Cát căn không chỉ là thuốc cai rượu...
Cát căn là rễ củ của Sắn dây (Kudzu wine), tên khoa học Pueraria lobata, tên cũ P. Thunbergiana, thuộc họ Đậu Fabaceae.
Dây leo mọc hoang trong rừng núi hoặc được trồng làm thực phẩm, làm thuốc tại nhiều nơi ở nước ta.
Là dây leo quấn, hoặc mọc bò lan lên cây chói hoặc giàn. Thân dây rất dài có thể từ 4 đến 12 m, phủ lông tơ. Rễ phát triển thành dạng củ thuôn dài, chứa tinh bột và xơ. Lá kép có ba lá chét cỡ 15 cm. Lá có lông mịn ở cả hai mặt. Cuống lá dài và cứng, cũng phủ lông. Hoa mọc thành cụm ở nách lá: chùm hoa mang nhiều hoa to (2,5 cm) màu xanh tím, hoặc tím sậm, có mùi thơm kiểu hoa nho. Quả đậu cũng có lông màu vàng, dài. Dây phát triển một năm, đến cuối mùa thu thì thu hoạch củ. Sắn dây được trồng bằng hột hoặc đoạn thân già (giâm cành) trên luống đất xốp cao khoảng 5 tấc. (Tránh nhầm với Củ đậu mà nhiều nơi cũng gọi là Sắn dây).
Rễ củ được luộc chín để ăn như khoai, vừa bổ dưỡng vừa có tác dụng trị bệnh. Rễ củ cạo bỏ lớp vỏ bên ngoài và cắt lát dày từ 0,6 - 1 cm phơi sấy khô ta có vị Cát căn. Rễ củ rửa sạch, giã nát, ngâm nước, khuấy đảo và thay nước mỗi ngày, lọc lấy tinh bột, phơi khô, ta có vị Cát phấn hay bột Sắn dây.
Hoa Cát căn
Thành phần hóa học
Cát căn hay rễ củ Sắn dây chứa:
- Flavonoid: daidzein, daidzin, puerarin, puerarin-7-xylosid, genistein, formonetin, puerarol, kakkonein.
- Tinh bột (10 - 15%) có D-mannitol.
- Acid hữu cơ: succinic acid, arachidic acid.
- Các chất: miroestrol, allantoin, acetylcholin.
Hoa Sắn dây chứa:
- Tinh dầu bay hơi có ethyl acetat, isoamyl alcohol, octyl alcohol, lanalool, eugenol...
- Acid hữu cơ: benzoic acid, propionic acid, isovaleric acid, capronic acid; p-coumaric acid.
Bột Sắn dây
- Irisolidon.
- Flavonoid: genistein, daidzein, quercetin...
Dược tính và cách dùng
Đông y cổ truyền
Cát căn đã được dùng trong đông y cổ truyền từ thế kỷ đầu tiên sau tây lịch. Cát căn có vị ngọt, hơi chua, tính mát; tác động vào các kinh mạch thuộc tỳ và vị.
Các sách thuốc cổ truyền đã viết khá nhiều về Cát căn:
- Danh y Nhân Quyền (đời nhà Đường) đã ghi nhận tác dụng khai vị, giải độc được rượu..., trị được những chứng thiên hành, thượng khí, úa ngược...
- Sách “Khai Bảo Trùng Định Tân Bảo”của thời nhà Tống đã viết: Bột Cát căn làm khỏi khát, thông được đại tiểu tiện, giải được độc của rượu..., trị được những chứng buồn phiền nóng nảy.
- Các danh y Hoàng Cung Tú, Giả Cửu Như... (đời Thanh) ghi rằng Cát căn có tính thăng - phát, đi vào kinh Túc dương minh vị... Giúp sinh “khí” trong bao tử, làm sinh tân dịch, chỉ khát..., đồng thời cũng vào được cả tỳ kinh, nên giúp khai thông, giải biểu, trừ được sự nóng nhiệt...
Cát căn được xem là có những dược tính:
- Thanh nhiệt, lợi tiểu, giải độc, thư giãn cơ; trị sốt nóng, nhức đầu. Trị đau cứng cổ và bả vai (phối hợp với Ma hoàng, Quế chi và Bạch thược).
- Nuôi dưỡng tân dịch và giải khát: nhất là khát do nhiệt tại vị gây thất thoát tân dịch: thường dùng chung với Thiên hoa phấn (Trichosanthis kirilowii) và Mạch môn đông. Cát căn rất công hiệu để trị nhiệt do “phong tà” ngoại nhập: trong trường hợp này Cát căn được dùng chung với Sài hồ và Hoàng cầm.
- Làm mau lành bệnh sởi: giúp mau lành, nhất là khi các nốt sởi chưa mọc trổ hết: khi bắt đầu lên sởi... Nên dùng chung với Thăng ma (Rhizoma cimicifuga).
- Chữa tiêu chảy: tiêu chảy hay kiết do ở nhiệt, kể cả trường hợp tiêu chảy do “suy tỳ”. Dùng thêm Hoài sơn nếu tân dịch bị tổn hại; dùng thêm Hoàng liên và Hoàng cầm nếu bị tiêu chảy do “nhiệt thấp”.
- Đông y cổ truyền dùng Cát căn dưới dạng sao đến vàng để làm bớt tính “hàn”, nhất là khi trị tiêu chảy do tỳ suy. Liều trung bình từ 6 - 12 g dược liệu khô.
Cát căn trong dược học hiện đại
Những nghiên cứu về Cát căn theo quan niệm y học hiện đại được thực hiện phần lớn tại Trung Hoa, Nhật, Đức... Tuy nhiên vì daidzein đã được thử nghiệm rộng rãi trên thế giới nên có thể chứng minh cho các tác dụng của Cát căn...
Dược điển Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1985) chính thức ghi Cát căn là vị thuốc hạ nhiệt dùng trong các trường hợp cảm sốt kèm theo cảm giác khó chịu hoặc đau nhức nơi cổ, bả vai; giải khát khi sốt nóng...
Tác dụng điều hòa thân nhiệt: bột Sắn dây thường được dùng tại nước ta để làm cho “mát”: thử nghiệm tại Nhật đã chứng minh các chế phẩm từ Cát căn có tác dụng hạ nhiệt nơi thỏ đã bị gây sốt.
Tác dụng trên cơ trơn (thư giãn cơ): tác dụng này do ở daidzein: chống co giật nơi ruột chuột thử nghiệm, tương tự như tác động của papaverin.
Tác dụng trên hệ tim mạch, trị đau thắt ngực: (puerarin, daidzein, daidzin làm nở động mạch tim, tăng máu về não và giảm sự tiêu hao oxy ở tim nên giúp chống thiếu máu cơ tim, chống rối loạn nhịp tim). Cát căn làm gia tăng lượng máu đưa về não của những người bị xơ vữa động mạch.
Các nghiên cứu tại Nhật cho thấy Cát căn có những tác động trên những bệnh nhân bị đau thắt ngực (angina pectoris): 38% bệnh nhân thuyên giảm, 42% có những chuyển biến tốt sau 1 tháng thử nghiệm. Cát căn cũng có những tác dụng hạ huyết áp, hạ đường huyết. Trong một thử nghiệm tại Trung Hoa: 52 người cao huyết áp được cho uống mỗi ngày 8 muỗng cà phê bột Cát căn dưới dạng trà, sau 8 tuần: 17 người đạt kết quả tốt, 30 người thuyên giảm rõ rệt (bột Sắn dây có thể sẽ là thực phẩm tốt cho những người bệnh tim mạch).
Cát căn trong tai - mũi - họng: khi thử nghiệm trên 33 người bị mất thính lực bất ngờ, Cát căn được cho dùng chung với vitamin B hỗn hợp: 9 trường hợp khỏi hẳn và 6 trường hợp thuyên giảm.
Cát căn trong cai rượu
Tác dụng của các flavonoid: các isoflavon trong Cát căn như daidzein, daidzin và puerarin có những tác động như những chất ức chế, có tính nghịch chuyển, các phân hóa tố alcohol và aldehyd dehydrogenase. (Alcohol Clin. Exp Res No 18-1994). Daidzein, trích tinh Cát căn làm giảm sự tiêu thụ alcohol, giảm cao điểm của nồng độ alcohol trong máu, và rút ngắn thời gian gây ngủ của alcohol nơi thú vật. Sự giảm cao điểm nồng độ alcohol có thể do ở sự kéo dài thêm thời gian của thực phẩm trong bao tử (Am J Clin Nutr No 68-1998). Các thí nghiệm của Yujiro Niiho tại Viện bào chế Isan, dùng trích tinh hoa Sắn dây bằng methanol cho thấy... Khi cho uống trích tinh, nồng độ alcohol và aldehyd trong máu người uống rượu giảm xuống rất nhanh. (Herbal Gram No 23-1990). Cát căn là thuốc giải độc rượu.
Alcohol trong rượu khi vào cơ thể sẽ được biến đổi một phần thành aldehyd, tác dụng của aldehyd khiến người say có những cảm giác ngầy ngật...
Các tác dụng dược học của puerarin: Các nghiên cứu về puerarin trích từ Cát căn cho thấy những tác dụng làm giảm nhịp tim, hoạt tính renin trong huyết tương, độ thẩm thấu của mao quản, độ kết tụ của tiểu cầu. Puerarin làm hạ được huyết áp (15%) nơi thú vật thử nghiệm. Puerarin còn có tác dụng hạ đường trong máu, hạ cholesterol, chống loạn nhịp tim và chống oxy hóa (Natural Medicines Comprehensive Database - 2000).
- Đông y cổ truyền dùng hoa Sắn dây (Cát căn hoa) làm thuốc: dược liệu là hoa đang nở được thu hái vào cuối mùa hè hay đầu mùa thu, khi hoa nở nửa chừng, bỏ cuống và phơi khô trong bóng mát. Cát căn hoa có vị đắng và tính hàn nhẹ, có tác dụng trừ say, an định tỳ. Hoa được dùng để giúp người quá chén mau tỉnh và để giải khát, trị ói ra máu, bao tử nhiều acid... Liều thường dùng từ 3 - 9 g dưới dạng bột.
- Bột Sắn dây (Cát phấn) được xem là có vị đắng nhẹ, và tính hàn mạnh: dùng để giải khát, giúp sinh tân dịch, trừ nhiệt khi bị nóng sốt, sưng cổ họng, khó chịu bao tử. Để trị “tức ngực”, và khát khô họng có thể dùng bột Sắn dây (120 g) nấu với hạt kê (250 g) thành cháo (hạt kê được ngâm qua đêm).
- Lá cây Sắn dây hay Cát diệp dùng cầm máu khi bị đứt tay (giã nát và đắp lên vết thương)
.
- Đọt Sắn dây được dùng để trị mụn nhọt, sưng và đau cổ họng. Có thể dùng nước sắc từ 6 - 9 g đọt khô hay 30 - 60 g đọt tươi. Để trị mụn nhọt, đọt khô được nướng từ từ đến khi thành than, tán than để đắp vào vết thương...
- Không dùng chung Cát căn với thuốc chống đông máu, thuốc ức chế MAO.
Tóm lại, nên trồng nhiều Cát căn vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. Người cao tuổi, người bị suy tim, người nghiện rượu... Có thể ăn mỗi ngày 1 lát củ Cát căn nấu (50 g) hoặc sắc uống 25 g rễ Cát căn khô như một thực phẩm hỗ trợ điều trị nhiều bệnh.
DS. PHAN ĐỨC BÌNH
DS. TRẦN VIỆT HƯNG
Cát căn là rễ củ của Sắn dây (Kudzu wine), tên khoa học Pueraria lobata, tên cũ P. Thunbergiana, thuộc họ Đậu Fabaceae.
Dây leo mọc hoang trong rừng núi hoặc được trồng làm thực phẩm, làm thuốc tại nhiều nơi ở nước ta.
Là dây leo quấn, hoặc mọc bò lan lên cây chói hoặc giàn. Thân dây rất dài có thể từ 4 đến 12 m, phủ lông tơ. Rễ phát triển thành dạng củ thuôn dài, chứa tinh bột và xơ. Lá kép có ba lá chét cỡ 15 cm. Lá có lông mịn ở cả hai mặt. Cuống lá dài và cứng, cũng phủ lông. Hoa mọc thành cụm ở nách lá: chùm hoa mang nhiều hoa to (2,5 cm) màu xanh tím, hoặc tím sậm, có mùi thơm kiểu hoa nho. Quả đậu cũng có lông màu vàng, dài. Dây phát triển một năm, đến cuối mùa thu thì thu hoạch củ. Sắn dây được trồng bằng hột hoặc đoạn thân già (giâm cành) trên luống đất xốp cao khoảng 5 tấc. (Tránh nhầm với Củ đậu mà nhiều nơi cũng gọi là Sắn dây).
Rễ củ được luộc chín để ăn như khoai, vừa bổ dưỡng vừa có tác dụng trị bệnh. Rễ củ cạo bỏ lớp vỏ bên ngoài và cắt lát dày từ 0,6 - 1 cm phơi sấy khô ta có vị Cát căn. Rễ củ rửa sạch, giã nát, ngâm nước, khuấy đảo và thay nước mỗi ngày, lọc lấy tinh bột, phơi khô, ta có vị Cát phấn hay bột Sắn dây.
Hoa Cát căn
Thành phần hóa học
Cát căn hay rễ củ Sắn dây chứa:
- Flavonoid: daidzein, daidzin, puerarin, puerarin-7-xylosid, genistein, formonetin, puerarol, kakkonein.
- Tinh bột (10 - 15%) có D-mannitol.
- Acid hữu cơ: succinic acid, arachidic acid.
- Các chất: miroestrol, allantoin, acetylcholin.
Hoa Sắn dây chứa:
- Tinh dầu bay hơi có ethyl acetat, isoamyl alcohol, octyl alcohol, lanalool, eugenol...
- Acid hữu cơ: benzoic acid, propionic acid, isovaleric acid, capronic acid; p-coumaric acid.
Bột Sắn dây
- Irisolidon.
- Flavonoid: genistein, daidzein, quercetin...
Dược tính và cách dùng
Đông y cổ truyền
Cát căn đã được dùng trong đông y cổ truyền từ thế kỷ đầu tiên sau tây lịch. Cát căn có vị ngọt, hơi chua, tính mát; tác động vào các kinh mạch thuộc tỳ và vị.
Các sách thuốc cổ truyền đã viết khá nhiều về Cát căn:
- Danh y Nhân Quyền (đời nhà Đường) đã ghi nhận tác dụng khai vị, giải độc được rượu..., trị được những chứng thiên hành, thượng khí, úa ngược...
- Sách “Khai Bảo Trùng Định Tân Bảo”của thời nhà Tống đã viết: Bột Cát căn làm khỏi khát, thông được đại tiểu tiện, giải được độc của rượu..., trị được những chứng buồn phiền nóng nảy.
- Các danh y Hoàng Cung Tú, Giả Cửu Như... (đời Thanh) ghi rằng Cát căn có tính thăng - phát, đi vào kinh Túc dương minh vị... Giúp sinh “khí” trong bao tử, làm sinh tân dịch, chỉ khát..., đồng thời cũng vào được cả tỳ kinh, nên giúp khai thông, giải biểu, trừ được sự nóng nhiệt...
Cát căn được xem là có những dược tính:
- Thanh nhiệt, lợi tiểu, giải độc, thư giãn cơ; trị sốt nóng, nhức đầu. Trị đau cứng cổ và bả vai (phối hợp với Ma hoàng, Quế chi và Bạch thược).
- Nuôi dưỡng tân dịch và giải khát: nhất là khát do nhiệt tại vị gây thất thoát tân dịch: thường dùng chung với Thiên hoa phấn (Trichosanthis kirilowii) và Mạch môn đông. Cát căn rất công hiệu để trị nhiệt do “phong tà” ngoại nhập: trong trường hợp này Cát căn được dùng chung với Sài hồ và Hoàng cầm.
- Làm mau lành bệnh sởi: giúp mau lành, nhất là khi các nốt sởi chưa mọc trổ hết: khi bắt đầu lên sởi... Nên dùng chung với Thăng ma (Rhizoma cimicifuga).
- Chữa tiêu chảy: tiêu chảy hay kiết do ở nhiệt, kể cả trường hợp tiêu chảy do “suy tỳ”. Dùng thêm Hoài sơn nếu tân dịch bị tổn hại; dùng thêm Hoàng liên và Hoàng cầm nếu bị tiêu chảy do “nhiệt thấp”.
- Đông y cổ truyền dùng Cát căn dưới dạng sao đến vàng để làm bớt tính “hàn”, nhất là khi trị tiêu chảy do tỳ suy. Liều trung bình từ 6 - 12 g dược liệu khô.
Cát căn trong dược học hiện đại
Những nghiên cứu về Cát căn theo quan niệm y học hiện đại được thực hiện phần lớn tại Trung Hoa, Nhật, Đức... Tuy nhiên vì daidzein đã được thử nghiệm rộng rãi trên thế giới nên có thể chứng minh cho các tác dụng của Cát căn...
Dược điển Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1985) chính thức ghi Cát căn là vị thuốc hạ nhiệt dùng trong các trường hợp cảm sốt kèm theo cảm giác khó chịu hoặc đau nhức nơi cổ, bả vai; giải khát khi sốt nóng...
Tác dụng điều hòa thân nhiệt: bột Sắn dây thường được dùng tại nước ta để làm cho “mát”: thử nghiệm tại Nhật đã chứng minh các chế phẩm từ Cát căn có tác dụng hạ nhiệt nơi thỏ đã bị gây sốt.
Tác dụng trên cơ trơn (thư giãn cơ): tác dụng này do ở daidzein: chống co giật nơi ruột chuột thử nghiệm, tương tự như tác động của papaverin.
Tác dụng trên hệ tim mạch, trị đau thắt ngực: (puerarin, daidzein, daidzin làm nở động mạch tim, tăng máu về não và giảm sự tiêu hao oxy ở tim nên giúp chống thiếu máu cơ tim, chống rối loạn nhịp tim). Cát căn làm gia tăng lượng máu đưa về não của những người bị xơ vữa động mạch.
Các nghiên cứu tại Nhật cho thấy Cát căn có những tác động trên những bệnh nhân bị đau thắt ngực (angina pectoris): 38% bệnh nhân thuyên giảm, 42% có những chuyển biến tốt sau 1 tháng thử nghiệm. Cát căn cũng có những tác dụng hạ huyết áp, hạ đường huyết. Trong một thử nghiệm tại Trung Hoa: 52 người cao huyết áp được cho uống mỗi ngày 8 muỗng cà phê bột Cát căn dưới dạng trà, sau 8 tuần: 17 người đạt kết quả tốt, 30 người thuyên giảm rõ rệt (bột Sắn dây có thể sẽ là thực phẩm tốt cho những người bệnh tim mạch).
Cát căn trong tai - mũi - họng: khi thử nghiệm trên 33 người bị mất thính lực bất ngờ, Cát căn được cho dùng chung với vitamin B hỗn hợp: 9 trường hợp khỏi hẳn và 6 trường hợp thuyên giảm.
Cát căn trong cai rượu
Tác dụng của các flavonoid: các isoflavon trong Cát căn như daidzein, daidzin và puerarin có những tác động như những chất ức chế, có tính nghịch chuyển, các phân hóa tố alcohol và aldehyd dehydrogenase. (Alcohol Clin. Exp Res No 18-1994). Daidzein, trích tinh Cát căn làm giảm sự tiêu thụ alcohol, giảm cao điểm của nồng độ alcohol trong máu, và rút ngắn thời gian gây ngủ của alcohol nơi thú vật. Sự giảm cao điểm nồng độ alcohol có thể do ở sự kéo dài thêm thời gian của thực phẩm trong bao tử (Am J Clin Nutr No 68-1998). Các thí nghiệm của Yujiro Niiho tại Viện bào chế Isan, dùng trích tinh hoa Sắn dây bằng methanol cho thấy... Khi cho uống trích tinh, nồng độ alcohol và aldehyd trong máu người uống rượu giảm xuống rất nhanh. (Herbal Gram No 23-1990). Cát căn là thuốc giải độc rượu.
Alcohol trong rượu khi vào cơ thể sẽ được biến đổi một phần thành aldehyd, tác dụng của aldehyd khiến người say có những cảm giác ngầy ngật...
Các tác dụng dược học của puerarin: Các nghiên cứu về puerarin trích từ Cát căn cho thấy những tác dụng làm giảm nhịp tim, hoạt tính renin trong huyết tương, độ thẩm thấu của mao quản, độ kết tụ của tiểu cầu. Puerarin làm hạ được huyết áp (15%) nơi thú vật thử nghiệm. Puerarin còn có tác dụng hạ đường trong máu, hạ cholesterol, chống loạn nhịp tim và chống oxy hóa (Natural Medicines Comprehensive Database - 2000).
- Đông y cổ truyền dùng hoa Sắn dây (Cát căn hoa) làm thuốc: dược liệu là hoa đang nở được thu hái vào cuối mùa hè hay đầu mùa thu, khi hoa nở nửa chừng, bỏ cuống và phơi khô trong bóng mát. Cát căn hoa có vị đắng và tính hàn nhẹ, có tác dụng trừ say, an định tỳ. Hoa được dùng để giúp người quá chén mau tỉnh và để giải khát, trị ói ra máu, bao tử nhiều acid... Liều thường dùng từ 3 - 9 g dưới dạng bột.
- Bột Sắn dây (Cát phấn) được xem là có vị đắng nhẹ, và tính hàn mạnh: dùng để giải khát, giúp sinh tân dịch, trừ nhiệt khi bị nóng sốt, sưng cổ họng, khó chịu bao tử. Để trị “tức ngực”, và khát khô họng có thể dùng bột Sắn dây (120 g) nấu với hạt kê (250 g) thành cháo (hạt kê được ngâm qua đêm).
- Lá cây Sắn dây hay Cát diệp dùng cầm máu khi bị đứt tay (giã nát và đắp lên vết thương)
.
- Đọt Sắn dây được dùng để trị mụn nhọt, sưng và đau cổ họng. Có thể dùng nước sắc từ 6 - 9 g đọt khô hay 30 - 60 g đọt tươi. Để trị mụn nhọt, đọt khô được nướng từ từ đến khi thành than, tán than để đắp vào vết thương...
- Không dùng chung Cát căn với thuốc chống đông máu, thuốc ức chế MAO.
Tóm lại, nên trồng nhiều Cát căn vừa làm thực phẩm vừa làm thuốc. Người cao tuổi, người bị suy tim, người nghiện rượu... Có thể ăn mỗi ngày 1 lát củ Cát căn nấu (50 g) hoặc sắc uống 25 g rễ Cát căn khô như một thực phẩm hỗ trợ điều trị nhiều bệnh.
DS. PHAN ĐỨC BÌNH
DS. TRẦN VIỆT HƯNG