• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Bài Viết Của Người Gò Công

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Bài Viết Của Người Gò Công

    Thiện Phạm, còn một bút hiệu khác là Vô Ngã, cưụ học sinh khóa 24 Trường Trung Học Gò Công. Hiện là Bác Sĩ Pháp Y tại một tỉnh miền Nam .
    PHẾ LIỆU
    Đó cũng là tên sách của ông Năm.
    “Có những người dần dần trở thành phế liệu. Có những người từ phế liệu trở về”. Bốn mươi năm làm giám thị trại giam, tục gọi là “chúa ngục”, giờ đã nghỉ hưu ông Năm mới viết nên câu đó. Chắc hiếm có người nhìn được nhiều cảnh đời ngang trái như ông.
    “Phế liệu, nói đơn giản, là đồ bỏ đi. Bỏ đi vì không xài được, hoặc giả vì không ưng ý nữa hay đã lỗi thời. Nói chung chúng không đạt. Hoặc bản thân chúng không đạt. Hoặc lòng người dùng chúng không muốn cho chúng đạt. Thế là chúng ra khỏi nhà, theo người mua bán ve chai đồng nát về cư ngụ ở vựa phế liệu, chờ ngày hóa thân hóa kiếp”.
    “Vựa phế liệu, nói chung là bẩn thỉu. Bẩn thỉu là cái vựa, chỗ chứa đồ bẩn thỉu chứ không hẳn con người có dính dáng tới nó. Đôi khi người ta gặp mụ chủ vựa bóng bẩy vàng đeo nặng ỳ trên cổ, trắng nà trắng nõn, người thơm phưng phức mùi tiền nong. Còn tiền có bẩn hay không đố ai biết được. Đôi khi người ta thấy một con bé con chừng chín mười tuổi gì đó ngồi tại vựa, với xấp vé số trên tay, ghì đầu say sưa đọc những mảnh giấy rời xé ra từ những cuốn truyện cổ tích xếp đống chờ cân ký. Những hoàng tử và công chúa chen vô đời nhọc nhằn bươn chải quá sớm của nó lóe sáng cho nó chút gì của ước mơ. Trang sách mất tá lả. Không biết Thạch Sanh có cứu được công chúa hay không nữa. Vậy mà tiếp theo một chữ HẾT to đùng hiện ra. Theo thói thường cô bé tự đọc thầm trong đầu... họ sống hạnh phúc bên nhau đến trọn đời.
    ...Họ sống hạnh phúc bên nhau đến trọn đời. Cô bé lẩm bẩm. Ba má mình... họ có được như vậy không? Họ cãi nhau sằng sặc, như bầm bầu, như giận cá chém thớt, như nước đổ lá môn, như chịu đấm ăn xôi, như ăn xổi ở thì... Cái gì cũng nói được, cái gì cũng tấn công nhau được, bất kể bầy con nheo nhóc đói lả, đói meo, đói mốc. Con chị Bé Hai của nó thoát khỏi cảnh nhà nhang nhác, bầy hầy, thoát khỏi sự đay nghiến của cái nghèo là cao chạy xa bay, không một lần ngoái lại ghé thăm. Lúc đầu cũng từ cái vựa phế liệu này đây.
    Bé Hai cặp bồ cặp bịch với gã chủ vựa này. Hai người nghe đâu trốn đi xây tổ uyên ương ở tận Sài gòn. Dân miền tây mà. Hễ có tịch, có rục rịch gì đều trốn đi Sài Gòn. Thành phố lớn... thân phận dễ dấu diếm. Mà người ta có săn lùng đuổi theo mặt mình cũng có dễ dàng gì. Vậy mà có lâu đâu. Một vụ lúa mất tầm bốn tháng. Lúa chưa chín rộ gã chủ đã quay về. Thân tàn ma dại, tiền mất tật mang, bé Hai đã theo thuyền khác! Gã định cố lỳ tính trong bụng sẽ đi nữa, đi luôn mà tiền nong đâu có chịu như vậy. Cái hèn của gã công tử nhà quê khiến gã khúm núm quay về đầu thú với vợ. Nhất bộ nhất bái, gã quì lại vợ như lạy tạ tổ tiên. Mụ chủ không thèm ngó tới mặt gã. Bãi cứt ven đường bả còn ngó, để tránh, khỏi dẫm đạp. Còn cái mặt thằng chồng... bả tuyệt nhiên không. Cứ tới bữa vứt cho tô cơm, con cá khô chiên, gọi là làm phước. Người dưng mình còn bố thí được huống hồ thằng chồng mất dạy của mình! Cứ coi hắn trả nợ trăng hoa đi. Cứ coi hắn là tù giam lỏng đi. Một cắc cũng không có thì làm sao mà gái với gú?
    Đó là người tính. Trời thì tính khác. Một hôm trời cướp đi một nửa thân mình của thằng hư hỏng. Gã bị liệt một bên. Mồm miệng méo sẹo, hễ nói là nói ngọng, như chọc tức như lêu lêu nháy lại người ta. Đi đứng lựng sựng. Chân bên liệt trên bảo dưới không nghe, khi đi cứ đá ngang vẽ một chữ C trên mặt đất. Gã nằm nhiều hơn đi. Đời lang bạt kỳ hồ, hư nhiều hơn nên, giờ phải nằm nhiều hơn đứng. Hắn gần như chết mẹp, chèm nhẹp ở trên giường. Có đợt nặng còn tiêu tiểu tại chỗ. Có chết cũng không xong. Quả là trời trả báo!
    Còn mụ chủ vựa ngày càng thơm phưng phức, da dẻ càng nõn nà hơn xưa nữa. Cả ngày phe phảy đung đưa trên võng, mắt dán vô cái ti vi nghĩa địa, tức cũng đồ phế liệu. Phim tình cảm Hàn quốc. Những cuộc tình tay ba, tay tư... Nói chung nước mắt tràng giang đại hải, hận tình chất cao như núi, cao hơn cả lời thoại. Thỉnh thoảng mụ cũng quét mắt vào góc nhà, chỗ con bé đang đọc ké truyện, tóc còn lơ thơ. Mụ chẩu mỏ. Lơ thơ... lơ thơ cái con khỉ. Chỉ cần vài năm là nó nhổ giò lớn xộn lên. Đít khu vồng lên mây mẩy. Rồi cũng lọ mọ giựt chồng người ta như con chị nó... May mà con dê đực kia đã bị liệt, nằm dài đễnh trong buồng. Nếu không... nếu không chắc cũng liếm láp tới ngữ này... Hứ! Dùng cái thứ... bản mặt nhà nghèo mà không sao ưa được. Nghèo mà trèo đèo chữ nghĩa. Bán vé số không lo mà ham đọc sách! Cúi rơm yên phận cúi rơm đi. Có đâu dưới thấp lại thèm trèo lên cao...
    Đám xe tải về tới. Xe không, chờ chất phế liệu lên rồi quay đầu về Sài gòn. Đã nghe giọng mất dậy, mất nết phang vào bà chủ:
    - Hôm nay hàng nhiều không em..em…m...bà chủ?
    - Tắm rửa ăn uống gì đi rồi hãy tính. Bữa nay có bia nghe mấy anh...
    - Trời ơi! Bà thương anh em tôi quá. A thì ra ba cái cáp đồng điện lực của thằng ăn cắp hôm qua chớ gì? Bà ém giá nó vừa vừa thôi nghe. Nó la lên thì nó cũng tù mà bà cũng trợn trắng vì công an đó!
    - Nói nhỏ chút được không mấy cha!!!
    Mụ chủ lừ mắt, liếc vào con bé trong góc nhà. Hai thằng tài xế xe tải nín thinh. Mụ gằn giọng nói với vô con bé:
    - Ba giờ mấy chiều rồi đó mày. Ngồi cà kê đó hoài đi, vé số ế... rồi khóc mếu máo nghe con!!! Ý mụ là mày biến đi ngay để chúng tao hành sự. Dòm dòm... ngó ngó… hoài tụi tao mất tự nhiên.
    Con bé lầm lũi bước về đời thật của nó.
    Mấy gã tài xế xộc thẳng ra phía sau vườn, chỗ nhà tắm. Đó là cái vuông nhỏ đủ che ngang nách người đứng tắm, dựng tạm bằng ba miếng thiếc lủng lỗ đinh không có cửa đóng. Có thể nhìn thấy người tắm trong đó. Tiếng nước xối sàng sạc. Tiếng nói tục tỉu ằng ặc vọng vào trong nhà, vào chỗ gã chồng đang nằm. Gã đang thiu thiu ngủ. Hắn òi ọi muốn nôn. Chắc bữa trưa ăn không tiêu. Gã nghe tiếng đàn ông nói cười đôm đốp trong nhà. Gã nuốt tiếng thở dài sườn sượt vào trong cổ họng khô khốc vì nắng trên mái nhà thiếc dội xuống. Con vợ gã đang hơn hớn kiểu đó... thế nào cũng đú đởn với mấy thằng này cho mà xem. Đáng đời gã quá! Gã không muốn khóc mà cứ có cái gì âm ấm chảy ngang mắt chảy dài xuống gối. Mũi gã xịt lên như đỏ như nghẹt.
    Gã nhớ tới bé Hai. Con nhỏ đẹp và cao ráo. Mắt nó to đen như một cái bẫy. Ghé nhìn vô là dính chấu với nó luôn không giãy giụa để rứt ra được. Cái miệng chúm chím ít khi cười lớn, chỉ nhoẻn, chỉ lơi lả buộc ràng những ánh mắt đàn ông, mà buộc chặt như sợi lạt mềm vướng víu chân ai. Môi bé Hai mọng lắm, hé ra ti tí khoe hàm răng hột bắp, khinh bạc mọi loại son môi. Sai lầm của gã là đã dẫn bé Hai vào một công viên nước. Úi trời ơi!Nó trút những quê mùa xuống, nội y lộ ra, là nó cao phổng lên liền. Chân tự nhiên thon dài mà trắng lên liền. Đố ai biết chân nó còn dính phèn! Hằng trăm con mắt xô nghiêng về cái mông căng mẩy như sợi dây căng treo nặng những phập phồng. Hàng trăm tia nhìn quét chữ chi trên bộ ngực kênh kênh trắng hồng của nó. Gã xốn mắt quá! Hổng lẽ biểu nó mặc đồ vô rồi về liền... Lỡ lần này thôi! Lỡ lần này thôi! Tắm ở công viên nước mà cứ niệm thần chú như vậy còn chi là hứng thú... Ở quê con gái cởi đồ tắm sông thường là về đêm. Bất quá có vài thằng mất dại nó rình em tắm là cùng. Đằng này giữa ban ngày ban mặt... thiên hạ tới một ngàn thằng đói mắt, nuốt bé Hai ừng ực như thế kia. Gã niệm chú là phải!
    Sau đận đó gã cấm tiệt bé Hai đi bơi. Bé Hai vẫn cứ đi một mình. Con hươu biết đường chạy rồi cần gì người vẽ đường nữa! Bé Hai vẫn cứ đi một mình, mặc kệ lời càu nhàu, xỉa xói, như nhai giẻ rách của gã nhân tình. Có khi con bé mang luôn đến chỗ tắm những vết bầm dập thịt da, những căm hờn chất chứa. Có ở đâu nó được người ta tâng tiu, chào mời nịnh nọt như ở đây. Những thằng lông bông ở quê... tóc dài sùm sụp, nghêu ngao những câu nhạc tình rẻ tiền và lạt lẽo như nước luộc ốc. Ngay gã tình nhân chủ vựa phế liệu... ở quê thì như ông trời con về tiền nong, đã đến đây là biến ngay thành đồ vớ vẩn. Người ta mời bé Hai đi xe hơi, ăn nhà hàng sang trọng, đi bar, sắm đồ hiệu. Người ta ăn nói từ tốn dễ nghe. Có bị từ chối người ta cũng dịu dàng đằm thắm, không thượng cẳng chân hạ cẳng tay gì hết.
    Rồi bé Hai đi tắm buổi trưa tối mới về. Rồi khuya về. Rồi không ăn cơm nhà nữa. Gã cứ nốc rượu bù vô nỗi trống trải. Nếu có điện thoại cho bé Hai gã cũng chỉ nghe tiếng kèn lá thổi trong đám ma ò í e đáp lại. Rồi điên tiết rồi lồng lộn... Rồi hắn lên phường lấy lời khai về tội bạo hành với phụ nữ. Một lần. Hai lần. Rồi bé Hai đi luôn. Lần cuối ra đi mắt con bé đeo tới hai cái kính râm. Một, vết bầm tím rịm quanh hai con mắt đẹp. Hai, cái kính râm thiệt hiệu Dior của một đại gia tặng cho. Chỉ chờ một tuần sau khi dấu bầm phai đi, phết lên mặt chút phù phiếm của son phấn, trút bỏ quần áo xuống như ngoài công viên nước cho người ta chụp hình quảng cáo này nọ, bé Hai kiếm được số tiền, sợ còn to hơn số tiền gã nhân tình đã mang từ quê lên.
    Tiền gã cạn dần như sông kia tới hồi nước ròng. Gã càng cuống cuồng ráo riết lùng kiếm bé Hai. Sài gòn rộng lớn quá. Gái như bé Hai ở đây có trăm ngàn đứa. Hành trang của hắn chỉ có chiếc xe gắn máy và con dao cán vàng lận lưng. Hắn đo kỹ lắm rồi. Con dao bén ngót cạo râu được, dài 22 cm, phần cán 11cm, phần lưỡi 11cm. 11cm nếu đo từ vú vào lồng ngực dư sức trổ qua tim. Nhưng con sáo đã sang sông, con sáo đã sổ lồng làm sao gã tìm được? Có chạy hết hàng ngàn lít xăng cũng chưa giáp được hai quận của Sài Gòn, đó là lời của mấy cha xe ôm nói với hắn. Mà ở đây có tới cả chục quận! Hai bà, một bà vợ lớn, một bà vợ bé chỉ ở cách nhau có một quận mà tám trăm năm chưa biết mặt nhau để đánh ghen! Sự việc chỉ vỡ lỡ khi thằng cha hung thủ đã nằm chình ình trong hòm. Con cái hai ba dòng lớn bé bu lại khóc cha! Chừng đó hai bà mới biết mặt nhau. Hê hê... À, hay vợ anh bỏ về quê... Quê vợ anh ở đâu, về đó thử coi... Thôi tìm kiếm làm gì. Con vợ anh đã quyết chí ra đi thì dù trời có sập xuống nó cũng không quay lại.
    Bán xong chiếc xe ăn cầm hơi và nuốt rượu cầm hơi. Con dao thì không ai mua nên gã phải có giang những chiếc xe tải rồi lủi đầu về quê. Ở quê có chết cũng có đất chôn. Ở đây xác gã chỉ có nước vứt ra bãi rác... Một thằng nửa người nửa xác có con dao cán vàng lận lưng...
    Giờ đây, từ chỗ gã nằm chết mẹp chết dí, gã khoét lỗ trông ra chỗ nhà tắm dừng ba tấm thiếc... Gã càng mệt, càng liệt bao nhiêu, vợ gã càng mởn càng trắng bấy nhiêu. Nhục tấm thân gã lắm. Phải chi gã chết đi để khỏi nằm rục rã, thiu ôi như vầy. Mông gã bắt đầu loét. Thịt thúi lai rai. Sinh thực ủ dột, liệu iệu như cọng bông súng nhúng vô cái lẩu nước sôi. Mỗi lần vệ sinh cho gã, mụ vợ phải đeo găng, gớm ghiếc sạc xà bông vô chỗ đó. Gã trước đây bị vô sinh. Hai vợ chồng đã tốn bao nhang khói cho chùa chiền tứ phương mà có được gì đâu. Thử tinh trùng đồ thì bác sĩ lắc đầu... Dòm qua cổ áo vợ thấy hai quả đào hưng hửng mà đành nuốt cái hận vào lòng. Bọn giang hồ kêu bằng đổ mồ hôi lưỡi mà giả bộ làm thinh. Nếu người ta đâm gã bằng chính con dao dài 22cm, chắc gã cũng không thấy đau bằng. Sao ông trời không bắt thằng công tử đã tuyệt tự này chết lẹ lẹ để khỏi phải khổ như vầy hả trời? Chả có ông trời nào ở trên kia. Chỉ có mái nhà thiếc thủng lỗ đinh, nóng hừng hực nhìn xuống hắn. Tiếc lắm! Bọn đàn ông khỏe mạnh đang tắm táp và nói tục tỉu ngoài kia.
    “Có những người dần dần trở thành phế liệu. Có những người từ phế liệu trở về...” Khi viết những dòng trên ông Năm thường lẩm nhẩm câu nói ấy.
    *** --- ***
    Đây chỉ là một phần nhỏ được đưa vào sách của ông Năm. Ông còn chép nhiều câu chuyện khác từ những năm tháng làm quản giáo, cai ngục, giữ tù hay “chúa ngục” (chữ của ông, mượn tiếng dân gian để cười chơi).
    Cuốn sách của ông Năm sau nhiều chi li tính toán, chắt mót từng đồng lụm khụm trong mớ lương hưu rồi cũng được in ra. In một ngàn cuốn. Đó là những cuốn sách da mịn như nhung, chữ in rõ đẹp. Nói chung là hoàn hảo vì nó là con mình đã mang nặng lâu rồi, mà mới đẻ đau đây thôi. Và nói chung, nó hay, vì nó là văn của mình, tỉ như vợ người thì đẹp ấy mà. Ông mân mê hun hít chúng nhiều đêm. Ông chăm bẳm chúng như mẹ chăm con còn nhỏ dại. Mùi sách mới đã trăm ngàn lần ngửi. Nhưng lần này ông quả quyết nó thơm hơn. Ký tặng bạn bè cho đã đời. Ai quen sơ hay thân gì đến nhà ông là ông tặng. Tới con bé bán vé số mới tí tuổi đầu ông cũng tặng.” Trong sách có cháu nữa đó.” “Vậy hả ông?” Thiệt ra ông tặng, để cho ông nói được một lâng lâng “Sách của tôi viết...”
    Sách của ông có cái lạ. Ở nhà chúng đã đẹp, ra nhà sách chúng hiên ngang trên kệ sách trông chúng lại càng đẹp! Ông ngắm chúng ở đó hàng giờ. Nếu không kẹt chuyện đồng ruộng, nếu không kẹt con heo nái ở nhà phá chuồng đòi đẻ, ông chắc ở trong nhà sách luôn quá... Ông lởn vởn nhà sách nhiều hơn ở nhà. Bà năm nhằn dữ lắm. Coi bộ già sanh tật mê con mẹ nào ở đó!Kệ bả! Đàn bà biết gì cái sự văn chương! Ăn cơm không dòm tới mặt tui hả? Được, tui đi nữa. Đi chừng nào bà hết giận thì thôi... Các cô bán sách mặc áo dài hồng đi tới đi lui tha thướt như nàng thơ. Các nàng thơ đề phòng lão già ốm đeo túi dết kia ăn cắp sách nên cũng quấn quýt lấy ông, đeo đuổi lấy ông cho tới bến.Ông già khả nghi thiệt. Hôm nào cũng vào nhà sách vào tầm đó, ứng ngay quầy sách đó, cầm cuốn sách đó lên vân vê, rồi vờ đọc chăm chú. Thỉnh thoảng ông bắt chuyện với người mua sách đi đến gần ông. Ông chỉ chỉ chỏ chỏ rồi dúi vào tay họ cuốn sách ông đang cầm. Nhiều ngày như thế nhưng tuyệt nhiên ông không mua cuốn nào. Rồi ra về đúng giờ như mọi ngày. Các nàng thơ theo dõi chán mà không thấy ông lấy cắp món gì cả. Bên dĩa cóc chua lè chấm muối ớt họ kết luận rất nữ tính: Ông vô hại, và chắc bị tửng tửng từng tưng! Kệ họ! Đàn bà biết gì cái sự văn chương! Xem ra câu nói của ông lý thú ra phết.

    Đã ba tháng. Số người mua sách của ông rất ít. Nó ế. Hình như ngày nay người ta ưa hình sự, trinh thám, tình yêu và tình dục, phong thủy, tôn giáo... hơn là chuyện nhân tình thế thái, chuyện của con người, mà nhất là chuyện gần với đời thật, như sách của ông. Sách ế lắm. Cô bán sách bảo với ông, cái ông “tửng tửng từng tưng”, hơn hai tháng rồi chỉ bán được dăm cuốn. Chắc phải thanh lý đám sách này... Trái tim ông vọt lên trên động mạch thái dương, đập bình bịch trên đó. Tự nhiên mặt nóng hừng hực như uống xong mấy cốc rượu đế Gò đen chánh hiệu. Bụng ông nó xót kỳ cục như nhai xoài chua vào sáng sớm vậy. Thanh lý là sao cô? Là đổ đống ra lề đường, ngay cửa nhà sách mình nè, bán giảm giá để thu hồi vốn, tái đầu tư vô sách khác nữa, có lợi hơn! Vào các dịp lễ, tết đó ông, ông muốn mua sách, chờ dịp đó mua sẽ rẻ, giảm từ 50% đến 80% tùy cuốn đó ông. Ông nuốt tiếng thở dài vô, ráng hít hơi sâu. Đương không ông bị mắc nghẹn lãng nhách. Có cục gì chận cổ họng ông vầy nè trời. Ông thờ thẫn bước về cái quầy sách mà ông vẫn thường tạm trú. Ông chạm vào những đứa con ông. Hôm nay sao chúng nặng nặng hơn mọi bữa. Ông lật ra coi. Cuốn sách cũng y như vậy mà...
    Bà Năm cằn nhằn ông suốt. Khoản tiền lụm khụm như lương hưu để in sách, đáng ra, ông nên nghe bà, mua cho thằng con chiếc Dream hai, cho nó chạy đi làm, bằng anh bằng em. Ông đã không chịu. Bộ xe cà tàng chạy đi làm là chết hay sao mà phải là Dream hai. Đua đòi chứ gì? Con đàn bà bắt đầu đua đòi là làm đĩ dễ như chơi. Trại giam của ông chứa đầy thứ đó. Còn thằng đàn ông đua đòi... Hồi đó, tui là cán bộ, cũng chỉ lọc cọc đạp xe Phượng hoàng Tàu... Trời ơi đổi mới rồi! Ông Năm à, sao ông cứ cũ xì cũ mốc vậy ông Năm. Bà Năm bỏ đi dạo xóm không thèm cãi với cha già ngang như cua. Ông ngồi lại với bình trà xanh Thái nguyên không ướp. Trà ướp lài sen ngâu gì cũng không tốt cho người cao máu như ông. Nhìn theo lưng vợ lòng ông xuôi xị như người ta thõng tay vào chợ, không còn ham tí danh lợi nào, như các bậc thiền sư đã đốn ngộ chân lý. Bả cũng đúng. In sách... sách ế... mình sống cho mình nhiều quá. Phải chi để tiền mua chiếc Dream hai...
    Cái ngày sell off, sách đổ đống trước cửa nhà sách. Lão già đeo túi dết xề xệ, đạp xe cà tang, nói chung là cái lão tửng tửng từng tưng... cũng lảng vảng bên cạnh những nàng bán sách mặc áo dài hồng. Họ quá quen mắt cái cảnh ông già rị mọ cầm sách lên, cũng cuốn sách ấy đọc mê say cả buổi mà không mua bán gì hết. Ông còn giúp các cô sắp xếp lại sách cho khách dễ lựa dễ mua. Ông còn thẳng thắn phê bình các cô cậu học trò nhỏ cầm sách lên mà không trân trọng, lại còn dùng sách mà đập vào đầu nhau đùa giỡn vô duyên. Các đồng chí… à không các cháu, phải nâng niu sách như vầy như vầy nè. Những con mắt non tơ không nhìn đời giống ông. Chúng nhìn ông rồi lắc đầu thè lưỡi rồi láo nháo kéo nhau đi nơi khác...
    Sách ông bây giờ người ta giảm giá 80%. Giá một cuốn sách còn chừng một ổ bánh mì thịt, chừng nửa tô phở, chừng nửa giá hớt một đầu tóc. Miệng ông đắng như những đợt sốt rét trong rừng. Ông ẵm những đứa con của mình lên. Ông nhẩm đếm những hai mươi cuốn rồi dòm vô ví tiền. Ông chặc lưỡi rồi khẽ khàng đặt chúng xuống. Mắt ông muốn lên độ hay cái kính bị dính hơi nước mà ông thấy mờ mờ như mình đang khóc. Mình mà khóc chắc mặt mình vô duyên lắm. Ông dụi kiếng, dụi mắt rồi ghì đầu vô sách vờ đọc. Đúng cái đoạn nói về vựa phế liệu. Không vờ đâu, ông đọc thật.
    “Chỉ có bọn trẻ mới nhìn ra được trong vựa phế liệu kia một thiên đường trong vắt. Nếu ta nhìn quanh chỉ thấy đời là một đống phế liệu lớn, mà không nhìn ra bất cứ gì tốt đẹp thì chắc cái sống của chúng ta cũng không còn mấy nả! Ta thành mụ chủ vựa kia mất rồi. Cân ký tất. Thành tiền tất. Hu hu đời thế mà là đời sao...
    ... Rồi sách. Cơ man là sách bị đem cân ký. Shakespeare và Hugo, Standahn và Tonstoi, Aristot và Platon, Kinh thánh và Thiền luận của Suzuki... đều bị xếp ngang hàng với những tạp chí lá cải, những tạp chí dạy người ta sống và yêu, mà người dạy thì chưa sống và yêu thực sự bao giờ. Nói là ngang hàng, bằng nhau tất nếu đem cân thành giấy lộn! Bà chủ vựa đúng là có phép thần thông. Có ai có thể biến những tri thức của nhân loại sánh ngang với đồ rác rưởi được không...”
    Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Mình hèn như thế từ bao giờ? Ông chợt nghĩ vậy rồi đặt nhẹ cuốn sách xuống, xếp ngay ngắn. Thở dài. Lủi thủi bước ra lấy xe đạp. Ông ra về mà quên chào hỏi các nàng bán sách áo hồng như mọi khi.
    *** --- ***
    Chiều hôm ấy ông đi nhậu về đã ngà ngà say. Ông đi ngang vựa phế liệu. Ông tình cờ biết được chuyện về bà chủ vựa, cái kết thúc thực tế còn hay ho hơn những gì ông đã viết ra.
    Cửa vựa khép hờ, đủ một người đi qua. Một thằng tài xế say mèm nằm vắt mình trên võng gần cái ti vi nghĩa địa mở to hết cỡ. Tiếng ngáy sồng sộc của nó sợ còn to hơn tiếng thuyết minh phim. Gần đó là một bàn nhậu ngổn ngang. Nào dĩa mồi thịt heo quay đỏ loẹt, nào dĩa trái cây xanh mét, nào những lon bia xanh xanh vất tứ tung, trên bàn có dưới đất có. Đại loại hiện trường trong nhà là thế.
    Còn hiện trường ngoài sân... Một chiếc xe tải loại năm tấn đậu ngay cửa. Ủa tụi này đã chín giờ tối sao chưa chở hàng đi Sài gòn? Ông Năm đi bộ tà tà tới, đầu óc còn lâng lâng vì rượu. Kể ra rượu mà trộn với khô cá sặc bổi ướp lá sầu đâu trong dạ dày thì cũng khó say. Ông dừng lại bên xe tải, chỗ tối nhất, đứng đái.
    Ông nghe rõ ràng tiếng hai người nói, một đàn ông, một đàn bà, trong thùng xe tải
    - Em trễ kinh hơn tháng nay rồi... Thằng chồng em mà biết được, chắc nó sùi bọt mép, lên cơn suyễn rồi đi luôn...
    - Là có bầu hả bà...?
    - Sao không kêu bằng em? Ăn nằm với người ta biết bao nhiêu lần còn giả đò nữa hả?
    - Nhưng... ai là cha nó? Thôi phá thai đi... Hay thằng chồng em nó làm?
    - Nó liệt rồi, nó làm sao nổi? Vả lại nó vô sinh. Bộ anh hổng biết thiệt hả?
    - Ừ, không nó thì hổng chừng thằng khác nữa. Không chắc là tui à nghe....
    - Không anh thì thằng chó nào...?
    - Ai biết được... không chừng là thằng Tám nằm trên võng trong kia...
    - Anh chó má vừa thôi chớ. Tôi là con đàn bà gì mà chơi hai thằng cùng một lúc? Trời ơi là trời...
    - Bà la lớn lên luôn đi cho hàng xóm biết! Đẹp mặt dữ hén! Thằng chồng nằm liệt chứ có chết đâu mà bà đã nhảy cựng với trai cho có bầu... Tui nói thiệt đó. Trong máy điện thoại của thằng Tám có hình chụp bà đang ở truồng. Trắng tươi hà. Chụp từ sau đít. Mông bên phải bà có một nút ruồi nhỏ nhỏ... Nó không gần bà... sao nó chụp được hình đó?
    Tiếng khóc đàn bà to lên hù hụ, gần như rống.
    Ông bỗng nghe một tiếng rầm, như tiếng tấm thiếc đổ phía sau nhà. Thằng tài xế đang ngáy lồm cồm bò dậy chạy thẳng ra phía sau nhà.Nó kêu lên:
    - Trời ơi anh Tư!!! Sao anh té vầy nè?
    Hai đứa trong xe tải tung cửa nhào xuống. Chúng cũng không để ý ông đang luống cuống chạy theo sau. Ông còn chưa kịp cài lại nút quần...
    Thằng tư, chồng mụ chủ, đã ra đi. Bọt mép nó sùi hệt như lên cơn suyễn, y chang lời vợ nó nói! Tay nó chụp lên tấm thiếc nhà tắm rách một đường tứa máu. Vội vã tiếp khiêng thằng tư vào nhà, ông sờ đụng trong lưng quần nó con dao cán vàng thái lan, chiều dài 22cm. Ông liếc qua cổ áo con vợ nó. Hàng nút cài lụp chụp lệch xéo sang một bên... Ông buông mấy tiếng:
    - Nó tắt thở rồi!!!
    Rồi ông bỏ đi ra cửa. Tiếng rống của mụ vợ ống lên lanh lảnh. Hình như to hơn tiếng rống hồi nãy, trong thùng xe tải.
    - Trời ơi là trời!!!
    Nó khóc vì chồng nó chết hay nó khóc sướng rơn vì được tự do? Ông năm không biết. Ông định bụng đi về nhà ghi chép chút chút. Để dành sau này chỉnh lý bổ sung cho cuốn sách của ông! Văn chương nghiệp dĩ. Đã dính vô rồi phải dính luôn! Thôi kệ đời đi. Được viết ra là đã sướng rồi.
    *** --- ***
    Ông Năm viết tiếp một đoạn sau đây rồi tắt tị.
    “Con bé đọc truyện Andersen trong mớ giấy lộn ấy. Truyện con ếch đã chán ngấy đầm lầy chỗ nó sinh sống nên mơ ước được đi xa. Qua lời bọn cò từng đi đây đó con ếch muốn đi Ai cập, nơi có hoàng hôn tuyệt đẹp trên sông Nil, có sa mạc mênh mông... Nó đã nhờ đàn cò cho nó bám vào chân để đi Ai cập. Vì ước mơ, nó quên nó là miếng mồi ngon của bầy cò... Cuối cùng nó chết trong bụng cò khi đang trên đường bay về Ai cập, khi nó đang mơ về nắng vàng của sông Nil và những sa mạc bao la…
    Nhưng con bé không được đọc hết như vầy vì những tờ giấy mất đi ở vựa phế liệu. Nên nụ cười nó vẫn tươi, mơ ước của nó vẫn trong veo như mọi khi...”
    Tôi bâng khuâng. Không biết vợ chồng bà chủ vựa, rồi bé Hai, rồi bọn lái xe tải, đang bám chân cò nào, đang mơ những giấc mơ nào...
    Tôi hỏi ông Năm sao không viết tiếp. Bộ sợ sách làm ra bị ế nữa hay sao. Ông cười:
    - Tôi bị tai biến mạch máu não. Có thể là bệnh trong đầu. Có thể là bệnh trong tâm. Tay cầm bút nó liệt rồi ông ạ... Khi nào nó khá tôi viết nữa. Mắc gì phải sợ!
    Tôi chợt nghĩ. Có khi tôi chẳng bệnh hoạn gì mà tay cầm bút vẫn liệt đó thôi...
    THIỆN PHẠM.
    Con đi dưới lá cờ sao máu
    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...
    Similar Threads
  • #2






    Ao Trường Đua Gò Công
    (Ảnh chụp trước năm 75)

    Gò Công vào thế kỷ thứ 19 còn là vùng đất hoang vu, dưới nước có sấu trên bờ cọp đi, đưng, lát, rừng hoang ... Tại Giồng Sơn Qui, chim Công về ở từng đàn, bởi vậy trước khi có tên Gò Công, sách vở còn ghi lại địa danh Khổng Tước Nguyên.

    Lúc tôi học trường Nam Tiểu Học Tình Gò Công, mỗi học sinh phải mang hiệu đoàn bằng kim loại, có kim gài vào túi áo, có hình bó đuốc đang cháy và phía dưới là 2 chữ Tước Nguyên. phía trên là hai chữ hiệu đoàn

    Khi hòa ước vong quốc ra đời (Hòa Ước Giáp thân 1884) Miền Nam trở thánh đất thuộc địa, để dễ dàng trong việc giao thông và xây dựng hệ thống chức sắc cai trị... Pháp cho đào kinh, đắp đường, xây dinh thự... Ao Trường Đua, được đào với mục đích để lấy đất đấp nền xây dinh Tỉnh Trưởng (Chánh tham Biện). Tôi không nhớ chính xác ao được khởi công đào năm nào nhưng chắc chắn là phải sau năm 1884, dinh tỉnh trưởng xây xong năm 1886, do hảng thầu effel từ bên mẫu quốc sang xây dựng... Đất Gò Công lúc bấy giờ rất trủng thấp. bần, đước, dừa nước mọc hoang vô bờ bến ... Đầu tiên lấy đất đào ao đấp 1 con lộ, thẳng góc với Ao về hướng bắc (Hướng Nhà thờ), để lấy bóng mát, hai bên đường trồng me, sau nầy dân dã quen gọi là lộ me, tên Tây tôi không nhớ, trước 75 là đường Phan Chu Trinh... Lúc tôi còn nhỏ, con đường nầy vắng vẻ, một bên là ruộng, một bên lơ thơ vài ngôi nhà Đầu đường bên kia là ao. khoảng thập niên 50, một ngôi nhà xây tường lợp ngói được cất lên là nhà của Ông Một Quờn, một thiếu úy thời Pháp hồi hưu, còn lại khoảng vài chục căn nhà xây bằng vật liệu đơn sơ.

    Gò Công là xứ nước mặn, nên Ao Trường đua rất thực dụng cho dân trong tỉnh... Thập niên 50 - 60 dân Gò Công xài bằng nguồn nước nầy, sàn cầu ao lúc nào cũng đông người, đàn bà, thanh niên gánh nước về xài… Đặc biệt, có nhiều xe bò chỡ nước đi đổi (không nói bán nước…sợ giống VC) thập niên 50, phương tiện còn thô sơ, mỗi xe bò kéo nước, thường là 2 con bò, một "tài xế', lội bộ theo xe có vài thanh niên thanh nữ với đôi thùng thiếc .. Lúc tôi còn nhỏ, mỗi đô nướci là 5 cắc sau lên 1 đồng… Công việc không vốn nhiều mà rất vất vả, vì phải gánh từng đôi nước đổ vào thùng xe, tới nhà khách phải gánh từng đôi đổ vào mái, lu chứa… Đặc biệt là những chủ xe đổi nước nầy đều là quân nhân giải ngũ, nhớ lại ta thấy có xe của Ông Đội Đảnh (Ông làm thầy Pháp, cúng trừ ma quỷ) nhân công là người nhà gồm 2 chị em chị Trọng và chị Cơ với hai người chồng là Anh Oanh và Anh Hay.. Xe của Ông đội Đến, xe của Ông Đội Điều, xe của Ông Bếp Hường (Người con riêng của Bà Bếp Hường là Anh Huệ, gánh nước cho xe nầy, Anh Huệ sau động viên là Hạ Sĩ Quan truyền tin của đồn Nguyễn Chi Mai, bên cầu Ông Thìn , sau 75, Anh nằm trong nhóm phục quốc Gò Công, bị giặc bắt được, xử tử hình cùng với chị Lan, nữ quân nhân Gò Công, xử bắn vào ngày rằm tháng 7 năm 1975). Sau nầy các chủ xe đổi nước dùng máy bơm nên công việc cũng đở tốn mồ hôi.

    Sở dĩ gọi là Ao Trường Đua, vì thời Tây, vòng sân ao dùng để đua ngựa, Tây bày ra nhiều trò chơi, cốt ý để dân quên đi nỗi hờn vong quốc… Hông ao trên đường ra biển, trước 75 tên đường Nguyễn Thái Học, sau 75 giặc đổi tên là Thủ Khoa Huân, có trồng hàng dương Thời Tỉnh trưởng Nguyễn Viết Thanh gắn đèn đường bằng 2 tupe ne1on, con đường chiều gió dương vi vút, ánh sáng mát dịu của đèn, có bồ cùng bước dưới hàng dương … Cũng đẹp, một ngôi trường tư thục, bằng gổ xây kiểu cao cẳng của Ông hiệu trưởng Huỳnh Phước được dựng lên ở vị trí nầy rất mát mẻ… đầu thập niên 70, Ông Huyện Lạc về hưu, trả nhà lại cho chính phủ, mua lại ngôi trường nầy làm tư gia.

    Dưới Ao trường đua, có nhiều cá, lúc nào cũng thấy có người đang thả câu, giữa ao, có bầy le le trên chục con, lội chầm chậm trông rất thanh nhàn… đó là cảnh cũ, bây giờ… Vật đổi sao đời .. Những hình ảnh mới của ao từ bên nhà gửi qua.. Tôi nhìn không thấy có chút gì xúc động… bởi cảnh mới thì làm sao gợi được tình cũ của tôi ..

    Tôi có điều thắc mắc không biết con kinh Sa li sết ti đào trước hay sau Ao Trường Đua.. Bậc trưởng thượng nào biết xin cho tôi biết. Một phần con kinh khá dài bắt đầu từ nhà đèn đổ xuống khỏi cầu Huyện bây giờ …"Chỗ thành nhà cửa chổ nào trống đâu"…. Con kinh gắn bó với tuổi thơ của tôi… Piscine, hồ cá… chỉ còn tìm thấy trong kỷ niệm…thì những tên cầu như Cầu Quan, Cầu Phủ, Cầu Huyện… những lão ông trên 70 may ra còn biết ...

    July 4, 2011
    Con đi dưới lá cờ sao máu
    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

    Comment

    • #3

      Nguyễn Lê : Đã từng theo học ngành văn chuơng ở Sài Gòn và tại Aix-en- Provence nước Pháp. Có văn bằng cử nhân Triết học
      Xuất thân khóa 21 Trừ Bị Thủ Đức. Phục vụ trong ngành Pháo Binh Sư Đoàn Dù, cấp bậc sau cùng Thiếu Tá. Trong tù bị Cộng sản tra tấn dã man vì có người Anh là Linh Mục hoạt động phục quốc. Hiện ngụ tại Houston
      THIẾU THÁNG
      Vai vác phảng, tay cầm cù nèo, vừa mới bước ra khỏi cửa, Lung sực nhớ tới một chuyện quan trọng nên ngừng lại nói vói vô nhà:
      --Linh à…Linh…con đi rút lên nhà nội…nói nội cho ba mượn đỡ năm trăm ngàn…!
      Con Linh đương ngồi trong bếp canh nồi khoai, lửa nóng ửng mặt, ngần ngừ hỏi lại:
      --Chi mà nhiều dữ vậy ba…rủi nội hổng có đủ thì sao…?
      Lung trả lời:
      --Heo mới rã bầy hôm qua…lẹ lên đi…!
      Linh vẫn chưa chịu:
      --Con thấy heo còn nhỏ ét…mờ…!
      Nghe con gái cứ léo nhéo, Lung quay đầu lại, gằn từng tiếng:
      --Heo…mới…bán…rồi…đi mau…!
      Con nhỏ nín khe khi nghe tiếng cha gắt. Ló đầu ra khỏi bếp, nó đã thấy Lung bước khuất sau hàng Dăm Bục.
      <><><>
      Mới phát được non góc tư công đất, Lung nghe chưn tay rã rời, mồ hôi mẹ mồ hôi con nhểu độp độp. Anh chống phảng, đứng nhìn trời. Đám lác Hến dày đặc còn lại ngất ngưởng theo từng cơn gió Nồm như trêu ghẹo, thách thức Lung. Ai đi qua thấy miếng ruộng lác cũng rũ rĩ rù rì.
      Nhằm thời buổi khó khăn, thóc cao gạo kém, người ta cứ tăng vụ ào ào, ruộng đất nào có được ở không; vậy mà lác ở đây cao lêu nghêu, phởn phơ xanh tốt. Bà Tư Hớt Tóc đi chợ về ngang, bỏ gánh xuống, đứng trầm trồ:
      --Chèn ơi…lác tốt thiệt…Út mầy đừng có cho ai hết nghen…chờ nước lớn tao biểu sắp nhỏ bơi xuồng ra chở vìa oánh ít đôi võng… bây sẽ được một cái nằm chơi cho êm lưng…!
      Kêu trâu cày cũng tốn tiền, vã lại, sau khi phát còn phải cào sạch cỏ để cuốc lật nên khi nghe bà Tư ngỏ ý, Lung như mở cờ trong bụng:
      --Lẹ lẹ lên bác Tư ơi…nhiều người hỏi xin con lắm rồi…chậm chưn là hết đó bác…!
      Lung uể oải bước lên bờ ruộng. Anh ngồi chồm hổm khoát nước lên miếng đá Bùn mỏng teo, mài lại phảng. Anh nghĩ tới công việc còn bề bề. Cuốc lật, rồi bừa, rồi trục. Sức người làm sao cho xuể nên tệ gì Lung cũng phải kêu vài buổi trâu. Sau đó, còn kéo gò, chế, chém bờ, lấp mội đáy để giữ nước. Lẹ lắm cũng phải hơn tuần lễ nữa mới rồi việc.
      Lung thở dài.
      <><><>
      Ngày Lung được trả lại hai công ruộng biền thiệt đặc biệt đáng nhớ. Bửa đó, Lung dậy sớm, tất tả lội bộ ra trụ sở xã cho kịp giờ với mọi người. ‘Lễ Khoán Đất’ được Ủy-Ban Nhơn-Dân xã tổ chức hết sức rình rang, xôm tụ.
      Biểu ngữ, bích chương và cờ xí nhuộm đỏ cả sân trường Phổ-Thông cấp I. Bốn Đội Thiếu-Nhi thuộc bốn ấp, ăn bận đủ kiểu, được chia thành hai nhóm làm hàng rào danh dự. Tất cả đứng ngay ngắn trước cái khán đài trang trí với mấy tàu dừa tươi cặp vô hàng cột tre được bó ốp cẩn thận bằng bẹ chuối.
      Trong khi cán bộ xã sinh hoạt với đám nông dân, các em thiếu nhi được cô giáo Hương tập vỗ tay cho đều. Cô nói nhiều nên cô mệt.
      Giọng cô hổn hển:
      --Vỗ vậy nghe chưa có được…giống pháo lép quá…ngó cánh tay cô đây…giơ lên thì vỗ…thụt xuống thì ngưng…vỗ cho đều…cho mạnh mạnh lên mới được…mấy em nghe chưa…?
      Một cái cổ cò đen bóng nhóng lên từ giữa đám khăng quàng đỏ:
      --Con đau tay quá…cô ơi…!
      Giọng cô giáo Hương vẫn nhẹ nhàng, nhẫn nại:
      --Ráng chút xíu nữa thôi con à…cô cũng muốn đứt hơi rồi đây nè…!
      Cô liếc qua một vòng rồi tiếp:
      --Nè…ngó tay cô đây…vỗ…!
      Bép…bép…bép…
      Bép…bép…bép…
      Tại góc trái khán đài, Tư Mọi, Trưởng Ban Tuyên-Huấn xã, đứng trên bục ngó xuống đám nông dân. Mặt y nghiêm lại một cách quan trọng. Cái khăn rằn đen quấn quanh cổ vừa vặn làm nổi bật khuôn mặt ba góc. Bộ đồ bốn túi bằng hàng ngoại màu cứt ngựa, mới tinh, được may theo kiểu lãnh tụ thiệt là khéo. Khẩu súng Sáu nằm gọn trong cái bao da đen đánh xi-ra bóng lưởng, lủng lẳng bên đùi mặt.
      Đưa tay vuốt mấy cọng tóc le hoe trước trán, Tư Mọi nhíu cặp chưn mày sâu rọm, tằng hắng mấy cái rồi cất giọng thuộc bài:
      --Bà con cô bác thấy đó…Đảng và Nhà Nước ta trước sau như một…đây là dịp để bà con cô bác tâm đắc chánh sách ở trên…cái thời đế quốc cấu kết với phú hào địa chủ để bóc lột đã qua rồi…!
      Một cái cùi chỏ thúc nhẹ vô be sườn Lung. Anh quay lại, vừa kịp nghe tiếng Hai Sên thì thào:
      --Hết bóc lột rồi…chỉ còn bóc lủm thôi…gọn và lẹ hơn…!
      Tư Mọi nói tiếp:
      --Nay thì Đảng và Nhà Nước ta chiếu cố tận tình tới từng người dân một…bằng chứng cụ thể trước mắt bà con cô bác…hôm nay…trong số người được khoán đất…
      Tới đây, đột nhiên y ngừng lại, đưa mắt ngó quanh rồi lấy tay chỉ về phía Lung đương đứng nép bên dưới:
      --Có cả những kẻ ngày trước từng gây nợ máu với nhơn dân…nay cũng được dự phần…!
      Đùng một phát, bị bao nhiêu cặp mắt chiếu thẳng về mình, Lung ngượng ngập cúi mặt, hai bên màng tang nóng ran lên. Kể từ đó cho tới lúc tan buổi lễ, anh chẳng còn nghe thấy gì mà chỉ tới lui như một cái máy.
      <><><>
      Lung được khoán lại miếng ruộng biền kế bờ sông. Nó vốn dĩ thuộc về đất hương hoả của gia đình anh bị nhà nước tịch thâu kể từ khi ‘tiếp quản’. Khoảnh ruộng nầy ba mặt giáp mương nên mội đáy nhiều vô kể.
      Ngày giao đất, anh Hai Hưng, Trưởng Vạn-Vần-Công ấp dẫn Lung đi cắm ranh. Anh lắc đầu, ái ngại:
      --Tốt lớp khỉ gì…miếng ruộng giữ nước hổng được…thất mùa hoài nên Tư Mọi để cho trâu nằm…bây giờ làm như là ơn nghĩa tốt lớp giao lại cho chú mầy…lảnh cái của nợ nầy lại coi chừng mệt cầm canh đó…!
      Ông Hai Quều có bửa cũng lọm khọm chống gậy tới coi Lung dọn đất.
      Ông an ủi:
      --Đổi đời mà…còn sống được là may hồn rồi…chớ có nãn…ông bà mình hay nói “đất cũ đãi người mới”…thôi ráng lên đi bây…!
      Lung nghe vậy chỉ biết cười buồn.
      Lúc Miền Nam được ‘giải phóng’ cũng là lúc ruộng vườn nhà Lung bị đảng và nhà nước tịch thâu gần hết sạch để cấp phát lại cho những kẻ ‘có công với cách mạng’. Tất cả được Tư Mọi quản lý chặc kể từ đó. Bây giờ, trong hoàn cảnh cùng cực, người có ‘nợ máu với nhơn dân’ như Lung, chẳng những được đảng và nhà nước khoan hồng mà còn được chia cơm sẻ áo. Ai nấy đều phải khen đảng và nhà nước hết sức nhơn đạo và cán bộ đảng viên thiệt là tử tế (?!)
      Lung vốc nước rửa mặt, nhận ra cơn đói đương cồn cào, âm ỉ trong người. Anh giơ tay vịn gói mo cau đựng phần cơm trưa tính kéo tới nhưng nhớ ra trời vẫn chưa đúng ngọ, công việc hãy còn bề bề và bửa ăn tối hãy còn xa nên rụt rè giựt tay lại. Cứ nhớ tới mấy con mắm Ba Khía và mấy trái ớt Hiểm tươi đương nằm chung với mớ cơm nguội, nước miếng Lung đã ứa ra.
      Cần gì cao xa, chỉ một phút hồi tưởng lại những ngày tháng trong ‘trại học tập cải tạo’ với cảm giác thê thiết dài người của những trận đói cũng dư đủ để Lung mỉm cười, tự an ủi với cái mo cau hạnh phúc trước mắt.
      Anh tự nhủ:
      --Mình hãy còn may mắn hơn nhiều người…!
      <><><>
      Được cấp giấy rời trại Bến-Giá là một trong những ngày sung sướng nhứt đời Lung.
      Suốt chặng đường từ bến đò Thị-Xã Trà-Vinh về tới nhà, Lung giương mắt ngó phong cảnh dọc theo bờ sông Cổ-Chiên một cách khoan khoái, trìu mến. Những cánh Lục-Bình xanh tốt điểm bông tím trôi chầm chậm trên dòng nước phù sa, rung rinh nghiêng ngã theo từng cơn gió như nói năng, vẫy gọi.
      Những vườn cây xanh mượt mà trên cồn Nẩy, cồn Dung và muôn ngàn lớp sóng bạc đầu lượn lờ giữa Phá Bãi-Xan mênh mông, cái gì coi ra cũng hết sức thân quen. Cho dầu có bịt mắt lại chăng nữa, Lung cũng có thể nhẩm đếm dễ dàng từng miệng đáy nằm rải rác từ cầu Bắc cũ chạy dài tới Khánh-Thạnh-Tân và Nhuận-Phú-Tân.
      Đò lướt chậm trên dòng nước ngược buổi xế chiều, qua vô số cầu bến gie ra bờ sông lở. Mùi bông Chanh thơm nhẹ phảng phất đâu đây. Tiếng máy đò nổ ì ạch, đơn điệu không át nổi tiếng gió xào xạc thổi luồn qua những bụi Dừa Nước. Đám Bàng suôn đuột vươn lên trời xanh, khoe những từng lá lớn cân đối, tròn trịa.
      Keng…keng…keng…
      Keng…keng…keng…
      --Tới chợ Bang-Tra rồi…cô bác ơ…ơ…ơi…!
      Anh lơ đò cất cao giọng, kéo dài.
      Chờ mọi người lên bờ gần hết, Lung mới đứng dậy xách cái ‘túi bao cát’ đựng hành lý, chầm chậm bước theo. Anh đưa mắt ngó thiệt lẹ qua cảnh chợ chiều quê cũ.
      Cái nhà lồng với hai hàng cột xi-măng trầy trụa lỗ chỗ nằm giữa hai dãy phố hãy còn nguyên đó; nhưng khi bước lên sân chợ, Lung thấy trước sau trống lổng một cách vô duyên. Không còn những nia dừa Khô, dừa Cạy. Không còn những sàng tôm, oi cá tươi chong. Không còn những sịa thuốc Giồng vàng hực, thơm nồng.
      Toàn cảnh chìm ngập trong một rừng biểu ngữ vằn vện.
      Nào là “Đời Đời Nhớ Ơn Hồ Chủ Tịch Vĩ Đại”.
      Nào là “Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập Tự Do”.
      Nào là “Đảng Cộng Sản Bách Chiến Bách Thắng Muôn Năm”.
      Màu đỏ bầm dưới bóng nắng chiều và không khí tĩnh lặng làm Lung như muốn nghẹt thở. Anh cúi đầu băng lẹ qua sân chợ để tránh những cặp mắt lạnh lùng ẩn hiện sau vành nón Cối.
      <><><>
      Lung về tới nhà thì trời vừa choạng vạng.
      Bà Năm đương ngồi xắt chuối cây trên bộ ngựa sau hè. Thấy có bóng người bước lên thềm. bà lấy tay che mắt, hỏi:
      --Ai đó vậy cà…?
      Lung bước lại ôm mẹ:
      --Con đây má à…má mạnh giỏi hông…?
      Dầu chẳng thấy gì nhưng đột ngột nghe giọng nói quen thuộc đó, bà Năm sửng lặng một lúc.
      Bà buông dao, ngập ngừng:
      --Mầy hả Lung...mèn đéc ơi…vìa mà hổng có cho ai hay hết vậy…Linh ơi…Linh…Linh ơi…Linh…nó vìa đây nè con…!
      Bà vừa réo giựt ngược vừa khóc thút thít.
      Có tiếng ‘dạ’. Một bóng đen nhỏ thó từ trong buồng chạy ra bổng khựng lại, trân trối ngó Lung một chập rồi ôm chầm lấy anh, nức nở khóc. Lung ôm cứng Linh, bối rối:
      --Nín đi con…nín đi…con mau lớn quá…mẹ con đâu…?
      Tiếng bà Năm nghèn nghẹn:
      --Khổ biết chừng nào…chuyện dài lắm bây à…thôi…lo thay đồ tắm rửa cho khoẻ cái đã…Linh ơi…vô phụ ví nội làm cơm nước cho cha con ăn…!
      Tối hôm đó, chờ khi Linh ngủ mê, bà Năm ngồi têm trầu, thủng thỉnh kể lại cho con trai mình nghe đầu đuôi câu chuyện người vợ bạc tình.
      <><><>
      …Sau khi Lung vô tù một thời gian, viện cớ kiếm đồng ra đồng vô, Yến xin phép mẹ chồng được gởi con để đi buôn bán, phụ trợ gia đình. Thấy con dâu siêng năng như vậy, bà Năm mừng và cảm động lắm…
      …Lúc đầu, mọi chuyện đều trót lọt, êm xuôi. Sáng sớm mỗi ngày, Yến mua hàng địa phương như Chanh, dừa Cạy, thuốc Giồng, theo đò qua chợ Trà-Vinh bỏ mối rồi bổ những mặt hàng khác như phân bón U-Rê, thuốc trừ sâu Ba-Sọ-Đầu về bán lại kiếm lời. Chòm xóm láng giềng thấy vậy, ai cũng khen Yến đảm đang và bà Năm có phước…
      …Nhưng rồi dần dà, những chuyến buôn theo lẽ chỉ kết thúc trong ngày lại kéo dài hàng đôi ba bửa làm bà Năm lo sợ, trông đứng trông ngồi. Sau đó, Yến về nhà, mặt mủi xanh xao, hốc hác. Bà gạn hỏi, được Yến cho biết hàng họ bị tịch thâu nên phải ở lại năn nĩ chạy chọt cho khỏi cục vốn. Nghe vậy, bà Năm tội nghiệp con dâu mình hết sức bèn lấy mấy chỉ vàng bà cắc củm để lo hậu sự, đưa hết cho Yến. Yến tiếp tục đi buôn thêm một chuyến nữa thì biệt tăm…
      …Bà Năm cuống cuồng, không biết kiếm đâu cho ra tung tích Yến. Bà dò la lần hồi, sau cùng mới tá hỏa rằng, dâu của mình đành đoạn bỏ gia đình, bỏ con thơ, nhởn nhơ sống với gã nhơn tình bên kia sông Cái. Bà cảm thấy nhục nhã và uất ức tới phát bịnh. Phần thương con, phần thương cháu, phần tiếc của, bà Năm muốn tới tận nơi để hỏi cho rõ trắng đen nhưng ai nấy đều khuyên bà tốt hơn nên nhẫn nhịn vì gã nhơn tình của đứa con dâu mất nết đó hiện là một ‘cán bộ cách mạng gộc’ tại địa phương…
      Kể rồi, bà Năm lại sụt sịt khóc trong lúc Lung thẫn thờ ngó ánh đèn dầu vàng vọt, lù mù.
      Lâu lắm, Lung mới lên tiếng:
      --Sao lóng trước đi thăm nuôi…má hổng nói cho con hay…?
      Bà Năm ‘hứ’ nhẹ:
      --Cho bây hay à…bây đương bị tù bị rạc…cho bây hay đặng bây tức tối buồn bực rồi lăn ra chết bỏ con bây hay sao…mèn ơi…tội nghiệp con nhỏ biết chừng nào mà nói…nó khóc thiếu điều lòi rún…bây biết hông…mới bằng đó tuổi đầu mà ngoan ngoãn hiếu để hổng ai bằng…tối nào cũng như tối nấy…nó thắp nhang lạy Phật cầu xin cho nội mạnh giỏi…cho cha mau vìa…thấy cái cảnh đó thiệt là đứt ruột đứt gan…!
      Bà đẩy cái đèn chong lại sát mặt Lung, vuốt má Lung, giọng trĩu buồn:
      --Từ nhỏ tới lớn…tao nuôi bây đâu có ốm o dữ thần ôn vầy nè…thôi…ráng mà nghỉ ngơi cho lợi sức…cứ tưởng cóc mọc râu bây mới được thả vìa…có lẽ Ông Bà thương Trời Phật độ đó bây à…còn chút núm ruột kia…cha con hủ hỉ qua ngày cũng được…!
      Rồi giọng bà pha chút lo âu:
      --Ờ…hồi chiều…bây có ghé Công-An xã trình giấy tờ cho tụi nó chưa vậy…?
      Mắt Lung vẫn không rời khỏi ngọn đèn. Anh nhỏ nhẹ đáp lời mẹ:
      --Chưa má à…nhưng mà…tha hay bắt cũng vậy thôi…con thấy có khác gì nhau đâu…có khi ngoài nầy còn tệ hơn ở trỏng nữa là đàng khác…!
      Bà Năm sững sờ. Bà ngạc nhiên ngó sắc mặt bình thản tới lạnh lùng của con trai mình. Giọng nói đó nghe như không phải từ cõi sống mà từ cõi âm u nào đó vọng về.
      <><><>
      Chắt nước rồi, Linh bớt lửa, hé nắp nồi, cầm chiếc đủa tre chích nhẹ lên mấy củ khoai Dương-Ngọc thử coi đã chín chưa. Mùi khoai thơm dịu dàng phất lên mủi làm con nhỏ phát thèm, nuốc ực nước miếng mấy bận. Nó dụi lửa, đứng dậy buớc ra kéo nhẹ tấm liếp lá che cửa rồi tất tả băng đổng về nội.
      Chiều hôm qua, dì Phấn ghé chòi ruộng thăm cha con Linh. Dì nói là dì kiếm người nhổ mạ. Thiệt ra, đó chỉ là cái cớ.
      Dì Phấn giữ chưn Thơ-Ký Hợp-Tác-Xã Nông-Nghiệp. Mấy lúc gần đây, chẳng hiểu sao, Linh thấy dì tốt với mình hết sức. Lần nào ra chợ Bang-Tra, gặp dì, Linh đều được dì hỏi han ân cần, vồn vã. Linh được dì bao phủ phê: khi thì Bì Bún, Xương Xa Hột Lựu; khi thì Gõi Cuốn, Nước Chanh Muối. Chẳng những vậy, dì còn để ý săn sóc tới cha của nó nữa.
      Có lần, Linh đi chợ hốt thuốc cho cha, giữa đường thì gặp dì Phấn. Dì lật đật dắc Linh vô tiệm thuốc Bắc của ông thầy Xịt, tự mình ên khai bịnh cho cha của nó, thân mật y hệt người trong nhà. Dì giành trả tiền rồi dắt Linh đi lựa một con cá Lóc thiệt bự cùng với tiêu, gừng và hành lá. Dì còn nhét vô tay Linh một gói Xí-Mụi, không quên căn dặn nó cách nấu cháo sao cho ngon để người bịnh dễ ăn, mau lại sức.
      Linh về nhà, vui miệng kể chuyện nầy cho bà nội nghe. Nó thấy nội trầm ngâm, chau mày. Nội cũng dặn nó từ rày về sau, không được nhận cái gì của dì Phấn nữa hết. Nó hỏi nội tại sao thì được bà trả lời là ‘kỳ lắm’.
      Linh vẫn chưa hiểu:
      --Nội ơi…mình đâu có xin…người ta cho thì mình lấy…sao mà kỳ…?
      Linh nghe nội ‘hứ’ nhẹ. Bà nói bâng quơ:
      --Ôi…cái thứ…cái thứ cọc tìm trâu…thì dây dưa tới mà làm gì…xớ rớ có bửa lại mang hoạ…!
      Linh tròn mắt:
      --Cọc tìm trâu là sao…hả nội…?
      Thấy bà làm thinh không trả lời, Linh càng thắc mắc dữ. Nó đoán mò, có lẽ đó là cái gì ghê gớm lắm, kỳ cục lắm.
      Cũng có bửa, bà nội xuống thăm ruộng. Cơm nước xong, bà vừa nhai trầu bỏm bẻm vừa cầm cục thuốc Giồng lớn bằng ngón tay cái xỉa qua xỉa lại rồi nhét gọn lên môi trên.
      Bà phê bình dì Phấn:
      --Ông Bà mình thường nói…“cái răng cái tóc là gốc con người”…đờn bà con gái gì mà…tóc tai hớt trụi lủi…chưa đi đã chạy…chưa nói đã cười…gặp đờn ông con trai thì liếc tới liếc lui tươm tướp tươm tướp…thấy bắt mệt…!
      Bà nói một hơi dài rồi thở hắt ra.
      Linh nghe tiếng cha mình cười dòn, chống chế:
      --Thây kệ người ta má à…!
      Bà Năm kéo ống quần lên chùi nước cốt trầu, nói mát:
      --Ờ…kệ ví lại hổng kệ…tao chỉ sợ có người lại khổ nữa cho mà coi…bây thì lúc nào mà chẳng cãi lời tao…lóng trước mẹ của con Linh…già nầy đã cản rồi chớ phải không đâu…vậy mà…vậy mà…!
      Cha Linh cười trừ:
      --Một lần tởn tới già…con bây giờ như chim bị đạn…sợ lắm rồi đó má…!
      Tiếng bà Năm thở dài:
      --Thì tao cũng ráng chống mắt tao lên…coi thử bây sợ nữa không cho biết…!
      Câu chuyện lẩn quẩn giữa hai người thân quý nhứt đời Linh bao giờ cũng kết thúc một cách lửng lửng lơ lơ như vậy. Nghe riết rồi cũng quen, nó lấy đó làm vui giữa không khí chật vật, tẻ buồn của đời sống.
      <><><>
      Phấn tới thăm khiến căn chòi ruộng chật chội, ọp ẹp như được bôm phồng sanh khí. Gặp Phấn, lần nào cũng vậy, Lung mất bình tĩnh ngó thấy. Anh lúng túng y hệt chú gà con thấy chim Bù-Cắc. Anh rót nước, ấp úng mời Phấn. Phấn chúm chím cười, rút trong túi áo Bà-Ba trắng ra tờ Thông-Cáo của tỉnh về việc đăng ký lập hồ sơ xuất ngoại theo diện ‘tù cải tạo’.
      Giọng Phấn ướt rượt:
      --Nè…anh Út coi đi…khoẻ rồi đó…mai mốt được qua Mỹ đừng có quên người ta à nhen…!
      Lung ngó vô tấm Thông-Cáo, mắt hoa lên. Anh nghe tim mình đập rộn ràng. Nỗi rộn ràng nầy không biết có phải bắt nguồn từ nét duyên dáng, xinh xắn và mùi hương nồng nàn toát ra từ thân thể Phấn hay vì trong đầu anh vừa hé lên một chưn trời mới tươi đẹp, khác xa với thực tế đầy lo âu, muộn phiền. Mặt anh đỏ ửng như cậu trai mới lớn vừa nhắp hớp rượu đầu đời.
      Anh lắp bắp:
      --Cô Bảy…cô Bảy nói vậy tội nghiệp tui…nói ra sợ cô cười…chớ thiệt sự là…là…
      Phấn chớp chớp hai hàng mi rậm rì, cong vút:
      --Là sao vậy…anh…?
      Lung đáp không kịp thở:
      --Nghe thiên hạ đồn…muốn đi Mỹ phải đăng ký đủ chỗ…tốn kém “cây”* nầy “cây” nọ…cha con tui nghèo rớt mùng tơi…mần chỉ đủ lủm…cô Bảy nghĩ thử coi…tiền bạc ở đâu để mà lo…?
      Phấn cười dòn:
      --Nhằm nhò gì…em biết mà…xã mình có người đăng ký hồi tuần rồi…nhiều nhỏi chi đâu mà anh sợ…?
      Phấn đột ngột ngó thẳng vô mắt Lung, nhỏ nhẹ:
      --Nè…hổng được tự ái à nhen…thiếu bao nhiêu anh cứ nói…đừng ngại gì hết…sau nầy khi nào có thì đưa lại cho em…!
      Một cảm giác đặc biệt lạ lùng khiến Lung thấy lòng mình ấm áp, dễ chịu hết sức. Nhưng chỉ trong thoáng chốc, cảm giác đó biến mất, nhường chỗ cho cơn gió mặc cảm lạnh lẽo tràn về.
      Năm tháng cho dầu có phôi pha, vết thương cũ trong lòng nhiều lúc làm Lung xốn xang, bức rức. Quá khứ chen lẫn với hiện tại dằn vật tâm tư anh rấtnhiều nhứt là vào những giờ phút trống vắng, những ngày cô đơn, những đêm dài trăn trở, không an giấc.
      Lung nhớ mình từng nói với mẹ rằng, mình như chim bị đạn. Nhưng lạ lùng quá, có lúc con chim đó muốn quên đi dĩ vảng, muốn vất bỏ hết thương tật của quá khứ nặng nề, muốn giủ sạch những vết tích nhục nhằn trên đôi cánh để bay bổng về một vùng trời xa lạ khác, cho dầu có ra sao thì ra.
      Lắm khi, Lung cũng muốn buông xuôi, thả nổi tình cảm của mình. Tuy vậy, mỗi lần nhớ tới hoàn cảnh hiện tại và những dự tính ấp ủ từ lâu, anh lại cố đè nén, che giấu, chỉ sợ chẳng tới đâu mà thiên hạ lại đọc được tâm sự mình.
      Có bửa, trên đường ra ruộng, ngang nhà chị Hai Phò, Lung nghe tiếng chị ru con lảnh lót:
      “Bỏ Cửa Đại băng…ơ…qua Cửa Tiểu
      Xa Hàm-Luông bắt…ơ…nhớ Ba-Lai
      Cù lao Năm Thôn…ơ…con nước chẻ làm hai
      Muốn đi thêm bước nữa…sợ người ngoài dèm…ơ…pha…”
      Lung chột dạ, ngó dớn dác. Anh tưởng tượng chị Hai Phò đương núp đâu đó trong nhà, cặp mắt chị chăm chú theo dõi từng bước đi ngượng ngập của anh với cái cười xoi bói, chế giễu.
      Lung vuốt tới vuốt lui tấm Thông-Cáo không biết bao nhiêu lần, miệng lí nhí chưa tròn tiếng cám ơn, đã thấy Phấn chầm chậm đứng lên. Xoay cái nón lá trên bộ ngực vun chùng, Phấn thỏ thẻ:
      --Chừng nào qua tỉnh đăng ký hợp đồng…nhớ cho em hay trước…đặng em xin giấy giới thiệu giùm cho…nhen…!
      Lung tần ngần ngó theo bóng Phấn nhỏ lần trên đường ruộng. Phấn đi khuất rồi, anh còn đứng trơ trơ vậy rất lâu cho tới lúc những mẩu đối thoại ban nảy ngập tràn trong trí nhớ. Ôn lại từng cử chỉ, từng lời của Phấn, anh vò đầu bức tóc, cảm thấy bực dọc và giận dỗi với chính mình. Ai đời, người ta tới thăm, mình không những ăn mặc lôi thôi lếch thếch thì chớ, lại còn nói năng cụt ngủn cụt nguỷu. Lảng xẹt.
      <><><>
      Đương loay hoay tưới mấy nọc trầu, Lung chợt nghe tiếng Linh cười cười, nói nói. Anh quay lại, thấy mẹ mình chống gậy lò dò bước vô sân. Lung máng cây gàu thiếc lên nhánh Vông Nem, cúi đầu chào.
      Anh nói:
      --Má sắp sửa có đủ trầu Vàng ăn rồi…tháng trước con phụ lợp nhà trên bác Hương Cả thấy trầu tốt quá nên xin vìa gầy được mấy nọc cho má đây…!
      Bà Năm bước tới ngắm nghía một lúc, gật gù:
      --Tao nghe con Linh nói mấy tuần rày…dè đâu nó mau bén ghê nơi…có bón phân gì hông vậy…?
      Lung trả lời:
      --Hổng có má à…con chỉ tũ Lục-Bình khô lên gốc cho gà khỏi bươi…má thấy hông…nay nó đâm nhánh át tứ tung hết…Linh ơi…nấu nước nội uống đi con…!
      Bà Năm hỏi:
      --Cơm nước gì chưa…vậy…?
      Linh đương ngồi châm dầu vô cái đèn Cóc, mau mắn trả lời:
      --Chưa nội ơi…con mới nấu nồi khoai ngon lắm…để con dọn ra nội ăn chơi ví cha con…khoai Dương-Ngọc ở nhà trồng đó nội à…!
      Bà Năm phẹt nước cốt trầu xuống đất, lần lưng móc ra gói giấy dầu dầy cộm, cẩn thận đưa tận tay Lung:
      --Bây hỏi tiền để mần cái gì…?
      Lung tự sự cho mẹ mình hay về nội dung cái Thông-Cáo, về nỗi ước mơ nóng hổi của mình. Anh thấy mắt bà sáng rực lên.
      Bà run run nói:
      --Tưởng sao chớ được vậy thì còn gì bằng…may mắn ít khi tới hai lần bây à…mô…Phật…vái cho mọi chuyện xuôi chèo mát mái…cha con bây được an ổn sung sướng tấm thân là tao vui rồi…còn tiền nầy tao cho bây đó…!
      Qua ánh đèn lù mù, Lung thấy hai trủng mắt sâu đầy vết nhăn nheo của mẹ lấp lánh ngấn nước. Niềm vui mới tới đã tan mau. Anh cảm thấy hổ thẹn về sự ích kỷ, nhỏ nhen của mình đặt trước tấm lòng đại lượng của bậc sanh thành.
      Lung cúi mặt, buồn bã đưa gói tiền lại cho bà Năm:
      --Thôi đi…má cứ giữ đó…con chưa cần…chừng nào má yên phần rồi hẳn hay…chớ bi giờ tụi con đi hết bỏ má ở lại một mình sao…?
      Bà Năm sửng sờ ngó Lung. Bà chợt đổ quạu:
      --Đồ khùng…tao già rồi ăn thua gì…còn bây…ai cho bây ở yên…xứ nầy rồi có bửa cũng nổi sóng nổi gió…hơn nữa tao muốn cho con bây được ăn học tới nơi tới chốn như con người ta…sau nầy đừng bị chúng hiếp đáp coi rẽ…còn cái thứ dốt nát ưa mần chuyện tầm bậy tầm bạ…bây thấy hông…nó đầy đàn đầy đống ra đó…bây mà cãi lời tao chết hổng có nhắm mắt cho bây coi…!
      Bà day qua Linh:
      --Đốt nắm lá dừa đưa nội vìa…con…!
      <><><>
      Sau chuyến qua Thị-Xã đăng ký lập hồ sơ xuất ngoại, mới vừa về tới nhà, Lung phát bịnh nặng. Không biết vì làm lụng quá sức hay vì chuyện đi nước ngoài, Lung liệt giường liệt chiếu cả tuần lễ. Anh mê sảng suốt mấy ngày đêm làm cả nhà kinh hồn, hoảng vía. Bà Năm lật đật lo đi rước thầy cúng. Bà cũng mướn người chèo xuồng tuốt lên Vàm Thom chở thầy thuốc xuống coi mạch cho Lung.
      Thầy cúng nói nhỏ cho bà Năm biết, con trai bà đã đào xới chi đó, phạm tới chỗ cư ngụ của người khuất mặt nên cần nhứt là phải cúng kiến đủ lễ mới giải được nạn. Còn thầy thuốc lại nói rằng, Lung không bị tổn hại chút nào về thể chất nhưng thần suy, khí kiệt vì lao tâm quá độ; nay cứ uống vài chục thang thuốc bổ và tĩnh dưỡng một thời gian, ắt sẽ khỏi.
      Thương con, bà Năm y cứ lời các thầy, chỉ mong sao Lung mau bình phục. Tuy vậy, lòng bà vẫn ôm mối hoài nghi về nguyên do khiến con mình sanh bịnh. Hổm rày, ruột bà nóng ran lên như lửa đốt, muốn biết thêm chi tiết ngọn ngành nhưng vì thấy Lung cứ mê man thiêm thiếp nên bà đâm tội nghiệp, chưa dám hở môi.
      Lần lựa tới hôm nay, thấy Lung đã tỉnh mỉnh, bà Năm kéo ghế lại, ngồi kế bên đầu giường.
      Bà gợi chuyện:
      --Bây chớ lo lắng quá…có hại…dẫu tốn gần hết bầy heo tao cũng hổng có buồn…thôi…dẹp mọi chuyện đi…ráng mạnh lại để nuôi con…gì gì đi nữa rồi cũng đâu vô đó hết bây à…!
      Lung hé mắt, thở dài:
      --Sui quá đi má ơi…ai có dè đâu…mình ham vìa trước lại hoá ra sanh chuyện…!
      Nghe vậy, như đoán được ý Lung, bà Năm an ủi:
      --Bây sợ trễ đò nên lo vìa trước hổng đợi tới phiên mình phải vậy hông…ối…ăn nhằm gì con…mai mốt mạnh rồi đi đâu mà chẳng được…đò giang chạy hà rầm mỗi ngày đó mà…!
      Đương cảm thấy hết sức mệt mõi nhưng khi nghe mẹ mình nói vậy, Lung cũng phải phì cười:
      --Hổng phải đâu má…trễ đò thì có ăn thua gì…mấy ngày con đợi lại chẳng được…đàng nầy…đàng nầy…
      Lung ngừng ngang ở đó làm bà Năm càng tò mò:
      --Bây cứ vòng vo tam quốc hoài…tao hổng hiểu gì ráo trọi…!
      Chậm rãi từng tiếng, Lung hỏi mẹ:
      --Lóng trước…lúc con còn ở tù…ai cũng mong cho con mau vìa hết…phải vậy hông má…?
      Không chút nghĩ ngợi, bà Năm đáp liền:
      --Chớ còn gì nữa…van vái cầu xin muốn đứt hơi mới được vậy…bộ giỡn chơi sao…?
      Lung thở ra:
      --Vậy mới ngặt…má biết hông…phòng Quản-Lý Xuất-Nhập-Cảnh nói…là…là…là…
      Tới đây, Lung lại phân vân. Anh vừa mệt vừa ngần ngại chẳng biết có nên cho mẹ mình rõ chuyện nầy hay không nữa. Phần bà Năm, bà chịu hết nổi rồi. Bà cúi gần sát mặt đứa con trai, gắt lên:
      --Tụi nó nói sao…?
      Lung hết phương kềm chế:
      --Họ nói…con chưa đủ điều kiện đăng ký xuất ngoại theo diện HO**…!
      Bà Năm nhăn mặt:
      -Cái gì…“hát ô”…“hát ô” là cái giống gì vậy…?
      Lung hổn hển:
      --Là…là…“học tập cải tạo” đó má…!
      Bà Năm phun cốt trầu, giận dữ:
      --Hừ…hừ…bây hổng đủ điều kiện…bây hổng ở tù…vậy tụi nó ở tù à…đ. mẹ tổ cha cái quân ăn ngược nói ngạo…rồi tụi nó nói sao nữa…?
      Lung ngó mẹ, thở dài, nhỏ nhẹ một hơi:
      --Má biết hông…họ nói con ở tù nhưng chưa đủ thời gian quy định là ba năm…họ nói con ở tù mới có hai năm…mười một tháng…hăm hai ngày thôi…đủ điều kiện sao được…?
      Bà Năm xô ghế đứng dậy, dậm đất kêu ‘Trời’ một tiếng lớn.
      <><><>
      Trút được bầu tâm sự nặng nề cũng có cái lợi. Kể từ bửa nhuốm bịnh tới nay, tối hôm qua là đêm đầu tiên Lung đánh được một giấc thiệt ngon. Anh chiêm bao thấy mình ẵm con ngồi trên lưng ngựa phóng như bay vào một vùng đất xa lạ không một bóng người, chỉ rặt màu danh dờn của đồng cỏ bát ngát. Con ngựa cực kỳ to lớn có sắc lông trắng lạ thường, y hệt màu trắng của cái áo Bà-Ba trên cánh đồng chiều ngày trước.

      Chú thích:
      *Cây: Lượng vàng 24 ca-ra.
      **HO: Chương-Trình Nhân-Đạo dành riên cho quân nhân và công chức VNCH bị giam giữ trong các trại ‘Học-Tập Cải-Tạo’.


      Tháng 6, năm 1989.
      NGUYỄN LÊ
      (Trích từ Tập truyện CÂY MÍT ĐỌT ĐỎ)



      Con đi dưới lá cờ sao máu
      Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

      Comment

      • #4


        Đây là Dinh Tỉnh Trưởng Gò Công,
        do hảng thấu Effel xây cất vào năm 1885.
        Dinh nầy lớn nhất
        trong các dinh Tỉnh Trưởng nước Việt Nam



        Con đi dưới lá cờ sao máu
        Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

        Comment

        • #5


          Cô Trần Thành Mỹ, cựu học sinh Gia Long, nguyên giáo sư Sử Địa và Pháp văn trường Trung Học Gò Công, Cô tốt nghiệp khóa 1 Quốc gia sư phạm ban 3 năm, ra trường dạy tại Gò Công một thời gian sau vào học lại Đại Học Sư Phạm Sài Gòn ban Pháp văn, Trước 75 là phó sở giáo dục Tỉnh Gò Công. Hiện cùng gia đình tạm cư tại Bỉ




          Đường về ngoại

          Trần Thành Mỹ

          Đường dẫn về quê ngoại,
          Hai bên mạ xanh đồng.
          Bờ đê xưa thoai thoải,
          Lúa ngậm sữa đòng đòng.
          Chân dẫm bám từng bước,
          Nghiêng dù nón gió đùa.
          Tà áo bay tha thướt,
          Rút ngắn quen đường mòn.
          Hàng tre già vẫn thẳng,
          Phe phẩy chiếc khăn đầu.
          Tết nêu cao pháo nổ,
          Dấu ấn nhất hàm râu.
          Cây sữa trắng cậu trồng,
          Bóng mát khoe tàng rộng.
          Đong đưa hàng so đũa,
          Bên giàn mướp đậu rồng.
          Mỗi lần về xóm ngoại,
          Quẹo mặt bờ lớn vào.
          Ngọn me huơi tin báo
          Xúm xít rộn cười vui.
          Lần tản cư về đấy
          Quê ngoại đầy dân thành.
          Bố ráp chạy theo mẹ,
          Dân ta quyết chống Tây.
          Nhà ngoại bị thiêu rồi,
          Cậu rơi vòng lao lý.
          Cặm dùi trên đất tổ,
          Mợ tần tão dựng bồi.
          Gò xưa nhà ngoại mới
          Tre trúc vẫn đón mời.
          Thanh sắc đua hoa lá,
          Khiết nhã thềm thư hiên.
          Con đường ghi ký ức,
          Phôi pha dấu cuộc đời.
          Phẳng phiu hay đoạn khúc,
          Kỷ niệm chẳng hề vơi.
          Quê mình ai cũng có,
          Đất mẹ nuôi hình hài.
          Đâu phải từ khe nứt,
          Quên gốc dạ đổi thay.
          Xanh biếc khoảng trời cao,
          Tim nhịp nhớ xôn xao.
          Mây bồng bềnh hơi thở,
          Sao vướng nước bờ mi.
          Mơ ngày về quê ngoại,
          Thoăn thoắt trên bờ mòn,
          Hít tự do hương đất,
          Gội hồn nước tình non.

          Con đi dưới lá cờ sao máu
          Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

          Comment

          • #6


            Anh và tôi

            Trần Thành Mỹ


            Không cùng nhau truyền thống,
            Không cùng dải nước non.
            Không cùng đồng dòng giống,
            Không cùng lịch sử chung.
            Kỷ niệm qua chiến tranh,
            Bạn thù không thể tránh.
            Phơi thây thành chiến tuyến,
            Gươm súng tạo chắn ngăn.
            Anh tự hào nước đông,
            Thiên tử thế quyền trời.
            Trị vì dân nước nhỏ,
            Đồng hóa để hòa đồng.
            Anh danh hiệu văn minh,
            Miệng mật tay bọc nhung,
            Khởi binh sau văn hóa,
            Bùa đòn phép chiến chinh.
            Anh tôi người dưng lã,
            Đối đầu là chuyện thường.
            Dễ gì ai thương ai,
            Tình đời đâu có lạ.
            Anh tôi cùng huyết thống,
            Nhìn máu chẳng ruột mềm.
            Khác chi người nước khác
            Đâu xứng giống Tiên Rồng.
            Tổ tiên ta bao đời,
            Giữ biên cương biển đất.
            Tấc gang không để mất,
            Rạng tên tuổi Lạc Hồng!
            Đừng sợ! Dân nước nhỏ,
            Quẳng mặc cảm yếu nghèo.
            Tung hô cao đuốc sáng,
            Soi độc lập tự do.

            Con đi dưới lá cờ sao máu
            Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

            Comment

            • #7

              Chữ Mình
              Trần Thành Mỹ

              Nhớ thời học Trung học, vào giờ Sinh ngữ, có lần thầy dạy bộ môn tiếng Anh bảo: "Người Anh rất hảnh diện về chữ "home" là nhà, tổ ấm vừa bình dị, ấm cúng, khó có tiếng nào lột tả hết ý như thế được, dịch cũng khó chính xác đầy đủ. Ðến giờ Pháp văn, thầy dạy bô môn lại giảng: Tiếng Pháp thuộc loại đa âm nên có từ dài như anticonstitutionnellement, nhưng có chữ "chez" chỉ có một âm thôi, ngắn gọn mà xúc tích, đầy cảm tính, thân mật tượng hình. Câu nói thông thường lồng trong bài giảng như vậy thế mà dậy ngầm lên trong lòng đám trẻ chúng tôi bao câu hỏi, nghĩ suy, tìm tòi, so sánh.

              Thật ra tiếng Việt ta dù đơn âm nhưng cũng gợi truyền cảm, tượng hình tượng thanh lại còn đa nghĩa nữa là khác. Không thể bảo tiếng ta nghèo vì hình dạng chỉ gói gọn có một vần càng không thể hời hợt phê rằng vì thế mà cộc lốc, cứng rắn, thô bạo thiếu vị ngọt ngào, sức quyến rũ hấp dẫn thướt tha đài các sang cả . Xin đừng quên là tiếng ta còn được điểm đệm bằng những dấu uyển chuyển hỏi sắc huyền ngả nặng, giai điệu tiếng Việt cũng gây rung động không kém ngôn ngữ nào trên thế giới . Ðể những âm hưởng trên thêm phần khởi sắc, một trong thế mạnh của ta là luôn biết sáng tạo phong phú hóa bằng cách thêm tiếng đệm tiếng ghép, tận dụng cả việc phiên âm gần như xác thật tiếng nước ngoài trong mọi ngành kể cả khoa học kỷ thuật.

              .Do ảnh hưởng của hai nền văn minh Âu Á, tổ tiên ta còn thức thời tự chủ biết sử dụng mẫu tự La tinh thay những nét gạch sổ của chữ Hán, dù vẫn giữ và dùng cổ ngữ Nho, Nôm có lối viết như "rồng bay phượng múa", người Việt ta lại có năng khiếu hay nói rõ hơn có ưu thế phát âm gần chính xác mọi tiếng khác. Trước 75, nhớ có lần nghe một ca sĩ Mỹ trình bày bài hát Việt rất chuẩn có duyên nhưng ngay từ đầu, câu "Không không không, tôi không còn yêu em nữa" nầy quả thật là hóc búa nan giải cho cách phát âm của người nước ngoàị Người Pháp chẳng hạn cũng có vần "on" như trong "On a besoin d’un plus petit que soi " tuy nhiên chữ ông của họ đọc ngắn hơn và đọc bằng giọng hít hơi trong cuống họng còn chữ ông của ta trên lưỡi cho hơi như dài rạ

              Bảng phiên âm quốc tế không thể kiện toàn cách phát âm của ta được vì bao vần khó đọc như iêu, ươn, uơi, oen.. và nhất là giọng trầm bổng do bậc ngũ cung năm dấu . Do đó hãy tự hào là dân Việt đi các bạn trẻ vì không nói ngoa đâu, chúng ta có thể nói các tiếng trên thế giới gần như trung thực, ít sai sót.
              Nếu tiếng Anh Pháp có những trường hợp đặc biệt nêu trên, tiếng Việt ta không kém. Ðiển hình là nhân vật đại danh từ ngôi thứ nhất thôi ta có bao nhiêu cách xưng hô như ta, tôi, mình, trẩm, thần, tao, tên của người phát ngôn, vai vế,…ngay chính người Việt ta lắm lúc cũng thấy luống cuống khó khăn hướng hồ người ngoại quốc, mỗi từ đều có vị thế riêng..

              Nào chúng ta thử tìm hiểu hai từ TA = MÌNH tiêu biểu nhất .

              "Mình với ta tuy hai mà một,
              Ta với mình tuy một mà haị "
              « Mình về có nhớ ta chăng,
              Ta về ta nhớ hàm răng mình cười ».
              Tùy theo dụng ý của mình mà dùng, chữ TA chẳng hạn khi tự xưng tỏ vẻ phách lối kiêu căng, khi như bất cần đời, nói chung chung :

              « Ta chứ ai, anh hùng há sợ chi aị »
              « Ai say, ai tỉnh, ai thua được,
              Ta mặc ta mà ai mặc ai ».
              « Ta đây cũng chẳng cần chi,
              Vào thì cũng được, ra thì cũng nên ».(Nhị độ mai)

              Lúc tự xưng mình với người dưới mình :
              « Ta sinh ra trước ngươi sinh sau,
              Ta phận là anh ngươi phận em.
              Ðáng lý ngọt bùi chung vị hưởng,
              Cớ sao xương thịt nở tan tành. »
              (Nguyễn Nhạc nói với Nguyễn Huệ)

              hoặc thường thấy trong các tuồng hát bội để xưng danh tánh, ra lệnh, cho phép :

              « Ta miễn lễ, khanh hãy bình thân »

              Khi tự mình nói với mình :
              « Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ »(Thế Lữ)
              « Ta mơ trong đời hay trong mộng,
              Vùng cúc bên ngoài đọng dưới sương”
              ( Lưu Trọng Lư)

              Nếu Victor Hugo cũng đã muốn nói lên sự bình đẳng của con người trong câu:
              " Insensé qui crois que je ne suis pas toi" (Chỉ có anh điên rồ mới tin tôi không phải là anh) để chứng minh rằng con người như nhau, anh như tôi, người Việt ta còn hơn thế nữa, hễ là con người thì ai cũng như ai, mọi người như nhau.
              Ðể cùng cười với nhau một chút và cũng để minh chứng câu nói trên bằng cách sử dụng sự trùng hợp của lối phiên âm Việt, chúng ta mới thấy rõ hơn tính cách đa năng đa dụng của tiếng ta.

              Thử phiên đọc tiếng Anh chữ ‘ I ‘ là ai, ‘Me ‘là mi, ta có
              ( I ) ai = Mình
              (Me) mi = Mình.
              Suy theo tam đoạn luận,
              Ai =Mi =Mình
              Mà theo tiếng ta, Mi là anh, chị,…ngôi thứ 2,
              Vậy Anh cũng là Tôi, Ta, Mình , Ai, Mi .

              Suy rộng hơn, tiếng Việt ta chứng minh mọi thành phần xã hội giai cấp đều bình đẳng và thật thân thiết lễ độ văn minh. Vì thế, với cách suy diễn trên, không nên hồ đồ chửi bừa thì dễ dàng sẽ bị “gậy đập lưng ông”. Ví dụ khi nói
              - Anh là người
              - Tôi là người
              Vậy anh = tôi
              Nếu anh bảo tôi là …gì gì, hay anh nặng lời với tôi thế nào đi chăng nữa, anh cũng thế ấy thôị
              Thế chẳng phải là văn minh đó ư ?

              Nhưng đến đây chúng ta cũng nên nói nhỏ và rõ cho nhau nghe, chắc các bạn cũng đồng ý là có lẽ không có dân tộc nào mà chửi hay vừa dai vừa dài, ngân nga có vần có điệu bộ, sâu sắc châm chọc cay độc, sinh động, thâm hiểm, tùy hứng tục thanh, tùy tình huống hoàn cành, giai cấp, trình độ, lôi cả dòng họ từ đường, nói bóng nói gió, rủa không tiếc lời, văng tục không giữ kẽ, sử dụng kể cả ca dao tục ngữ, điển tích, truyện thơ,…nói tóm lại khó có dân tộc nào có lối chửi quá ư là độc đáo như ta .
              Hơn thế nữa, ông cha ta sao mà có tinh thần trào phúng, thực tiễn, tế nhị, thâm trầm trong cách dùng chữ nhất là để diễn tả tình cảm riêng tư, chuyện phòng the, cái thanh thay tục. Chữ ‘mình’ là bằng chứng sâu sắc nhất. Nói đến chữ ‘mình’ ta liên tưởng ngay đến thân thể con người, căn bản gồm đầu mình và tay chân .
              Vợ chồng đều gọi nhau bằng mình, như thế tổ tiên ta như đã đoán trước hay đi tiên phong trong phong trào đòi giải phóng phụ nữ, nam nữ bình quyền từ lâu rồi mà ngày nay nhiều nước có nền văn minh lâu đời trên thế giới vẫn còn dậm chân tại chỗ hay lùi lại thời kỳ nam trọng nữ khinh. Lại có những tập tục lạc hậu tàn bạo vô nhân ở vài nước Phi châu lên án tử hình những người đàn bà không chồng mà có con, hoặc cắt đi cơ quan kích thích các em bé gái từ khi còn nhỏ .
              Ðiểm đặc thù ở đây là sao không dùng chữ ‘đầu’ hay tay chân mà Mình. Trong ba phần của thân thể, ta thử phân tích xem phần nào quan trọng hơn.
              ‘ Ðầu’ có thể ví như bộ chỉ huy trung ương.
              Phần giữa là mình tập trung tất cả cơ quan trọng yếu như càc bộ các ngành, thực thi bảo tồn phát triển cuộc sống chẳng những về thể xác mà còn tâm sinh lý nữạ Tim gan phèo phổi, ruột non ruột già, nói chung là bộ đồ lòng cọng thêm bộ phận sinh dục tạo thế nhân được bố trí đúng vị trí thích hợp cho guồng máy sinh hoạt của con người .
              Ðể cho máy chạy tất phải đổ xăng dầu, tiếp dẫn nguyên liệu, phải thay dầu thay nhớt hầu kéo dài tuổi thọ của chiếc xe . Hệ thống bộ máy người lại quá ư tnh vi hoàn hảo kết hợp hài hòa, không thể tách rời riêng biệt đươc Như khúc ruột bị cắt đi là ruột đứt rồi, có “đứt ruột” cố nối lại thì cũng khó mà như trước được.
              Vả lại đúng như câu "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ", các bộ phận đều liên quan ảnh hưởng mật thiết với nhaụ.Gan ruột đau cũng ảnh hưởng đến các cơ quan khác, cả đầu cũng ngất ngư theo, khó tách rời . Ðiều nầy chứng tỏ rằng ‘mình’ quả là phần quan trọng hơn cả ‘đầu’. Trung ương không làm gì được nếu các cơ quan ban ngành không hoạt động. Giả sử như có sự thất thoát, hội lộ lạm quyền đụt khoét của công ở các Bộ, như bệnh ung thư gậm nhấm phổi gan, không được ngăn chận kịp thời để bệnh ăn ruồng thì chết không kịp trở taỵ Trung ương củng dễ dàng trở thành tàn phế suy tàn một khi nội tạng hoạt động loạn cào cào phi nguyên tắc vô kỷ luật.

              Cấu trúc thân thể cũng giống như một câụ Ba phần chính của một câu là chủ từ, động từ và túc từ tạm viết tắt là S,V,C..
              Câu = S + V + C
              Nếu C= 0
              Ta có câu = S + V

              Vậy rõ là C không bắt buộc phải có vì câu vẫn còn đầy đủ ý nghĩạ Cũng ví như chân tay, có què cụt con người vẫn sống. Còn lại S và V, hai phần đều cần thiết không thể thiếu được, bên tám lượng bên nửa cân, cả hai hợp lại mới thành tổng thể - câu – hoàn chỉnh. Nhưng tại sao tổ tiên ta lại dùng chữ ‘mình’ mà không dùng chữ ‘đầu’, nghĩ cũng lạ.

              Suy diễn theo văn phạm, khi động từ V được chia ở thể mệnh lệnh cách (impératif), tất nhiên chủ từ S ở dưới dạng ẩn thể (sous entendu), và đúng rồi, trong trường hợp nầy một mình chữ V vẫn " thành cú" , là một câu hẳn hoi, đặc biệt hơn nữa còn có thể kèm C theọ Vậy trong câu= S+V
              Nếu S =O, ta có : câu = V
              Hoặc câu =V+C
              Ví dụ : Ăn đi
              Nhìn cô ta xem.

              Cũng nên xin lưu ý vì tiếng Việt ta đơn âm nên khi phát âm câu ngắn ta thường kèm theo một hoặc vài chữ khác như trong khi sai bảo, ra một mệnh lệnh nào, thay vì nói bằng một chữ ‘đi’ thì nói "đi đi", "ăn đi", "nếm một chút đi" để tăng giảm cường độ, trường hợp nầy áp dụng trong tiếng Pháp ta thấy rõ hơn:
              Écoute = V,
              Sois gentil = V+C.

              Thử hình dung con rùa, con ốc ma chẳng hạn, có khi bạn chỉ thấy cái mai rùa, cái vỏ ốc, lúc bấy giờ đầu rùa ốc rút thụt vào trong, ở thể ẩn, ta chỉ còn có phần mình thôi, ốc rùa vẫn sống.
              Hay nói theo truyện Tàu ngày xưa, hay những phim kinh dị ngày nay, thăng thiên độn thổ hô giáng hô thâu biến hóa thần thông thì đầu dù có bị chặt vẫn có thể mọc lại, chứ còn mình đứt lìa rồi là “đi đời nhà ma” luôn. Nói tóm lại, chữ ‘mình’ trong câu có phần trội hơn chữ « đầu » rồị
              Hơn thế nữa, chữ "mình" không những chỉ được dùng trong việc gọi nhau giữa vợ chồng, mà còn được sử dụng rộng rãi hơn trong cuộc đối thoại với những người cùng trang lứa, cùng giai cấp, thay vì xưng " tôi" thì xưng là "mình" nghe có vẻ thân tình ít khách sáo hơn. Người nói cũng xưng ‘mình’ mà người trả lời cũng xưng lại là ‘mình’:
              - Lâu rồi mình không có tin chị, nay gặp được chị, mình mừng quá.
              - Mình cũng vậỵ
              Một thí dụ khác, nói với nhiều người: " Mình nói như vậy, các bạn muốn hiểu mình thế nào thì hiểu ."
              Vậy với một âm ngắn gọn, thế mà thật khó có tiếng ngoại nào dịch nổi chữ ‘mình’.

              Trong cuộc sống, ‘mình’ tiêu biểu cái gì vừa riêng tư vừa cọng hưởng, vừa chủ quan vừa khách quan, vừa thân mật vừa ngăn cách, vừa hai mà một, một mà hai, vừa chung vừa riêng, vừa thực dụng vừa mơ mộng, vừa cụ thể vừa gợi bao ý tình hình.

              Tổ tiên ta thật thâm thúy sâu sắc chẳng những trong việc lưu truyền cho con cháu đời sau tinh thần tự chủ tự lập tự do trong tinh thần đoàn kết, bình đẳng tôn trọng lẩn nhau mà còn gây niềm tự hào về tiếng mẹ. Hy vọng rằng chúng ta luôn cố gắng bảo tồn duy trì và phát huy gia sản văn hóa văn minh truyền thống ngày càng tốt đẹp hơn vì “tiếng có còn thì nước mới còn”, dân trí có cao thì tổ quốc mới phồn vinh!

              Trần Thành Mỹ

              Con đi dưới lá cờ sao máu
              Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

              Comment

              • #8

                Chim Lià Tổ
                Trần Thành Mỹ


                Nhìn những đàn vịt trời di chuyển tìm nơi ấm áp theo mùa, tôi chạnh nhớ đến đàn chim Việt tách tung nhiều hướng. Nhớ những đám cá ?saumon? ngược dòng tìm sinh sôi nẩy nở, những tảng cá voi khổng lồ vượt trùng dương tránh giá băng, còn dân Việt ta vì sao mà phải bỏ xứ ra đi? Nhìn bao người Mễ, Phi châu, khối Ðông Âu vượt biển non mong tìm sinh kế, thương dân mình đâu phải thế mà cũng lắm truân chuyên! Nhiều người lạc quan cho rằng đó âu cũng là vận may cho dân Việt, gởi con đi du học nước ngoài không thích hay sao? Cũng có lắm người yếm thế bi quan, cây trốc gốc khó trở về nguyên thủy. Nhớ chuyện trái ngọt ở quê ta chưa chắc là ngọt ở quê người mà có thể là chua, đắng, chát .
                Thử nhìn lại quá trình hơn phần tư thé kỷ tha hương, phải công nhận dân Việt ta còn giữ phần nào truyền thống, hầu hết làm nên ăn ra ở đất tạm dung. Thế hệ trước không hỗ danh luôn gắng lo cho con cháu tiến lên, hội nhập, giữ sạch thân mình dù thể xác mỏi mòn, trí óc phồng căng. Có những cụ, ngay cả tiếng mẹ còn phều phào khó nói, vì hết răng hay phảỉ thaỷ răng, nay phải gồng lên bập bẹ tiếng người. ??Bay baỷ? dễ ợt, ??ô kể? quốc tế có bẻ miệng đâu, ??guốt baỷ? gợi nhớ gợi thương Việt Nam mát ấm, vì ở các xứ văn minh nầy thường lạnh đâu dùng chi guốc thớt, guốc xuồng. Ở xứ ta thường cấm đoán lên án lối văng tục bất cần đời là bụi đời, ba đá du côn, qua xứ Bĩ vùng nói tiếng Hòa lan nầy thả giàn ?trả thù dân tộc?. ?Doe maar? (= làm đi), xả xú báp sướng mình mà còn được người bản xứ đưa cao ngón tay cái lên khen là có học .
                Sang bên đây, vùng tự do bình đẳng, ai cũng như ai, cá mè một lứa. Sang hèn khó phân biệt, ra đường, già trẻ cũng quần jean, áo da, có ?mẹt?, đồ lớn, áo đầm, váy ngắn dài đủ loại thời trang. Có ai đâủ vạch lưng chỉ thẹỏ mà đắn đo lo lắng . Xe hơi không là xa xí phẩm, ấn triện của riêng giới nào mà chỉ là phương tiện di chuyển ngày nay. Con người như cá hóa long, như rồng mở hội. Làm gì tùy thích, lớn tài lớn sống. Không làm gì cũng chẳng chết đâu, có tiền trợ cấp thêm lớp làm đen.
                Còn tiếc nhớ họa chăng là những người hai thứ tóc, với vết hằn kinh nghiệm, hay vàng son dĩ vảng, vẫn âm thầm hướng lòng mình về với quê hương. Ở đấy họ có tràn đầy kỷ niệm, mộng ước, dấu chỉ, hơi thở, nếm ăn, tóm lại quen thuộc.
                Còn con cháu mình được gì? Bàng bạc xa vời, lẫn lộn, bâng quơ. Quê hương không gợi cho trẻ những cơn nhói tim óc về vận mệnh sống còn, cũng như những sợi nhớ sợi thương ràng buộc, nỗi khắc khoải suy tư, bay bướm, nhẹ nhàng, lắng đọng có chiều sâu của nền văn hóa nứơc nhà, tình yêu thuở ban đầu lưu luyến ấy thẹn thùng bẻn lẻn, đậm đà, thắm thiết như ?tình trong như đẵ mặt ngoài còn ẻ.
                Ngay cả hờn ??Ghen?? cũng không bốp chát thẳng thừng mà êm đềm thơ mộng
                ?? Anh chỉ muốn em đừng nghĩ đến ai,
                Ðừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ,
                Ðừng tắm chiều nay bể lắm người...
                Vì em là tất cả của riêng tôị??
                Không trang bị bằng tâm tình đó, khó trách con cháu ta sao quá thờ ơ. Việt Nam cũng như bao nước khác là nơi du lịch hay nặng hơn chút, một góc trời viễn du tình cảm, khơi nguồn kích thích mộng mơ, khai quật cội nguồn. Thế thôi không hơn không kém.
                "Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc" cũng ảnh hưởng nặng với con em Việt vốn hiếu kỳ, thích ứng nhanh. Thời Pháp thuộc, muốn hội nhâp, tiến thân vào giai cấp trí thức văn minh ăn trên ngồi trước phải thông thạo tiếng Pháp như gió, cử chỉ hành động như tây đầm, họ phải như dòng ?dẻ (đờ) mới quí phái giàu sang vọng tộc. Thời viện trợ Mỹ, văn hóa chú Sam được dân ta hưởng ứng nhanh nhẩu cấp kỳ từ thời trang đến nhạc giựt gân, khiêu vủ..
                Người Việt ta lại có óc cầu tiến, huyền biến phổ cập hóa mọi trào lưu, gíó bề nào che bề nấy. Ảnh hưởng ngoại lai thường là cơn lốc, tuy có càn quét nặng sâu thế mấy đi chăng nữa, dân ta nhờ kinh nghiệm giử giềng mối gốc nền, đã biết thanh lọc dở hay, học hỏi vay mượn tạo vốn phát huy..
                Thế hệ trẻ tha hương đâu có tấm phông làm nền dựng cảnh trong ký ức để gợi hình phóng ảnh, nhạc đâu có ru trong giấc ngủ mà lắng đọng tâm tư. Còn đâu tiếng mẹ khuyên răn âu yếm vỗ về hòa lẫn với giọng gắt mắng nghiêm khắc của cha mỗi lần phạm lổi. Bây giờ ? con đặt đâu cha mẹ ngồi đãỷ, yên lặng nghe, há miệng gật đầu. ?Con xa cha nhà có phúc? theo quan niệm tự do, tự lập ngày nay. Chim cũng đã bắt đầu lìa tổ từ hai tháng tuổi, cha mẹ có thương vì sinh kế cũng đành.!
                Tản mác khắp nơi, đàn chim Việt vì hoàn cảnh trớ trêu buộc lòng xa xứ. Tất nhiên ra đi bao giờ cũng là mất mát ít nhiều, vật chất kể chi nhưng tình khó tràn đầy như trước. Thương thế hệ sau nầy mai một, chìm lẫn vào trộn giống dần dần. Có cao sang cũng chẳng phải dân mình, danh tiếng mấy vẫn là người nước dưng nước lã. Chim lìa tổ khó bay về trở lại. Chỉ mong sao giữ vẹn giống dòng. Sống xứng đáng khoe danh nguồn cội, họ Lạc Hồng, con cháu Rồng Tiên.

