Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Mở đầu
Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5./ Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
10./ Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
15./ Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20./ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc lại là phần hơn.
25./ Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
30./ Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên xoang,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
35./ Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5./ Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Cảo thơm lần giở trước đèn,
Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh.
Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh,
10./ Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng.
Có nhà viên ngoại họ Vương,
Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung.
Một trai con thứ rốt lòng,
Vương Quan là chữ nối dòng nho gia.
15./ Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
20./ Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc lại là phần hơn.
25./ Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một, hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
30./ Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên xoang,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.
35./ Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Chú giải:
20. Khuông trăng: Khuôn mặt đầy đặn, tròn trĩnh, xinh xắn như mặt trăng. Nét ngài: nét lông mày.
21. Thốt: Tiếng cổ có nghĩa là nói.
Hoa cười, ngọc thốt: cười tươi như hoa, nói đẹp như ngọc.
25. Thu thủy: Nước mùa thu, Xuân sơn: Núi mùa xuân. Câu nói này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân.
27. Bài ca của Lý Diên Niên, đời Hán, ca ngợi sắc đẹp của một mỹ nhân có câu:
Nhất cố khuynh nhân thành
Tái cố khuynh nhân quốc
Nghĩa là:
Quay lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người
Quay lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người.
Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ.
Hai chữ một hai trong câu này dịch mấy chữ nhất cố, tái cố ở trên.
28. Câu này có nghĩa là về "sắc" thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về "tài" thì họa may ra còn có người thứ hai nữa.
31. Cung, thương: Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương, giốc, trủy, vũ.
Làu bậc: Làu thông cung bậc.
32. Hồ cầm: Một loại đàn tỳ bà.
Hồ cầm một trương: Một cây đàn hồ cầm.
34. Bạc mệnh: Tên bản đàn do Thuý Kiều sáng tác. "Bạc mệnh" nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh.
Não nhân: Làm cho người ta nghe mà não lòng.
35. Hồng quần: Cái quần màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.
36. Cặp kê: Đến tuổi cài trâm (Kê nghĩa là cài trâm). Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi đến thì hứa gả chồng cho nên bắt đầu búi tóc cài trâm.
38. Tường đông: Bức tường ở phía đông. Thời xưa con gái thường ở nhà phía đông. Đây dùng chữ "tường đông" để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều lén gặp Kim Trọng lần đầu
Lần lần ngày gió đêm trăng
370./ Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua.
Ngày vừa sinh nhật ngoại gia
Trên hai đường dưới nữa là hai em.
Tưng bừng sắm sửa áo xiêm
Biện dâng một lễ xa đem tấc thành.
375./ Nhà lan thanh vắng một mình
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
Thời trân thức thức sẵn bày
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường.
Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng
380./ Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông:
"Trách lòng hờ hững với lòng
"Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu.
"Những là đắp nhớ đổi sầu
"Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm."
385./ Nàng rằng: "Gió bắt mưa cầm
"Đã cam tệ với tri âm bấy chầy.
"Vắng nhà được buổi hôm nay
"Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!"
Lần theo núi giả đi vòng
390./ Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
Xắn tay mở khóa động đào
Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên-thai.
Mặt nhìn mặt càng thêm tươi
Bên lời vạn phúc bên lời hàn huyên.
395./ Sánh vai về chốn thư hiên
Góp lời phong nguyệt nặng nguyền non sông.
Trên yên bút giá thi đồng
Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên.
Phong sương được vẻ thiên nhiên
400./ Mặt khen nét bút càng nhìn càng tươi.
Sinh rằng: "Phác họa vừa rồi
"Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa."
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
405./ Khen: "Tài nhả ngọc phun châu,
"Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này !
"Kiếp tu xưa ví chưa dày,
"Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!"
Nàng rằng: "Trộm liếc dung quang,
410./ "Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn.
"Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
"Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?
"Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
"Có người tướng sĩ đoán ngay một lời
415./ "Anh hoa phát tiết ra ngoài,
"Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
"Trông người lại ngẫm đến ta,
"Một dầy một mỏng biết là có nên?"
Sinh rằng: "Giải cấu là duyên,
420./ "Xưa nay nhân định thắng nhiên cũng nhiều.
"Ví dù giải kết đến điều,
"Thì đem vàng đá mà liều với thân!"
Đủ điều trung khúc ân cần,
Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng.
425./ Ngày vui ngắn chẳng đầy gang,
Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.
Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
Giã chàng nàng mới kíp dời song sa.
Chú giải:
370. Thưa hồng rậm lục: Màu đỏ ít đi, màu xanh rậm thêm, tức là mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp tới.
372. Hai đường: Do chữ song đường (xuân đường và huyền đường) chỉ cha mẹ.
375. Nhà lan: Do chữ lan thất.
377. Thời trân: Những thức ăn quý đương mùa. Thuý Kiều mang sang để tiếp Kim Trọng. Chú ý, "sẵn bày" ở đây không phải là bày biện ra bàn ở nhà Kiều.
382. Lửa hương: Hai chữ này thường dùng để chỉ tình duyên vợ chồng.
384. Hoa râm: Hoa cây râm, sắc trắng, ví mái tóc lốm đốm bạc trông như những chẫm hoa râm.
386. Tri âm: Hiểu biết tiếng đàn. Đời Xuân Thu, Bá Nha, một người giỏi đàn, Chung Tử Kỳ, một người giỏi nghe đàn, đều nổi tiếng, cùng làm bạn với nhau. Tử Kỳ hiểu được tâm hồn bạn trong tiếng đàn, khi Bá Nha gẩy đàn mà trong lòng nghĩ đến dòng chảy (lưu thủy), thì Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn cuồn cuộn như sông Giang, sông Hà". Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha đứt dây, đập đàn ra, và than rằng: "Trong thiên hạ không còn ai là tri âm (người hiểu biết tiếng đàn của mình) nữa". Về sau, tri âm dùng để chỉ bạn thân, tri kỷ, hoặc bạn tình.
389. Núi giả: Chữ Hán là giả sơn, tức là núi non bộ.
391. Động đào: Tức động Đào nguyên.
392. Thiên thai: Tên một núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, Tương truyền đời Hán, Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ rồi cùng nhau kết duyên ở đấy.
394. Vạn phúc: Lời chào hỏi chúc mừng khi gặp nhau. Hàn huyên: lạnh ấm, lời hỏi thăm sức khỏe.
396. Phong nguyệt: Lời thơ trăng gió vui chơi. Non sông: Lấy núi sông mà nguyền ước (sông cạn, núi mòn, lời thề cũng không thay đổi).
397. Yên: Bàn sách, Bút giá: Cái giá để gác bút. Thi đồng: Cái ống đựng thơ.
398. Đạm thanh: Màu xanh nhạt, chỉ màu bức tranh cây thông của Kim Trọng.
399. Phong sương: Gió và sương. Bức tranh cây thông vẽ rất tự nhiên như có đượm cả phong sương.
402. Phẩm đề: Đề lời vịnh bức tranh. Thêm hoa: Thêm vẻ đẹp. Ý nói bức tranh mới vẽ xong, xin đề mấy vần thơ cho tăng thêm vẻ đẹp.
403. Tay tiên: Bàn tay người đẹp, người tiên.
405. Nhả ngọc phun châu: Tài xuất khẩu thành thơ hay, như nhả ra ngọc, phun ra châu.
406. Nàng Ban: Nàng Ban Chiêu, đời Đông Hán. Nàng học rộng tài cao, được vua Hán vời đến giúp soạn sách.
ả Tạ: Nàng Tạ Đạo Uẩn, đời Tấn, là người thông minh, có học thức.
410. Ngọc bội: Đồ đeo bằng ngọc. Chữ dùng chỉ chung người đã hiển đạt và có quan chức.
Kim môn: Tức Kim mã môn nói tắt, tên cửa cung Vương của vua nhà Hán (cửa cung có để tượng ngựa đồng nên gọi là Kim mã). Đời Hán Vũ Đế, thường cho những người có văn tài đến đợi ở đây, để chờ nhà vua hỏi han về chính sự. Kiều muốn nói Kim Trọng không là nhà quan cũng là người học cao.
412. Khuôn xanh: Cũng như khuôn thiêng, sự sắp đặt của trời.
414. Tướng sĩ: Thày xem tướng.
415. Anh hoa: Những cái tinh hoa tốt đẹp.
419. Giải cấu: Cuộc gặp gỡ tình cờ.
420. Nhân định thắng thiên: ý nói người ta cũng có thể làm thay đổi được cả số trời.
421. Giải kết: Giải là cởi, kết là mối buộc. Ý nói chúng ta đã ràng buộc với nhau, nếu có sự chia rẽ thì quyết liều thân để giữ lời vàng đá.
423. Trung khúc: Những sự ủy khúc ở trong lòng, như nói tâm tình, tâm sự.
424. Tàng tàng: Say say, ngà ngà.
425. Gang: ý nói ngày ngắn lắm.
428. Song sa: Cửa sổ có che vải sa, cũng như song the, chỉ phòng ở của Kiều.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều lén gặp Kim Trọng lần thứ hai
Đến nhà vừa thấy tin nhà,
430./ Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về.
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
435./ Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần,
440./ Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Nàng rằng: "Khoảng vắng đêm trường,
"Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
"Bây giờ rõ mặt đôi ta,
"Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?"
445./ Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp song đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
450./ Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Chén hà sánh giọng quỳnh tương,
Dải là hương lộn bình gương bóng lồng.
455./ Sinh rằng: "Gió mát trăng trong,
"Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
"Chày sương chưa nện cầu Lam,
"Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?"
Nàng rằng: "Hồng diệp xích thằng,
460./ "Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri.
"Đừng điều nguyệt nọ hoa kia.
"Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai."
Rằng: "Nghe nổi tiếng cầm đài,
"Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ."
465./ Thưa rằng: "Tiện kỹ sá chi,
"Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng."
Hiên sau treo sẵn cầm trăng,
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Nàng rằng: "Nghề mọn riêng tay,
470./ "Làm chi cho bận lòng này lắm thân!"
So dần dây vũ dây văn,
Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương.
Khúc đâu Hán Sở chiến trường,
Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.
475./ Khúc đâu Tư mã Phượng cầu,
Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
Kê Khang này khúc Quảng lăng,
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân.
Quá quan này khúc Chiêu Quân,
480./ Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời.
Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
485./ Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi tựa gối khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày.
Rằng: "Hay thì thật là hay,
490./ "Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
"Lựa chi những bậc tiêu tao,
"Dột lòng mình cũng nao nao lòng người?"
Rằng: "Quen mất nết đi rồi,
"Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
495./ "Lời vàng vâng lĩnh ý cao,
"Họa dần dần bớt chút nào được không."
Hoa hương càng tỏ thức hồng,
Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
500./ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
Thưa rằng: "Đừng lấy làm chơi,
"Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!
"Vẻ chi một đóa yêu đào,
"Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
505./ "Đã cho vào bậc bố kinh,
"Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụ
"Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
"Thì con người ấy ai cầu làm chi!
"Phải điều ăn xổi ở thì,
510./ "Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
"Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay,
"Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương.
"Mây mưa đánh đổ đá vàng,
"Quá chiều nên đã chán chường yến anh.
515./ "Trong khi chắp cánh liền cành,
"Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
"Mái tây để lạnh hương nguyền,
"Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
"Gieo thoi trước chẳng giữ giàng,
520./ "Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
"Vội chi liễu ép hoa nài,
"Còn thân ắt lại đền bồi có khi !"
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.
525./ Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân,
Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào.
Nàng thì vội trở buồng thêu,
Sinh thì dạo gót sân đào bước ra.
Chú giải:
430. Hai thân: Cha mẹ, do chữ song thân, tức thân phụ (cha) và thân mẫu (mẹ).
433. Nhặt thưa: Mau và thưa, chỉ ánh trăng. Ánh trăng giọi bóng cành lá cây xuống làm cho mặt đất chỗ sáng, chỗ tối.
434. Trướng huỳnh: Trướng là cái màn, huỳnh là con đom đóm. Đời Tấn, Xa Dận ham học, nhà nghèo, đêm không có đèn, phải bắt con đom đóm đựng vào túi lụa thưa để mà đọc sách. Chỉ phòng học của Kim Trọng.
437. Tiếng sen: Bước chân của người đẹp. Giấc hòe: Theo sách Nam kha ký: Thuần Vu Phần đời Đường, ngày sinh nhật, uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cay hòe già ở phía nam nhà ông, liền mộng thấy đến một nước gọi là "Đại Hòe An", được vua nước ấy gả công chúa, và cho làm quan Thái thú quận Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi năm. Khi tỉnh dậy, chỉ thấy dưới gốc hòe một tổ kiến lớn, trong có con kiến chúa, mới hiểu đó là nước và vua Hòe An (gốc hoè yên ổn), còn Nam Kha tức là cành hòe phía nam nhằm thẳng xuống tổ kiến. Do đó, người ta nói "giấc Nam Kha" hay "giấc hòe" để chỉ cuộc phú quý hư ảo.
438. Đây nói, Kim Trọng sực tỉnh thấy ánh trăng đưa bóng hoa lê tới gần.
439. Đỉnh Giáp: Đỉnh núi Vu Giáp (hay Vu Sơn). Vua Sở Hoài Vương đi chơi quán Cao Đường, mộng thấy một người đàn bà đẹp, và tự xưng là thần núi Vu Sơn, sớm làm mây, chiều làm mưa. Do tích này, người ta thường dùng chữ "mây mưa" để chỉ việc ân ái giữa trai gái.
Non thần: núi Thần nữ chỗ ở của nàng tiên gặp vua Sở nói trên.
446. Đài sen: Cái để thắp nến làm hình hoa sen.
Song đào: Chỗ cửa sổ có trồng cây đào.
447. Tiên thề: Giấy hoa tiên (giấy viết thư từ có vẽ hoa ghi chép lời thề).
452. Đồng: Đồng tâm, cùng một lòng với nhau. Người xưa, thường tặng nhau dây lưng gấm, kết thành vòng hồi văn, ngụ ý thân yêu quấn quýt, gọi là cái "đồng tâm kết".
453. Hà: Ráng mặt trời. Chén hà do chữ hà bôi thứ chén bằng ngọc màu ráng đỏ, đây dùng nói chén quý.
Quỳnh tương: nước ngọt, ví thứ rượu ngon quý.
454. Ý nói Kiều với Kim Trọng, ngồi kề nhau, mùi hương quần áo như là hoà lộn với nhau, mà trong bình gương, bóng hai người cũng như lồng đôi với nhau.
457. Chày sương, cầu Lam: đã chú ở câu 266.
458. Sàm sỡ: Lả lơi không đứng đắn.
459. Hồng điệp, xích thằng: xen câu 268 và 238.
460. Tương tri: Biết lòng nhau, thông cảm nhau.
461. Nguyệt nọ, hoa kia: Chuyện trai gái bất chính.
463. Cầm đài: Cái đài ngồi gẩy đàn của Tư Mã Tương Như, một nhà giỏi đàn đời Tây Hán.
464. Nước non: Do chữ lưu thủy, cao sơn (nước chảy, non cao), những tiếng đàn của Bá Nha mà Chung Tử Kỳ nghe và phân biệt được. Đây Kim Trọng đề cao Kiều lên ngang tài với Bá Nha, và tự cho mình là Chung Kỳ.
465. Tiện Kỹ: Nghề mọn, lời nói nhún.
467. Cầm trăng: Tức nguyệt cầm, ta gọi là đàn nguyệt.
468. Tây nâng ngang mày: Thái độ tỏ ý trân trọng.
470. Bận lòng: khó nghĩ. Lắm thân: tiếng cổ, có nghĩa là "lắm thay".
471. Vũ, văn: Vũ là dây đàn to, văn là dây đàn nhỏ.
472. Cung thương: xem câu 31.
473. Hán Sở chiến trường: Bãi chiến trường giữa đời Hán, và nước Sở. Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao tổ) và Hạng Vũ (Sở Bá vương) đánh nhau nhiều trận kịch liệt.
474. Tiếng sắt, tiếng vàng: Tiếng khí giới bằng sắt, bằng kim loại va chạm xô xát nhau.
475. Tư mã phượng cầu: Tư mã Tương Như người đời Hán, có văn tài, ở đất Lâm Cùng, Trác Vương Tôn, có con gái là Văn Quân, người đẹp mà mới góa chồng. Tương Như gẩy khúc đàn "Phượng cầu hoàng" để tỏ tình, Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm ấy, bỏ nhà trốn theo Tương Như.
477. Kê Khang, Quảng Lăng: Kê Khang, đời Tam quốc, đêm gẩy đàn cầm ở đình Hoa Dương, bỗng có người khách lạ tới dạy cho khúc "Quảng Lăng tán", âm điệu tuyệt hay.
478. Lưu thủy, hành vân: Nước chảy, mây bay. Ý nói khúc đàn thanh thoát lưu loát.
479. Quá quan: Đi qua cửa ải. Chiêu Quân: Tên chữ của Vương Tường, một cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị gả cho chúa Hung nô, khi qua cửa ải, vào đất Hung nô, Chiêu Quân thường gảy khúc đàn tỳ bà để tỏ nỗi lòng nhớ nhà, nhớ nước.
482. Tiếng suối: Tiếng đàn nghe đục như tiếng ầm ì của dòng suối dội ở lưng chừng núi xuống.
488. Chín khúc: Chỉ các khúc ruột chứ không nhất thiết phải đúng chín khúc ruột.
491. Tiêu tao: Chính nghĩa là tiêu điều, thê hương, đây dùng chỉ tiếng đàn buồn rầu, sầu não.
492. Dột: ủ dột.
Nao nao: Xao xuyến, đau xót.
495. Lời vàng: Lời khuyên quí giá.
497. Hoa hương: Hoa có hương thơm. Thức hồng: vẻ hồng. Càng đàn, càng thơ, nàng Kiều càng đẹp, tình ý đôi bên càng nồng nàn.
501. Làm chơi: Xem vấn đề là thường, không quan trọng.
503. Yêu đào: Cây đào non, lấy chữ ở thơ "Đào yêu", Kinh thi: Đào chi yêu yêu (cây đào non mơn mởn) ví với người con gái trẻ mà đẹp, đã đến tuổi đi lấy chồng.
505. Bố kinh: Bố là vải, kinh là cây kinh, một loại cây mọc thành cụm, hoa màu tía nhạt, cành và thân cứng rắn, thời xưa, những phụ nữ nghèo thường dùng cành nó làm trâm cài tóc.
Ở đây, ý Kiều nói: Đã cho vào hàng người vợ chính thức như hạng bố kinh thời xưa (không phải là nhân tình, nhân ngãi).
506. Tòng phu: Theo chồng, chí cái đạo làm vợ, theo quan niệm Nho giáo xưa.
507. Trên Bộc, trong dâu: Trong bãi dâu, trên sông Bộc. Xưa ở nước Vệ, đời Xuân Thu, có tục trai gái hẹn hò, tụ hội nhau ở bãi dâu trên sông Bộc để hát hổng, đùa bỡn, làm việc dâm đãng.
511. Kỳ ngộ: Cuộc gặp gỡ kỳ lạ, chỉ cuộc nhân duyên tốt đẹp của đôi tài tử giai nhân.
512. Thôi, Trương: Theo Tây sương ký: Thôi Oanh và Trương Cung, tên tự là Quân Thuỵ, đời Đường, là đôi trai tài, gái sắc, đẹp đôi, vừa lứa, đã gặp gỡ và yêu nhau ở chái tây chùa Phổ Cứu, đất Bổ Đông, nhưng vì đã đi lại ăn nằm với nhau, nên về sau chán mà bỏ nhau.
513. Đá vàng: Đây chỉ tình vợ chồng chung thuỷ, đoan chính.
514. Yến anh: Đây ví với cặp trai gái.
515. Chắp cánh liền cành: Nói khi ăn nằm ân ái với nhau. Theo bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị, vua Đường Huyền tông và Đường quý phi nguyện với nhau trong đêm "thất tịch": Tại thiên nguyện tác ti dực diểu, tại địa nguyên vi liên lí chí (trên trời nguyện làm đôi chim liền cánh, dưới đất nguyện là hai cây liền cành).
517. Mái tây: Do chữ tây sương, tức chái tây chùa Phổ Cứu, nơi Thôi, Trương gặp gỡ nhau.
Hương nguyền: Nén hương để thề nguyền.
519. Gieo thoi: Các sách thường dẫn điển sau đây: Tạ Côn đời Tấn, ghẹo người con gái đang ngồi dệt cửi, bị cô ta cần cái thoi ném vào mặt, gẫy mất hai cái răng (theo Tấn thư).
524. Vì: Nể, tiếng cổ, cũng có nghĩa là yêu (yêu vì Nặng lòng xót liễu vì hoa).
525. Bóng tàu: Bóng mái nhà (Tàu: Miếng gỗ dài đặt dọc ở mái hiên, để đỡ lấy mái nhà, gần chỗ giọt tranh).
Vẻ ngân: Vẻ sáng như bạc, chỉ ánh trăng.
528. Sân đào: Sân có trồng cây đào.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kim Trọng về chịu tang chú
Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
530./ Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang.
Đem tin thúc phụ từ đường,
Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề.
Liêu Dương cách trở sơn khê,
Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang.
535./ Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng,
Băng mình lẻn trước đài trang tự tình.
Gót đầu mọi nỗi đinh ninh,
Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
"Sự đâu chưa kịp đôi hồi,
540./ "Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ,
"Trăng thề còn đó trơ trơ,
"Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
"Ngoài nghìn dặm chốc ba đông,
"Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy!
545./ "Gìn vàng giữ ngọc cho hay,
"Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời."
Tai nghe ruột rối bời bời,
Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
"Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
550./ "Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!
"Cùng nhau trót đã nặng lời,
"Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
"Quản bao tháng đợi năm chờ,
"Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
555./ "Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
"Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.
"Còn non còn nước còn dài,
"Còn về còn nhớ đến người hôm nay!"
Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
560./ Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
Ngại ngùng một bước một xa,
Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc yên quảy gánh vội vàng,
Mối sầu sẻ nửa bước đường chia hai.
565./ Buồn trông phong cảnh quê người,
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa.
Não người cữ gió tuần mưa,
Một ngày nặng gánh tương tư một ngày.
Chú giải:
530. Gia đồng: Người phục dịch công việc ở trong nhà.
531. Thúc phụ: Chú ruột.
Từ đường: Từ bỏ nơi nhà ở, tức là chết.
532. Lữ thấn: Chết nhưng mà chưa chôn, quan tài còn quàn tạm ở nơi đất khách.
533. Liêu Dương: Tên đất, nay thuộc tỉnh Liêu Ninh (Trung Quốc) nơi chú ruột Kim Trọng chết.
Sơn khê: Núi và khe ngòi.
534. Xuân đường: Cha, Xuân là một loại cây sống rất lâu. Người sau nhân gọi cha là xuân hay Xuân đường (nhà xuân), có ý mong cha được tuổi thọ như cây ấy.
Hộ tang: Trông coi việc tang.
535. Mảng: Tiếng cổ.
Mảng tin: Mới chợt nghe tin.
536. Đài trang: Do chữ trang đài, nơi trang điểm của phụ nữ.
537. Đinh ninh: cặn kẽ, đến nơi đến chốn.
539. Đôi hồi: Giãi bày, trò chuyện hết lời với nhau.
540. Trao tơ: Chỉ việc kết hôn. Theo sách Khai nguyên Thiên bảo di sự: Trương Gia Trinh, tể tướng nhà Đường, có năm con gái, muốn gả một người cho Quách Nguyên Chấn, đô đốc Lương Châu, người đẹp mà có tài nghệ, bèn bảo năm con đứng sau một bức màn, mỗi người cầm một sợi dây tơ dài, dòng ra ngoài, và cho Nguyên Chấn tùy ý kéo lấy một sợi, trúng sợi nào thì lấy người cầm sợi ấy. Nguyên Chấn được kéo sợi tơ đỏ, lấy người con thứ ba, rất đẹp.
543. Ba đông: Ba năm để tang.
544. Chầy: Còn chậm, còn lâu ngày.
545. Gìn vàng giữ ngọc: Giữ thân thể cho được khoẻ mạnh, và cũng ngụ ý giữ gìn mối tình cho được thuỷ chung, trong sạch.
556. Ôm cầm thuyền ai: Ôm đàn sang thuyền của người khác, tức là đi lấy chồng khác.
566. Quyên: Chim đỗ quyên, tức chim quốc. Đây tả cảnh cuối hè, sang thu. Tiếng quyên kêu còn ra rả (nhặt) đầu cành và bóng nhạn đã thấy bay loáng thoáng (thưa) ở chân trời.
567. Cữ, tuần: Người xưa thường tính bảy ngày là một cữ, và mười ngày là một tuần.
568. Tương tư: Nguyên nghĩa là ở xa cách mà cùng nhớ nhau, sau người ta mượn để nói sự nhớ nhau của đôi trai gái yêu nhau.