  Trời ngớt hột mưa và dần tạnh hẳn, anh em lao nhao bàn tán, rồi cũng biết được chính xác con số chuyển về Nam, tất cả có 100 anh, bạn bè phụ khuân giúp, cảnh trông ồn ào rộn rịp, cán bộ trại cũng không nói gì, khoảng hơn 1 giờ sau, các anh em chuyển về Nam, đều đã yên vị, khu vực bị cách ly. Anh em đứng bên nầy tường rào, trèo lên nóc nhà tắm nhìn sang khu buồng 8, tôi thấy anh Nguyễn Phu, nguyên chỉ huy trưởng Trung Tâm 3 tuyển mộ, đang hướng về Anh Trung tá Huỳnh Hữu Đức, trưởng ban quân kỷ, bộ tổng tham mưu, xá dài 3 xá từ giã, người đi, người ở dặn dò từ giã nhau, trời mới tạnh mưa, cảnh vật còn ủ rũ lắm, cảnh chia tay lại càng thêm buồn, buồng 8 cách ly hẳn với các buồng còn lại, chỉ có anh em thi đua mới được ra vào, chiều hôm đóThếng ( đại úy trong ban thi đua) mang đến cho tôi một gói thực phẩm, anh trung tá Đức nhờ chuyển lại cho tôi, tôi mở ra thấy có nhiều lạp xưởng, gạo và vài loại thức ăn khác…
                  Đêm đó trong buồng thật yên ắng, anh em âm thầm hút thuốc, ít tiếng cười giỡn,mọi động tác trở nên nhẹ nhàng cẩn trọng, hầu hết cùng chung tâm trạng, ngày mai rồi đời mình sẽ ra sao??
                  Sáng hôm sau, ngày thứ năm, một trăm anh em xách hành lý ra cổng, anh em còn lại bị nhốt trong buồng,toán về Nam cứ 2 người chung một còng ( đồng hồ xã hội chủ nghĩa)…Tới gần 9 giờ sáng cửa buồng mở, xe đã chở anh em đi mất, tù còn lại tiếp tục chuẩn bị xuất trại như thường ngày.
                  Khanh đi rồi, đêm nằm tôi thấy vắng vẻ, thấy nhớ từng câu hát của Khanh, mọi xáo trộn trong cảnh tù phải năm mười ngày sau mới bình thường lại.
                  Sau ngày ra tù, thỉnh thoảng tôi có gặp lại bạn tù năm xưa, riêng Khanh tôi chưa một lần gặp lại, không biết Khanh có vượt biên, có đi theo diện HO hay là ở lại Việt nam sống với lũ giặc cuồng…
                  Mười năm sau hay cả cuộc đời, cảnh sống trong tù, tôi không thể nào quên được, rất nhiều đêm trong giấc mơ, tôi thấy tôi đang lao động trong trại khổ sai, tôi thấy tôi đang bị công an địa phương hạch hỏi tôi, tôi thấy bạn tôi bị thương, mình đầy máu, trên con đường di tản, trên tỉnh lộ 7B…tôi thấy tôi đang bốc vác cải cà trong chợ Trương Quốc Cường, công việc làm kiếm sống của tôi sau tù, đồng tiền kiếm được bằng mồ hôi vừa đủ nuôi thân. Những lúc tỉnh giấc, biết mình đang nằm yên ấm trong nhà, trên đất tự do, tôi không khỏi cám ơn Phật Trời, đã hộ trì tôi, thoát khỏi cảnh sống kinh hoàng…mà tôi vẫn nghĩ cuộc sống đó là… Địa ngục trần gian.
                  Bây giờ nơi xứ lạ quê người, nhìn lại cuộc đời đã qua, tôi thấy mình đã đi trên đọan đường quá nhiều chông gai, hơn tám năm trong lao tù Cộng Sản, tôi còn sống tới ngày hôm nay, cũng là điều may mắn trong cuộc đời. Mẹ của tôi, chị của tôi đã thăm viếng, nuôi nấng tôi suốt trời gian tù tội, người đàn bà Việt Nam thật đáng trân quý, bỏ qua một thiểu số không giữ được lòng kiên trinh, gió xoáy cờ xoay, lòng người chao đảo.. còn lại hầu hết là những người mẹ, người chi, người em gái, người vợ… chịu thương chịu khó,sống cảnh đạm bạc, chắc chiu từng đồng bạc để nuôi con, nuội em, nuôi anh, nuôi chồng... trong những trại khổ sai xa xôi mịt mù đầy nguy hiễm …Vĩnh Phú, Nam Hà, Hà Tây, Tân Kỳ, Thanh Phong…
                  Những người mẹ già thương quý đó, nay còn đâu, nỗi thương, nỗi nhớ, lòng khắc khoải trông chờ…những người mẹ đó đã mang theo bao nhiêu thương nhớ sang cõi vĩnh hằng. Người đàn bà thương tôi nhất trên cõi đời nầy, là mẹ, mẹ bây giờ ở đâu? trong cõi vĩnh hằng bên ba, mẹ có hiểu được lòng con, đất người tuy nắng tự do, đời sống vật chất tuy đủ đầy, nhưng làm sao nhìn lại đựơc dáng mẹ hiền thân thương, cũng như những ảnh hình kỷ niệm, mà ngày ra đi, phải đoạn đành bỏ lại, để nơi xứ người vẫn luôn mong có một ngày quang phục, được trở về sống những ngày cuối đời, nơi quê cha đất tổ, nhìn lại lá cờ vàng phất phới bay trên khắp nẻo đường quê hương…!!
                  Cám ơn tiểu muội thật nhiều, đã gợi ý cho huynh nhớ lại một thời gian dài gian khổ trong lao tù Cộng Sản...

                  THỦY LAN VY
                  (Kỳ Đà Động- Hè 2005)

                  Con đi dưới lá cờ sao máu
                  Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                  Comment

                  • #24

                    TÌNH QUÊ VẪN CÒN NHỚ
                    *




                    Nhà bác Năm bây giờ trở nên thân thuộc với toán công tác Dân Sự Vụ của tôi.Bác Năm là bác vợ của Trung Sĩ Nhất Minh Đường, toán phó của tôi, nhà bác Năm nằm trên trục lộ xã Tân Thới Nhất dẫn đến quận lỵ Hốc Môn.
                    Tôi hướng dẫn toán dân sự vụ công tác tại quận Hốc Môn đã hơn nửa năm, mọi chuyện với tôi đều trở nên quen thuộc, cá tính của một vài sĩ quan chi khu trực tiếp với toán tôi, của những ông xã trưởng, những vị trưởng ban thông tin xã…tôi đều tương đối rõ, nhất là về tửu lượng của mỗi người, tôi càng tìm hiểu kỷ hơn, để phòng khi lâm trận… nhậu, biết người biết ta mà dễ dàng xoay sở.Trước khi tôi lên công tác ở đây, đã có hai toán bị trả về, và một toán năn nỉ tôi lên thay giùm vì không chịu nỗi sự kiểm soát của Đại úy Cưng trưởng ban 5 và Đại úy Danh chi khu phó.
                    Toán công tác của tôi có danh xưng là toán Dân Sự Vụ khi đi công tác tại những xã ấp đã bình định, gọi là Chiến Tranh Chính Trị hành quân là những khi theo đơn vị tác chiến tới những vùng vừa chiếm lại được từ tay giặc, mổi toán gồm tối đa là 8 người, một sĩ quan trưởng toán, và bảy nhân viên đa số đều có nghề nghiệp chuyên môn như hớt tóc, quân y, truyền tin, cơ khí, điện…phương tiện di chuyển thường bằng một chiếc xe Dodge, trên xe căn bản có trang bị một máy phóng thanh UIH5, máy chiếu phim, radio catset thùng thuốc chửa bệnh thông thường, thùng sách báo… toán đi công tác cũng gần giống như một gánh hát sơn đông mãi võ, đi xa còn chỡ thêm nồi niêu soon chảo, thức ăn gạo thóc,bếp dầu lửa… ,
                    Thực ra Đại úy Cưng không phải là khó khăn gì cho lắm, mà tại toán công tác trước tôi lè phè, đi công tác tăng phái mà chỉ muốn về sớm, bỏ công tác phóng thanh ban đêm để kêu gọi chiêu hồi tại các xã giáp hạt như Nhị Bình,…Quận Hốc Môn tương đối xa Sài Gòn so với các quận ngọai thành khác như Bình Hòa, Phú Nhuận. Toán công tác làm việc nửa buổi là dù về Sài Gòn thì làm sao không bị khiển trách được.
                    Anh toán phó Minh Đường có nhà tại Hốc Môn, đối diện với nhà bác Năm, tài xế và nhân viên tôi cho phép dùng xe gắn máy đi làm, muốn về Sài Gòn chỉ cần hỏi qua tôi , riêng tôi và toán phó ôm xe ngủ tại chỗ, bởi vậy Đại Úy Cưng khen toán tôi nhiệt tình ( Lúc tôi đi đăng ký chuyến bay tôi có gặp và chào hỏi anh Cưng tại phòng đăng ký, Anh Cưng ở tù với cấp bậc Thiếu Tá, cũng như lúc vào tù trại hà tây tôi cũng gặp lại đại tá Tồn là tiểu khu trưởng)) kiểm soát lúc nào cũng thấy xe phóng thanh ra rả…
                    Lúc mới ra trường, tôi rất thích đi đó đi đây, được phục vụ trong đơn vị tổng trừ bị rất thích hợp với tính tôi, công tác tại các làng quê, được tiếp xúc với những người lớn tuổi, những viên chức xã ấp, tôi gặp đủ đề tài, tình huống khác nhau làm vốn liếng cho hành trang công tác,với lại cũng nhờ uống rượu lâu say mà tôi được cảm tình của mọi người ở những vùng tôi đặt chân tới…
                    Nhà bác Năm sống bằng nghề làm bún, lò bún của Bác tương đối khá lớn ở Hốc Môn, làm bún thường kèm theo nghề ù giá và dĩ nhiên trong vườn nhà bác có trồng mấy líp rau thơm để bán kèm, cách nhà Bác Năm khoảng hút tàn điếu thuốc là nhà Chú Ba quay heo, đây là nghề gia truyền của gia đình chú,muốn cho thịt heo quay ngon, phải biết lựa heo, heo vừa lứa, không mập lắm để tránh nhiều mỡ, da giữ được dòn lâu, rồi gia vị ướp heo luôn được bảo mật, cho nên thịt heo quay của Chú Ba chặt ra là đã bay mùi thơm…heo quay và cách chặt thịt cũng không kém phần quan trọng trong việc kích thích vị giác của khách hàng, cùng một miếng thịt quay, qua tay chặt của Chú Ba sẽ trở thành một dĩa thịt quay hấp dẫn, một tay chú cầm con dao to bản, một tay chú cầm một cây giũa tròn nhọn đầu bóng mỡ, chú liết con dao lên cây giũa phát ra âm thanh trong sắc mà êm dịu, lưỡi dao trở nên sắc bén, chú cầm dao trông nhẹ, lực tiềm ẩn trong cổ tay nên khi lưỡi dao chạm vào thớt me to thì miếng thịt đứt ngọt mà vẫn nằm y vị thế…
                    Minh Đường lớn hơn tôi 5,3 tuổi gì đó, anh rất mến tôi bởi tính tôi hiền, lại uống rượu mạnh, say không quậy mà rất vui vẻ, thường thì đến địa điểm công tác, tôi cho nhân viên bày đồ nghề ra, tự tôi đọc thuộc lòng một vài bài tuyên truyền, trong lúc anh quân y bày hàng khám bệnh phát thuốc, chú lính hớt tóc, bắt con nít cho ngồi lên ghế vừa mới mượn của một nhà nào gần đó, cắt lại mái tóc cho gọn gàng, khi hớt xong, cũng không quên tặng cho chú em một viên kẹo ho màu xanh…đối với quý vị con nít ở xã thì viên kẹo nầy đáng giá vô cùng, báo Chiến Sĩ Cộng Hòa, Thế Giới Tự Do, Hương Quê….đưoợc ưu ái trao tận tay các cô thợ may trong một tiệm gần đó,những đóa hoa đồng nội nhưng không kém phần duyên dáng, sau khi đọc vài bài đại khái như kêu gọi thanh niên lên đường nhập ngũ, kêu gọi dân chúng giữ gìn vệ sinh công cộng, kêu gọi thanh niên tong quân, lên án tội ác của bọn Cộng Sản phá hại đời sống an bình của đồng bào…tôi cho phát nhạc từ cát sét hay là tiếp vận đài Sài Gòn
                    Công tác đều đặn như vậy luân chuyển lần lượt qua mười hai xã trong quận, mỗi lần đến xã là đến một ấp khác nhau, ngày nào cũng vậy, phát thanh xong, anh trưởng thông tin xã đi …gầy độ nhậu, toán tôi có ba người, ngoài tôi có anh toán phó và anh tài xế…hôm nào không có độ thì về nhà Minh Đường hay là ghé qua nhà Bác Năm …kiếm cái gì lai rai…
                    Dân Hốc Môn thường rất hiếu khách, cách làm thức ăn thì rất công phu và hấp dẫn. Chiều thứ bảy, toán tôi thu xếp về sớm vì buổi sáng Bác Năm có nhắn mời toán chiều về ghé nhậu chơi., xe đậu trước ngõ, vào tới nhà thì thấy ở bàn giữa đã có một vài người khách đang trò chuyện rôm rả, bên hông nhà, Bác Năm đang xỏ que tre vào miệng ba con cá lóc, mỗi con cở hơn kí lô, Bác cắm cây tre xỏ cá xuống đát rồi úp thùng thiếc bên ngoài, xong bác lại cây rơm, lần rút ra từng ôm đem chất chung quanh thùng thiếc, tôi đứng nhìn Bác làm, với từng động tác nhẹ nhàng quen thuộc, lửa rơm cháy bùng chung quanh thùng thiếc…khoảng hơn mươi phút, Bác lật thùng thiếc lấy ra ba con cá vừa chín tới, chuyền cho bé Hường , cô con gái út, đem vô nhà bếp lột vảy rồi nướng lại bằng lửa than hồng…
                    Khi tôi ngồi vào bàn, thì ba con cá được xếp trên ba dĩa hình hột xoài lớn, da cá rám lửa vàng nghín. Tươm mở hành trên có điểm đậu phộng đập vập 3-4, vài lát củ hành Tiều phi vàng với mấy lát tỏi trông màu óng ả, một tô nước mắm me, lọại me gần dốt đâm nát, chút tỏi bầm nhuyển với ớt sừng trâu chín đỏ đâm dập dập, một rổ nhôm có ba chân đựng đủ thứ rau: chút đọt vạn thọ, lá đọt sộp, vài đọt đinh lăng, hún cây, hún lũi, quế, vấp cá, tía tô…một dĩa xoài tượng cắt mỏng còn vỏ, một dĩa trái điều vàng cắt mỏng bằng lọai dao inox cho thịt trái điều giữ được nét tươi màu, trên mươi trái ớt sừng trâu vừa huờm chín, mấy miếng chanh, tôi nhìn dĩa giá, giá mới ra lò còn tươi rói, tôi thấy rể giá như còn đang tiếp tục tăng trưởng, mấy dĩa bánh tráng và bún cũng được xếp tươm tất trên bàn…Nhìn chiếc dĩa bàn trắng đựng khế chua, khế được cắt ra theo chiều dọc để dễ cuốn với bánh tráng, những cọng khế được cắt rất đều đặn, có lẽ được cắt bằng dao trắng mũi nhọn nên hột được người cắt lấy ra sạch trơn, nhìn màu vàng ửng sậm của khế thì biết ngay khế có vị chua ngọt chứ không chua sẳn lè như khế màu xanh, rồi mấy lát chuối hột chát cắt đều khoanh xếp liễn quanh dĩa, một thố xả lọai củ to được xắt khoanh mỏng ngâm dấm…chỉ nhìn sơ phần tẩn liệm mấy chú cá nướng, người lạ mới vô nhà cũng sẽ biết ngay chủ nhà là người sành ăn nhậu và mấy cô con gái có tay nghề bếp núc cao…
                    Sau khi mọi người vừa yên vị xung quanh bàn, nhìn một vòng điểm danh, tôi thấy ngoài Bác Năm chủ nhà, còn có Chú Ba quay heo, anh Tám Nương, cán bộ thông tin xã, anh Tư Rổ sửa xe đạp, tôi, Minh Đường và Thông tài xế, mấy chú lính không nhậu thì ngồi riêng ở bàn nhà sau.Khách trong bàn nhậu với tôi vẫn là những khuôn mặt quen thuộc, thường rất vui vẻ cởi mở, chỉ có Anh Tư Rổ là tôi ít có cảm tình, anh uống rượu thường hay kê tán, ly rượu anh uống xong đều còn lại một hớp trong ly, Anh Tư bị Minh Đường kê hoài mà vẫn không bỏ tật, có lần anh nói:
                    Thiếu úy thông cảm, bệnh còn chửa được, chứ tật thì xin bỏ qua.Vin vào câu nói của anh, tôi bẻ ngay
                    -Anh nói vậy thì tôi rất đồng ý, nhưng từ bây giờ cứ qua một vòng tua, thì anh phải uống thêm một ly để bù vào chỗ kê tán, dĩ nhiên ý kiến của tôi được cả bàn đồng ý, và cũng từ đấy cái tật kê tán của anh cũng mất dần…
                    Lần nào cũng vậy, vô bàn ngồi chào hỏi xong là Bác Năm đi lại tủ thờ, Bác mở tủ lấy ra một chai lọai chai 3 xị đựng đầy rượu trắng trong veo, bác thường nói:
                    -Rượu đựng trong chai một lít trông ngán lắm, chai nửa lít thì trông ít quá, tôi thấy chai ba xị nầy là vừa …
                    Vừa nói bác vừa chuyên rượu từ chai vô một cái nhạo sứ, mỗi nhạo nầy rót ra được mười một ly nhỏ, và cứ rót hết chai rượu nầy bác lại tủ lấy ra chai khác, chưa bao giờ tôi thấy nhà bác hết rượu phải đi chỗ khác mua thêm, rượu của Bác cũng đặc biệt, ít nhất nồng độ cũng phải 50 độ, nước rượu trong veo, dằn chai lên bàn là bọt tăm sủi đều lên cổ miệng chai, uống vô thấy nồng mà hậu lại ngọt, lỡ say tỉnh dậy cũng không thấy nhức đầu…
                    Bắt đầu buổi nhậu, Bác Năm gia chủ tự rót lấy một ly, bác nói vài câu tuyên bố buổi nhậu, bác cầm ly rượu bằng hai ngón tay cái và trỏ, khoan thai đưa ly rượu lên môi, bác đánh ực một hơi xong úp ly xuống không còn sót một giọt rượu nào, xong Bác rót một ly đầy khác mời tôi, khi tôi uống xong ly rượu lễ là ly rượu được rót tiếp ra bắt đầu xoay vòng theo chiều kim đồng hồ.Trong bàn tôi tuy nhỏ tuổi nhưng nhờ có cấp bậc nên cũng được kính nể, ở quê mình là vậy đó, trong bàn nhậu thì thường những người có tuổi tác hay có cấp bậc thường được trọng vọng…
                    Bánh tráng Hốc Môn lọai tròn nhỏ chỉ lớn hơn cái dĩa nhỏ chút đỉnh, rải sơ ít nước bánh trở nên dẽo, tôi đang đói bụng, gặp cá nướng trui, với đủ thứ lọai rau ngon, tôi cuốn liền mấy cuốn mà vẫn còn thấy thòm thèm, thịt cá lóc ngọt ngào thơm mùi hành tỏi phi cộng thêm với vị chua, chát, cay, thơm…của khế, chuối chát, rau thơm, răng còn trai trẻ cắn miếng nào miếng nấy đầy cả họng, tay cầm trái ớt sừng trâu, cắn rớp một cái, vừa nuốt xong thì ly rượu vòng tua cũng vừa rót tới, chiêu một ly đánh ót, khà lên một tiếng…không gì đã bằng.
                    Cũng bởi còn trẻ, nên tôi được trong bàn chú ý hơn, thôi thì ruột cá, thịt mỏ quạ, thịt gò má…được mọi người gắp bỏ vô chén , tôi cuốn không kịp…mãi lo cuốn, nên tới vòng tôi quên rót, Anh Tư Rổ cầm nhạo đứng dậy rót thế cho tôi
                    -À, Thiếu úy là dân Gò Công, Xứ mà Rượu Gò Công ai đong nấy uống,sẵn bữa nay nhậu vui, có hai câu đối tôi nghe qua mấy lần, nay xin phép được đọc lại cho mấy Bác và Thiếu Úy nghe chơi và cũng không chờ sự đồng ý của mọi người, Anh khề khà đọc:
                    Trai Hốc Môn vừa hôn vừa móc
                    Gái Gò Công vừa gồng vừa co
                    Mình nhậu ở đất Hốc Môn, mà Thiếu úy là dân Gò Công thì câu đối nầy cũng hòa điệu lắm phải không Thiếu Úy ?
                    Nghe xong, trong bàn cười vui rôm rả, có người khen câu đối chỉnh quá, rót thưởng Anh Tư một ly rượu đầy tràn…
                    Riêng phần tôi nghe xong câu đối, tự nhiên cảm thấy như tỉnh rượu hẳn lại
                    Cái thằng cha Tư nầy mình đã không ưa, nay còn bày đặt đọc câu đối, nhắc tới gái Gò Công, thì phải nhắc tới Đức Bà Từ Dũ, bà mẹ nuôi của phò mã Võ Tánh, Nam Phương Hoàng Hậu, bà giáo sư Châu hiệu trưởng trường trung học áo Tím, Nữ sĩ Manh Manh…hay gần đây cũng phải là chị Phạm Thị Thàng, vợ của anh Trung Đội Trưởng Nghĩa Quân đồn Giồng Đình đã cùng chồng chiến đấu anh dũng ngăn chận nhiều cuộc xung phong biển người của Tiểu Đoàn 514 Cộng Sản, mà tượng hình Chị còn đang dựng ở ngả sáu Sài Gòn…Chứ nhắc đến gái Gò Công với vẻ cợt đùa như trong câu đối nầy là tôi không khoái rồi đó, bụng thì nghĩ vậy chứ miệng cũng ráng gượng cười:
                    Một cách chơi chữ khéo đó Anh Tư.
                    Miệng thì nói vậy chứ trong bụng tôi rủa thầm Tư Rổ, tôi lay quay tìm cách trả đũa cha nầy, dù sao trong bàn mình cũng là sĩ quan, lại là ngành Chiến Tranh Chính Trị, phải tìm cách nào trả đũa cho nhẹ nhàng mà người ta không bẻ mình được, cứ tới vòng ly là tôi bưng ly uống, dĩa cá không còn hấp dẩn với tôi nữa, mình nhậu ở đất Hốc Môn, Bác Năm, Chú Ba là dân bản xứ, Minh Đường là rể Hốc Môn, Thông tài xế là dân Sài Gòn, thằng cha Tư Rổ nầy là dân Củ Chi, đúng rồi có lần mình nghe ảnh kể chuyện Củ Chi quê quán của ảnh…
                    Vừa nghĩ, tôi vừa nhìn ra hàng hiên trước, hạ sĩ Nguyên không uống rượu, nên đã ăn xong, đang đứng bún tay trước lồng Chim Cu của Bác Năm chọc cho con chim gù…Nhìn cảnh thằng Nguyên đứng trước lồng cu, trí tôi chợt lóe ý
                    Gái Củ Chi thấy Cu thì chỉ
                    Lẩm nhẩm trong đầu tôi thấy chưa được ổn lắm, cu chỉ lái từ Củ Chi thì chưa được ổn lắm, nhưng từ câu nầy tôi chợt nhớ đến một vế đối mà tôi đã đọc được trên một tạp chí nào đó, lòng tôi tự nhiên thấy phấn khởi, vói gắp một miếng khế chấm mắm me ăn thắm giọng, tôi đứng dậy, tay với cầm lấy nhạo rượu, rót ra một ly đầy, mắt hướng về Anh Tư
                    -Dạ, xin phép trong bàn cho tôi được uống giao hữu với Anh Tư uống cho câu đối của Anh Tư vừa đọc có nhắc tới gái Gò Công, tôi cũng rất thích thơ phú, Thấy Anh Tư đọc câu đối lòng tôi rất hứng khởi, nên nhớ đến một câu đồi khác.Tôi uống xong ly rượu, chờ Anh Tư uống xong tôi tiếp
                    -Đây là một vế đối mà tôi được đọc trên báo, lâu rồi tôi không nhớ tên tác giả, đặc biệt vế đối nầy cũng chưa có câu đối lại cho chỉnh, tôi cũng xin hỏi Anh Tư có phải quê anh ở Củ Chi không?
                    -Đúng rồi Thiếu úy, tôi sinh đẻ ờ Củ Chi và ở đó cho tới năm 15 tuổi mới về sống ở quận Hốc Môn nầy.
                    -Vậy thì tôi xin được đọc, nếu anh đối được tôi xin uống hết nhạo rượu nầy.
                    Trong bàn chợt ồn ào, nhiều người khuyến khích Anh Tư ráng đối lại cho chỉnh để thấy thiếu úy uống hết nhạo rượu
                    Tôi khoan khoái khề khà đọc vế đối:
                    “Gái Củ Chi, chỉ cu, hỏi củ chi
                    Tôi đọc xong, cả bàn phát lên cười rộ
                    -Chà cũng chơi chữ nghe, giọng Bác Năm- Chú mầy ráng đối lại đi Tư, Coi bộ vế đối nầy họa chăng có Mạc Đỉnh Chi mới hy vọng đối lại được, coi bộ khó thấy Thiếu úy uống hết nhạo rượu quá
                    Anh Tư suy nghĩ một lúc rồi nhìn tôi cười
                    -Tôi chịu thua Thiếu úy, vế đối nầy hóc quá.
                    Bây giờ hơn ba mươi năm, sống trên đất tạm dung nầy, mỗi khi nhớ lại những ngày còn mặc áo lính, tôi lại nhớ đến những lần nhậu ở nhà Bác Năm, đất khách quê người, làm sao tôi có thể tìm lại được tấm lòng thân thương của gia đình Bác Năm đã dành cho tôi, cũng như tình cảm anh em trong toán đã dành cho tôi, tôi nhớ tới những ngày trong lao tù Cộng sản, một số anh em trong đơn vị cũ(ĐĐ 504 CTCT), dù hoàn cảnh sống trong xã hội Cộng Sản rất khó khăn,cũng đã hùn góp lại mua quà gửi cho tôi mấy lần lúc tôi bị nhốt tại trại tù Hà Tây, cũng như đến tận nhà thăm viếng lúc tôi được thả về, lúc bấy giờ( 1983) Gò Công là điểm nóng, người lạ lui tới đây dễ bị công an theo dõi vì tình nghi tìm lối vượt biên. Vậy mà anh em cũng mặc kệ.
                    Câu đối mà tôi cố ý trả đũa Anh Tư Rổ, trong lúc tửu nhập ngôn xuất, vì tự ái quê hương hòa với men rượu Hốc Môn…Cho tới bây giờ vẫn chưa tìm được vế đối chỉnh

                    thủylanvy
                    ( Viết tại Kỳ Đà Động để nhớ những ngày ở KBC 3858)


                    Con đi dưới lá cờ sao máu
                    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                    Comment

                    • #25

                      THÂN PHẬN TỘI TÙ
                      *




                      Trại cải tạo "ngụy quân, ngụy quyền", nằm tại Huyện Tây, đây là tên mới đổi của người thắng trận, trước tháng tư, Huyện Tây là quận Hòa Đồng, thuộc tỉnh Gò Công
                      Từ địa điểm tập trung, tại trường Trung Học Công Lập Gò Công, buổi chiều, nhóm trình diện được lệnh chuyển qua trường Trung Học Bán Công, ngủ qua đêm, sáng có xe đò chở lên trại cải tạo Huyện Tây nầy, đây là khu trại gia binh của chi khu Hòa Đồng, nằm bên nầy đầu cầu, bên trái trên đường vô quận.
                      Anh em trong trai là những người sinh quán tại Gò Công, làm việc trên khắp bốn vùng chiến thuật, nay xếp giáp trở về quê nhà trình diện, phần còn lại là quân nhân công chức, người của khắp nơi, về làm việc tại Gò Công...
                      Tại đây tôi gặp người anh thứ ba, anh trình diện trước tôi một ngày, anh là giáo chức, dạy văn chương trường Trung Học Gò Công, anh tốt nghiệp khoá 16 Thù Đức, tại trại nầy,trong hàng ngũ giáo chức, chỉ có 3 người mang cấp đại úy, là Thầy Nguyễn Phước Hải, thầy Hùng với anh tôi. Nhà tôi có hai anh em trai, cùng nắm tay nhau vô chung trại tù ....cho tiện người nhà thăm nuôi.
                      Dù trong lòng đang nặng nỗi buồn thua trận, phải xa gia đình, gửi thân vào tay giặc... Nhưng gặp lại bạn đồng môn, đồng hương sau nhiều năm xa cách, những câu chuyện trao nhau, đầy buồn thương lẫn lộn...Một câu thường nghe anh em nói nhiều nhất : tao tưởng mầy vọt được rồi chứ!!
                      Tôi sống qua bốn trại tù, hai trại ở Tiền Giang, và hai trại ngoài Bắc.. Trại Huyện Tây là trại thong thả nhất, thứ nhất khỏi phải đi lao động, thứ hai không phải lệ thuộc vào tiếng kẻng, sáng muốn thức dậy lúc nào thì thức, tối muốn thức tới đâu cũng được, miễn đừng gây ồn ào, trại lại gần nhà, sáng có người của trại lảnh ra chợ mua thức ăn sáng, theo danh sách đặt hàng vào mỗi buổi sáng sớm, mang về còn nóng hổi ... Người cán bộ phụ trách việc mua thức ăn buổi sáng, có tên là Chi, cựu học sinh trường Gò Công, khóa 6, trước là cán bộ xây dựng nông thôn… Chi có anh theo Việt Cộng, nay còn sống trở về có chức sắc, nên Chi được điều về đây làm việc… Chỉ sau mấy tháng mua thức ăn sáng, Chi tạo được chiếc xe lambretta 2 bánh láng coón..
                      Ở trại nầy dùng chữ giam lỏng thì
                      đúng hơn là trại tù....chính nhờ vậy mà anh em không có người nào đào thoát, tất cả đều bị gạt.. gạt từ buổi ban đầu..Vào trại khoảng hơn nửa tháng, cũng chẳng nghe ai nói năng chi, cứ sáng dậy tự động tập thể dục, mạnh ai nấy tập, thích kiểu nào tập kiểu đó, xong ghi tên gửi mua ăn sáng, trưa lảnh nước uống, lảnh cơm, chiều lảnh cơm lảnh nước, mỗi căn trại ở 10 vị .. tương đối cũng thoải mái, chiếu trải trên nền đất...chiều ra trước sân nhìn dân chúng đi qua lại ... thỉnh thoảng cũng nhìn thấy người quen, những anh gốc Hòa Đồng, chiều chiều, vợ con canh giờ đi qua đi lại... Dù không trao đổi lời nào nhưng sự nhìn thấy nhau cũng tạo được chút an tâm...
                      Sĩ quan từ cấp thiếu úy, cao nhất là thiếu tá... Hầu hết các anh tác chiến và các ngành nghề khác đều chuyển qua Kiến Hòa, cấp đại úy, thiếu tá thì chuyển lên Cao Lảnh, thành phần còn lại là giáo chức biệt phái, trưởng ty, chi, sở, phân chi khu trưởng, cảnh sát sắc phục, dã chiến, an ninh quân đội, tình báo, sở, phòng, ban 2, chiến tranh chính trị... đảng phái...Xem ra đa phần" có nợ máu với nhân dân"Mỗi tuần lễ phải đóng tiền cơm, nên phần ăn cũng không đến nỗi nào, sau hai tháng, trại trả lại tiền cơm, và mức ăn có kém đôi chút. thường là cá biển kho với canh rau… Cũng chẳng thấy trại ban bố lệnh lạc gì cả, Rồi có một toán khoảng 200 người gồm trưởng ban, đoàn trưởng cán bộ xây dựng nông thôn, vài hạ sĩ quan, thư ký hành chánh…Bởi có thêm người nên phải dồn phòng, chỗ nằm, có phần chật chội, chật từ nơi ngủ tới ngoài sân, ra vô là đụng người, vì sân trại gia binh không mấy gì là rộng … Lúc xe chuyển các anh nầy ngừng trước trại, anh em ùa ra sân đúng nhìn…
                      -Coi khóa đàm em tới ..
                      Từng cặp bước vô… Tôi nghe tiếng của Thiếu Úy Hiền
                      - Có ba tui kìa ( Thầy Ký Sung), Anh Đại Úy Võ Hiếu Để, đại đội trưởng Đại Đội Chiến tranh Chính trị Gò Công
                      _ Có Ông Nội tui kìa! Nguyễn Thanh Cầm, khóa 2 CTCT Đà lạt
                      -Trời ba tui kìa
                      Một bạn thân tôi, Nguyễn văn Nha ( Phượng Hoàng) cũng có mặt trong toán nầy .

                      Khóa nầy vô mấy ngày thì khai giảng khóa học.. kéo dài hơn tháng … Có anh Lưu, cán bộ xây dựng nông thôn bên cù lao Tân Thới, đêm ra nhà cầu treo cổ tự vận chết.. Xác treo lũng lẳng như vậy tới trưa, ban pháp y từ Mỹ Tho xuống mới tháo dây khán nghiệm… sau đó cho thân nhân lảnh xác về chôn… Rồi tất cả khóa nầy đều được thả hết.. bởi thả hết nên nhóm sĩ quan còn lại mới lạc quan yêu đời … Nhân viên trại chộn rộn sửa sang lại hội trường, căng băng vải kẻ chữ to ." Khai Giảng khóa học tập cải tạo sĩ quan ngụy quân ngụy quyền Gò Công" anh em thấy vui mừng, vì nghĩ đơn giản, có khai khóa thì phải có bế khóa và rồi sẽ được tha về như khóa trước….
                      Sau đợt đổi tiền lần đầu, rất nhiều gia đình trở nên nghèo túng, Mức ăn trong trại giãm dần, cơm ăn lưng bụng, số người gửi mua thức ăn sáng cũng giãm dần…Nhóm tôi bắt đầu khẩn đất trồng lang, hàng ngày sau giờ đọc báo, anh em đi tìm những đọt rau hoang như dền, diệu, Loại rau diệu nầy, lần đầu tiên tôi mới biết ăn khi vào trại nầy.. Lần lần rau hoang càng khan hiếm vì số người đông…Rau lang thì chậm phát triển vì đất cằn, mà nước tưới lại là nước phèn mặn.. Tuy vậy mỗi tuần nhóm cũng cắt luộc một dĩa, chia ra mỗi người cũng được đũa rau…Tuy nhiên đói khát cũng chưa thấm thía gì cho lắm, vì cứ 2 tuần được thăm một lần.. anh em chung buồng cũng san sẻ cho nhau .., phòng tôi có Lê văn Liệt, khóa 2/69 TĐ, nguyên là Trưởng cuộc Cảnh sát, tỉnh Long An... Là cháu gọi Tám Niên đang giữ chức Huyện ủy Gò Công, bằng cậu, mẹ và em gái Liệt thường đến thăm vào buổi chiều... Và thức ăn tươi như cà ry, gà quay, bún, bánh mì...... cả nhóm 10 người đều ăn no luôn... Cám ơn Liệt và gia đình .
                      Sau 10 bài học chính trị và sau nhiều lần thu hoạch, mà lần nào trưởng trại cũng nói một câu mà tôi thuộc tới bây giờ…
                      - Nhìn chung, các anh khai báo tốt, tuy nhiên cũng còn nhiều anh chưa thành khẩn, các anh về viết bổ sung…" Vậy mà có nhiều người vẫn tin vẫn sợ, viết ngày viết đêm, không tội cũng tự gán cho mình có tôi với hy vọng khai nhiều được đảng khoan dùi cho về sớm..
                      Bắt đầu từ tháng thứ 6 đã có những đợt thả, lần 2 người lần 3 người .. lai rai thả hoài, Các anh được thả là những anh giáo chức cấp thiếu úy, hay có thân nhân bảo lảnh, cho đến tháng thứ 11 thì tất cả các thầy giáo trong trại đều được thả hết, trừ thầy giáo Tốt cấp Trung Úy.. sau đó trại tập họp anh em lại cho biết sẽ chuyển anh em tới một địa điểm khác, tiện nghi hơn, đầy đủ hơn để việc học tập chóng tiến bộ hơn,… Hơn trăm anh em được gọi tên lên xe đò chỡ đi, tay chân tự do không còng trói .. rồi ngày hôm sau, tôi trong nhóm gần 200 anh em lên xe GMC chuyển đi lên trại Mỹ Phước Tây, thuộc Quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho, sau đó mới biết anh em chuyển trước chuyển lên khám đường Mỹ Tho…
                      Bước chân vào trại Mỹ Phước Tây, nhìn vách bện bằng đưng, nóc lợp đưng lụp xụp ..Nhìn thấy láng trại là hởi ôi rồi.. Nhiều anh em tác chiến, trước có hành quân qua đây, cho biết đây là căn cứ hỏa lực của ta trước đây, nằm sát quốc lộ vô Kiến Tường, cạnh con kinh Dương văn Dương…
                      Thời gian sống trong trại Hòa Đồng, cảnh tù tội xem như chẳng có nghĩa lý gì cả.. chỉ là khoảng thời gian giam lỏng, ăn ở không chẳng làm động móng tay, sáng chiều đua nhau tập thể dục..Bây giờ vào trại Mỹ Phước Tây mới thấy thấm, mới thấy đâu là địa ngục trần gian…..
                      Nằm chen nhau như cá mòi họp, trong mỗi đội, gồm đủ mọi thành phần xã hội. Trước khi nhóm Gò Công lên, trại nầy rất ít sĩ quan quân đội Sài Gòn, thành phần xã trưởng, hạ sĩ quan, binh sĩ, trộm cắp, gái điếm, vượt biên.. ..
                      Tôi nằm kế bên Tư Què, chân của chú em nầy bị tật, can tội ăn cắp bình ắc quy, trưởng nhóm là Thượng sĩ Hiếu, hình như phục vụ ở chi khu Sầm Giang.Tôi ngủ chung mùng với Thiếu Úy Tài, thám báo Gò Công, cái mùng nhà binh không giăng thẳng được, mà nằm 2 người, mệt quá nên giấc ngủ đến dễ dàng…
                      Nhớ ngày đầu tiên lảnh vá đi lao động đào kinh, băng đồng, vượt kinh hơn 5 cây số mới tới hiện trường, băng qua nhiều khu đất trủng thấp, chỗ nào có nước là có cá và đỉa, những bạn tù ở đây trước, có anh mang theo cần câu, tù nào vai cũng có mang một bị đệm, đựng cơm, nước, thức ăn, các anh cố đi nhanh, để có dư giờ câu cá, hái rau dọc theo đường.
                      Ở trại nầy tôi biết ăn thêm nhiều loại rau, rau cỏ đồng tháp mười bạt ngàn, rau dền, rau diệu non mướt, dưới kinh có rau hẹ nước, rồi rau đắng, rau mò ôm ( đáng lẽ ôm rồi mới mò chứ), rau đắng đất, rau chốc, cải tàu bay…rau mò ôm có chỗ mọc chen nhau khoảng năm mười thước vuông.. Bạn tù thường kể cho nhau nghe chuyện lính chính quy Bắc Việt, xâm nhập vào Nam, tới Đồng Tháp Mười, đêm ra đồng làm chuyện đệ tứ khoái, xong bứt cỏ chùi .. Tay sờ lên mũi, ngửi thấy thơm, vào kháo với đồng đội
                      " Trong Lam ( Nam), cả cơm nắm tiền, tới cỏ chùi đít cũng thơm".. Thì ra anh ngồi trên đám rau mò om; loại rau nầy phải ăn với lẩu lương, phở, hay lươn um, còn làm rau nêm cho canh chua, chứ ăn khơi khơi với cơm … chả ra gì cả, mà lại khó ăn, ờ thì khi đói, cũng hái đại đem về ăn độn, không bổ bề ngang cũng bổ bề dài…Tôi cũng hái hẹ nước, loại hẹ nầy ăn dở lắm, vừa dai vừa không có mùi vị, lại mọc sâu dưới đáy kinh, nên thân đóng đầy phèn, rau nầy ăn dở cũng giống như rau chốc, thực ra mấy loại rau nầy, trước đây, dân chúng chỉ dùng để cho heo ăn..bây giờ thiếu đói, hái ăn đở … không cám ơn Bác,còn chê khen nỗi gì!!
                      Hôm nào về sớm, còn lựa chọn rau hoang, hôm nào về trể, quơ quào đại. lẫn cả cỏ, xuống kinh tắm vội vàng, rửa qua loa, luộc chín ..vi trùng nào sống nổi … Bởi ăn uống như tù mà !... thời gian vẫn cứ nặng nề trôi, bởi không quen lao động nặng, tất cả anh em từ Gò Công lên, chỉ sau mấy tuần nhìn lại thấy khác sắc, ban đêm ngủ còn phài chia ca ra gác, đám võ trang đi tuần bên ngoài, ngang qua nhóm, gọi mà không có tiếng trả lời, sáng bị xài xể mệt lắm ..
                      Những anh tù có sức khỏe, họ là lính, xuất thân nông dân, nên đào kinh nhanh lắm, xong phần đất, rủ nhau đi tác vũng, những hố bom, nay đọng nước, có rất nhiều cá, bắt được cá, lớp nướng ăn tại chỗ, lớp đem về kho nấu… Nhóm sĩ quan chúng tôi …nhìn thấy biết thèm … Phần đất đào kinh, nhiều đêm trăng lên mà vẫn chưa đào xong, mới thấy thấm thía câu "Một nắng hai sương", sáng ra đi trời còn mờ tối, sương còn vương đọng trên cây trên lá, tối mò về, đêm nào có trăng còn thấy đường đi, đêm tối trời, chân đất, băng đồng, vấp tới tét móng chân luôn…, vừa mệt vừa đói… chốc chốc lại phải lội qua kinh, kinh có bề ngang 3 mét. phóng qua thì không nổi, lội thì …… Sài Gòn ơi, Thanh Hải ơi, Lưỡng Nghi ơi, Thanh Thế ơi… Con gà vàng bóng lưởng treo trong lồng kiếng trong mấy tiệm phở trên đường Hiền Vương … bây giờ hiện ra rất rõ trong ký ức …Trong sự thèm muốn của cơn đói .!
                      Mỗi tháng cho thăm nuôi một lần, mỗi lần 15 phút tại vòng rào kẽm gai quanh trại… Thân nhân bên ngoài ruộng, tù bên trong … , chuyển giỏ thức ăn vô, mang ngang trạm kiểm soát, vô nhóm bỏ đó, lên phòng điều hành, lảnh khi thì thúng lúa, khi thì bó khóm, hay 5 cây chuối cao khoảng hơn thước, mang ra hiện trường cách trại hơn 5 cây số…. Từng bước đi trên con lộ đá, trời hực nắng giữa trưa,, trong lòng ngỗn ngang trăm mối .. Mới gặp người thân đó, mới nghe chuyện vui buồn ở nhà… đầu đội thúng lúa.. mắt muốn nở sao… từng bước đi, như một người máy… chữ nghĩa nào đủ để diễn tả nỗi lòng, tâm trang của người tù khổ sai lúc bấy giờ …!!. Thúng lúa còn dễ dàng xoay trở, ra tới nơi đổ vô bồ xong là về, bó khóm mới thật là dĩ chí di nan, nó không nặng lắm, nhưng rườm rà, lại gai gốc, 5 cây chuồi mới dở khóc dở mếu … Rồi cũng xong thôi, trời hại mới chết chứ người hại chỉ vất vả chút thôi .!
                      Trai nầy có một điều đặc biệt, các cán bộ trại ít có người nào lành lặn, trưởng trại, Hai Bạch thì chân đi cà lích xích, Sáu Que, trưởng an ninh, thì bàn tay mất mấy ngón, người thì mất vành tai, người thì mặt mày đầy thẹo … Bởi vậy chúng áp đặc luật rừng lên tù sĩ quan, nhất là các sĩ quan từng phục vụ cho Sư Đoàn 7, lính địa phương quân tiểu khu Định Tường.. là những người mà trước đây trực chiến với chúng .. Chúng đánh đập hết sức dã man dù lỗi lầm rất nhỏ, những anh tù mà chúng cho là chống đồi, nguy hiễm, tối tối ban an ninh kêu tên lên làm việc… sau đó nghe súng nổ.. sáng trại cho biết là anh đó bỏ trốn bị bắn chết … trường hợp của Đại Úy Lãnh, sĩ quan xuất thân giáo phái Hòa Hảo, Đại Tá Nguyễn Đức Xích, có thời là tỉnh trưởng Gia Định, ông bị biệt giam, chiều chúng cho ra đổ bô, xúc ống tiểu… chúng lừa cho Ông đi xa ra vòng rào.. lấy cớ có ý trốn trại .. bắn chết … mạng người tù như con kiến con ruồi.! Người ban lệnh buông súng, làm sao thấu hiểu nỗi oan khổ của thuộc cấp mình, vì quân kỷ, tuân hành lệnh mà nay bị đối xữ tàn tệ thua cả súc vật .!!
                      Suốt ngày quần tà lỏn, áo rách, lúc nào cũng ẩm ướt, không ướt vì lội kinh, vì trời mưa thì cũng ướt vì mồ hôi .. có đào kinh mới thấy rõ nghĩa chữ ròng ròng ( Mồ hôi đổ ròng ròng)đổ ướt mờ cả mắt… Nhiều lô đất cứng quá, phải nghĩ đến mình đang đào mả Hồ Chí Minh, thì mới cuốc được những cuốc đúng nghĩa, một bạn tù gốc nghĩa quân chỉ cho tôi ..( Anh cứ nghĩ anh đang cuốc mả HCM là anh đào nổi)
                      Chín tầng địa ngục, tôi mới qua có 2 tầng thì ăn thua gì…
                      Những anh tù yếu đuối bệnh tật ở trong nhóm lao động nhẹ, nhóm nầy đi lấp hố bom, làm cỏ ruộng, cắt đưng lát, giã bàng ….
                      Tôi theo nhóm đào kinh mấy tháng hết chịu nổi, được anh em trong nhóm bình bầu thuận cho qua lao động nhẹ…Thành phần lao động nhẹ không có lảnh phần cơm sáng… Thường dẫn đi lao động, cũng là một anh tù, gọi là Chịu Trách, những người nầy là tù Việt Cộng, cán bộ tham nhủng, tham ô, phạm tội ..
                      Người dẫn toán tôi là Anh Tư Ảnh, nhưng anh em vẫn thường gọi là Anh Tư Ỉa
                      Tên nầy có lối chửi tù rất có bài bản, nghe riết thấy vui tai
                      Tôi còn nhớ, lao động lấp hố bom, có máy cày trục đất, đất trở vòng, củ năng theo lưởi cày lộ ra … Nửa buổi được ngồi nghỉ vài phút, tiện tay bứt củ năng ăn… Tới giờ làm anh em ngồi nán chưa chịu ra.. Tư Ảnh cao giọng:
                      - Đ con Đ mẹ mấy ông, phải ngày trước mấy ông biết ăn năn (g) thì đâu đến nổi, có chịu ra làm không, tao kêu võ trang bắn bỏ hết bây giờ ..- Đ. con Đ mẹ nó, tên tao là Ảnh mà nó kêu tao là Ỉa, chắc trùng tên Ông Cố Nội nó nên nó cử không dám kêu

                      Đại khái, nghe chửi hoài rồi cũng quen tai … Một buổi trưa, trại tập họp gọi tên từng người,ai có tên gọi, đứng ra riêng một góc… Khoảng trên 200 anh em, cũng đủ cấp, đa số là sĩ quan, rồi tới trưởng ty, hạ sĩ quan tình báo, một ít đảng phái…
                      Con tàu Sông Hương trên bến Tân Cảng Sài Gòn đưa người tù ra Bắc, suốt ba ngày ở dười hầm tàu, chỉ thông thiên bằng một miệng hầm cở chiếc đệm, thức ăn là mì gói, mấy khúc mía, miếng dưa hấu… ngày đầu tiên, sau khi tạm ổn chỗ nằm, trong khoang tù, ầm ỉ tiếng rượt đuổi đánh nhau … đám tù làm ăn ten bị thanh toán sưng mày sưng mặt … trại Mỹ Phước Tây có thượng sĩ Khanh, phục vụ trong ngành quân cảnh tư pháp… vô tù làm đội trưởng, lạm dụng quyền hành hà khắc với anh em, mới đầu, anh còn ỷ sức đánh trả lại , nhưng lực lượng hạ ăn ten đông quá, mặt mày anh nổi u nần bầm xanh trông thật…đáng tội, mấy trại khác cũng đều có người bị đánh… Tôi còn nhớ Anh Lê Trường Mộng, nguyên Trung Úy chi khu Chợ Gạo, là đội phó của anh Khanh, có tên trong danh sách ăn đòn ngày hôm sau,.. qua ngày sau … chưa kịp điểm danh ăn ten thì anh em bị say sóng .. tới 90% anh em nằm bẹp.. nhiều anh ói mửa… Tôi tuy ròm mà chẳng sao cả.. ngồi nhìn quan sát cảnh đổi dời .., Lê trường Mộng mặt la mày lét, ngồi thu hình thấy tội nghiệp. Nhìn cụ Trương Vĩnh Lễ, nguyên chủ tịch quốc hội đệ nhất cộng hoà.. đứng tựa vách tàu, ông đứng yên như pho tượng...… Có lẽ Ông là người có chức sắc cao nhất trong hơn 2000 tù trong khoang hầm.
                      Bắt đầu ngày thứ hai thì thùng phân người và nước tiểu bốc mùi đầy tràn tàn lan … Thân tù phải nếm đủ mùi tân khổ…!! đa số anh em nín đại tiện, còn tiểu tiện thì rất khó cầm..mỗi ngày có dây từ trên thòng xuống kéo thùng phân lên… Địa ngục nếu có thật chắc cũng cở vầy
                      Buổi chiều, tàu cặp bến Hải Phòng.Có tiếng loa từ trên boong tàu vọng xuống
                      -Các anh đã tới miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tất cả chuẩn bị lên bờ….
                      Một phần ba quảng đường tù tội tôi đã đi qua, nhóm tù của anh em tôi từ ngày vào trại cho đến lúc thả, lúc nào cũng chịu sự quản chế của Công An…
                      Miền Nam thân yêu của tôi, miền Nam là vựa lúa… miền Nam nước ngọt trăng thanh…Người miền Nam đối xữ với nhau rất chân tình…. Vậy mà tôi bị đọa đày trên chính quê hương tôi, tôi làm gì nên tội, phải chăng, cấp trưởng của tôi bất tài… để cho các người từ Bắc vào chiếm lấy miền Nam một cách dễ dàng, đầy may mắn..
                      Hai năm trong hai trại tù miền Nam, có lúc tôi đã phải cùng bạn tù mang ách thay trâu trục đất trên ruộng Đồng Tháp… Trong lúc miền Nam đâu phải thiếu trâu cày..
                      Ngày tôi còn đi học, không có ai chỉ dẫn cho tôi về sự tàn ác của Cộng Sản, cho tới ngày tôi đi lính, tôi cũng không hiểu rõ chế độ Cộng Sản… Xem phim Chúng Tôi Muôn Sống, tôi chỉ nghĩ đó là phim tuyên truyển… Tôi đâu có ngờ, củng là con cháu Lạc Long.Người miền Bắc Cộng Sản là con thú hoang chứ không phải là con người
                      Mẹ ơi!... Bây giờ trong cõi vĩnh hằng, chắc là mẹ đã thấu hiểu được cảnh khổ sai của con, con xin lỗi mẹ, từ bấy lâu nay, chưa lần nào con nói thực bao nhục nhằn cay đắng mà con phải hứng chịu trong lao tù Cộng Sản, mẹ ơi con sợ mẹ buồn, thằng con út mà mẹ hết sức thương yêu, nay vì buông súng mà phải chịu sống trong cảnh đày ải… Đôi mắt của mẹ, trong mỗi lần chia tay bên bờ rào kẽm gai trong khu thăm nuôi …. Làm sao con quên được hở mẹ… Những người mẹ của lính .. rất đáng trân trọng vinh danh ….Cũng rất đáng trân quý nữa, đó là những người vợ chung thủy, thăm nuôi, chờ đợi chồng đang oằn oại trong lao tù Cộng Sản, phải dải nắng dầm sương, mua chui bán nhủi kiếm tiền mua quà cho chồng ...mà đa số họ xuất thân từ hàng ngũ nữ sinh, chưa từng quen chuyện đời sương gió...
                      Tại Gò Công có hai chị phải bỏ mạng trên đường ra Bắc thăm nuôi chồng...
                      Cám ơn Cộng Sản đã tạo ra cảnh đời nghiệt ngã...!

                      Viết tại Kỳ Đà Động hè 2011

                      THỦY LAN VY

                      \
                      Con đi dưới lá cờ sao máu
                      Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                      Comment

                      • #26

                        ĐẬM ĐÀ HƯƠNG QUÊ
                        *





                        -Sao con không lấy nón lá của chị con đội cho mát. Trời nắng nóng quá mà con, chai nước mưa mẹ châm đầy liệu có đủ uống không con? Uống xong nhớ để ly chai vào bao ny lon cho sạch nha con…
                        Mẹ vẫn luôn ngọt ngào, vẫn đôi mắt trìu mến nhìn tôi, với mẹ tôi vẫn là thằng con trai út bé bỏng của thuở nào...
                        -Được rồi mẹ, đi lao động bây giờ bụng no là quá sướng rồi…Tám năm trong tù con đã quen rồi mẹ., vào nghỉ đi mẹ!
                        Tôi được giặc thả về đã gần tròn năm, những người tù được thả ra từ các trại tù miền Bắc thường về địa phương không bị quản chế, riệng đất Gò Công nầy, có lẽ tại vì trước năm 1975, là tỉnh đứng đầu trong việc bình định an ninh trên toàn quốc, nên khi giặc về, mọi oán thù đều đè nặng trên đầu trên cổ người của chế độ Sài Gòn.Nên tù Nam tù Bắc gì cũng quản chế hết... Ít nhất cũng phải hơn năm.
                        Trong thời gian quản chế, thỉnh thoảng trong tuần, trong tháng tôi vẫn thường bị công an khu vực gọi đi lao động, khi thì cạo cờ, những lá cờ vàng được sơn bằng sơn Mỹ trên những bức tường, trên những thân cây to, trên nóc công sở, theo năm tháng vẫn còn rõ nét vì sơn Mỹ quá tốt. khi thì đi đập phá miếu thờ Ông Quan Công, vì trong miếu có bàn thờ Ông Lãnh binh Tấn, những ngày gần tết đi quét dọn lau chùi các công sở, đi làm thủy lợi… Bất cứ công việc gì cần là có mặt đám tù cải tạo quản chế, lần nầy đi đấp sông, con kênh nằm cuối đường từ xóm Cầu Tàu ra, được quy hoạch phóng đường nên thị xã quy tụ một lực lượng hùng hậu, ngoài tù cải tạo quản chế, mỗi nhà góp một công trong việc đấp đường nầy, con kinh dù hẹp nhưng đang thông giòng nước, lượng công nhân dù đông, chia ra làm nhiều dây, móc đất sình từ phía gần bờ chuyền tay nhau rồng rắn mấy chục người một dây, cục đất ra tới tay người cuối chỉ còn bằng cái bánh bao…nên kết quả …
                        Đã hơn mười ngày, với lực lượng đông như vậy, con đường ngăn nước đã gần hình thành, chỉ còn khoảng 2 thước nữa là con đường liền mặt, và chiều nay là buổi chiều quyết định.
                        Nhìn con đường ngăn nước được đấp bằng sình, với hàng cọc bằng cây đước đóng lưa thưa, cột được dựng bằng tay, trông rất lỏng lẻo, mấy anh em cải tạo chúng tôi chỉ biết lắc đầu trước việc làm của các đỉnh cao trí tuệ thị xã.
                        Tôi đạp xe trở lại hiện trường sau 2 tiếng nghỉ xả hơi về nhà ăn cơm. Gửi xe đạp ở nhà chị Loan, người đẹp Cầu Tàu năm xưa, tôi lửng thửng bước đi về hướng bờ sông, gặp Anh Hậu, nguyên chi khu trưởng quận Hòa Bình, Anh Có, thiếu tá phòng 1 sư đoàn 7, chị Rết, trung úy quân đoàn 2 …đã có mặt dước gốc cây bần bên bờ sông, đây là những người cũ quen biết chung phường 2 với tôi, vẫn thường đi lao động chung với nhau…
                        Những ai có tiền hay có quen biết, thường thường không phải đi lao động loại bất thường nầy, mình nghèo quá đành phải dang nắng vọc sình thôi.
                        -Ê, chiều nay, buổi chiều cuối của công trình nầy, để coi, con bờ sình nầy sẽ bể nát… Còn khoảng 2 thước, áp suất nước càng mạnh mà đấp bằng sình thì….
                        Anh Hậu cười lớn mà không nói tiếp
                        -Ê chút xong về ghé nhà thằng Hiệp ăn bánh vá, nó mời tụi mình hôm qua.Anh Hậu vừa nói vừa nhìn mọi người, Anh Hiệp nguyên là sĩ quan thanh tra của tiểu khu Gò Công.
                        Trời nắng chang chang, bờ sình hắt hơi nóng lên thật khó chịu, dây chuyền sình của phường 2 phía bên nầy bờ sông, có tất cả hơn mười dây, mỗi dây khoảng trên 30 người, chuyền từng nắm sình hướng về 2 thước còn lại, tôi đứng cuối dây nên nhìn thật rõ, nước bắt đầu xoáy mạnh khi khoảng trống càng hẹp lại. Tiếng cổ động của ban chỉ đạo thị xã oang oang bên tai, qua mấy cái loa phóng thanh treo trên mấy cây bần, tiếng cười đùa của những người lao động tạo nên một không khí ồn ào, bởi làm chuyện không có tiền công, nên mọi người đều làm cho có, làm chiếu lệ, tạo dịp cười giỡn nhiều hơn là chuyền sình, tôi với anh Hậu, anh Có, chị Rết đứng cuối dây luôn râm rang chuyện trò, nhắc chuyện bạn bè năm xưa…
                        Ầm, một âm thanh khá lớn, hàng cây cọc và dãy đất sình trôi bung theo dòng nước… Tiếng cười, tiếng la, tiếng bước chân lội bì bõm trên sình, hai hình ảnh trái ngược, mặt ban chỉ huy giống như cái bánh bao chiều, mặt mày anh chị em lao động vui ra thấy rõ…
                        Tôi với Anh Hậu, Anh Có quẹo xe đạp vào hướng nhà đèn, nhà anh Hiệp cất nửa trên đất, nửa trên sông nên rất mát mẻ, bước vào nhà tôi thấy có Anh Hên, nguyên tiểu đội trưởng quân cảnh tư pháp tiểu khu Gò Công, sau màn chào hỏi, chúng tôi quay quần cùng ngồi trên chiếc bàn tròn, kê sát vách đóng bằng lưới B40, bên ngoài sông nước đang lớn, dòng nước lặng lờ với chút sóng nhẹ, lơ thơ vài cây thủy liễu( bần), lá cành đong đưa theo gió,,,mát mẻ làm sao.!
                        Ba anh Hiệp từng là đại tá thị trưởng một thị xã miền trung,Đại Tá Mãi nhờ đau cột sống được giặc tha về sớm từ trại Nam Hà, cũng đang ở chung với anh, Bác chỉ nằm trên giường, có khách tới thăm bác vui lắm, tôi vẫn thường trò chuyện với Bác… Thường Bác nhắc chuyện ngày xưa với nhiều tiếc nuối. Bác rất thích tôi vì dù chênh tuổi tác nhưng cùng chung trại tù Nam Hà, có nhiều chuyện nhắc nhớ thời trong lao nhục. Những kỷ niệm rất khó quên trong đời.
                        Anh Hiệp có người vợ đảm đang,Chị ba Phích, chị mua chui bán nhủi rất khá, nên cưu mang luôn cả gia đình, Anh Hiệp có số sống nhờ cung thê, nên thường ngày chẳng phải làm gì hết, cách vài ngày lại tổ chức tiệc tùng mời bạn bè ăn nhậu. Đi lao động anh đóng tiền, người cũ người mới gì anh đều chơi, anh thường nói
                        -Mình như cá trên thớt, sống trong tay sinh sát của tụi nó, không cho đám công an khu vực ăn nhậu, tụi nó làm khó dễ mất công phiền phức,.!
                        Gió từ sông thổi lòn qua song lưới, dòng kênh nước chảy lững lờ, thỉnh thoảng có chiếc thuyền tam bản chở củi, chiếc ghe câu của chú Tám bờ Kinh lênh đênh giữa dòng…
                        Bụng đói, gió mát thổi lòn song, nhìn tô bún trắng nõn, dĩa bánh vá vàng ươm, dĩa rau sống xanh tươi, màu vàng đậm của khế chua, màu trắng xanh của dưa leo bầm, tô nước mắm ớt với những múi chanh, ớt đỏ tỏi trắng lượn lờ, tôi chép miệng nuốt nước miếng, thời mạt vận quen ăn rau cỏ, thấy thịt cá ai không khỏi thèm…
                        -Mời anh em cầm đũa, hôm nay năm anh em mình ăn bánh vá quê hương..Tôi dô trước một ly, rồi bắt đầu xoay vòng nha...
                        Anh Hiệp nói xong uống cạn một ly rượu thuốc ngon lành.
                        -Bánh vá nầy bà xã đặt chiên, nên nhân bánh đặc biệt có cua lột, có óc heo…
                        Tôi gấp đũa bún, mấy cọng rau, giá, dưa khế, gắp 1 cái bánh vá, dùng tay xé ra làm nhiều miếng, chan mấy muổng nước mắm ớt…từ ngày ở tù về hơn năm, hôm nay lần đầu mới được ăn lại bánh vá quê hương, bột dòn xốp, tôm thịt gan heo ngọt ngào, óc heo béo ngậy, nhất là thịt cua lột, nó ngon béo làm sao! cay của ớt, chua của khế, thơm của rau…tôi làm tiếp chén thứ hai…chỗ thân tình đâu cần chi giữ kẻ.Ly rượu thuốc xây vòng từ từ tới, vừa ăn xong chén bún, dô một ly rượu thuốc nó ngon làm sao…



                        -Ê cái thằng Hai A đảng ủy gì đó, hai cái bàn chân nó nhỏ xíu mà sao hồi đó mình đi hành quân không bắt được nó, chân cẳng gì giống như bàn chân con nít, mà sao nó chạy giỏi quá?!
                        -Nhờ chạy giỏi bây giờ nó mới ngang tàng, phách lối..mẹ!
                        Tiếng anh Hậu gợi chuyện và Anh Cò Hên trả lời
                        Hai A người của đảng ủy thị xã Gò Công, chỉ huy công trình đấp kênh hôm nay, tên nầy có nhiều mặc cảm với người của chế độ cũ, luôn hạch sách và làm khó dễ khi có điều kiện, sau mấy năm làm việc bây giờ thân hình mập phì, áo quần bảnh bao, tuy có đôi bàn chân dị tật bẩm sinh, đôi săn đal nhỏ nhắn như của em bé lên năm, thế mà vẫn chịu được thân hình trên 60 kílô của Hai A
                        -Thôi bỏ qua chuyện đó đi, ở đây tai vách mạch dừng, mình nói chuyện khác cho vui đi. Tiếng của Anh Hiệp chủ nhà.
                        -Lần lao động nầy sao không thấy Anh Sự? Anh Có thắc mắc
                        Anh Sự cùng khóa 16 Võ Bị với Anh Hậu,Anh Sự nguyên là chi khu trưởng quận Hòa Tân, mẹ anh là chủ chảo bánh vá nổi tiếng Gò Công, là truyền nhân của lò bánh vá chợ Giồng ( quận Hòa Đồng), loại bánh chiên nổi tiếng có mặt đầu tiên tại tỉnh Gò Công, nghề nào cũng vậy, phải có một chút bí quyết mới có được cái ngon đặc biệt của nó, người ngoài có bắt chước cũng không thể so bì được, bánh vá của gia đình Anh Sự ngon là nhờ có bí quyết. riêng.
                        -Thằng Sự nó ít đi đâu lắm, có lẽ nó đóng tiền nên mới nằm nhà an toàn, chứ dễ gì công an khu vực tha cho nó. À nầy, mấy anh là dân Gò Công chánh gốc, tui chỉ là rể Gò Công nên không biết rành về nguồn gốc cái bánh vá nầy. Anh Hậu tiếp
                        - Mỏng rành chuyện Gò Công, nói nghe chơi cho vui .Sở dĩ anh Hậu nói như vậy là vì…
                        Tôi sinh quán, học hành và lớn lên tại Gò Công, tôi có thể biết được nhiều chuyện về Gò Công qua những câu chuyện giữa Ông Nội và Ba tôi, nhưng cũng có rất nhiều cái thuộc thế hệ trước mình không thể nào biết được, nếu không có người trong cuộc kể cho biết. Người Gò Công, người tỉnh khác đến chơi, ai ăn qua bánh vá bún cũng đều khen ngon, nhưng chẳng có mấy ai muốn tìm hiểu cái bánh vá nầy đến từ đâu, ai là người mang nó du nhập vào Gò Công, thường người ta chỉ nhìn cách chiên bánh, vật liệu chiên bánh, để có dịp thực hành, làm phong phú thêm thực đơn gia đình.Cũng có nhiều tác giả đã viết nhiều bài về đề tài bánh vá, nhưng nội dung thường chỉ tả cách làm bánh và cách ăn, cũng như vật liệu làm bánh mà chưa có tác giả nào đề cập tới nguồn gốc cái bánh vá Gò Công.
                        Tôi có nhiều duyên may, sống trong một gia đình giáo chức, có lối giáo dục người nhỏ bắt chước người lớn…lễ nghĩa ở đời tôi nhìn cách hành sử của Ông Nội của Ba tôi mà bắt chước làm theo. Nhìn anh chị học hành tôi bắt chước học theo, gia đình tôi không khe khắc trong việc theo dõi sự học hành của anh em tôi. Ba tôi và Ông nội thuở sinh tiền vẫn thường đàm đạo, nhắc lại chuyện xưa tích cũ, khen tặng gương trung hiếu, khích bác lũ nịnh gian…tôi lẩn quẩn trong nhà nên được nghe và nhờ có chút trí nhớ tốt nên tôi ảnh hưởng rất nhiều… Chuyện bánh vá tôi nhớ tới Anh Sự, người tự nhận mình lớn lên, nên người, bên chảo mỡ bánh vá, anh là người Gò Công, ra đời làm quận trưởng tại Gò Công, một điều anh vẫn thường hãnh diện.
                        Thuở trung học, tôi học chung với Tuyết Nga, em gái của anh.Ở Gò Công thường mỗi người ngoài tên cha mẹ đặt còn kèm theo một ngoại hiệu do bạn bè, chòm xóm gán ghép cho .Chẵng qua là vì tên thứ, tên trùng nhiều người nên phải kèm ngoại hiệu cho dễ phân biệt. Ngoại hiệu có thể từ hình dáng bên ngoài như Sang quắn,Nhựt què…, từ ngành nghề, như Chị Loan mắm lóc, vì chị có người mẹ bán mắm ngoài chợ, anh Minh bánh bàn, chị Kiều bánh ích…Vì gia đình như Chị Nguyệt Cò mi Linh vì chị là con Ông Cò Mi Linh,Dung Ba Nữa vì Dung là con gái thầy Ba Nữa, tên thứ thì Năm lửa, Hai néo, Sáu lèo…,…dĩ nhiên Tuyết Nga không qua ngoại lệ đó, cô nầy bị bạn bè gọi là Nga bánh vá, nghe goi là cô phản ứng ngay, cô chửi thôi…tắt bếp. Chính vì hay chửi, ghét ai gọi ngoại hiệu nên Nga cứ bị gọi hoài. Ngày tôi còn đi học,tên tôi có lót chữ kỳ, bạn bè trong lớp ít có trò nào gọi đúng tên tôi, ê Kỳ Đà cho tao mượn cây thước, ê kỳ nhông cho tao mượn cục gom…tôi vẫn tự nhiên như là tên thật của tôi, không bao giờ tỏ vẻ khó chịu, nên dần dần tôi trở lại với chính tên tôi trong khai sinh.
                        Với 2 chén bún bánh vá, qua 5 vòng xây tua…Rượu đế Bình Ân ngâm chuối hột chín phơi khô, rượu có nồng độ cao uống mau bốc, tiếng cười nói trong bàn râm rang,bé Phi con gái anh Hiệp lại mang thêm một dĩa khô hắc cấy nướng vàng đập mềm với một dĩa nước mắm me dầm ớt trông thật hấp dẫn…
                        -Ê mỏng! biết gì về bánh vá nói nghe chơi Mỏng, chú có ăn nhiều cũng không mập được đâu. Anh Cò Hên cười cười nhìn tôi
                        -Dạ thì cũng biết chút chút… Tôi có được duyên may nghe Anh Sự kể về chuyện bánh vá của gia đình anh.
                        -Ê, làm một ly cho ấm lòng đi rồi kể. Anh Có rót đầy một ly trao cho tôi.Đánh khà một tiếng tay xe điếu thuốc rê, mồi lửa,nhả một hơi khói dài tôi bắt đầu lấy giọng.
                        -Người Gò Công vẫn thường hãnh diện với món bánh vá, người ta chỉ biết đến chợ Gò Công, cánh chợ hướng đông vào gần cuối chợ,chảo chiên bánh vá đặt ngay trên mặt gạch nền chợ,Một cái bàn hình chữ nhựt chân thấp để vật liệu chiên bánh, khách hàng có thể mua bánh dễ dàng, muốn ngon hơn thì mua sẵn vật liệu như gan heo, thịt nạc, nấm rơm, có khi cua lột, tôm càng, óc heo…đến chỉ nhờ chiên thì bánh vá sẽ ngon hơn nhiều, thành ra cái bánh vá nào bột cũng như nhau, tùy giá tiền mà nhân bánh khác nhau, ngon dở là ở chỗ...tiền
                        Anh Sự khẳng định tên bánh là bánh vá chứ không phải là giá (Cây giá ươm từ đậu xanh), vì bánh được đổ bằng cái vá, cái vá nầy có lòng vá sâu hơn vá múc canh thường. Người ta giải thích vì bánh có nhân là giá nên gọi là bánh giá, Thế thì bánh xèo cũng có nhân là giá mà sao không gọi,. trong nhân bánh vá có nấm sao không gọi là bánh nấm, bánh tôm, bánh gan…??
                        -Bà Nguyễn Thị Luốc, người dân còn gọi là Bà Tư bánh vá là vợ của Ông Hương Nhạc Trần văn Tồi gốc người Ba Dừa Tỉnh Mỹ Tho, vì sinh kế chuyển về sống ở Chợ Gạo khoảng năm 1916 thời thế chiến thứ nhất đang ì xèo dữ dội, sinh sống bằng nghề chiên bánh vá, sau đó chuyển về chợ Giồng Ông Huê đâu khoảng thập niên ba mươi. Bà Tư bánh vá có 2 người con, một gái là Trần Thị Vinh, một trai là Nguyễn văn Tại, bà Tư chiên bán bánh vá tại chợ giồng Ông Huê, cô con gái theo phụ mẹ.Năm 17 tuồi, Trần Thị Vinh lên xe hoa với chồng là Nguyễn Duy Hải . Xe hoa không đưa cô dâu về nhà chồng quê ở Vĩnh Hựu mà giữ cô dâu tại nhà vì bắt rể
                        Nên tuy lập gia đình nhưng Bà Vinh vẫn theo phụ mẹ bán bánh vá…lần lượt Anh Thế rồi Anh Sự ra đời, những bước đi lẩm đẩm của hai anh nầy cũng lòng vòng quanh chảo mỡ bánh vá.Bánh vá Vĩnh Lợi tiếng đồn xa, thuở ấy có nhiều gánh hát nhỏ về xã, đêm quay cót quanh chợ bán vé diễn tuồng, mấy anh hề trong lúc diễu cương đều có nhắc tới chuyện bánh vá Vĩnh Lợi, ăn quá ngon quá đã. ..
                        Đây là khoảng thời gian nhiểu nhương của đất nước, Cộng Sản quốc tế lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam lập ra mặt trận Việt Minh ( Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh)Với tầm vong gậy gộc , những người yêu nước, phải đi đầu, chết thay cho bọn lảnh đạo núp trong chốn an toàn.Năm 1945 Việt Minh đánh đồn lính (vị trí sau nầy là dinh quận) trong đồn có mặt Ông Cai Tổng Ngữ, coi như chức sắc khá cao của tỉnh, lực lượng Việt Minh quá yếu chỉ cốt đánh gây tiếng vang, chúng đốt phá một góc làng,rồi bỏ chạy, nhà bà Tư bánh vá cháy rụi, cả nhà phải nương náu mấy nhà quen .Người con trai bà Tư cưới con gái Ông Tam Hưng ( Chủ xe đò Mỹ Tho Chợ Giồng.)
                        Lúc bấy giờ Chú Hải đang đi lính gạc ở Gò Công, đó là khoảng năm 1947, cùng thời bấy giờ có Cai Nhung rồi Đội Nhung đang làm ở Đơ dèm bua rô, đội Nhung sau nầy là Đại Úy Nhung người đi trong chiếc thiết giáp định mệnh từ nhà thờ Cha Tam về Bộ Tổng Tham Mưu trong ngày 2-11 năm 1963, bà Vinh dẫn con theo chồng về Gò Công ở trong trại lính ( sau nầy trại lính được gọi là trại gia binh) trại lính gạc lúc bấy giờ nằm trên con đường trước mặt dinh tỉnh trưởng phía đối diện, đi từ bờ sông về hướng nhà thờ thì đụng miếu tiên sư trước, tới một miếng đất trống ( sau nầy xây trường Trung Học Gò Công ) trại lính đồi diện với tòa án, sau nầy trai lính trở thành trung tâm cải huấn, nơi nhốt tù binh Cộng Sản, và để kiếm tiền sinh sống, bà Vinh tiếp tục hành nghề của mẹ, chiên bánh vá bán tại chợ Gò Công. Như vậy bánh vá có mặt ở Gò Công vào khoảng năm Đinh Hợi 1947,tỉnh Gò Công bắt đầu có hai chảo mỡ bánh vá, một đầu tiên ở Chợ Giồng, và một ở chợ Gò Công. Bánh vá ngon nhờ nhiều yếu tố.Bột dậy, nhưn tươi, để có được đồng tiền lời, cả gia đình phải qua nhiều công đoạn khá vất vả, sau khi tan chợ về, sắp xếp vật liệu đâu ra đó…chiều xuống, cho gạo vô chậu ngâm nước tới 3 giờ sáng đem gạo xay thành bột, gạo ngâm khoảng 8 tiếng đồng hồ, gạo vừa nở, vừa chớm lên men, nên khi chiên, bột sẽ xốp và dòn.Đặc biệt bánh vá bà Vinh chỉ chiên bằng mỡ heo quay, mở nầy chú Hải mỗi sáng đi thu gom ở các lò heo quay, nếu thiếu mới dùng thêm mỡ heo tươi, ngoài bột gạo có pha thêm bột đậu nành, mà muốn biết tỷ lệ pha chế bao nhiêu thì mổi năm cứ đến ngày 30 tháng 2 tây mang 2 con cọp quay đến nhà Anh Sự cúng tổ sẽ được chỉ dẫn tận tình...( Đã bí quyết thì ai truyển cho mà học)
                        -Thằng Mỏng nầy dốc hết biết, tháng hai làm gì có 30 tây. Tiếng Cò Hên càm ràm…
                        -Ờ thì trong nghề nghiệp, ai cũng có bí quyết giữ riêng làm của gia bảo, tôi lựa ngày 30 là có ý cho biết bí quyết nầy khó được truyền lại
                        -Sau nầy cạnh bà Vinh có thêm bà Hai Chuối, bà là mẹ của Anh Tư nước đá, sau nầy Anh Tư lên Sài Gòn, trở thành tuyển thủ quốc gia trong môn đá banh với danh hiệu là mũi tên vàng ( Một thời hai anh Tư và Quới làm nổi tiếng dân Gò Công trong bộ môn đá banh). Bánh vá của bà Hai Chuối không ngon bằng của bà Vinh, vì bà Hai chiên bằng dầu, cũng như công thức copy không hoàn toàn giống như chánh bản...
                        Sau nầy trong Tăng Hòa( Chợ Cửa Khâu) Cũng có chảo dầu bánh vá, không biết của ai, nhiều người ăn cũng khen ngon.
                        Hai lít rượu mít ngâm chỉ còn lại một ly cuối cũng là vòng chót của tôi, Anh Hiệp chủ nhà con mắt gần như muốn nhắm, Anh Hậu mặt đỏ như Quan Công, Cò Hên thì ca ử ử bản Tỏ Tình Trong Đêm...
                        -Ba mua thêm rượu nữa không ba.Tiếng bé Phi ngọt ngào hỏi Anh Hiệp
                        Anh Hiệp đang lim dim bỗng giựt mình
                        -Con dẫn ba vô buống đi ngũ, ba hết chịu nổi rồi con ơi Tiếng Anh Hiệp nhừa nhựa kéo dài…
                        …..
                        Bây giờ trên đất tạm dung ngồi viết lại mấy dòng nầy, lòng tôi thương nhớ quá, Gò Công quê hương còn đó, anh chị tôi còn đó, mà cờ đỏ cũng còn đó, nên đành thương đành nhớ, buồn nhớ chuyện năm xưa, gọi phone nhắc nhở chuyện quê nhà với một vài người bạn đó là niềm vui cuối tuần của tôi .
                        Lúc tôi mới thả về, chị tôi có mua cho tôi một cái bánh vá của cô Lan, cô em gái của Tuyết Nga, kế thừa nghiệp mẹ, nhưng nơi chiên bánh không còn đặt ở vị trí cũ, chảo mỡ cũng teo nhỏ lại, chỉ bằng phân nửa chảo mỡ năm xưa, cái bánh cũng nhỏ đi nhiều, dĩ nhiên gan ruột chỉ là những miếng thịt mỏng như lưỡi lam, con tôm thì đang tuổi vị thành niên. Với một cái bánh vá , chị mua cho một ký bún, cái bánh vá nhỏ xíu, hòa trộn với một kí bún, lực lượng hai bên không cân xứng, kệ, tôi ra sau vườn hái ít lá quế, chén nước mắm ớt, lẽ ra phải có dưa leo bầm, cải xà lách với vài loại rau thơm cắt mỏng với ít giá sống, nhưng mà thôi, như vầy cũng quý rồi…Tôi ngồi ăn mà nhớ tới chảo mỡ năm xưa, nhớ đến Chị Lắm lúc đó chị học trước tôi 4 lớp, chị mặc áo trắng, da chị trắng, mặt chị đẹp, bên chảo mỡ bốc khói, trên vĩ, bánh vá vàng ươm, cô nữ sinh duyên dáng nầy đã có biết bao cây si đem trồng trước chảo mỡ…Nhưng mà có cây nào mà chịu nỗi với độ nóng trên 100 độ của mỡ đang sôi? Gò Công có những ngày trời mưa liên tiếp, lò chiên chụm bằng củi, củi ướt khói mịt mờ, nhìn hình ảnh chị Lắm mặt tươi như ngọc. hai con mắt đỏ ửng, nước mắt rưng rưng vì khói cay, ngồi trong làn khói mỏng, một hình ảnh đẹp dễ làm tôi liên tưởng đến truyện kiếm hiệp của Kim Dung, người đẹp Tiểu Long Nữ luyện kiếm tỏa nhiệt bốc lên thành khói trong đêm trăng mờ ảo, chắc cũng đẹp như vầy thôi.Tôi ăn hết tô bún rồi mà miệng vẫn còn thèm và có cảm giác như …chưa ăn, giá mà có được một ly cà phê tráng miệng…
                        Đã qua rồi cái thời sống trong tay giặc, đất tạm dung đầy đủ quá, nhưng kỷ niệm ai giúp giùm tôi mang theo. Con đường Gò Công, con đường Sài Gòn... tôi còn nhớ như in trong dạ. Về bánh vá Gò Công tôi còn nhớ 4 câu thơ
                        “ Buổi sáng chợ đông chão mỡ sôi
                        “Thơm lừng bánh vá khách quanh ngồi
                        “Mắm pha chanh ớt rau tươi rói
                        “ Ngon quá nhờ em miệng khéo cười
                        (Trích trong bài "Gò Công Thương Nhớ" thơ của TLT)
                        Bên Ca Li, hàng năm tới ngày giổ bà Vinh, Anh Sự cũng có mời thân tình đồng hương tới dự, món chánh vẫn là bánh vá bún rau thơm, Anh Sự cho biết dù chính người trong nhà chiên nhưng bánh vá vẫn không ngon bằng bánh năm xưa, vì bột gạo mua làm sẵn, bột xay từ gạo ngâm có chút lên men bột mới xốp dòn được. còn xay bột, cũng làm được nhưng cực quá vì xay bằng máy xay tiêu, máy xay trái cây.Ở đây làm sao tìm được con tôm đất ruộng còn nhảy soi sói, khi tôm chín thịt ngọt ngào khó tả, làm sao tìm được nấm rơm búp vừa mới rời gốc rạ, đừng nói chi đến con tôm càng xanh để trong rổ, chân tôm càng còn bún tanh tách, con cua lột lót cỏ non, nằm mềm mại, ngo ngoe nhẹ nhàng mấy cái que..…
                        Thôi thì nhìn thấy bánh vá như thấy Gò Công. Bên nầy Houston tôi làm gì được nhìn thấy cái BÁNH VÁ...chưa có tiệm ăn nhà hàng nào ở đây bán món ăn nầy.
                        Hai món tuyệt chiêu của Gò công đều không thấy bán ở Mỹ là mắm tôm chà và BánhVá

                        Viết tại Kỳ Đà Động. Quý Thu 2008
                        ( Viết để tặng giai nhân tài tử từng ăn bánh vá Gò Công)

                        THỦY LAN VY


                        Con đi dưới lá cờ sao máu
                        Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                        Comment

                        • #27

                          HUYỄN MỘNG BƯỚC ĐỜI
                          -ss-

                          Khi Phước Tuy in vết xích sắt T54, dân lính từ Bà Rịa lếch thếch bồng trống chạy ra Vũng Tàu. Từ Trại Lam Sơn, tôi cũng lên đường trên chiếc xe dodge. Tới Vũng Tàu, tôi dẫn mấy đứa em ra Bến Đình, đón tàu hàng băng biển về Vàm Láng. Tàu cặp bờ vào buổi chiều ngày 26 tháng 4. Có khoảng gần trăm lính bị nhốt ngoài mõm đất theo leo bên bờ sông. Vì là quê nhà, nên tôi dễ nhận ra người quen đang đứng trên bờ nhìn xuống.. Khoảng 6 giờ chiều, thiếu tá Sự (Khóa 16 VB), quận trưởng quận Hòa Tân, đi xe jeep với 2 chú lính cận vệ, ngừng xe trước bến cảng. Anh đứng nhìn một lượt nhóm người đang bị cô lập. Anh nhận ra tôi - dù không biết chính xác tôi là ai - nhưng anh biết tôi là con trong gia đình họ Nguyễn, cũng ở gần nhà anh. Anh vẫy tay cho tôi lên bờ, hỏi thăm mọi việc. Anh có ý cho tôi quá giang xe về Gò Công, nhưng tôi từ chối vì còn mấy đứa em đi theo. Tụi nó theo tôi từ KonTum, qua biết bao nhiêu khúc đường sinh tử, về tới đây, nỡ nào tôi bỏ tụi nó bơ vơ..

                          Xe quân cảnh do thượng sĩ Hương, cũng là cựu học sinh Trung Học Gò Công, sau tôi một lớp, hướng dẫn đoàn xe GMC chỡ đám lính rã ngũ về phi trường L19. Phi trường nằm cạnh trung tâm yễm trợ tiếp vận tỉnh. Tôi bước vào trung tâm, gặp rất nhiều người quen chào hỏi .. Kìa là Đại Úy Để (Khóa 17 TĐ), kìa là Trung Úy Dư (khóa 2 CTCT/ ĐL)… Vì lệnh giới nghiêm 24/24 tôi không dám về nhà, vì ngại tầm súng của đám nhân dân tự vệ, mịt trời khói lửa không sao, về đây té lổ chân trâu, chết cũng phiền! Thôi thì phơi sương ngoài phi trường cùng với mấy chú em thêm một đêm nữa ...

                          Sáng ngày 29 tháng tư, Trung sĩ nhất Khâm dùng xe Honda chở tôi lên Sài Gòn trình diện. Hai thầy trò với một cây cold lận lưng nhắm hướng Cầu Nổi trực chỉ. Lên tới Cầu Ông Thìn khoảng 10 giờ sáng, thì có lệnh giới nghiêm 24/24. Thiết giáp đang đụng nặng với chính quy Bắc Việt từ hướng Long An qua. Suốt đọan đường từ cầu Ông Thìn đến Cầu Nổi đông đúc đủ các loại xe đò miền Tây, vì mấy ngày sau cùng, tuyến đường Long An bị gián đoạn. Sư Đoàn 22 và Sư Đoàn 7 đang đụng nặng với quân Bắc Việt. Xe đò từ miền Tây, đều dùng ngả Mỹ Tho qua Gò Công lên Sài Gòn. Vì nghẻn đường, dân chúng căn lều hai bên lộ, bày hàng mua bán, dù lệnh giới nghiêm 24/24 đã ban hành. Thoạt mới nhìn thấy vui vui .. Nhưng có đi có đứng trên đoạn đường nầy, mới thấy sau cảnh nhộn nhịp là những tấm lòng đang đau xé… Tôi về tới Cầu Nổi, bến phà đóng cửa. Hai thầy trò sửa soạn tìm chỗ nghỉ trong nhà chờ đò, thì may mắn có một chiếc xe dân sự chạy đến. Trên xe có 2 người đàn ông. Một người bước xuống xe vào trạm mượn máy liên lạc về tỉnh. Chỉ vài phút sau một chiếc phà đặc biệt rời bến .. Trên đó có tôi và thêm 1 chiếc xe chở hàng nhỏ của nghệ sĩ Tùng Lâm, cùng với chiếc xe nhà của hai vị nầy.. (Lúc vô tù, ở trại Hà Tây, tôi chung buồng với Anh Tống, trưởng ty cảnh sát Long An, tôi mới biết người lái xe chiều hôm đó là Anh Tống và thiếu Tá Xuân ngồi bên cạnh)

                          Sáng ngày 30, đám lính trong nhà tôi (khoảng 20 tên) sang khu nhà thờ uống cà phê sáng, sang bàn billard cạnh bên làm vài cơ chờ mở đường…Tôi nhớ khoảng gần 11 giờ, có một chú nhân dân tự vệ vào, mời tất cả về nhà nghe radio… Mọi người đều ngạc nhiên không biết chuyện gì xãy ra… Sao lại mời nghe radio…?
                          .....
                          Thiếu Tá Sự, chi khu trưởng quận Hòa Tân, lảnh thổ quận Hòa Tânthuộc tỉnh Gò Công, có hai ngõ chánh vào tỉnh, là cửa biển Vàm Láng và bắc Cầu Nổi. Bên kia bờ Cầu Nổi thuộc quận Cần Đước, tỉnh Long An, còn bên kia biển Vàm Láng là Vũng Tàu. Hàng ngày có tàu làm ăn qua lại giữa hai cửa biển nầy. Đài phát thanh Sài Gòn, đài BBC, đài VOA, suốt ngày phát tin di tản… di tản… Tình hình nghiêm trọng lắm rồi. Không biết đất nước sẽ đi về đâu? Quân nhân thì nghe lệnh cấp trên mà di tản. Còn dân chúng thì di tản theo quân nhân, cho trọn tình quân dân cá nước… và Vũng Tàu đã tràn đầy…cá nước. Làn sóng người từ vùng I qua vùng II, tới trung tâm vùng III, và rất nhiều người muốn tìm đường xuống vùng IV, vì tin vào sự an toàn của vùng nầy. Họ ra Bến Đình băng biển về Vàm Láng Gò Công. Đơn vị nào còn cấp chỉ huy thì còn kỷ luật. Đơn vị nào rã hàng thì lính tráng không còn muốn nghe lệnh ai nữa. Đời lính dạn dày gió sương .. Đã nguyện đem thân trai hiến dâng cho tổ quốc, họ đã biết bao lần vào sinh ra tử. Họ là những người lính thiện chiến, mà bây giờ bị bỏ rơi khi súng đạn vẫn còn mang bên người… Họ ấm ức, họ bất mãn .. Xin ai đừng làm điều gì trái ý họ lúc nầy… Giờ nầy có ai biết đơn vị họ đang ở đâu? Giờ nầy có ai biết gia đình, cha mẹ, vợ con họ đang ở đâu? Thiếu Tá Sự trên xe jeep hết có mặt tại Cầu Nổi, lại xuống Vàm Láng. Cầu Nổi đông nghẹt xe chờ hai bên bến bắc, nhưng không hỗn loạn bằng Vàm Láng vì ít lính, nhiều dân. Phía Vàm Láng thì đã có nhiều thuyền lớn nhỏ và ghe cá từ Vũng Tàu chạy qua. Cặp bến cá đổ lên bờ, không biết bao nhiêu là dân thường và quân nhân của nhiều binh chủng khác nhau, còn mang đầy đủ vũ khí. Chuyện chết chóc xãy ra dễ dàng. Cấp bậc cao nhất người ta nhìn thấy có Đại tá Lân. Ông hình như là tỉnh trưởng Phước Tuy, nguyên trước kia là Tham mưu Trưởng sư đoàn Dù. Ông cúi đầu lặng lẽ đi theo đoàn người di tản, tìm phương tiện về Gò Công. Xa bờ một khoảng, có hai tàu sắt chỡ lữ đoàn I Dù, gồm 3 tiểu đoàn 1,8,9. Vì không vào bến bải cạn được, nên phải thả neo ngoài xa…

                          Trung Úy Thăng, Phân Chi Khu trưởng Vàm Láng, sợ có hỗn loạn, gọi máy xin chi khu tăng cường quân cảnh giữ trật tự. Nhưng chi khu làm gì có quân cảnh. Anh Sự báo lên tiểu khu, thì được Đại Tá Lê, tiểu khu trưởng ra lệnh, phải tước tất cả vũ khí và chỡ lính rã ngũ về tiểu khu. Đây là một lệnh rất khó cho những ai muốn thi hành lệnh nầy.

                          Chi khu trưởng lên xe với mấy người cận vệ. Theo sau xe jeep, là chiếc GMC trực chỉ Vàm Láng. Hương lộ nhỏ hẹp đi vào bến cá dày đặc những lính và dân. Anh Sự xuống xe đi bộ và tìm gặp được vài sĩ quan võ bị khóa đàn em. Anh không ra lệnh, mà chỉ cố thuyết phục các sĩ quan trẻ nầy. Kêu gọi thuộc cấp buông súng, rồi lên xe để được chỡ về tiểu khu.

                          Anh Sự trở lại xe, thì được hiệu thính viên báo có Trung Tá Đỉnh, lữ đoàn trưởng nhảy dù muốn gặp anh trong máy. Ông Đỉnh đang ở tại văn phòng xã. Từ ngày ra trường tới bây giờ, anh Sự mới gặp lại niên trưởng, Trung Tá Đỉnh khóa 15. Ông Đỉnh giới thiệu Trung Tá Hồng, Lữ đoàn phó và hai Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng. Ông Đỉnh nhờ anh Sự đưa đi gặp Đại Tá Lê (Tỉnh trưởng Gò Công). Trung Tá Hồng ở lại Vàm Láng với đơn vị. Lính Dù trên tàu cũng vào bờ thoải mái ăn uống, chờ lệnh trong tinh thần kỷ luật rất cao… Đại Tá Lê tiếp Trung Tá Đỉnh trong phòng làm việc và gọi máy báo tin cho tướng tư lệnh vùng IV Nguyễn Khoa Nam. Tướng Nam ra lệnh tử thủ thẳng cho ông Đỉnh và đặt lữ đoàn dưới quyền chỉ huy của Đại tá Lê .

                          Anh Sự chở ông Đỉnh về lại chi khu Hòa Tân. Cả hai đều im lặng. Tiếng máy C25 sau xe báo cáo có cờ giải phóng xuất hiện xa xa ở mé rừng.Vừa tới cổng quận thì thấy một bầy chó rất đẹp, loại chó nhà giàu, không biết của ai? Thấy anh Sự xuống xe, thầy Bùi Giáng tĩnh bơ như đất nước không có chuyện gì xãy ra, kéo bầy chó lại gần anh Sự:

                          - Bữa nay thầy đem mấy con chó nầy giao thiếu tá nuôi nó .. Tụi nó khôn lắm .. Con nầy là sứ giả của Thích ca nè… Con nầy là sứ giả của Jesus… Còn con nầy là sứ giả của…

                          Không đợi thầy Bùi Giáng nói hết câu, anh Sự vội vàng từ chối:

                          -Thầy ơi, tôi không thể nào tiếp Thầy trong ngày hôm nay ...

                          Rồi anh Sự móc tiền nhét vào túi nhà thơ, bảo thầy tìm xe về Sài Gòn ngay lập tức vì ở đây nguy hiểm lắm, tình hình nặng nề lắm rồi… Bữa khác hãy xuống chơi… "Bữa khác" trong lời hẹn cũng là mốc thời gian vô định.. Cũng từ hôm đó, anh Sự vĩnh viễn không còn gặp lại ông thầy Bùi Giáng kính mến lần nào nữa... Anh vừa quay lưng đi vào văn phòng, thì hai chiếc xe của hai ông quận Cần Đước và Cần Giuộc ngừng lại hỏi:

                          -Ê, bộ toa tính ở lại chờ bàn giao hả?

                          Nói xong hai xe tiếp tục chạy thẳng hướng Vàm Láng ..
                          Gần 3 giờ trưa, một đoàn xe, trong đó có thấy đại tá Lê mặc áo giáp, cùng vợ và cô con gái ngồi trên xe, chạy ngang quận về hướng biển. Không còn biết phải làm gì nữa, anh Sự vội vã tiễn vợ con ra xe về bên ngọai ở làng Tăng Hòa, rồi cùng Ông Đỉnh ra Vàm Láng, nơi đơn vị Dù vẫn còn đang chờ thượng cấp.

                          Xã Vàm Láng là một xã sống bằng nghề đánh cá. Vì họ có nhiều ghe tàu, đủ khả năng đi đánh cá xa bờ, nên đã trở thành nơi hẹn cho những chuyến đi… dù không biết nơi đến là đâu?! Một mủ đỏ mang cái radio đang nghe lại cho Trung Tá Đỉnh. Bản tin đầu hàng của tướng Minh thường xuyên phát lại, vậy mà tới giờ nầy hai anh mới được nghe… mà vẫn không muốn tin…! Ông Đỉnh đứng dựa vào đầu xe jeep, nước mắt ông chảy dài trên đôi má dạn dày phong sương.. Mắt Anh Sự cũng đỏ hoe.. Không phải chỉ có hai người khóc, mà còn nhiều, nhiều lắm .. Bao nhiêu là nước mắt nghẹn ngào, tức tửi. Họ khóc cho ai? Cho tổ quốc? Cho Chánh Phủ? Hay cho đời mình? Họ khóc cho tất cả…!
                          Nén tiếng thở dài, Ông Đỉnh đứng thẳng người ngỏ lời với đồng đội thuộc cấp:

                          - Chúng ta đã chiến đấu bao nhiêu năm dài để bão vệ miền Nam.. Bây giờ có lệnh đầu hàng… Chúng ta không thể cải lệnh được. Anh em từ giờ phút nầy tự do quyết định cuộc đời mình.. Ai muốn về nhà, muốn đi đâu thì đi.. Riêng tôi… chắc sẽ đi Úc.. Anh em nào muốn đi theo thì đi…

                          Nói xong Ông cho tay vào túi móc ra một nắm tiền ném tung theo gió.. Tiền Việt Nam bay lả tả, cuốn theo gió bụi bước đời, mà chẳng thấy ai buồn nhặt lấy. Một hình ảnh rất bi hùng cuối trang chiến sử… Đầy máu và nước mắt...!

                          Thành phần sĩ quan tiểu khu Gò Công tự tìm tàu thuyền mà đi. Chỉ có gia đình Đại Tá Lê mới đến gần với tàu của đơn vị Dù. Lúc bấy giờ không biết có ai phóng tin bà Đỉnh từ Sài Gòn đã xuống tới Gò Công tìm chồng. Anh Đỉnh nói với Trung Tá Hồng và anh Sự:

                          - Moi phải lên Gò Công đón bà xã xuống, rồi sẽ đi...

                          Nhìn cảnh hỗn loạn tại bến cá, Thiếu tá Tây, Đại úy Để… và nhiều, nhiều nữa … trở lại Gò Công mặc cho cuộc đời đưa đẩy… Mọi người tự an ủi…"Thôi thì dù sao cũng hòa bình rồi, bên thắng cũng là người Việt với nhau…chắc không đến nỗi nào…"

                          Trên chiếc tàu hàng loại cận duyên chỡ bộ chỉ huy lữ đoàn Dù bây giờ có thêm gia đình Đại Tá Lê, Thiếu Tá Sự với thằng em cận vệ, cùng vài sĩ quan chi khu kể cả nhân viên hành chánh như Phó Quận Thúy… Chiều xuống dần rồi tối hẵn... Chờ mà không thấy Trung Tá Đỉnh trở lại, nên Trung Tá Hồng quyết định cho nhổ neo. Theo lời chỉ dẫn của Đại Tá Lê cứ cho tàu chạy thẳng ra hướng đông sẽ gặp tàu Mỹ.. Tàu chạy trong đêm tối, biển lặng yên, bầu trời đầy sao lấp lánh… nhưng giông bão hình như đang xé nát trong lòng mọi người. Anh Sự ngồi bên cạnh người tài công cũng là chủ tàu, phụ quan sát theo vệt đèn pha để tàu tránh đụng vào các miệng đáy. Nhìn hướng Sài Gòn thấy khói lửa ngút cao, còn trước mặt vẫn là biển cả với một màu đen! Cũng phải vài tiếng sau mới nhìn thấy ánh đèn le lói từ xa và tàu cứ nhắm hướng đèn mà chạy tới.. Chạy cho tới khi sao mai lấp lánh mờ dần và mặt trời ló dạng…

                          Một chiếc tàu Mỹ khá lớn đang neo ở đây từ lúc nào rồi. Trên boong tàu có nhiều người bước tới lui. Họ đứng tựa lan can tàu nhìn xuống.. Những xà lan chật kín người đang cặp hai bên hông tàu.. Người trên tàu nhìn xuống xà lan như tìm như kiếm người quen…. Tàu Dù tiến dần tới tàu Mỹ thì gặp phản ứng. Loa phóng thanh từ trên tàu kêu gọi người dưới tàu phải vứt bỏ vũ khí, trước khi cặp vào xà lan. Tàu Dù chạy quanh một vòng thì người trên tàu đã nhận ra quân bạn…Có tiếng bạn mủ đỏ từ trên tàu vọng xuống:

                          -Đại bàng ơi! Còn mấy đứa con của đại bàng đâu rồi? Mỹ không cho mang súng lên tàu nó đâu…

                          Anh Sự đề nghị với Anh Hồng kiếm tấm vải trắng viết 3 chữ SOS kéo lên và quăng súng xuống biển để cho nó biết mình muốn gì.Tàu mình nhỏ chắc không thể chạy xa được nữa, Anh Hồng cay đắng thở dài… Thế là những thiên thần mủ đỏ của lữ đoàn I Dù, một thời ngang dọc trên mọi chiến trường, hôm nay trên biển cả mênh mông, đành phải giã từ vũ khí ở giờ thứ 25 của vận nước.

                          Ông Lê lên xà lan ngồi trên trụ sắt buộc tàu. Khi mọi người lên hết xà lan, tàu không người điều khiển tự trôi lui theo giòng nước. Dây buộc tàu vòng qua chân Ông Lê siết mạnh, tiếng xương gãy phát ra một âm thanh rợn người. Ông Lê thét lớn rồi ngất lịm. Biết có tai nạn, tàu Mỹ ưu tiên nhận người bị thương. Phó Thúy, cùng mấy người ngồi cạnh, khiên Ông Lê và cùng dẫn gia đình ông lên tàu. Chiếc tàu Mỹ nhổ neo… Ông Tỉnh Lê và Ông Quận Sự chia tay nhau từ đấy. Những xà lan đầy người được các tàu Mỹ khác lần lượt kéo người lên.. Và dòng xà lan từ Sài Gòn vẫn liên tục được kéo tới, cùng với biết bao nhiêu ghe thuyền mong manh khác cứ đổ ra biển tìm con đường sống, dù con đường ra đi đầy hiễm nguy, chưa nói đến giặc Cộng tàn nhẫn, bắn xối xã vào những tàu nào chúng thấy được.....

                          Con sông Bến Hải, đứng bên nầy bờ nhìn thấy bờ bên kia rõ ràng, vậy mà sau năm 54, đất nước đôi miền chia cách.. Bắc Nam từ đấy biệt tin nhau.. Bây giờ không phải là con sông mà là biển cả. Sóng nước chập chùng, xa cách nhau nửa vòng trái đất.. Ra đi bỏ quê hương đến xứ người xa lạ.. Biết làm sao sinh sống? Người cùng giòng giống mà còn không yêu thương nhau, thì người dị chủng, biết có chịu cưu mang mình không?? Rồi còn cha mẹ, anh chị, vợ con còn kẹt lại ở quê nhà.. Mình là cột trụ gia đình mà bỏ ra đi.. Con còn nhỏ.. Vợ chưa từng nếm gió trải sương, làm sao nuôi con? Với lại kẻ chiến thắng cũng cùng chung huyết thống, gốc con cháu Lạc Long.. Tin tức từ radio, chánh phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam vẫn ra rả thông tin… Đánh người đi, chứ ai đánh người trở lại..?! Qua cơn lốc xoáy kinh hoàng, không phải tất cả đều bằng lòng với chuyến đi của mình. Có người… khá nhiều người đủ mọi thành phần trong xã hội, trong quân đội lẫn chánh quyền, khi mà họ nhìn thấy, biết được chung quanh họ trên tàu, trên đảo… hầu hết người ta đi có mặt đông đủ vợ con, gia đình, có cả người giúp việc, chị vú đi theo.. Những người ở lại, có nhiều người đã gửi vợ con thân nhân đi trước, để họ an tâm ở lại với chức vụ cho tới giờ chót. Họ nhìn lại mình với nỗi đau của tận cùng thân phận.. Xa vợ vắng con .. Làm sao họ an tâm sống? Có ai muốn làm người chồng lỗi đạo với người vợ trẻ? Có ai muốn chạy trốn bổn phận làm cha? Đây là những lý do đã khiến cho con tàu Việt Nam Thương Tín đem về cả 1500 người, đã thoát ra đi mà không đi tiếp tục…

                          Khi nhìn thấy người trở về từ tàu Việt Nam Thương Tín, các anh em tù chung trại thường hay cười nhạo, "đã ra đi mà còn nhớ cái còng nên trở lại!", "Trở lại bằng con tàu Việt Nam Thương Tâm!" .. Thường thì những anh em trở về nầy đều nhẫn nhịn nuốt đắng cay, không nói dù một lời biện minh cho bước trở về… Ai có ở trong cảnh mới hiểu được người trong cảnh…

                          Tàu Việt Nam Thương Tín vào tới hải phận Vũng Tàu, sau khi gửi tín hiệu xin cặp bến, tàu nhận hiệu dừng lại. Có hai chiếc tàu nhỏ võ trang mang cờ mặt trận giải phóng của Việt Cộng chạy ra đón rước.. Súng đạn lên nòng trong tư thế chiến đấu.. Tất cả đoàn người lên hết trên boong tàu đứng đầy xung quanh lan can, nhìn xuống tàu VC với nét mặt đầy vẻ lo âu. Mấy cán bộ cao cấp, mang súng nhỏ lên tàu, tiếp xúc với thuyền trưởng, hải quân Trung Tá Trần Đình Trụ và đại diện đoàn người hồi hương là Trung Tá Trần Ngọc Thạch, chánh võ phòng của Tổng thống Trần Văn Hương. Sau khi quan sát khắp mọi nơi, tên cán bộ VC đứng giữa boong tàu, an ủi bà con nên yên tâm, vì cách mạng chỉ đánh người chạy đi chứ không bao giờ đánh người trở lại. Khi hai tên cán bộ xuống tàu nhỏ, thì tàu Việt Nam Thương Tín được lệnh trực chỉ Nha Trang, với sự hộ tống của hai tàu võ trang VC. Tàu cập bến Nha Trang, tất cả thuyền nhân lên bờ, và bị giam giữ rải rác nhiều nơi trong tình Nha Trang. Đây là thời gian từng người được gọi đi làm việc (Chữ của VC), và họ bị làm việc liên tục suốt mấy tháng trời, khai thế nào chúng vẫn bảo là chưa thành khẩn khai báo…

                          Anh em thuộc tỉnh Gò Công trở về trên tàu khá đông. Ngoài binh sĩ, cán bộ xây dựng nông thôn, cảnh sát… trong hàng ngũ sĩ quan, có các anh Thiếu Tá Sự, Đại Úy Phạm Văn Mến, Đại Úy Bá, Trung Úy La Ngàn, Trung Úy Ngô Bứa,Trung Úy Minh Hiếu, Trung Úy Vàng, Trung Úy Bé, và Phó quận Thúy. Sau đợt lấy cung, một số đàn bà trẻ con, dân sự được tha về sớm. Các anh được coi là trong ban đại diện bị đưa về Chí Hòa. Còn lại tất cả giải giao ra Xuân Phước… Ra đây để mà học tập cải tạo hầu sớm tiến bộ trở thành người công dân… Cộng Sản (!)

                          Trại Xuân Phước trước đây là doanh trại của Lực Lượng Đặc Biệt, đã bị bỏ hoang từ ngày Lực Lượng Đặc Biệt giải thể, sau khi Mỹ rút. Trại nằm sâu trong rừng núi tỉnh Phú Yên. Đoàn tù VNTT coi như là nhóm tiên phong xây dựng lại trại Xuân Phước từ hoang tàn trở nên vững chắc đủ tiêu chuẩn nhốt tù.

                          Anh Sự nằm cạnh anh Trần Hồng Đăng, trung sĩ nhất nhảy dù. Đăng hiền lành chân thật. Anh được lòng bà con từ ngày còn trên đảo. Anh hớt tóc không công cho bà con. Đền trả công, anh nhận lại từ bà con đủ thứ vật dụng, thức ăn thuốc hút… những thứ mà trại cấp phát cho người trên đảo. Những điếu thuốc Mỹ anh Đăng mang về bây giờ, được ngắt ra từng khúc nhỏ thay thế bi thuốc lào… Hút nhã khói cho qua cơn ghiền..!

                          Sau một thời gian tạm coi là ổn định, trại cho phép tù viết thơ về thăm nhà… Lá thư gửi đi kéo theo chuổi thời gian trông ngóng tin nhà.. Biết bao nhiêu điều mà người tù rất muốn biết kể từ khi rời đất lênh đênh trên biền cho tới bây giờ…
                          Một buổi sáng Đăng được cán bộ trại gọi, ra lên gặp giám thị trưởng… Tới trưa Đăng trở về buồng, dáng dấp trông như người mất hồn, nằm dài nhìn lên mái nhà bằng đôi mắt xa xôi… Thấy tình cảnh của Đăng như vậy, anh Sự hỏi thăm chuyện gì đã xãy ra….Đăng ngồi dậy, tay với lấy ống điếu cày, thong thả nhồi vào nỏ một bi thuốc, mồi đóm lửa, kéo ro ro một hơi dài, ngước mặt thả khói lên trời, Đăng móc túi lấy ra một lá thư, mới nhận được từ tay cán bộ trưởng trại trao cho anh Sự. Lá thư có dấu bưu điện Hà Nội. Lá thư được viết khá dài, nhưng chỉ có một câu ngắn, đủ nói lên cơn huyển mộng của một trong nhiều bi kịch của cuộc chiến tương tàn trên quê hương Việt Nam…

                          Đăng con! Hòa bình lập lại đã lâu rồi, sao con không xin phép thủ trưởng về thăm mẹ…
                          Vợ con vẫn chờ con.. Nay vợ con đã thăng quân hàm thiếu úy Công An …”

                          Thì ra…
                          Cây cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải, từng ghi vết nhơ chia cắt đôi miền. Nay Cộng quân cưỡng chiếm miền Nam, cây cầu không còn gây khó dễ, cho dân hai miền Nam Bắc lại qua, thì trước sau gì người mẹ của Đăng, cũng thấu rõ định mệnh nào đã đeo đẳng người con trai, từ ngày đem tuổi trẻ xẽ dọc Trường Sơn. Thì ra Đăng là một bộ đội trẻ xâm nhập vào Nam ở lứa tuổi 20. Trong một trận tấn công vào một đơn vị Mỹ ở miền Trung, Đăng bị trọng thương bất tỉnh tại chiến trường. Khi tỉnh lại, trong ánh đèn sáng rực mà Đăng chưa lần nào được trông thấy.. Nhìn băng bông trên người, Đăng biết mình được đối phương cứu sống, nhưng chưa biết mình đang nằm ở đâu và rồi sẽ bị đối xữ như thế nào đây? Sau thời gian được tận tình cứu chữa, Đăng bình phục. Bệnh viện Mỹ chuyển giao Đăng qua chính quyền địa phương. Không chấp thuận cuộc sống tù binh, Đăng chọn con đường cải danh hồi chánh. Lúc còn trên giường bệnh, Đăng cũng có ý muốn tìm về đơn vị cũ. Nhưng bây giờ thì chịu ra hồi chánh, Đăng coi như tứ cố vô thân. Còn trong tuổi động viên, Đăng tình nguyện nhập ngũ trong màu áo hoa rừng Nhảy Dù. Đăng có khả năng. Sau nhiều lần bị thương, cũng như lập được nhiều chiến công, với một khoảng thời gian khá dài, Đăng trở thành một hạ sĩ quan xuất sắc của đơn vị. Tết Mậu Thân, Đăng có mặt trong trung đội tái chiếm đài phát thanh Sài Gòn. Đơn vị xuất phát từ cầu Phan Thanh Giản, lần theo phố vào Nguyễn Bỉnh Khiêm, xuyên lần qua các dãy phố đến Phan Đình Phùng. Trong lúc băng qua đường xung phong vào sân đài phát thanh, Đăng bị trọng thương, nằm điều trị tại tổng y viện Cộng Hòa, xuất viện lọai 2. Đăng không xin giải ngũ, mà tiếp tục đời lính làm việc nhẹ tại hậu cứ. Anh làm lính hớt tóc, sau thành tài xế. Khi hiệp định Ba Lê ra đời, Đăng được chỉ định làm tài xế cho phái đoàn quân sự liên họp bên kia, trong trại Davis nằm trong Tân Sơn Nhứt. Đăng tiếp tục kể, có lần tướng trưởng đoàn Bắc Việt thấy Đăng kéo thuốc lào, có hỏi xin một bi hút thử.. Kể tới đây, Đăng cười, kéo áo lên khoe những vết thẹo trên người..

                          - Đây là thẹo của đạn M16, đây là thẹo của AK47..

                          Vừa nhìn những vết thẹo Anh Sự cười cười:

                          -Vậy chú em mầy khỏe rồi, mai mốt thả về đoàn tụ với mẹ, có vợ là thiếu úy công an… ấm đời trai ..

                          Nghe Anh Sự nói, Đăng lắc đầu cười như … mếu:

                          - Thấy vậy mà không phải vậy đâu.. Em đã có vợ hai con trong Nam rồi. Trước đây vợ con em ở trong trại gia binh Hoàng Hoa Thám, bây giờ không biết trôi dạt về đâu..?? Anh thấy đó, mình đã tới đảo rồi mà đành phải trở về, cũng vì thương vợ nhớ con.. Vì thương tụi nó quá, nên em mới chấp nhận đau thương mà về, nếu không bây giờ đang đi trên miền nắng ấm… Bây giờ thật khổ! Không biết nói sao với mẹ, với vợ đang mong chờ ngoài Bắc?!

                          Một số sĩ quan từ cấp trung úy tới trung tá được chuyển ra Bắc trên mấy chiếc xa hàng bít bùng. Chiếc còng đôi đã xác định họ là ai! Đoàn xe chạy ngang qua hai con sông lịch sử. Hai dòng sông phân ly mà người hai miền không ít người mong có ngày đi thăm nhìn cho tận mặt...

                          Anh Sự gở 13 cuốn lịch, về lại Gò Công… Đời người tù cải tạo vẫn tưởng tàn dần trong chế độ mới… Đâu có ai ngờ sau cơn mưa trời thực sự sáng. Chương trình HO ra đời cứu vớt biết bao gia đình quân công đang ngụp lặn trong bể khổ về được miền đất hứa. Gia đình anh Sự cũng nằm trong thành phần may mắn đó. Trước khi rời bỏ quê hương ra đi, cũng giống như nhiều người khác, tìm về nơi chốn làm việc năm xưa nhìn lại cảnh cũ, anh Sự nhẹ nhàng trên chiếc xe đạp (Thời đó được gọi là Cúp điếc). Anh xuống thăm gia đình người cận vệ, chú Tiếp đang sống tại Hòa Tân. Tiếp là hạ sĩ quan nên được về sớm. Nói là sớm chứ cũng trên 3 năm. Tiếp cũng đang học Anh văn chờ đi Mỹ.. Thầy trò gặp lại nhau hàn huyên tâm sự, kể cho nhau nghe những thay đổi trong bước đời ..

                          - Thằng Đăng có lần tưởng chết vì ăn trúng cóc độc, sau nầy nhiều bạn tù thấy nó áo quần bảnh bao. Thong dong trên chiếc Dream đời mới trên đường phố Sài Gòn…

                          Vậy là Đăng đã đoàn tụ với vợ con ở Rạch Giá và chắc đã nhiều lần xin phép “Thủ Trưởng“ ra Bắc thăm mẹ già… Cũng lại một bước đời huyển mộng...!

                          Chia tay thuộc cấp cũ, anh Sự trên đường về, làm một vòng, ngang qua doanh trại quận Hòa Tân cũ. Anh nhìn thấy mấy con gà đang bươi đất kiếm trùng, dưới mấy bụi bắp chưa trổ cờ… Lòng anh như chùn xuống.. Bức tranh đời thay đổi quá nhanh.. Cảm khái vừa đạp xe vừa khe khẻ…

                          “ Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
                          Đến nay thắm thoát mấy tin sương
                          Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
                          Đền cũ lâu đài bóng tịch dương…"

                          Anh Sự ra đi mà lòng chưa được ổn lắm. Vợ anh phải ở lại uống thuốc đi sau, vì phổi có vết nám. Vợ anh lặng lẽ tiễn cha con anh lên đường. Anh đốt nén nhang trước bàn thờ gia tiên, từ giã Ông bà Cha Mẹ ra đi. Trước khi lên xe, anh tình cờ gặp lại Thầy Nguyễn Văn Ba, nguyên giáo sư Trung Học Gò Công. Coi như Thầy Ba là người duy nhất tiễn cha con anh Sự lên đường.. Một trang đời của một gia đình được lật qua…
                          .....

                          Tôi ở trại Hà Tây có gặp Đại Tá Lân. Sau mấy năm tù ông bị bệnh mù mắt. Ông có hỗn danh là Lân mù. Ông ở buồng 15 cạnh buồng 16, dành riêng cho sĩ quan cấp đại tá. Trong hai buồng nầy, cũng có 2 vị Trung tá, cũng đều trong ngành Chiến Tranh Chính Trị, là Ông Diên Nghị (Quân Đoàn IV) và Mười Hai (Cục Chính Huấn). Ông Lân rất vui vẽ yêu đời. Ông được nhiều cảm tình của đám tù sĩ quan trẻ. Ông Lân không biết bây giờ ở đâu? Ông Đỉnh cũng đã tới miền đất tự do và hình như đang lâm bệnh. Trung Tá Hồng bỏ miền đất hứa về chiến khu với Hoàng Cơ Minh, để rồi xuôi tay nhắm mắt khi ước vọng chưa thành. Thương cho một người chiến sĩ, luôn quyết đem thân đền ơn tổ quốc…

                          Thì ra cuộc đời như một cơn trường mộng, thấy đó rồi mất đó, điều mình làm thấy phải, người khác lại cho là sai…

                          Hằng năm, sau tết, ở đất tạm dung nầy, lòng tôi luôn thấy bùi ngùi… Những ngày thiêng liêng đối với người Việt thì mình lại sống xa quê... Đâu biết tết nhứt là gì.. Mùng một lên xe đi làm, làm sao lòng không khỏi ray rứt… Cũng mùa xuân, tôi hưởng xuân cuối cùng trong đời lính tại KonTum, tám cái tết trong lao tù Cộng Sản, hơn 15 cái tết xa quê…

                          Một khoảng đời khá dài… Thương cho Việt Nam mình, cứ mãi chịu cảnh phân ly... Cha con chồng vợ nhiều khi gặp rất nhiều hoàn cảnh éo le.. phủ phàng…Với tôi.. chẳng qua là Huyển Mộng Bước Đời !

                          Viết tại Kỳ Đà Động Mạnh Xuân 09

                          THỦY LAN VY

                          Con đi dưới lá cờ sao máu
                          Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                          Comment

                          • #28

                            BƯỚC ĐỜI CỦA NÓ
                            *


                            Mỗi lần đi làm về, vào những buổi chiều trời mưa, nó thường không mở cửa vào nhà ngay, mà thường đứng trên hàng hiên nhà, nhìn ngó mông lung. Mỗi lần nhìn mưa, nó lại thấy nhớ .. Nó có rất nhiều kỷ niệm với mưa. Từ ngày rời bỏ quê hương, lòng nó luôn ray rứt.. Một cảm giác mất mát, một nỗi buồn hụt hẫng .. Hình như nó thấy tiếc và thấy nhớ.. Những điều nó mất, rất khó tìm lại được .. Nếu nhìn qua đôi mắt của nó, người đối diện rất dễ nhìn thấy nỗi buồn .. Nỗi buồn của giống ma Hời mất nước…!
                            Với 7 năm lính, cấp bậc của nó rất bèo trong hàng ngũ sĩ quan cấp úy. Bổng lộc triều đình, dĩ nhiên nó chưa được hưởng chút gì... Đời lính ngắn ngủi của nó, chỉ biết ăn cơm chực của người chị thứ tư, xin tiền người chị thứ sáu... Ngoài quần áo trận, những thứ khác trên người nó có, đều của Mẹ và chị nó cho. Vậy mà khi lá cờ vàng tan tác... nó vô tù, chuyển từ Nam ra Bắc, gở hơn 8 cuốn lịch... Tính ra gần ba ngàn tờ lịch .. Một khoảng thời gian không phải ngắn trong suốt đời người.. Nó tuy có cao lớn nhưng ốm yếu.. Vậy mà nó vẫn sống .. sống trong địa ngục trần gian. Lúc trở về với Mẹ, nó trong thể hình lành lặn.. tóc trắng hơn nữa mái đầu, dù lúc đó tuổi nó còn ở hàng 3.
                            Đêm cuối tuần, có thong thả chút thời giờ.. nó đọc mấy bài ký sự trong nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa... Những trận đánh trong những ngày mùa hè đỏ lửa, gợi lại cho nó biết bao nhiêu là nhớ...là thương... cảm giác vui buồn lẫn lộn...
                            Bởi mùa hè đỏ lửa năm âý, nó cũng có mặt tại Huế hơn một tháng trời...



                            Vừa bước xuống phi trường Phú Bài... đi được vài bước, thì đạn pháo của VC đã ầm vang nổ, chào đón hành khách vừa tới Huế. Trên chuyến bay từ Sài Gòn ra Huế, khoang hành khách của chiếc C130 toàn là lính, với ba lô, với vũ khí cá nhân, với từng ánh mắt đăm chiêu.. phảng phất nét buồn thương nhớ... Nỗi buồn của người không biết được ngày mai...!
                            Họ là những người lính tác chiến từ vùng 1 về phép, nay trở ra đơn vị. Họ là lính Sài Gòn đi công tác tăng phái cho quân đoàn 1. Nó là trưởng toán dân sự vụ, được Tổng Cục CTCT điều công tác tăng phái cho Bộ chỉ huy CTCT tiền phương, đóng tại Trại Nguyễn Tri Phương, dưới sự điều động chỉ huy của Đại tá Phan Phiên, tham mưu phó CTCT quân đoàn 1. Ngoài 2 toán tăng phái từ Tiểu Đoàn 50 CTCT, còn có bộ chỉ huy nhẹ của Tiểu Đoàn 10 CTCT, do đích thân Thiếu Tá Bá, tiểu đoàn trưởng đảm nhiệm.
                            Lần đầu tiên trong đời lính, nó bước chân trên đất vùng 1 chiến thuật, phi trường Phú Bài với mùi hôi thối nặc nồng. Trước mắt nó là hàng trăm quan tài, phủ quốc kỳ, đặt trên nhiều pallets san sát nhau. Chiến tranh tàn khốc. Tháng 8 năm 72, cổ thành Quảng Trị còn trong tay giặc Bắc. Những quan tài nầy có lẽ được quàng khá lâu, nước rỉ ra ngập ướt cả lối đi.. Người ta phải dùng vôi bột trải lên một lớp dày và lớp vôi trở thành một lớp bột nhão. Mưa lất phất, mưa xứ Huế, mưa suốt ngày, mưa suốt tuần, mưa nhão đất.. khi nặng hạt, khi thưa hạt... Trời âm u, mây thấp .. Cảnh sắc trông thật buồn... Dễ làm trĩu lòng những người mới vừa từ Sài Gòn ra...!
                            Nó và 4 nhân viên, theo sự chỉ dẫn của mấy anh trong phi hành đoàn, cúi mình mang balô chạy vội về hướng nhà chờ đợi.. Giặc chỉ pháo hơn mươi trái rồi im.. Cũng không thấy thiệt hại gì cụ thể, vì đạn biết tránh người, và trời kêu ai thì người đó dạ... (người câm chắc khỏi chết!)
                            Với một bông mai trên ve áo, kinh nghiệm công tác xa của nó còn yếu kém... Những người lính thì dạn dày hơn. Họ đã từng bước chân trên khắp 4 vùng chiến thuật.. đã từng gặp nhiều tình huống khác nhau.. nên nhờ thế, lòng của họ chắc cũng ít lo lắng hơn nó....
                            Yên tiếng pháo, toán tăng phái được một anh hạ sĩ quan, thuộc tiểu đoàn 10CTCT hướng dẫn đến chiếc GMC để về doanh trại... Từ Phi Trường Phú Bài về phi trường Tây Lộc cũng khá xa... Mưa rơi lất phất.. Doanh trại chỉ là 2 dãy nhà tiền chế, nằm bên nầy hào nước, bên kia là phi trường Tây Lộc. Sân trại trông hoang phế tiêu điều, lổ chổ đất đá, cỏ hoang, vài hố cá nhân có mái che... Giao thông hào trông rất đơn sơ.. Đại úy Trần Trợ, Tiểu đoàn phó, coi qua sự vụ lệnh, hỏi thăm một vài điều, đã chi định nơi tạm ngủ cho cả toán. Chỗ ngủ của toán nằm cuối dãy nhà bên trái, sát chuồng heo của trại. Bốn thầy trò nó mắt nhìn mắt... Tìm chổi quét dọn, trải poncho cho đủ mấy người nằm... Lơ đảng ngồi hút thuốc vặt, nhìn trời rớt mưa, không ai nói một lời .. Nhưng những điều suy nghĩ chắc là cũng giống nhau... Làm sao không khỏi nhớ nhà dù vẫn biết, lính tổng trừ bị luôn phải rày đây mai đó! Lại đến nơi đang dầu sôi lửa bỏng, trời thì mưa gió sụt sùi...
                            Hạ sĩ Võ văn A, chung đơn vị với nó trước đây ở Sài Gòn, được thuyên chuyển về nguyên quán mấy năm nay, từ văn phòng chạy tới thăm hỏi mừng rỡ. A bây giờ là tài xế cho Tiểu đoàn trưởng, Thiếu Tá Bá, nguyên thủ khoa khoá 13 võ bị, bạn cùng khóa với đại đội trưởng của nó. Tính ông Bá hiền lành, điềm đạm, rất tốt với thuộc cấp. Khi từ Huế về Sài Gòn công tác, ông vẫn thường ngủ trong phòng sĩ quan đại đội, nên tuy khác đơn vị, ông vẫn xem đám sĩ quan cấp úy của nó như là thuộc cấp của ông. Rất tiếc giờ đây ông đang nằm bệnh viện... Trừ hạ sĩ A, nó không quen biết một ai khác nơi nầy...
                            Toán của nó, lảnh một chiếc xe Dodge, với hai binh sĩ cơ hữu... Có khi thêm toán quân y của Trung Úy Điềm... Hàng ngày dung ruỗi đến các trại tiếp cư nằm tại các trường học, rải rác khắp các quận như Phú Vang, Hương Thủy, Hương Trà, Hương Điền...
                            Nhiệm vụ của toán là phụ lập danh sách tạm cư, khám bệnh, hớt tóc... Chuyển giao tặng phẩm cứu trợ đến từng đồng bào tỵ nạn... Công việc nầy, nó từng làm ở Sài Gòn, đón đồng bào từ Bình Long, Phước Long, từ Kontum ... Từ các nơi có giao tranh lớn về Tân Sơn Nhất... Rồi chuyển đồng bào đến các trại tiếp cư ven đô... Công việc cũng không có gì khó khăn rắc rối ... Với lại nó đã quen làm những việc nầy...
                            Thường cứ đến nơi, toán luôn làm việc cật lực, vì trước mắt, nhìn thấy cảnh khổ của người dân, phài bỏ nhà cửa ra đi… Chiến tranh đã tạo nên biết bao nhiêu thảm cảnh cho đồng bào… Nhiều lúc trước mắt những cảnh quá hãi hùng, tàn nhẩn do bom đạn gây nên... Nó thấy lòng buồn lắm… Sao nó lại sinh ra trên một đất nước đầy khốn nạn như vầy?! Người Việt Nam sao cứ mãi chịu đựng chiến tranh? Cùng là người Việt với nhau, sao lại đang tâm xâu xé nhau ...?? Lúc đó, nó chỉ hiểu Cộng Sản một cách lờ mờ , nhìn thấy sự tàn ác của Cộng Sản, qua những cảnh khủng bố, ám sát các nhân viên Diệt Trừ Sốt Rét, công chức xã ấp, quân nhân, mà thời còn đi học, nó nghe nói tới, cũng như chứng kiến thường xuyên.
                            Nó hiểu biết về Cộng Sản một cách mơ hồ, cũng phải thôi, vì có ai chỉ dẫn cho nó thấy rõ dã tâm của Cộng Sản, dù nó là lính trong ngành CTCT. Những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường, nó chỉ được biết người Cộng Sản qua những câu chuyện được nghe kể về những vụ ám sát, giết người dã man, không có tình người, nhưng trong lòng nó chưa bao giờ có ý thù hận, vì tầm nhìn của nó ngắn, hạn hẹp qua sách vở, mà nó cũng rất ít khi đọc những đề tài khô khan nầy. Nó vẫn nghĩ, họ cũng là người Việt Nam... Nhìn đồng bào “bỏ của chạy lấy người” ở những nơi vừa bị Việt Cộng tạm chiếm, nó có nhìn thấy chút chút tính man rợ của Cộng Sản, nhưng vẫn chưa thấu đáo lắm.
                            Xong một tháng công tác, toán dân sự vụ chuẩn bị trở về hậu cứ.. Đêm từ giã, nó cùng binh nhất Âu, tài xế, ra quán ven đường, xế cổng trại một chút. Hai thầy trò nhờ chủ quán nướng cho con khô mực với 1 lít rượu đế, ngoài đó gọi là rượu xi ca, rượu có màu như rượu thuốc trong Nam, nhưng dợt hơn. Một vài người trong quán nhìn thầy trò nó với cặp mắt ngạc nhiên.. Sao có hai người mà gọi tới một lít rươụ? Thực ra, tửu lượng hai thầy trò nó rất cao. Rượu trắng Hốc Môn, rượu đế Gò Công thầy trò nó vẫn thường "cưa" một lít, mà chỉ mới hơi hơi “nóng máy”, thì rượu Xi ca lạt lẽo nầy, nhằm nhò gì với thầy trò nó! Trong quán, ánh sáng lờ mờ bằng ngọn đèn một bóng tròn, có lẽ cở 60W, trời đêm dịu mát, mới uống được vài ly thì bé Hồng, con gái chủ quán, khoảng 17 tuổi, từ phía sau quán bước ra ôm cổ nó, vừa khóc, vừa kể...

                            - Thiếu úy ơi, em khổ quá! Ở đây không có cách gì kiếm ra tiền để sống… Thiếu úy cho em theo về Sài Gòn, em sẽ làm hết mọi việc cho thiếu úy... Em nghe lời sai bảo của thiếu úy...

                            Tội nghiệp nó… Nó hết sức ngỡ ngàng trước tình huống nầy… Âu tài xế cũng ngạc nhiên không kém…

                            - Hồng ơi Hồng! Em tưởng anh là cái giống gì, mà em đòi theo anh về Sài Gòn...? Một thân một mình anh đây mà tiền lương chỉ đủ hút thuốc ăn sáng, làm sao anh nuôi em cho nổi...!!

                            -Thiếu úy đừng lo, em chỉ ăn cơm không với muối.. Em không xài tiền.. Em không cần gì hết, chỉ cần được thiếu úy nuôi em thôi... và em sẽ lo cho thiếu úy.. Em sẽ không còn khổ như sống ở đây...

                            Tội nghiệp, nó nhớ hoài kỷ niệm đó… Nó biết Hồng nói thật… Cô gái chỉ muốn xa miền đất khô cằn đầy dẫy bất trắc, đạn pháo thường ngày.. rồi cũng có ngày lảnh pháo nầy! Hồng tưởng nó là ông gì có thừa tiền, thừa phương tiện, sống đủ đầy ở Sài Gòn. Một tháng ở Huế nó sụt mất cũng vài ký lô.. Không chừng mang thêm bệnh đau tim vì những phút giây hồi họp chờ pháo, ngày 2 cữ, vào buồi tính sương và giữa ngọ !!!
                            .....

                            Phi trường Phú Bài, sáng sớm trời còn mờ sương… Nhưng không khí sinh hoạt đã thấy tất bật, rộn ràng, phi cơ lên xuống liên tục... Trên chiếc C119, khi tất cả hành khách đã an vị, phi cơ chuẩn bị cất cánh... Hành khách trong khoang, chỉ có một vài người đàn bà, có lẽ là vợ con lính, từ Sài Gòn ra thăm chồng con trở về... Nó còn nhớ vị trưởng phi cơ, đại úy Trác, đi tới đi lui giữa hai hàng ghế… Ông dặn dò vài điều an toàn trên phi cơ, gương mặt ông sáng sủa, giọng nói ông vui vẻ, rất dễ có cảm tình với người đối diện... Ông đang nói, chợt ngừng lại, ánh mắt đầy vẻ ngạc nhiên, Ông nhìn qua khung cửa số... trong giọng nói có vẻ như trách mọc, như ngạc nhiên...

                            - Ba túi đeo lưng với 3 khẩu carbine của anh em nào còn bỏ quên dưới sân?

                            Ông đảo mắt nhìn một vòng, vẫn không có tiếng trả lời.. Cặp mắt ông ngừng lại nơi hàng ghế của thầy trò nó

                            - Có phải ba lô và súng đạn của mấy ông CTCT?

                            Nó hết sức ngỡ ngàng, khi thấy ba thuộc cấp đột nhiên đứng dậy, rời hàng ghế bước xuống phi cơ, khệ nệ mang ba lô súng đạn lên, trước bao cặp mắt chế diễu của hành khách đồng hành. Một phần lỗi cũng nơi nó, không kiểm soát thuộc cấp…
                            Nó xấu hổ vô cùng. Lính tráng kiểu gì mà quên luôn súng đạn...! Có lẽ mấy chú nầy khi được lên phi cơ bay về Sài Gòn đã mừng quá, thoát khỏi vùng đất quá nguy hiễm.... Nên vì mừng mà quên tất cả… Ngay cả “súng là vợ - đạn là con” mà cũng không nhớ...!!

                            Trên tàu, đặc biệt có một thương binh không quân, đang vô nước biển, nằm trên chiếc băng ca treo sát vách ... Nó để ý, khi phi cơ bắt đầu bình phi, mặt chai nước biền vẫn yên ru không gợn động ...Vị trưởng phi cơ đã khéo léo lái con tàu lướt cánh êm ru...

                            Hình ảnh mấy trăm quan tài, với mùi hôi thối nặc nồng, cứ lởng vởng trước mắt nó. Chiến tranh tàn khốc quá! Mấy năm nay nó chỉ lui tới vùng bốn, công tác tại Chợ Gạo (Mỹ Tho), Gò Công, Hốc Môn, Bình Chánh, thỉnh thoảng cũng thấy quan tài phủ quốc kỳ, nhưng chỉ vài chiếc quan tài thôi... đâu có hàng hàng lớp lớp như thế nầy...! Bao nhiêu quan tài đó, là có bấy nhiêu góa phụ, bao nhiêu là cô nhi....Hình ảnh người goá phụ trẻ với vài đứa con thơ ... lòng nó không khỏi không ray rứt...!
                            Những buổi “nhậu quên đời” sau những chuyến công tác, trong những ngày lảnh lương, ngày 20 tây trong tháng, có bao giờ nó không nhậu ...?! Trời sinh nó có một tửu lượng tương đối khá, nếu không bị chồng độ, rất khó nhìn thấy nó say... Những anh lính nghĩa quân, những cán bộ thông tin, ở những nơi nó đến công tác, có lẽ họ khó quên nó, người sĩ quan trẻ, trưởng toán, vẫn thường uống rượu... thay cơm nầy !!
                            Nó thấy mình phung phí thời gian uổng quá… Nhậu nhẹt dễ làm hư người. Nhậu nhẹt dù tỉnh táo cũng không làm sao giữ được bình thường, con người dễ mất tư cách ...! Nó phải làm gì khi tuổi còn tương đối trẻ, đừng phung phí sức lực cho chung trà chén rượu ... Trong lúc những thanh niên đồng tuổi với nó thi nhau gục ngã trước làn đạn của giặc thù...
                            Mùa thu năm 72, cũng là mùa khai trường, nó lò dò đến Văn Khoa, đóng tiền ghi danh nhập học , nhiệm ý Việt.... Và cũng kể từ hôm ghi danh, bạn bè chung đơn vị, ít có dịp nhìn thấy nó ngồi trong các quán nhậu, trên cuối đường Phan Đình Phùng, hay những quán nhậu dọc theo hai bên đường xa lộ. Đại úy Đặng Thế Sang, đại đội trưởng, rất hài lòng, thích thú khi thấy nó bớt nhậu và ghi danh học lại. Từ trại Nguyễn Bỉnh Khiêm, tới trường bằng xe Honda chưa đầy 10 phút, nhưng ông đã dành cho tôi nó mọi sự dễ dàng trong việc đi học. Ban đêm nó ngủ hẵn trong doanh trại. Trực và công tác bất thường ban đêm, nó làm thế hết cho bạn bè, bù lại ban ngày nó vắng mặt ...
                            Hướng tiến thân nó đang nhìn là Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. Nguyễn Thế Phương, chung đơn vị, thường khuyên nó gắng học:

                            - Mày xong cử nhân, rồi muốn thi vào cao học hành chánh, cứ theo dõi mấy bài diễn văn của Tổng Thống, của Bộ Trường... Luyện thêm Anh văn… Mày thi lần đầu sẽ rớt, rút kinh nghiệm năm sau nếu mày chuyên cần sẽ đậu .

                            Mấy tuần lễ đầu, nó còn bở ngở… Khi ngồi vào ghế giảng đường, vì bạn cùng lớp chênh nhau khoảng 5 tuổi, các cô cậu sinh viên thuần túy nhìn nó bằng đôi mắt e dè... “Chú lính nầy học thực hay vào đây chỉ để cua gái đây…???” Nhưng sau đó, nhìn thấy sự chuyên cần, đến lớp đều đặn hàng ngày của nó và nhìn thấy tập vở nó ghi bài rất sạch sẻ và đầy đủ .. dần dần nó có đựợc một số bạn bè trẻ, đa số là các cô sinh viên duyên dáng ... Từ đó khỏi phải ngồi dưới đất, hay đứng khom mình bên khung sửa sổ để nghe giảng và ghi bài ...
                            Mấy cô bé thương tình chú lính chăm học, nên mỗi ngày đều dành cho nó một chỗ ngồi ...
                            Môn học mà nó thấy khó khăn trong chương trình học năm nhiệm ý, với nó là môn Anh văn! Vì là học sinh trường tỉnh, giáo sư thường thiếu. Sau một tháng khai giảng, mới có thầy, là chuyện thường. Như năm nó học đệ nhất, thầy Thinh chỉ dạy có hơn tháng, thầy phải rời trường nhập ngủ khóa 21 Thủ Đức, để rồi cho tới tháng cuối của năm học, mới có thầy từ đệ nhất cấp đến dạy tiếp! Vã lại, anh văn để học thi tú tài, cũng không có gì khó khăn lắm. Biết cách học rất dễ kiếm điễm trung bình. Thường là một câu về phiên âm, một câu về nhấn giọng, môt câu xếp cột, một câu thay đổi thề, một đoạn dịch ra việt văn..... Nên cũng không phải khó để kiếm được điểm trung bình...
                            Có lẽ nhờ nó đến lớp đều đặn, chuyên cần, nên cô Châu dạy dịch Việt ra Anh đã cho nó đủ điểm... Thầy Xiêm dạy văn phạm đã nới tay khi chấm bài của lính! Bởi nó đi học mặc đồ trận, bảng tên rõ ràng.. Người không để ý, nhìn hoài rồi cũng nhớ tên nó thôi... Ngoài môn Anh Văn, chữ Hán và Việt Văn, việc học đều rất dể dàng với nó ...
                            Thình thoảng, nó cũng có bạn từ xa đến trại thăm. Những buổi nhậu gặp gỡ nầy cũng không làm nó quên việc học. Nhiều lần đang nhậu, chợt nhớ tới giờ quan trọng, cần phải nghe giảng, nó tạm từ giã bạn đến trường...Vào lớp, biết thân, nó ngồi bàn cuối, nép mình vào góc tường. Vậy mà...

                            - Sao trong lớp hôm nay có mùi rượu ?

                            Nó nghe nhỏ Thơ nói với nhỏ Sang..
                            Nó ngồi im gần như nín thở. Chỉ sợ mùi rượu bay xa... Bởi dù có 4-5 chai bia 33 trong bụng, mặt nó vẫn tỉnh bơ như người bình thường ... Những lần vô lớp sau khi nhậu, tối về chép bài lại vô tập, kiểm lại bài ghi thấy rất đầy đủ... Nhìn bài vở ghi chép tươm tất, nhiều khi nó tự phục nó ..
                            Rồi mối tình với cô bạn gái chung lớp, Mắt Nâu, cũng nảy nở theo tháng ngày... Từ nhiệm ý lên Quốc Âm, Ngữ Học, nó đều đạt hạng Bình Thứ ... niềm hãnh diện cho sinh viên mặc quân phục...
                            Năm 74, nó ghi danh chứng chỉ Văn Minh Việt Nam và Việt Hán .. học được mấy tuần, nó cầm quân lệnh, thuyên chuyển ra đơn vị CTCT đóng tại quân đoàn 2..
                            Tại Pleicu, nó vẫn tiếp tục theo dõi bài vở... Mắt Nâu khi ghi bài vào tập, lót carbon cho nó một bản sao y. Nó nhận thơ bưu điện hàng ngày. Học bằng đèn cầy hàng đêm. Ngồi học tại bàn từ nhà trong trại gia binh, sau trường trung học Pleime, đến hội quá Tây Nguyên trong Hàm Rồng, hay kho gạo ờ KomTum...
                            Nhưng trời đâu có chiều lòng người ...
                            Toàn thề quân nhân các cấp phải bỏ quân đoàn ra đi... Trên con lộ 7B, đầy máu và nước mắt.. Trên lưng ba lô nó mang đầy sách vở, bài học... Sau những ngày gian nan băng rừng vượt suối, nó về tới Sài Gòn, với gương mặt của người về từ cõi chết, tóc dài, da sạm đen, hốc mắt quầng sâu, ốm nhom như con ma đói... Vậy mà nó vẫn vô trường nghe thầy Kỉnh, thầy Bửu Cầm, thầy Lãng... giảng bài ...

                            Lệnh đầu hàng ngày 30 tháng tư như một định mệnh, như một chảo dầu đang sôi, dội lên đầu người lính Cộng Hoà. Một màu đen thê lương ảm đạm phủ chụp lên đầu toàn dân miền Nam... Nó tự an ủi, cho rằng, hoà bình đã đến, dù ở vị thế nào, bên thắng bên thua ... đều là người Việt Nam. Nó nghĩ, sau một thời gian ngắn ổn định... nó sẽ ôm tập đi học lại, lo gì !!
                            Nhưng, nó đã lầm! Không phải mình nó lầm, mà nhiều người lầm! Phía thắng, tuy cũng là người Việt, nhưng máu thú - mà là thú hoang! Chúng tàn độc không thể tưởng được! Mất cả tính người ...!! Chúng là tập hợp các tính của Tần Thủy Hoàng, của Lê Long Đỉnh, của Lê Chiêu Thống... Đốt sách, giam giữ thầy, triệt bỏ tôn giáo, và thẳng tay trả thù những người từng một thời cầm súng chống lại chúng!
                            Sau hơn 8 năm trong lao tù Cộng Sản, nó bị lưu đày từ Nam ra Bắc. Trại Nam Hà, nằm cheo leo giữa lưng chừng núi ... Nơi có biết bao anh hùng, tuấn kiệt miền Nam đã phải vùi thây làm bạn với côn trùng giun dế... Bao nhiêu tuấn kiệt khác trở thành những thây ma biết đi... Sống trong đau buồn tủi nhục đếm tháng ngày trôi qua...

                            Mạng số con người là do trời đặt để
                            "Bắt phong trần phải phong trần
                            "Cho thanh cao mới được phần thanh cao

                            Rời cổng trại tù vào giữ mủa hè năm 1983, nó trở về nhà trong vòng tay thương yêu của mẹ và của chị...
                            Thời gian ở tù về mới là thời gian thử thách lớn trong đời nó. Tình người thay đổi hoàn toàn... Sống trong một xã hội mà luân thường đạo lý không được xem trọng. Chữ sĩ lại tụt xuống hạng chót...
                            Trên bến năm xưa... vài cảnh xưa còn đó ... Người năm xưa. đã từng nói với nó những lời tha thiết nhất, hứa hẹn sống bên nhau đến trọn đời ..., đã từng cạnh kề bên nó suốt ba năm chung trong giảng đường Văn Khoa.. Sóng nước trường giang vẫn lững lờ chảy ... Nhưng thuyền xưa đã trôi dạt về đâu …??

                            “Tiếng hát ru em vẳng nghe trong đêm vắng...
                            Trứng rồng lại nở ra rồng
                            Liu Điu lại nở ra dòng liu điu”
                            (Còn sống ở xã hội nầy thì con nó lớn lên... sẽ thành liu diu)
                            Nó đâu có ngờ, ca dao tục ngữ, là kinh nghiệm sống của ông bà mình, qua bao nhiêu thử thách ở đời, mới viết nên được những câu có vần có điệu, có ý nghĩa như vậy.

                            Nó buồn lắm. Nhìn mặt mũi nó sáng lán, mà lý lịch nặng nề quá..!
                            Làm sao thoát khỏi đất nước nầy? Nó nghèo quá, ai dám rủ rê nó vượt biên...?!
                            Nhưng rồi .. chuyện gì phải đến thì đã đến ..
                            Làm sao ngờ được có một ngày, những người tù năm xưa như nó, đường hoàng chiểm chệ ngồi lên phi cơ, mãi lánh xa lũ khỉ, trực chỉ sang Mỹ quốc …

                            Giã từ tất cả.. Giã từ Việt Nam.. Giã từ Sài Gòn… Hẹn ngày tái ngộ... Xin giã từ...

                            Khi đến Mỹ, nó phải đi làm ngay.Nó cần tiền. Mẹ nó đang đau nặng. Nhà nó quá nghèo sau cuộc đổi đời đầy uất hận. Tiểu bang TX cho trợ cấp không đủ sống, trong lúc tuổi hai đứa con nó cộng lại mới bằng 5... Thời giờ đâu, phương tiện đâu để học hành, dù nó vẫn muốn lắm. Đến xứ người phải học tiếng nước người . Nó biết, nhưng nó không làm được...
                            Nó xin vào quyét dọn cho một hảng tiện. Hảng nhỏ thôi. Chủ hảng là hai anh em ruột người Mỹ trắng, với hơn mười người thợ cũng toàn Mỹ trắng... Chỉ có nó là tóc đen. Trong bàn ăn chỉ có nó là ăn cơm... Sau một vài hảng làm chung với người Việt, bây giờ làm chung với Mỹ, nó vẫn cảm thấy thoải mái. Công việc tuy có nặng nhọc, nhưng tâm trí thấy thanh thản. Từ chủ cho đến thợ đều đối xữ với nó thân thiện và ân cần lắm... Lần đầu tiên hảng mướn một người gốc Á, nó lại siêng năng, chăm chỉ.... nên được lòng mọi người..
                            Việc làm bằng chân tay, nên trí óc thanh thản, nó có dịp nhớ lại chuyện trong đời lính, trong đời tù... Nhớ anh, chị .. Nhớ bạn bè... Nỗi buồn từ đâu kéo đến..Chợt nhớ đến câu ca dao tục ngữ ngày nào...

                            Trứng rồng lại nở ra rồng
                            Liu Điu lại nở ra dòng liu điu”
                            (Còn sống ở xã hội nầy thì con nó lớn lên... sẽ thành liu diu)

                            Bất giác nó thở dài..
                            Sống nơi xứ người, tuy lòng luôn hướng về Quê Mẹ, nhưng có một điều nó chắc rằng, hấp thụ nền học vấn nơi trường học của một quốc gia văn minh nhất thế giới ... Con nó chắc chắn không phải là liu điu, nếu như còn sống ở Việt Nam !!

                            Bây giờ trong cõi vĩnh hằng, Ba Mẹ nó chắc sẽ không còn điều gì để lo lắng cho con trai út của Ba Mẹ.. Ngày nó vào lính, ngày nó vào tù.... Ba Mẹ nó đã lo lắng, đã bao lần cầu nguyện cho nó được bình an... Tiếc cho Ba bỏ nó ra đi lúc nó còn trong tù... Mẹ nó có chút vui mỗi lần nhận tin nó từ một đất nước mà có người gọi là miền đất hứa...

                            Anh chị nó đang mong thằng em trai út về thăm quê... Vâng, nó sẽ về ...



                            “Houston, ngày, tháng, năm..

                            Anh chị ơi, ly nước đã đầy rồi...! Một giọt nước… chỉ cần một giọt thôi ... cờ máu sẽ không còn thách thức tung bay trên đất nước Việt Nam nầy nữa... và em sẽ về...”

                            THỦY LAN VY
                            ( Viết tại Kỳ Đà Động Tháng 10 năm 2013)

                            Con đi dưới lá cờ sao máu
                            Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                            Comment

                            Working...
                            X
                            Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom