• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

NHỤC QUẾ - 肉 桂 - Cinamomum cassia Presl - Chống Chỉ Định.

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • NHỤC QUẾ - 肉 桂 - Cinamomum cassia Presl - Chống Chỉ Định.

    Cạo sạch lớp vỏ thô, rửa sạch, thái phiến, phơi trong râm cho khô hoặc tán bột.

    Tên thuốc: Cortex cinnamomi.
    Tên khoa học: Cinamomum cassia Presl.
    Bộ phận dùng: Vỏ gốc hoặc vỏ khô của thân cây.

    - Cách xem quế tốt xấu: có nhiều cách:

    + Cạo bỏ vỏ ngoài, mài với ít nước, nếu ra chất trắng như sữa bò là tốt nhất, nếu nước như nước chè xanh là loại hai, nếu nước đỏ là loại ba.
    + Nếm miếng quế thấy vị ngọt cay, sau thấy đắng, cuối cùng thấy ngọt (cay ít thôi) là quế tốt.
    + Ở Thanh Hoá có câu ‘lòng son, vỏ khế’ là nói lên quế tốt phải như thế.
    + Gọt vỏ quế, cắt đôi, chỗ cắt trong như sáp, rất mịn và thấy có đường ‘bạch chỉ phân du’ là quế tốt. Sợi chỉ trắng này phải thẳng nếu ngoằn ngoèo là không tốt lắm.
    + Tây y cho quế tốt là phải có tỷ lệ tinh dầu cao. Nhưng nói chung quế khô, có mùi thơm, có chất dầu, vị cay hơi ngọt, vỏ hơi nâu không vụn nát, ẩm là tốt.
    - Ở Trung Quốc có loại quế đơn, quế bì, còn gọi là quế nhục (C.cassia BL) cây này có mọc ở nước ta. Trên thị thường còn có quan quế hay quế xây lăng (C.Zeylanicum Nees) có giá trị nhất.
    Thành phần hoá học: có tinh bột, chất nhầy, tanin, chất màu, đường, có tinh dầu 1 - 5% (chủ yếu là aldehydcinnamic 95%).
    Tính vị: vị ngọt, cay, tính đại nhiệt. Vào hai kinh Can và Thận.
    Tác dụng: Khứ hàn, chỉ thống, ôn thông kinh lạc.
    Chủ trị: trị chân tay lạnh, tả lỵ, đau bụng, bế kinh, tiêu hoá, kiện vị.
    Đơn thuốc kinh nghiệm:
    - Trị Thận dương suy biểu hiện như chân tay lạnh, lưng đau, gối mỏi, liệt dương và hay đi tiểu: Dùng Nhục quế với Phụ tử, Sinh địa, Đơn bì, Trạch tả, Bạch linh, Sơn dược và Sơn thù (Quế Phụ Bát Vị Hoàn)
    - Trị Tỳ Thận dương hư biểu hiện như đau lạnh ở thượng vị và vùng bụng, kém ăn, phân lỏng: Dùng Nhục quế với Can khương, Bạch truật và Phụ tử (Quế Phụ Lý Trung Hoàn).
    - Hàn tà ngưng trệ ở kinh lạc biểu hiện như đau lạnh thượng vị và bụng, đau lưng dưới, đau toàn thân, kinh nguyệt không đều, ít kinh nguyệt: Dùng Nhục quế với Can khương, Ngô thù du, Đương quy và Xuyên khung (Lâm sàng trung dược học thủ sách).
    - Trị nhọt mạn tính: Dùng Nhục quế với Hoàng kỳ và Đương qui (Lâm sàng trung dược học thủ sách).
    Bào chế: Cạo sạch lớp vỏ thô, rửa sạch, thái phiến, phơi trong râm cho khô hoặc tán bột.
    Kiêng kỵ: Có thai không dùng.
    - Không phải hư hàn không nên dùng.
    - Kỵ lửa.

    Bản Thảo Cương Mục.
    Attached Files
    Similar Threads
  • #2

    Đôi điều cần biết khi dùng quế Tác giả : DS. TRẦN XUÂN THUYẾT.



    Y học phương Đông xem quế là 1 trong 4 vị thuốc quý: sâm, nhung, quế, phụ. Còn y học phương Tây trước đây chỉ quan tâm đến tinh dầu quế và dùng quế làm hương liệu. Gần đây, người ta đã phát hiện trong bột quế còn có một chất có tác dụng hạ đường huyết - là một chứng minh kinh nghiệm của y học phương Đông dùng quế chữa tiêu khát.

    Việt Nam là một trong những nước trồng rất nhiều quế, hàng năm xuất khẩu đến hàng trăm tấn quế vỏ và hàng chục tấn tinh dầu quế (cả cành quế nhỏ cắt phiến). Thời phong kiến, quế tốt nhất là ở vùng Thanh Hóa, gọi là “Ngọc quan” dành để tiến vua và triều cống các vương triều Trung Hoa.

    CÁC LOÀI QUẾ Ở VIỆT NAM

    Đều thuộc chi Cinnamomum. Họ Long não (Lauraceae). Có 3 loài được trồng từ lâu đời là:

    C. loureirii Nees: gọi là quế Thanh, mọc hoang và được trồng ở nhiều địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Nổi tiếng nhất là quế khai thác từ cây 30-50 tuổi ở Thường Xuân - Thanh Hóa, Quỳ Châu - Nghệ An, Trà My - Quảng Nam.

    C. cassia Nees et Bl: Gọi là quế Quảng (1). Được trồng nhiều ở Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Thừa Thiên - Huế. Là nguồn quế xuất khẩu chủ lực, có nơi gọi là quế Trung Quốc.

    C. zeylanicum Nees gọi là quế Xây-lan (Xrilanca) hay quế Quảng được trồng rải rác ở nhiều nơi như Bái Thượng - Thanh Hóa, Cổ Bạ - Nghệ An, các tỉnh Nam Trung bộ, miền Nam như Bà Rịa, Tây Ninh.

    Ngoài ra có nhiều loài mọc hoang, được khai thác tinh dầu và vỏ để bán quế giả.

    Sơ bộ định tên khoa học được 3 loài:

    C. tetragonum A Cheva gọi là quế đỏ, quế nâu. Vỏ của loài quế này thường thấy bán ở các chợ tỉnh Hòa Bình, có vị chát, cay, mùi thơm nhẹ.

    C. miobtusifobru Nees gọi là quế lợn, cây to thẳng, còn được trồng để lấy gỗ ở Nghĩa Lộ, Yên Bái. Bóc vỏ để bán giả quế, đặc biệt có nhiều chất nhầy, mùi hắc; vị cay nhẹ, hơi ngọt.

    C. caryophyllus Moore: Mọc hoang rải rác ở các khu rừng nước ta. Dùng khai thác gỗ là chính. Vỏ được đem bán giả quế, gọi là quế re.

    Tinh dầu 3 loại quế trên có hàm lượng aldehyd cinamic thấp (dưới 60%), để lâu mau hóa nhựa, mùi vị kém thơm.

    BỘ PHẬN DÙNG LÀM THUỐC

    Vỏ: Thân, cành (quế nhục); Cành nhỏ (quế chi).

    Cành con: (quế chi); Ngọn cành con (quế chi tiên).

    Quế nhục cạo bỏ lớp bần, còn lớp dầu gọi là quế tâm (chỉ làm khi dùng).

    Cất tinh dầu: vỏ quế vụn, cành con, lá quế.

    MÙA THU HÁI

    Tốt nhất là tháng 4, 5 dương lịch vì bóc vỏ cây dễ, hàm lượng tinh dầu cao cả trong vỏ và trong lá. Các loại thứ phẩm (như vỏ vụn, cành con, lá) đem cất tinh dầu đều có chất lượng tốt. Kinh tế nhất là khai thác ở cây 15 tuổi (hàm lượng tinh dầu đạt 95% so với cây 30 tuổi).

    Cách sơ chế quế nhục: Quế Thanh có cách sơ chế riêng (ủ rồi mới phơi khô). Các loại quế khác đều phơi khô (tránh nắng gắt).

    BẢO QUẢN

    Để nơi khô, mát, nhiệt độ không quá 250C.

    Quế vỏ: thân, cành to phải đựng trong túi PE (mỗi túi 5kg).

    Quế loại I phải bôi sáp trong lòng thanh quế, bọc sáp ong 2 đầu thanh quế, đựng trong túi PE (mỗi túi 1kg) đặt trong hòm kín.

    Loại đặc biệt có cách bảo quản riêng từng thanh quế trong hộp kín.

    CHẤT LƯỢNG QUẾ

    Thị trường thế giới: Đánh giá chất lượng quế vỏ căn cứ chủ yếu vào hàm lượng tinh dầu trong vỏ quế và hàm lượng aldehyd cinamic trong tinh dầu.

    Kinh nghiệm của Đông y: Muốn xác định được giá trị của quế cao hay thấp phải căn cứ vào nhiều yếu tố như: Địa phương cây mọc, loài quế, tuổi cây khi thu hoạch, vị trí vỏ trên cây, độ dày của vỏ.

    Địa phương cây mọc: Xã Trịnh Vạn, huyện Thường Xuân, Thanh hóa; Kế đến là Quỳ Châu, còn gọi là Phủ Quỳ, Nghệ An; Trà My, Quảng Nam.

    Loài quế: C.loureirii Nees rồi đến C. zeylanicum Nees.

    Tuổi cây khi thu hoạch: trên 15 năm là quế tốt, trên 30 năm là đặc biệt.

    Vị trí vỏ trên cây: vỏ thân từ vị trí 1,2m đến cành đầu tiên (gọi là quế Thượng châu) là tốt nhất, hướng đông là đặc biệt; Cách mặt đất 20cm đến 1,2 mét gọi là quế Hạ căn (kém Thượng Châu).

    Vỏ cành to gọi là quế Thượng biểu; Vỏ cành nhỏ gọi là quế chi.

    Độ dày của vỏ: Nhục quế (vỏ thân, vỏ cành to), có 4 loại:

    - Loại đặc biệt: dày trên 6mm, có khi tới 10mm, có 2 lớp dầu gọi là lưỡng chỉ phân du, màu nâu đen, dày trên 2mm.

    - Loại 1: dày 4,5-6mm, có lớp dầu dày trên 1,5-2mm, màu nâu đen.

    - Loại 2: dày 3 đến dưới 4,5mm. Lớp dầu dày trên 1 - 1,5mm, màu nâu đen.

    - Loại 3: dày 2 đến dưới 3mm. Lớp dầu dày 1mm màu nâu đen.

    CHỨNG MINH KHOA HỌC VỀ “QUẾ CÀNG GIÀ CÀNG TỐT”

    Lê Tùng Châu và cộng sự đã định lượng tinh dầu trong lá và cành con của quế trồng ở Yên Bái vào các tháng thu hoạch vỏ quế trong năm ở các cây có độ tuổi từ 8-30 năm (C. Cassia Nees et Bl). Kết quả cho thấy: Cây 30 năm cho tỷ lệ tinh dầu cao nhất. Tinh dầu ở lá cây 30 năm tới 2,1%, vỏ cành con 2,47%; trong khi cây 8 năm là 0,8% ở lá và 2,37% ở vỏ cành con. Tuổi cây khai thác kinh tế nhất với loài C. Cassia Nees et Bl là 14 năm. Tỷ lệ tinh dầu ở vỏ cành con đạt 99% so với cây 30 năm. Tinh dầu ở lá đạt 71% (tính theo nguyên liệu khô kiệt).

    Lâm trường Thường Xuân - Thanh Hóa định lượng tinh dầu trong vỏ quế tươi có độ tuổi từ 2-12 năm: Cây 12 năm đạt tỷ lệ 4,5% tinh dầu, trong khi cây 5 năm chỉ đạt 3,35% (= 74%). Quế ở đây thuộc loại C. loureirii Nees (không rõ độ ẩm của vỏ bằng bao nhiêu %).

    THÀNH PHẦN HÓA HỌC

    (Xem tiếp kỳ sau)

    (1) Trung Quốc trồng loài quế này nhiều nhất ở 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. 3 tỉnh ở Việt Nam có tên đầu là Quảng vì vậy Trung Quốc cũng gọi là quế Quảng.

    Chú thích ảnh:

    - Quế thanh

    Ảnh: Trần Xuân Thuyết

    Nguồn: ykhoa.net

    Comment

    Working...
    X
    Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom