Phần 1 : Phục Vụ Nguyễn Ánh
Nguyễn Vĩnh-Tráng
Lời nói đầu :
Link" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Tôi có viết bài « Monsieur Jean-Marie Dayot par les textes » bằng tiếng Pháp, cho đăng vào « Liên Kết Ngoại » (Lien externe) trên Wikipedia tiếng Pháp nói về J.M. Dayot. Bài viết có ý để người Pháp hay người ngoại quốc biết tiếng Pháp đọc, rồi để họ tự suy nghĩ lấy.
Nay tôi dịch thoáng qua bài đó, để độc giả người Việt đọc, nếu có thì giờ ; và nếu có thể, kính xin quý vị cho tôi ý kiến, để tôi được học hỏi thêm. Kính xin đa tạ.
Những trang dưới đây không có ý xem thường ông Jean-Marie Dayot hay những « Người Pháp phục vụ Gia Long »*, mà chỉ có ý lấy lại sự thật lịch sử. Để muốn biết rõ ràng cử chỉ, hành động của J.M. Dayot, tôi trích những đoạn bài viết về J.M. Dayot, của những nhân sĩ hay của những nhà sử học Pháp. Những đoạn trích nầy, ở dưới dạng « chép/dán », thành những lỗi về in ấn, chánh tả, văn phạm…, đều được để y nguyên.
*« Les Français au service de Gia Long », đề tài của những tác giả của Đô Thành Hiếu Cổ Xã (Amis du Vieux Huê).
Trên Wikipedia tiếng Pháp (tháng 05/2016) đã ghi những « thành tích » của J.M. Dayot giúp Nguyễn Ánh [xin đọc bài viết bằng tiếng Pháp của tôi]. Để tiện cho độc giả người Việt, tôi « chép/dán » ra đây những « thành tích » đó trên Wikipedia tiếng Việt (15/06/2017) [Wikipedia tiếng Anh lược dịch Wikipedia tiếng Pháp ; Wikipedia tiếng Việt lược dịch Wikipedia tiếng Anh] :
Jean-Marie Dayot
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jean-Marie Dayot (tên tiếng Việt: Nguyễn Văn Trí, 1759-1809)[1] là một sĩ quan Hải quân Pháp và là một trong những nhà phiêu lưu đã phục vụ Nguyễn Ánh, người mà sau này là hoàng đế Gia Long của Việt Nam.
Xuất thân từ một gia đình gốc Bretagne định cư ở Ile Bourbon, Jean-Marie Dayot sinh ở Port Louis, Ile Maurice. Ông trở thành một đại úy hậu cần trên tàu (auxiliaire Lieutenant de vaisseau) trong Hải quân Hoàng gia Pháp. Ông gặp Bá Đa Lộc tại Ile Bourbon hoặc Pondicherry, và được giao nhiệm vụ chỉ huy một trong hai tàu buôn cùng với các tàu chiến Méduse của Bá Đa Lộc đi đến Việt Nam.[2] (1)
Tham gia phục vụ Nguyễn Ánh, năm 1790 ông chỉ huy một đơn vị Hải quân gồm có hai tàu chiến kiểu châu Âu của Nguyễn Ánh. Năm 1792, ông tham gia vào một trận hải chiến chống Tây Sơn, đánh chìm 5 tàu chiến, 90 thuyền kiểu và khoảng 100 tàu thuyền nhỏ hơn. Năm 1793, tại một trận hải chiến ở Quy Nhơn ông thu được khoảng 60 thuyền kiểu khoảng 100 thuyền kiểu Galê của Tây Sơn.[2] (2)
Ngoài ra, Dayot còn thực hiện các công việc trong lĩnh vực thủy văn, làm ra rất nhiều bản đồ bờ biển Việt Nam, mà người vẽ là người em trai của ông, Félix Dayot.[3]
Năm 1795, thuyền của Jean-Marie Dayot bị mắc cạn, vì việc này ông bị kết tột sơ suất và bị phạt gông. Tức giận, ông rời khỏi Đông Dương.[2] (3)
Jean-Marie Dayot sau đó định cư ở Manilla, nơi mà ông buôn bán với México. Ông chết khi thuyền của ông chìm ở Vịnh Bắc Bộ năm 1809. (4) Em của ông, Félix Dayot, chết vào năm 1821 ở Macao
Trên Wikipedia tiếng Anh còn cho thêm :
Born (Sanh) : 1759. Port Louis, Ile Maurice.
Died (Chết) : 1809. Vịnh Bắc Việt, Việt Nam.
Allegiance (Tuyên thệ trung thành) : Pháp, Việt Nam. (5)
Service/branch (Phục vụ/Binh chủng) : Hải Quân Pháp. Hải Quân Việt Nam.
Rank (Cấp bậc) : Đô Đốc Hạm Đội Nam Hà. Tư Lệnh các chiến hạm An Nam (6) (Admiral of the Fleet of Cochinchina and Commandant des bâtiments français de l'Anam (sic)).
Battles/wars (Tham dự chiến trận) : Qui Nhơn 1972. (8)
Cũng trên Wikipedia tiếng Việt nói về Olivier de Puymanel, cùng ngày (15/06/2017) có cho :
Puymanel được ghi nhận là đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn,[7] còn Jean Marie Dayot thì lo về thủy quân. Kết quả của nó là việc du nhập kỹ thuật quân sự Châu Âu vào Việt Nam.[8]
Trên Wikipedia tiếng Pháp cho thêm :
Jean Baptiste Marie Dayot (1760-1809)2 était un officier de la Marine française et un explorateur, (et non un aventurier) qui vint au service de Nguyen Anh, futur empereur Gia Long d'Annam (aujourd'hui Viêt Nam).
(Jean Baptiste Marie Dayot 1759-18092 là một sĩ quan Hải quân Pháp và là một nhà thám hiểm, (chứ không phải một nhà phiêu lưu) đã phục vụ Nguyễn Ánh, hoàng đế Gia Long sau nầy của An Nam (Việt Nam ngày nay).
Naissance (Sinh) : 1760, tại Redon, Pháp
Décès (Chết) : 1809, Vịnh Bắc Việt
Allégeance (Thề trung thành) : Vietnam (tháng 05/2016). Sau đó sửa lại Tuyên thệ trung thành : Royaume de France (Vương Quốc Pháp), Việt Nam (tháng 12/2016)].
Grade (Cấp bậc) : Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l'Annam (Đại Đô Đốc của Hạm Đội An Nam và Chỉ huy các tàu Pháp của An Nam
Conflits (Chiến trận) : Bataille de Qui Nhon (1792) (Trận Quy Nhơn (1782)
Distinction (Vinh thăng) : Marquis de Tri Lüoc (Trí Lược Hầu)
Autres Fonctions (Chức vụ khác) : Délégué Impérial (Mandarin) (Khâm sai (Quan)
Famille (Gia đình) : Laurent Dayot, son père. Le Comte d'Ayot, son frère. Thomas Dayot, son oncle (Cha là Laurent Dayot. Anh/Em là Bá tước d’Ayot. Chú/Bác/Cậu là Thomas Dayot)
Có đề : Plan de la Ville de Saigon fortifiée en 1790 par le colonel Victor Olivier. Réduit du grand plan levé par ordre du Roi en 1795 par Mr. Brun, ingénieur de sa majesté. Par J.M. Dayot 1799.
(Bản đồ thành phố Sàigòn củng cố bởi đại tá Victor Olivier năm 1790. Thâu lại bởi J.M. Dayot, năm 1799, từ một sơ đồ lớn do ông Brun, kỷ sư của hoàng gia, vẽ theo lệnh Vua, năm 1795.
Jean-Marie Dayot (trái) em trai Félix Dayot (phải)
Bản đồ vẽ cảng Qui Nhơn của Jean-Marie Dayot (1795) (jpeg)
Chú thích [sửa | sửa mã nguồn]
^ Salles, p.199
^ a ă â Mantienne, p.154
^ Mantienne, p.156
Tham khảo [sửa | sửa mã nguồn]
Mantienne, Frédéric 1999 Monseigneur Pigneau de Béhaine, Editions Eglises d'Asie, 128 Rue du Bac, Paris, ISSN 12756865 ISBN 2914402201
Salles, André 2006 Un Mandarin Breton au service du roi de Cochinchine, Les Portes du Large ISBN 291461201X
Nguyễn Vĩnh-Tráng
Lời nói đầu :
Link" align="left" border="0" alt="" style="padding:7px;" />Tôi có viết bài « Monsieur Jean-Marie Dayot par les textes » bằng tiếng Pháp, cho đăng vào « Liên Kết Ngoại » (Lien externe) trên Wikipedia tiếng Pháp nói về J.M. Dayot. Bài viết có ý để người Pháp hay người ngoại quốc biết tiếng Pháp đọc, rồi để họ tự suy nghĩ lấy.
Nay tôi dịch thoáng qua bài đó, để độc giả người Việt đọc, nếu có thì giờ ; và nếu có thể, kính xin quý vị cho tôi ý kiến, để tôi được học hỏi thêm. Kính xin đa tạ.
Những trang dưới đây không có ý xem thường ông Jean-Marie Dayot hay những « Người Pháp phục vụ Gia Long »*, mà chỉ có ý lấy lại sự thật lịch sử. Để muốn biết rõ ràng cử chỉ, hành động của J.M. Dayot, tôi trích những đoạn bài viết về J.M. Dayot, của những nhân sĩ hay của những nhà sử học Pháp. Những đoạn trích nầy, ở dưới dạng « chép/dán », thành những lỗi về in ấn, chánh tả, văn phạm…, đều được để y nguyên.
*« Les Français au service de Gia Long », đề tài của những tác giả của Đô Thành Hiếu Cổ Xã (Amis du Vieux Huê).
Trên Wikipedia tiếng Pháp (tháng 05/2016) đã ghi những « thành tích » của J.M. Dayot giúp Nguyễn Ánh [xin đọc bài viết bằng tiếng Pháp của tôi]. Để tiện cho độc giả người Việt, tôi « chép/dán » ra đây những « thành tích » đó trên Wikipedia tiếng Việt (15/06/2017) [Wikipedia tiếng Anh lược dịch Wikipedia tiếng Pháp ; Wikipedia tiếng Việt lược dịch Wikipedia tiếng Anh] :
Jean-Marie Dayot
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Jean-Marie Dayot (tên tiếng Việt: Nguyễn Văn Trí, 1759-1809)[1] là một sĩ quan Hải quân Pháp và là một trong những nhà phiêu lưu đã phục vụ Nguyễn Ánh, người mà sau này là hoàng đế Gia Long của Việt Nam.
Xuất thân từ một gia đình gốc Bretagne định cư ở Ile Bourbon, Jean-Marie Dayot sinh ở Port Louis, Ile Maurice. Ông trở thành một đại úy hậu cần trên tàu (auxiliaire Lieutenant de vaisseau) trong Hải quân Hoàng gia Pháp. Ông gặp Bá Đa Lộc tại Ile Bourbon hoặc Pondicherry, và được giao nhiệm vụ chỉ huy một trong hai tàu buôn cùng với các tàu chiến Méduse của Bá Đa Lộc đi đến Việt Nam.[2] (1)
Tham gia phục vụ Nguyễn Ánh, năm 1790 ông chỉ huy một đơn vị Hải quân gồm có hai tàu chiến kiểu châu Âu của Nguyễn Ánh. Năm 1792, ông tham gia vào một trận hải chiến chống Tây Sơn, đánh chìm 5 tàu chiến, 90 thuyền kiểu và khoảng 100 tàu thuyền nhỏ hơn. Năm 1793, tại một trận hải chiến ở Quy Nhơn ông thu được khoảng 60 thuyền kiểu khoảng 100 thuyền kiểu Galê của Tây Sơn.[2] (2)
Ngoài ra, Dayot còn thực hiện các công việc trong lĩnh vực thủy văn, làm ra rất nhiều bản đồ bờ biển Việt Nam, mà người vẽ là người em trai của ông, Félix Dayot.[3]
Năm 1795, thuyền của Jean-Marie Dayot bị mắc cạn, vì việc này ông bị kết tột sơ suất và bị phạt gông. Tức giận, ông rời khỏi Đông Dương.[2] (3)
Jean-Marie Dayot sau đó định cư ở Manilla, nơi mà ông buôn bán với México. Ông chết khi thuyền của ông chìm ở Vịnh Bắc Bộ năm 1809. (4) Em của ông, Félix Dayot, chết vào năm 1821 ở Macao
Trên Wikipedia tiếng Anh còn cho thêm :
Born (Sanh) : 1759. Port Louis, Ile Maurice.
Died (Chết) : 1809. Vịnh Bắc Việt, Việt Nam.
Allegiance (Tuyên thệ trung thành) : Pháp, Việt Nam. (5)
Service/branch (Phục vụ/Binh chủng) : Hải Quân Pháp. Hải Quân Việt Nam.
Rank (Cấp bậc) : Đô Đốc Hạm Đội Nam Hà. Tư Lệnh các chiến hạm An Nam (6) (Admiral of the Fleet of Cochinchina and Commandant des bâtiments français de l'Anam (sic)).
Battles/wars (Tham dự chiến trận) : Qui Nhơn 1972. (8)
Cũng trên Wikipedia tiếng Việt nói về Olivier de Puymanel, cùng ngày (15/06/2017) có cho :
Puymanel được ghi nhận là đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn,[7] còn Jean Marie Dayot thì lo về thủy quân. Kết quả của nó là việc du nhập kỹ thuật quân sự Châu Âu vào Việt Nam.[8]
Trên Wikipedia tiếng Pháp cho thêm :
Jean Baptiste Marie Dayot (1760-1809)2 était un officier de la Marine française et un explorateur, (et non un aventurier) qui vint au service de Nguyen Anh, futur empereur Gia Long d'Annam (aujourd'hui Viêt Nam).
(Jean Baptiste Marie Dayot 1759-18092 là một sĩ quan Hải quân Pháp và là một nhà thám hiểm, (chứ không phải một nhà phiêu lưu) đã phục vụ Nguyễn Ánh, hoàng đế Gia Long sau nầy của An Nam (Việt Nam ngày nay).
Naissance (Sinh) : 1760, tại Redon, Pháp
Décès (Chết) : 1809, Vịnh Bắc Việt
Allégeance (Thề trung thành) : Vietnam (tháng 05/2016). Sau đó sửa lại Tuyên thệ trung thành : Royaume de France (Vương Quốc Pháp), Việt Nam (tháng 12/2016)].
Grade (Cấp bậc) : Grand amiral de la flotte annamite et commandant des bâtiments français de l'Annam (Đại Đô Đốc của Hạm Đội An Nam và Chỉ huy các tàu Pháp của An Nam
Conflits (Chiến trận) : Bataille de Qui Nhon (1792) (Trận Quy Nhơn (1782)
Distinction (Vinh thăng) : Marquis de Tri Lüoc (Trí Lược Hầu)
Autres Fonctions (Chức vụ khác) : Délégué Impérial (Mandarin) (Khâm sai (Quan)
Famille (Gia đình) : Laurent Dayot, son père. Le Comte d'Ayot, son frère. Thomas Dayot, son oncle (Cha là Laurent Dayot. Anh/Em là Bá tước d’Ayot. Chú/Bác/Cậu là Thomas Dayot)
Bản đồ Sàigòn
Bản Đồ Sàigòn
Bản Đồ Sàigòn
Có đề : Plan de la Ville de Saigon fortifiée en 1790 par le colonel Victor Olivier. Réduit du grand plan levé par ordre du Roi en 1795 par Mr. Brun, ingénieur de sa majesté. Par J.M. Dayot 1799.
(Bản đồ thành phố Sàigòn củng cố bởi đại tá Victor Olivier năm 1790. Thâu lại bởi J.M. Dayot, năm 1799, từ một sơ đồ lớn do ông Brun, kỷ sư của hoàng gia, vẽ theo lệnh Vua, năm 1795.
Jean-Marie Dayot (trái) em trai Félix Dayot (phải)
Bản đồ vẽ cảng Qui Nhơn của Jean-Marie Dayot (1795) (jpeg)
Chú thích [sửa | sửa mã nguồn]
^ Salles, p.199
^ a ă â Mantienne, p.154
^ Mantienne, p.156
Tham khảo [sửa | sửa mã nguồn]
Mantienne, Frédéric 1999 Monseigneur Pigneau de Béhaine, Editions Eglises d'Asie, 128 Rue du Bac, Paris, ISSN 12756865 ISBN 2914402201
Salles, André 2006 Un Mandarin Breton au service du roi de Cochinchine, Les Portes du Large ISBN 291461201X
Comment