                Trần Thành Mỹ
                Con đi dưới lá cờ sao máu
                Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                Comment

                • #9


                  Ông Lái Ðò

                  Nhớ chuyến đò ngang cũ,
                  Nối liền hai bến bờ.
                  Trời là phong vũ biểu,
                  Nước chảy tựa phù du.
                  Nhạc đệm tùy cơn sóng,
                  Quạt trời quay theo mùa.
                  Ông lái đò vẫn thế,
                  Ðưa qua lại đi về.
                  Ðâu quản chi nóng lạnh,
                  Nhớ chi hẹn hò riêng.
                  Ðưa khách bến đợi chờ
                  Cùng vượt qua hoàn cảnh.
                  Mưa gió phất đỉnh đầu,
                  Hạt tí tách trên nón,
                  Như tiếng mõ đêm thâu,
                  Chống chèo qua vượt khó.
                  Sông nước vẫn xuôi dòng
                  Chứng kiến bao thay đổi.
                  Gởi ước vọng mới lạ
                  Thầm lặng nhìn khách qua.
                  Giữa nước trời phóng khoáng
                  Tri ân bạn qua đò.
                  Góp đời mình vốn sống
                  Quẳng bớt cái rầu lo.
                  Hình ảnh ông lái đò,
                  Bên bến xưa ngày trước,
                  Nhìn chiếc cầu vòi vọi
                  Ðôi mắt ướt, tự do.

                  Trần Thành Mỹ

                  Con đi dưới lá cờ sao máu
                  Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                  Comment

                  • #10


                    Người gieo hạt

                    Trần Thành Mỹ

                    Trên cánh đồng rộng mở,
                    Tung từng vóc lúa vàng.
                    Mầm tương lai ươm nở,
                    Sức sống mới vươn tràn.
                    Say sưa tay vung nắm,
                    Nghiêng vành nón tròng trành.
                    Hướng tầm nhìn thăm thẳm,
                    Từng vòng quạt hạt rơi.
                    Ngẩng cao đám mạ xanh,
                    Tự do dưới trờì thanh,
                    Đòng đòng rì rào vọng
                    Nặng trĩu cánh đồng vàng.
                    Áo quần thô đâu nệ,
                    Kinh nghiệm ướp tầm tay.
                    Sức già đâu quản kể,
                    Vì thế hệ ngày mai.
                    Bóng in trên nương sâu,
                    Đối đầu bao mưa nắng.
                    Kiên trì gieo giống mới,
                    Dệt mộng qua đêm thâu.
                    Đôi bàn tay thung dung
                    Chai sạn ướp tình người.
                    Đưa hạt lúa vào đồng
                    Biến suối nguồn hữu dụng.
                    Hình ảnh người gieo hạt,
                    Từng bước trên luống cày.
                    Đọ sức với tháng ngày
                    Luôn trải lòng son sắt.
                    Hào quang trên khăn tóc
                    Chân đẫm nước đầy vơi.
                    Vung tay thề khí thế,
                    Ngự trị giữa đất trời.


                    Con đi dưới lá cờ sao máu
                    Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                    Comment

                    • #11


                      Hoàng hôn

                      Trần Thành Mỹ

                      Bóng hoàng hôn dìu êm hồn vào mộng,
                      Đêm sắp về hy vọng biết quen đường.
                      Nhớ nghĩ chi tuổi phiền muộn vấn vương,
                      Cố ngẩng mặt tiến lên về phía trước.
                      Như thu đến cả bầu trời thay đổi,
                      Sương chơi vơi che mỏng khoảng trời thanh.
                      Gió đượm hương làm phai mái tóc xanh
                      Chuyển màu lá sang màu vàng vương giả.
                      Đây chiếc vương miện uy nghiêm vua chúa
                      Đỉnh cao bao loài hoa trái cuối mùa.
                      Để sau lưng hầu mọi cuộc thắng thua,
                      Từng bước mới vào khoảng đường còn lại.
                      Mùa lá đỏ bao tao nhân chiêm ngưỡng,
                      Sân phong vàng gợi hoài niệm lên ngôi.
                      Màn the sương phủ nhẹ bước bồi hồi,
                      Gió thu lạnh đưa hồn về quá khứ.
                      Hoa cây trái lần cuối khoe hương sắc,
                      Thu vẹn mình trong cái kén đợi chờ,
                      Cảnh địa đàng bồng lai sao huyền ảo
                      Đất với trời qua mưa tuyết mộng mơ.
                      Mặt vầng ô thung dung chào từ giã,
                      Giang sơn đêm thuộc tinh tú chị Hằng.
                      Hoàng hôn tiến hòa mình vào cảnh lạ,
                      Vẫn duy trì bản sắc chính riêng mình.
                      Tạo hóa đã an bài đâu phân biệt,
                      Chính lòng người hay so sánh thiệt hơn.
                      Đường trần ai thay đổi chẳng đồng đều.
                      Buồn vui chi những gì ta không biết.
                      Bình minh hé tương lai bừng tia sáng,
                      Hoàng hôn về đánh dấu đoạn hồi sinh.
                      Mỗi ngày qua là đoạn sống sang trang,
                      Cứ thanh thản cuộn theo đà nhịp sống.

                      Con đi dưới lá cờ sao máu
                      Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                      Comment

                      • #12


                        Tình Già

                        Ðừng vội nghĩ tình già là tình muộn,
                        Ớt càng già càng cay thấm tận xương.
                        Tóc huyền nay nở tuyết thấy mà thương,
                        Ánh mắt bạc lộng màu thời gian cũ.

                        Nhìn đời qua kính mờ bao quyến rủ,
                        Tai vấn vương khúc nhạc trử tình xưa.
                        Quá khứ đây đầy kỷ niệm nắng mưa,
                        Vội vã chi lui dần vào dĩ vãng.

                        Nhớ thời gian chờ đợi nhau không chán,
                        Giận rồi hòa thương ghét biết bao phen,
                        Vui buồn sao thắm thoát bước chân đi
                        Choàng ngày tháng qua áo đời hương vị.

                        Khi màu xanh lên ngôi thêm ý nhị
                        Lúc tia hồng gợn sóng cả hồn thơ.
                        Rồi thu buồn đông đến rắc bơ vơ,
                        Dòng nước cạn khối tình thành tinh thể.

                        Lưng thêm còng, chân chữ bát, ngoại hình,
                        Eo vòng bụng tròng trành thêm phát tướng.
                        Mỗi dáng hình đánh dấu phần cuộc sống,
                        Kinh nghiệm đời phản ảnh kiếp nhân sinh.

                        Phù du thay những tiểu tiết phô trương,
                        Son sắt vẫn là tình người thức tỉnh.
                        Vận song hành của tuyến đường xe lửa
                        Mang con tàu yên đổ bến yêu thương.

                        Tình càng già mang bao màu sắc mới,
                        Bớt hẹp hòi ích kỷ lại khoan dung.
                        Nương tháng ngày còn lại sống thảnh thơi
                        Dù thời gian hững hờ đều đếm bước.

                        Tình yêu nào không vui buồn sóng gió,
                        Nguồn hy sinh trong huyết quản yêu thương,
                        Tìm tạo hình gây hương sắc nhạc thơ,
                        Lý tưởng, mộng mơ, hiến dâng, tận hưởng.

                        Thời gian, nhân chứng chính cả cuộc tình,
                        Trao vuơng miện hào quang đôi mái tóc.
                        Hạnh phúc thay ai suốt cuộc hành trình,
                        Vẫn nắm giữ dây tơ hồng trọn vẹn.

                        Tình già quả là tình sâu son sắt,
                        Giá trị hơn kim cương bạc vàng ròng.
                        Hai cuộc đời đường trần thế song song
                        Ðiểm hẹn cuối tuy hai mà là một!

                        Trần Thành Mỹ

                        Con đi dưới lá cờ sao máu
                        Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                        Comment

                        • #13

                          Thông gia tha hương

                          Trần Thành Mỹ


                          Kính gửi Anh chị,
                          Chúng mình quen nhau gần hai năm qua bạn bè giới thiệu, tuy cư ngụ cùng nước nhưng người đầu non kẻ cuối bể trên mảnh đất tạm dung. Từ lúc gặp gỡ cho đến nay, hai gia đình luôn nể trọng và tin tưởng lẫn nhau. Chuyện hai cháu, anh chị và chúng tôi đều đồng ý từ đầu, mình chỉ là diễn viên phụ, như có lần anh viết, còn quyền quyết định thuộc các con. Hai con chúng mình không còn là vị thành niên, hiện có địa vị trong xã hội, chúng hội đủ điều kiện để tìm hiểu, thực hiện cuộc sống cá nhân hoặc lứa đôi theo ý riêng, không bị áp lực hay ảnh hưởng từ đâu đến.

                          Các con mình còn có điểm may mắn hơn là được sự hiểu biết, đồng ý, khích lệ, nâng đỡ của đôi bên nên có dịp gặp gỡ, gắn bó nhau hơn. Chúng sẽ cảm thông biết bao tấm lòng rộng mở của cha mẹ khi trước pháp lý và tôn giáo, hãnh diện trả lời hoàn toàn tự do chọn lựa, kết hôn.

                          Mối quan hệ giữa hai gia đình dựa vào sự tương kính, tin tưởng, hiểu biết. Mục đích duy nhất là gây hạnh phúc cho con cái. Chúng ta là những người tha hương, đã có một dĩ vãng tương đối tốt đẹp, trang bị ít nhiều kinh nghiệm đời đủ mặt, đã đến tuổi xế chiều thì còn vương vấn chi phù phiếm của cuộc đời như tham lam, ích kỷ, ganh tị, giân hờn. Chúng tôi luôn sống thật, không câu nệ, biết phục thiện và tập thứ tha, vì "nhân vô thập toàn" mà.

                          Gia đình anh chị đến với chúng tôi thật tình cờ không định ước, chúng tôi không quên cảm ơn Ơn Trên đầy ân sủng, quyết tâm vun bồi mối tương giao nầy ngày càng tốt đẹp hơn theo Thiên Ý, không mảy may tính toán nghi ngờ, so đo tráo trở, trước sau như một. Từ đầu, chúng mình đồng ý để các con tự do gặp gỡ tìm hiểu nhau vì thời gian chờ đợi khá lâu. Chúng tôi không ngần ngại, vì thương chứ không phải muốn "câu", có thái độ dễ dãi trong giới hạn của đạo lý và tôn giáo. Thuở mới quen, cả hai bên đương nhiên cũng tâm sự về gia đình thân thuộc. Anh chị cũng đã từng hãnh diện chia xẻ niềm vui, tự hào có con tài năng, ngoan dù đạt địa vị xã hội cao, tính tình cũng có khác, đứa còn thích giữ phần nào truyền thống, đứa ảnh hưởng văn minh ngoại nhiều hơn...

                          Anh chị cũng đã từng tiếc rẻ hai gia đình không được ở gần nhau, điều đó làm chúng tôi quí anh chị hơn tuởng như đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, chẳng những suôi gia thích hợp, đồng hương tốt mà còn bạn tâm giao.

                          Chuyện con cái, như đã giao ước, không xen vô. Bổn phận cha mẹ là tác thành, khuyên bảo, truyền lại kinh nghiệm sống, nếu cần và nếu có khả năng. Đời sống riêng tư, ta không nên vượt quá quyền hạn pháp lý và đạo lý. Ngược lại các con cũng thế. Phải phân biệt rõ rệt tình thương con của cha mẹ, lòng hiếu thảo khác hẳn tình yêu nam nữ và nghĩa vợ chồng.

                          Là cha mẹ, nhất là đã có tuổi rồi, cần tranh thủ thời gian, dùng cả tim óc, dẹp bớt cái "ta" để cùng chia xẻ với con hạnh phúc mà mình hằng ước mơ. Nếu có điều gì bất đồng ý, thẳng thắn thành thật giải quyết, không nên tự dùng quyền cha mẹ cắt đứt ngang. Chúng tôi tin tưởng vào các con vì nhận thấy rằng chúng đã theo đúng con đường chúng tôi cầu xin. Ngày nay các con cần phải tự trui luyện thêm để phát huy và sống xứng đáng là con người. Còn sống ngày nào là mình vui lo với các con diễm phúc được xẻ chia, cốt lõi cuộc sống trần gian.

                          Các con dù trưởng thành vẫn là hàng con nhưng cha mẹ không thể quên nghĩ đến cá tính, địa vị, bổn phận, quyền hạn của con đối với xã hội, nhất là gia đình tha hương. "Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc". Không thể khăng khăng giữ lấy thói tục áp đặt vào con cái, cũng không thể để cho chúng tự do làm gì tùy thích. Xin hướng dẫn, nâng đỡ chúng phát huy bản năng, giữ niềm tự hào dân tộc, sống hoà đồng hội nhập với môi trường chung quanh không mặc cảm. Đừng quên các con bây giờ tưởng chừng như không quê hương vô tổ quốc. Về nước, đồng bào gọi là "Việt kiều", người bản xứ xem mình là dân nước ngoài luôn. Các con đang đứng trước ngã rẽ không biết đi về phía nào? Sao chúng ta lại đành lòng làm rối loạn tâm hồn các con thêm! Nên giúp chúng chọn đúng đường chẳng những trong việc lập thân mà còn phần tâm linh nữa.

                          Chúng ta không phải luôn luôn có lý nghĩ đúng làm tốt. Lắm lúc bậc cha mẹ cũng không tránh khỏi thói xấu tật hư, mặc cảm nhỏ nhen. Cần phải nén vứt những thứ tình cảm nổi loạn đó để lòng yêu thương hy sinh bao trùm tất cả. Vẫn biết rằng không dễ yêu thương ai dù là con núm ruột, hơn cả thân mình, nhưng nếu ngược lại sẽ ân hận ray rứt một mình suốt đời.

                          "Tre tàn măng mọc". Xin cùng nhau thắt chặt vòng tay hai gia đình bé nhỏ, xiết buộc dây "tơ hồng" quyện hai trẻ vào nhau hầu nối tiếp phát huy nền tảng gia đình dòng họ và lưu truyền mãi mãi hạt giống người trên quả địa cầu xanh xinh đẹp của chúng mình.

                          Trần Thành Mỹ


                          Con đi dưới lá cờ sao máu
                          Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                          Comment

                          • #14


                            Cổng Trường Trung Học Gò Công
                            (Ảnh Võ Nhơn Quới )







                            Con đi dưới lá cờ sao máu
                            Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                            Comment

                            • #15

                              Trăn Trở
                              Trần Thành Mỹ

                              Gió thổi mạnh, hơi thở gió ào ạt luông tuồng qua song khe cửa như trút cơn giận dữ làm các cánh cửa run lên cầm cập rung chuyển, người ta liên tưởng đến cuồng phong vũ bão, bao trận lũ lụt sóng thần tàn phá bất ngờ, những cơn lốc trốt xoáy qua các biểu tượng vòi rồng trắng xám đen trên nền chân trời đen ngòm bất chợt cuốn hút trong phút giây mục tiêu theo hành trình xóa luôn trên bản đồ thế giới. Phải công nhận sức mạnh của thiên nhiên thật vô địch vô nan vô lường nhưng cũng là kích thích tố cho nhân loại nhận chân rằng cái không cùng (infini) chỉ là một dấu hỏi, một bí mật huyền bí vạn năng không biết đâu là điểm phát xuất và sẽ dừng lại lúc nào ? Và về con người Pascal đã viết : « L?homme n?est qủun roseau, mais un roseau pensant. » (Con người chỉ là một cây sậy nhưng cây sậy có tư tưởng.)

                              Thật vậy, đối với vũ trụ bao la uy dũng thân phận con người thật nhỏ nhoi mềm yếu. Thế mà với bộ óc tuyệt vời con người đã biết tuân theo qui luật tìm cách tận dụng cái sức mạnh thiên nhiên ấy để sống còn phát triển và tiến bộ. Rồi những thí nghiệm phát minh thám hiểm khám phá trong mọi lãnh vực tưởng như độc nhất vô nhị bất di bất dịch ấy, theo thời gian, cũng trở thành những tài liệu có giá trị giải thích, biện luận, bổ khuyết thực dụng tạm thời thôi chứ chưa phải là chân lý. Có thể ví rằng con người đã có tiến bộ vượt bực, như một phi cơ vượt qua bức tường âm thanh, lơ lửng trên trời cao, mây lót dưới chân, thế mà vẫn theo đường bay chỉ định, một sơ sót, cử chỉ vô kỷ luật đối với thiên nhiên là gặt hái hậu quả khó lường.

                              Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, bao anh hùng bách chiến bách thắng cũng theo dòng lịch sử đi qua. Những tên bạo chúa, độc tài giết con dân mình không chùng tay tiếc thương, cũng không sống đời đời để trị vì hưởng thụ. Các bậc tu hành thánh thiện giúp đời tốt đạo vẫn phải từ bỏ hồng trần. Có ai lột da sống đời, người cao niên cho tới bây giờ vẫn chưa qua 150 tuổi thọ.

                              Chưa một ai chứng minh được là có thiên đàng địa ngục hữu hình thật sự. Các tôn giáo đã hướng dẫn con chiên bổn đạo giáo dân tín đồ hướng thiện để có thể về với Cõi Trên, Niết bàn Cực Lạc, Thiên đường, Bồng lai tiên cảnh. Ngược lại thì cũng hé cho ta thấy có nào là Lò luyện tội, Ðịa ngục, nào là Thập điện, mười cửa ngục trước khi đầu thai, Diêm vương Ngạ quỉ, Quỉ Dạ xoa chưa thấy bao giờ thế mà cũng e dè ngán sợ dù chỉ nghe kể thôi.

                              Cũng có các cuộc lên đồng, xây cơ, đuổi ma bắt quỉ gọi hồn người quá cố, phép lạ mặc khải chuyện xảy ra như thật khó nghi ngờ, kiểm chứng. Chưa kể đến bao sách kịch tuồng phim ảnh về chuyến mộng du lên thượng giới như Ðường minh hoàng du nguyệt điện, sách « Hồi dương nhân quả » chuyện một người chết chầu Diêm vương ở cõi Âm ty, qua mười cửa ngục Thập điện, sau đó được cho về dương thế, sống dậy tường thuật lại. Ngày nay, giới hạn không gian còn được mở sâu rộng qua các hành tinh mới, cuộc phiêu lưu kỳ xão mô phỏng qua các cuộc khám phá phát hiện nghiên cứu vĩ đại của khoa học kỹ thuật hiện đại tân tiến.

                              Câu chuyện kỳ bí thường lôi cuốn người nghe, tất nhiên là có người tin người không nhưng đã nghe là thường lâu quên lắm. Người yếu bóng vía mê tín lại dễ sa vào mê hồng trận, người khác tin chắc chắn như đóng cột là có thế giới bên kia, sẽ có cuộc Phán xét cuối cùng, Tận thế. Và các giáo phái nở rộ, nhiều Giáo chủ, Ðạo trưởng, Thiền sư, và còn bao nhiêu ngành vệ tinh như chiêm tinh gia, Tử vi, nhiều thầy như thầy bùa thầy pháp thầy bói, thầy tướng, như đoán được thiên cơ, sấm truyền, có bàn tay vàng lương y hốt thuốc trị bá bệnh.

                              Khuynh hướng thế tục hóa quan niệm tâm linh siêu hình chẳng những phát triển rầm rộ, mà còn được quảng bá rộng rãi qua hệ thống truyền thông và khoa học kỷ thuật kỳ vĩ, « cây sậy tư tưởng » người mất phương hướng là thường, biết theo ai bỏ ai. Chính tà làm sao phân biệt được, tốt xấu giả chân như màn magie David Copperfield phù thủy xảy ra trước mắt.

                              Các nước không ngưng nghỉ thi đua sản xuất vũ khí giết hại lẫn nhau, tàn khốc hơn là nhân danh hòa bình tự do bình đẳng, nhân quyền, ý thức hệ, tôn giáo. Ngọn gió cách mạng do quần chúng lật đổ chế độ độc tài nổi lên ở Tunisie, Ai cập đầu năm 2011 đang có cơ lây lan sang các nước Yémen, Algérie, Iran, Barhein, Syrie, Lybiẻ cũng làm cho bao chính quyền độc tài toàn trị đi ngược lại lòng dân, gia đình trị, cũng sốt vó đang sử dụng những tối chiêu chính trị củng cố trấn an thu phục hay đàn áp trước khi bị truy tố trước pháp luật trong nước hay bay ra nước khác.

                              Ðây là lúc mà bạn thù mới lộ diện rõ và đúng lý cũng là cơ hội mà người dân phải biết làm gì hơn. Thế nhưng trong thực tế, thông thường vào lúc thập tử nhất sanh, ý thức sống còn là chủ yếu. Sống trước đã rồi sau đó hạ hồi phân giả, người ta khó chủ động và làm theo đám đông.

                              Nhìn hàng đoàn người Tunisie đầy ấp trên những chiếc tàu lớn nhỏ tìm cách sang Ý tị nạn, người ta nhận thấy rằng ở đến thế kỷ 21 nầy hòa bình chưa ngự trị ở khắp mọi nơi. Cái hố sâu giữa xã hội giàu nghèo chưa được lấp bằng. Chiến tranh thay đổi hình dạng luôn nay ẩn nơi nầy nai hiện chỗ kia bất thường, khi nóng lúc lạnh làm cho tình hình căng thẳng khắp nơi.

                              Cuộc động đất với 8,9 độ Richter gây thêm sóng thần tsunami 11/3/2011 cộng thêm sự nổ tung nhà máy điện hạt nhân ở Nhật làm thế giới sững sờ. Chưa có bộ óc vĩ đại con người nào có thể đoán trước thiên tai hay sinh tử và hệ lụy một cách xác xuất. Vậy là con người chưa phải là toàn diện, khoa học cũng là sản phẩm của con người và ngay cả tôn giáo cũng thế vẫn chưa hiểu nổi những cái không cùng của tạo hóa thiên nhiên.

                              Ngày nay cả môi sinh cũng được chiếu cố tận tình. Chiêu bài nào cũng thật cao cả vĩ đại từ thiện kết đoàn nhân danh tình yêu nhân loại, cải thiện văn minh thế nhân. Thế là đi đôi với sự bành trướng thành quả kỷ thuật khoa học, con người dường như bất chấp viễn ảnh thế giới siêu hình đất hứa do tôn giáo dẫn dạy mà lao mình vào địa đàng nầy không mặc cảm.

                              Ngày nay nhan nhản đồ ăn thức uống cần thiết cho cuộc sống cũng được pha trộn chất độc bất chấp phương hại đến sức khỏe sinh mạng con người. Hàng giả dỏm, mạo hóa, tân trang đủ mọi loại không tài nào kiểm soát hết được. Phá vỡ đường giây hàng lậu, trái phép, cấm đoán nầy bằng đường bộ chẳng hạn thì sẽ được nâng cấp lên bằng tàu thủy phi cơ, có khi được « hộ tống » bằng vũ khí nặng như đi hành quân. « Trồng cỏ » ngày nay cũng lấn sân sang các nuớc văn minh giàu có tiến bộ như Canada, Mỹ, Anh. Ðừng nghĩ rằng chỉ có hạng người nghèo mới ham tiền, thực tế « cái túi tham không đáy ». Vì vậy con người dần dần đi sâu vào việc hủy diệt nhau.

                              Ðiểm đáng lưu ý là nạn nhân thường bất luận giàu nghèo. Tứ đổ tường không phải mới xuất hiện vài mươi năm nay đâu mà thật sự từ lâu rồi. Ngày xưa, ở Việt nam ta chẳng hạn, tệ nạn nầy là điều cấm kỵ tuyệt đối được xem như là điếm nhục gia phong, làm tán gia bại sản, một trong tội đối với gia đình xả hội. Thế mà dưới thời đô hộ Pháp, nhiều trí thức phú hào, văn nghệ sĩ mê « ả Phù dung » bên bàn đèn không ít, mê ghiền nàng tiên nâu á phiện và sau nầy tiến bộ hơn ghiền sì ke ma túy.

                              Phong trào phụ nữ phì phà hút thuốc ngậm ống điếu thật dài, các ông miệng ngậm điếu thuốc thơm hay điếu cigare to tướng, ống pipe, biểu tượng thành phần sang cả văn minh thượng lưu một thời trong xã hội. Nhan nhản quảng cáo đủ loại thuốc hút, nhất là trong phim ảnh các minh tinh màn bạc nhất là nữ tài tử Âu Mỹ trình diễn một cách thư thái, nghệ thuật, điêu luyện trong cách đứng ngồi điệu nghệ, từ cách cầm giữ điếu thuốc giữa các ngón tay, châm lữa, để lên môi, hít nhẹ sâu và nhả khói. Và có một thời người ta còn cho rằng thuốc lá rất tốt cho sức khỏe.

                              « Nam vô tửu như kỳ vô phong », « vô tửu bất thành lễ » là câu nói thông thường của các cụ ta ngày xưa. Sang qua các nước Âu Mỹ, uống rượu là đầu câu chuyện mà hầu như thành phần nào cũng có thể bàn đến. Uống lúc nào cũng được, hạng nào cũng có, thích hợp với túi tiền và hoàn cành, thời điểm sáng trưa chiều tối. Rồi thì cái gì quá độ cũng có cái giá tiêu cực của nó. Hơn thế nữa, để kiếm tiền dễ dàng nhanh chóng hơn, những thương gia bất chính không ngần ngại bất chấp đạo đức trục lợi tối đa bằng cách tráo hàng thật sang giả, hàng nhái, hàng lậu, hàng rẻ. Tình trạng nầy càng ngày càng tinh vi như thật, mẫu mã hoa văn khó phân biệt giả thật, rượu cũng nhan nhản loại nhái ăn cắp thương hiệu.

                              « Bài bạc là bác thằng bần » đâu còn đúng với thời đại nầy đâu. Thời Pháp thuộc đã có Trường Ðua Phú thọ cá ngựa ở Saigon đã làm tan gia bại sản bao người dân bấy giờ. Hồi thời Việt nam Cộng Hòa, Bảy Viễn gây thế lực lớn với việc khai thác ngành ăn chơi ở Saigon Chợ lớn năm 1954 qua các sòng bạc (Casino Grand Monde) Ðại thế giới, (Casino Cloche d?or) Kim Chung cũng làm phá sản bao vương tôn công tử, gây bao người thua bạc tự tử. Ngày nay Casino có mặt khắp nơi trên thế giới, nổi tiếng như ở Monaco, Las Vegas,?Trước kia chỉ dành cho hạng thượng lưu giàu sụ ném tiền qua cửa sổ, chính khách sa lông, đại thương gia, các công tử con điền chủ ruộng đất tiền vàng bạc biển, bằng cớ là cho đến ngày nay ở Bỉ, người gác cửa casino từ chối thẳng thừng khách hàng nào chỉ cần không mang y phục chỉnh tề như qui định, áo veste, thắt cà vạt, đi giày là không được phép vào.
                              Tệ nạn thứ tư cũng leo thang theo tiến bộ. Nghề buôn hương bán phấn mải dâm cũng được tân trang lại, kiểm soát hơn và biến thể luôn. Thời Pháp thuộc, trong giới thuộc phái thần Bạch mi, ta cũng có những cô khét tiếng như cô Ba Trà, cô Tư Nhị. Nay nghề của xóm bình khang nầy có khi còn giá trị hơn một số nghề khác mà cậu Wang 15 tuổi đã viết than trên mạng Trung quốc ? Nghề mãi dâm bán thân thể của mình, trong số một số người bán linh hồn của họ?. Bây giờ chúng ta còn nhận thấy bao thành phần tai to mặt lớn trong mọi lãnh vực đã bị phanh phui tố cáo đưa ra pháp luật. Ngay cả trẻ em vẫn không được buông tha, nạn tình dục nầy lan tràn trên thế giới.

                              Rồi chiến tranh, thiên tai nhân tai xảy ra càng ngày nhiều hơn, việc giết chóc tàn sát lẫn nhau như không còn làm cho con người ta sợ hãi hay thương tâm như ngày xưa nữa. Cơn lốc khó lường nầy làm xoay chiều chẳng những vật chất mà cả đạo đức tâm linh. Lòng nhân đạo, tình người cũng được người đời trục lợi tối đa qua các hội từ thiện xã hội, phong trào giảm đói nghèo, cứu lụt lội, người tàn tật trá hình. Tôn giáo với bao gourou giáo phái mới, các tôn giáo cổ truyền cũng mất dần tín đồ, lòng tin dưòng như tỷ lệ nghịch với sự đam mê lao vào cuộc sống vật chất xa hoa thụ hưởng.

                              Cũng có nước lớn còn mộng xâm lăng bá chủ, nhưng nay chiêu bài mới tinh vi tàn độc hơn qua chiếm đất lấn biển, xâm phạm chủ quyền, đầu độc thị trường qua sản phẩm rẻ, chất lượng kém. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng làm kiệt quệ nhiều nước trên bờ phá sản như Hy lạp năm 2011 chẳng hạn.

                              Thế mà đứng trước hiểm họa suy tàn trên mọi bình diện của toàn thế giới, con người như thờ ơ không mấy bận tâm lắm. Dường như ai củng cố tạo cho mình một bộ giáp để tự bảo vệ cái ta ích kỷ, đè bẹp hất chân, trả miếng bằng mọi thủ đoạn kẻ nào nằm trên quỹ đạo tiến thân, vì niềm tin vào cuộc đời con người như đã bị lung lay phá sản thâm sâu và từ lâu rồi.

                              Hướng về trời, trời cao cũng không còn bí mật như trước kia, hành tinh mới, nhiều hệ thống thiên thể tương tự như Thái dương hệ đã được khám phá chẳng hạn. Những hiện tượng thiên nhiên như sấm sét không phải do các vị Thần trên trời như trong các chuyện huyền thoại ngày xưa. Dần dần vai trò của khoa học kỹ thuật không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật và con người càng ngày càng ít nhiều trăn trở tưỏng chừng như không còn kim chỉ nam lý tưởng để theo.

                              Hình ảnh mới nhất của cựu Tổng thống Ai cập Mubarak bệnh hoạn bị nhốt nằm trong cũi sắt trước tòa án tại Le Caire quả là một thông điệp cho các nhà độc tài chính trị và cũng là một cách chứng minh rằng tuy ?lưới trời lồng lộng? nhưng khó gì lọt qua được.

                              Thật ra, thế giới thay đổi liên tục và bất ngờ khó đoán, khó hòa đồng và chắc chắn không bao giờ luôn luôn thỏa mãn được mọi ngưòi. Vậy thì phúc cho những ai còn giữ được lòng mình thanh tịnh, biết xẻ chia, cố biết phân biệt đúng sai và cùng nhau quyết tâm biến trái đất xanh tuyệt đẹp nầy thành địa đàng cho cuộc đời ngắn ngủi của con người.

                              Trần Thành Mỹ
                              Con đi dưới lá cờ sao máu
                              Rờn rợn lòng con, nhục Mẹ ơi...

                              Comment

                              Working...
                              X
                              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom