Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Gia đình Kiều bị vu oan
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Gia đình Kiều bị vu oan
Nàng còn đứng tựa hiên tây,
570./ Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng.
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về,
575./ Hàn huyên chưa kịp giã giề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
580./ Một dây vô loại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585./ Điều đâu bay buộc ai làm,
Này ai đan dậm, giật giàm bỗng dưng?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
590./ Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595./ Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
570./ Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ.
Trông chừng khói ngất song thưa,
Hoa trôi giạt thắm, liễu xơ xác vàng.
Tần ngần dạo gót lầu trang,
Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về,
575./ Hàn huyên chưa kịp giã giề,
Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao.
Người nách thước, kẻ tay đao;
Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
Già giang một lão một trai,
580./ Một dây vô loại buộc hai thâm tình.
Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
Rụng rời khung dệt, tan tành gói may.
Đồ tế nhuyễn, của riêng tây,
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585./ Điều đâu bay buộc ai làm,
Này ai đan dậm, giật giàm bỗng dưng?
Hỏi ra sau mới biết rằng:
Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.
Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
590./ Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây.
Hạ từ van lạy suốt ngày,
Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
Rường cao rút ngược dây oan,
Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595./ Mặt trông đau đớn rụng rời,
Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
Một ngày lạ thói sai nha,
Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
Chú giải:
570. Chín hồi: Do chữ cửu hồi, ruột chín lần bị đau quặn lại.
574. Ngoại hương: Làng ngoại, quê ngoại.
575. Giã giề: Giải bày, chuyện trò.
576. Sai nha: Nha lại do quan trên sai phái đi.
577. Thước: Tay thước, một thứ võ khí cổ, bằng gỗ, dài độ một thước tây, cạnh vuông bốn góc, dùng để đánh người.
Nách thước: Nách cắp tay thước.
Đao: Dao to, mã tấu, thứ võ khí bằng sắt, lưỡi to.
579. Già: Cái gông. Giang: Khiêng đi, giải đi. ở đây nói cha con viên ngoại và Vương quan bị đóng gông lại.
583. Tế nhuyễn: Nhỏ bé, mềm mại, chỉ chung những đồ vàng ngọc quí gái và trang sức, quần áo dễ mang đi.
585. Bay buộc: ý nói cái tai vạ tự đâu bay đến, buộc vào.
586. Dậm: Một dụng cụ đánh cá.
588. Xưng xuất: Xưng ra, khai ra.
590. Lòa mây: Làm mờ cả bầu trời. Ý nói: một vụ hết sức oan uổng.
591. Hạ từ: Hạ lời, nói lời thanh minh để kêu cầu van xin.
592. Lân tuất: Thương xót, thương tình. Ý cả câu: bọn sai nha cứ phủi tay đánh đập, mặc những lời kêu van của nhà Kiều, chúng chỉ làm điếc làm ngơ.
593. Rường cao: Thanh rường nhà bắc ở trên cao. Dây oan: Dây trói oan uổng. Bọn sai nha trói và treo ngược hai cha con họ Vương lên rường nhà.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều nhờ em đáp tình Kim Trọng
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
695./ Một mình nàng ngọn đèn khuya,
Áo dầm giọt lệ, tóc se mái sầu.
Phận dầu, dầu vậy cũng dầu,
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời!
Công trình kể biết mấy mươi.
700./ Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
Thề hoa chưa ráo chén vàng,
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
Trời Liêu non nước bao xa.
Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705./ Biết bao duyên nợ thề bồi.
Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
Tái sinh chưa dứt hương thề.
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Nợ tình chưa trả cho ai,
710./ Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Nỗi riêng riêng những bàn hoàn,
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715./ "Cơ trời dâu bể đa đoan,
"Một nhà để chị riêng oan một mình,
"Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh?
"Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?"
Rằng: "Lòng đương thổn thức đầy,
720./ "Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
"Hở môi ra cũng thẹn thùng,
"Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
"Cậy em, em có chịu lời,
"Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725./ "Giữa đường đứt gánh tương tư,
"Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
"Kể từ khi gặp chàng Kim,
"Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
"Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730./ "Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!
"Ngày xuân em hãy còn dài,
"Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
"Chị dù thịt nát xương mòn,
"Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
735./ "Chiếc thoa với bức tờ mây,
"Duyên này thì giữ vật này của chung.
"Dù em nên vợ nên chồng,
"Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
"Mất người còn chút của tin,
740./ "Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
"Mai sao dù có bao giờ.
"Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
"Trông ra ngọn cỏ lá cây,
"Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
745./ "Hồn còn mang nặng lời thề,
"Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai;
"Dạ đài cách mặt khuất lời,
"Rảy xin chén nước cho người thác oan.
"Bây giờ trâm gẫy gương tan,
750./ "Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
"Trăm nghìn gửi lại tình quân,
"Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
"Phận sao phận bạc như vôi,
"Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
755./ "Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
"Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Cạn lời hồn ngất máu say,
Một hơi lặng ngắt đôi tay lạnh đồng.
Xuân Huyên chợt tỉnh giất nồng,
760./ Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài.
Kẻ thang người thuốc bời bời,
Mới dàu cơn vựng, chưa phai giọt hồng.
Hỏi: "Sao ra sự lạ lùng?"
Kiều càng nức nở nói không ra lời.
765./ Nỗi nàng Vân mới rỉ tai:
"Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây…"
"Này cha làm lỗi duyên mày,
"Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
"Vì ai rụng cải rơi kim,
770./ "Để con bèo nổi mây chìm vì ai.
"Lời con dặn lại một hai,
"Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng."
Lạy thôi, nàng mới rén chiềng:
"Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
775./ "Sá chi thân phận tôi đòi,
"Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu."
Chú giải:
694. Tinh kỳ: Người ta thường dùng chữ tinh kỳ để chỉ cái ngày thành hôn, vì theo hôn lễ xưa, người ta đón dâu vào buổi tối.
697. Dầu: Cũng như nghĩa đành (dầu lòng, đành lòng).
698. Một lời: Một lời thề nguyền. ý Kiều nói: Số phận ra sao cũng đành, nhưng chỉ đau lòng là trót đeo đẳng lời thề với Kim Trọng.
703. Trời Liêu: Liêu Dương.
707. Tái sinh: Một kiếp sống nữa, kiếp sau cũng như nói lai sinh
Hương thề: Mảnh hương thề nguyền. Xem chú thích 517.
708. Trâu ngựa: Theo thuyết luân hồi nhà Phật: Người nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả được, thì kiếp sau phải hoá làm thân trâu ngựa nhà người ta để đền trả cho xong.
Nghì: Tức là chữ "nghĩa" được đọc chệch ra.
Trúc mai: Tình nghĩa bền chặt thân thiết như cây trúc, cây mai thường được trồng gần nhau.
710. Khối tình: Tình sử: Xưa có một cô gái yêu một người lái buôn. Người lái buôn đi mãi chưa về, cô ta ốm tương tư mà chết. Khi hỏa táng, quả tim kết thành một khối rắn, đốt không cháy, đập không vỡ. Sau người lái buôn trở về, thương khóc, nước mắt nhỏ vào khối ấy liền tan ra thành huyết.
Tuyền đài: Nơi ở dưới suối vàng, tức nơi ở của người chết.
711. Bàn hoàn: ở đây có nghĩa là nghĩ quanh, nghĩ quẩn mãi không dứt.
713. Giấc xuân: Giấc ngủ ngon lành.
715. Cơ trời: Tức thiên cơ, máy trời.
Dâu bể: Cũng như "bể dâu".
Đa đoan: Nhiều mối nhiều việc.
717. Nhẫn: Tiếng cổ, ngồi nhẫn là ngồi mãi suốt đêm.
726. Keo loan: do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung.
Mối tơ thừa: Ví dây tơ tình với dây đàn, dây tơ tình bị đứt.
732. Lời nước non: Lời thề nguyền chỉ non thề bể.
734. Chín suối: Do chữ cửu tuyền, chỉ nơi suối vàng.
735. Tờ mây: Tờ giấy vẽ mây, tức tờ giấy ghi lời thề nguyền của Kim, Kiều.
740. Mảnh hương nguyền: Những mảnh gỗ thơm đã đốt dở trong cuộc thề nguyền của Kim, Kiều. Thời xưa, khi thề nguyền với nhau, người ta thường đốt hương.
746. Bồ liễu: Một loại cây ưa mọc gần nước. Cây bồ liễu rụng lá sớm hơn hết các loài cây, vì cái thể chất yếu đuối đó nên trong văn cổ thường dùng để ví với người phụ nữ.
747. Dạ đài: Đài đêm tối, nghĩa bóng là cõi chết.
749. Trâm gẫy gương tan: Thơ Bạch Cư Dị, đời Đường: Bình trụy trâm chiết thị hà như, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt. (Cái cảnh bình rơi trâm gãy là thế nào? Nó giống như cảnh biệt ly của thiếp với chàng buổi sáng nay). Đây dùng chỉ cuộc tình duyên tan vỡ.
751. Tình quân: Người tình, cũng như tình lang.
753. Phận bạc: Chính nghĩa là phận mỏng, tức bạc mệnh.
754. Nước chảy hoa trôi: Hoa rụng xuống, nước trôi đi, nguyên chỉ cảnh xuân tàn, sau thường mượn để nói sự tàn tạ của đời người.
759. Xuân huyên: Xuân đường, huyên đường, tức cha mẹ.
762. Vựng: Cơn ngất, bất tỉnh nhân sự.
Giọt hồng: Giọt nước mắt có máu, giọt lệ thảm.
769. Ý nói tình duyên nửa chừng bị chia lìa, tan vỡ.
772. Mòn bia đá: Chỉ một khoảng thời gian rất lâu.
Tấc vàng: Tấc lòng bền vững như vàng.
773. Chiềng: Trình, tiếng cổ.
775. Tôi đòi: Kiều bán mình làm vợ lẽ, nàng tự xem như kẻ ăn người ở.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều xuất giá
Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780./ Quản huyền đâu đã giục người sinh ly.
Đau lòng kẻ ở người đi,
Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm.
Trời hôm mây kéo tối rầm,
Dàu dàu ngọn cỏ đầm đầm cành sương.
785./ Rước nàng về đến trú phường,
Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong.
Ngập ngừng thẹn lục e hồng,
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen:
"Phẩm tiên rơi đến tay hèn,
790./ "Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai
"Biết thân đến bước lạc loài,
"Nhị đào thà bẻ cho người tình chung.
"Vì ai ngăn đón gió đông,
"Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi.
795./ "Trùng phùng dù họa có khi,
"Thân này thôi có ra gì mà mong.
"Đã sinh ra số long đong,
"Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?"
Trên yên sẵn có con dao,
800./ Dấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn
Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này.
Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
805./ Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
Quá chơi lại gặp hồi đen,
Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
Lầu xanh có mụ Tú Bà,
810./ Làng chơi đã trở về già hết duyên.
Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường.
Chung lưng mở một ngôi hàng,
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề.
815./ Dạo tìm khắp chợ thì quê,
Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi.
Rủi may âu cũng sự trời,
Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
Xót nàng chút phận thuyền quyên,
820./ Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
Mẹo lừa đã mắc vào khuôn,
Sính nghi rẻ giá nghinh hôn sẵn ngày.
Mừng thầm: "Cờ đã đến tay!
"Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng.
825./ "Đã nên quốc sắc thiên hương,
"Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa.
"Về đây nước trước bẻ hoa,
"Vương tôn quý khách ắt là đua nhau.
"Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
830./ "Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời,
"Miếng ngon kề đến tận nơi,
"Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.
"Đào tiên đã bén tay phàm,
"Thì vin cành quít cho cam sự đời!
835./ "Dưới trần mấy mặt làng chơi,
"Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa.
"Nước vỏ lựu máu mào gà,
"Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên.
"Mập mờ đánh lận con đen,
840./ "Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?
"Mụ già hoặc có điều gì,
"Liều công mất một buổi quỳ mà thôi.
"Vả đây đường xá xa xôi,
"Mà ta bất động nữa người sinh nghi."
845./ Tiếc thay một đóa trà mi,
Con ong đã tỏ đường đi lối về.
Một cơn mưa gió nặng nề,
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương.
Đêm xuân một giấc mơ màng,
850./ Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ.
Giọt riêng tầm tã tuôn mưa,
Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình:
"Tuồng chi là giống hôi tanh,
"Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
855./ "Thôi còn chi nữa mà mong?
"Đời người thôi thế là xong một đời."
Giận duyên tủi phận bời bời,
Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh.
Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860./ "Một mình thì chớ hai tình thì sao?
"Sau dầu sinh sự thế nào,
"Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân.
"Nỗi mình âu cũng giãn dần,
"Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi."
865./ Những là đo đắn ngược xuôi,
Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường.
Chú giải:
778. Mấy hồi: Mấy hồi trống tan canh.
780. Quản huyền: Chính nghĩa là ống trúc và dây đàn, thường dùng chỉ đàn. Đây nói họ Mã đưa các đồ âm nhạc đến đón Kiều.
782. Đại ý cả câu: Giọt lệ rơi xuống, có thể thấm qua cả đá, tơ ruột rút ra, có thể làm chết rũ cả con tằm.
785. Trú phường: Chỗ phố trọ, nhà trọ.
786. Xuân khóa: Chữ xuân ở đây không phải là mùa xuân. Chú ý: lúc Mã Giám sinh đón Kiều là mùa thu: Đêm thu một khắc một chầy.
787. Lục, hồng: Màu lá xanh, màu hoa đỏ thường dùng để chỉ sắc đẹp của phụ nữ.
788. Nghĩ lòng: Nghĩ riêng trong lòng.
Đòi phen: Nhiều phen, nhiều lúc.
789. Phẩm tiên: Của trên cõi tiên. Tay hèn:[/i] Hèn hạ, tục tằn.
790. Nắng giữ mưa gìn: ý nói giữ gìn trinh tiết một cách thận trọng.
792. Nhị đào: Hoa đào còn phong nhị ví với người con gái còn trinh.
793. Gió đông: Tiếp ý chữ nhị đào ở trên, ý nói: Không để cho người tình chung bẻ nhị đào, giống như ngăn đón gió đông không cho đến với nhị đào vậy.
795. Trùng phùng: Gặp gỡ lần thứ hai, ý nói đến sau này lại gặp Kim Trọng.
799. Yên: Cái án, một loại bàn cổ, chân cao, bề mặt hẹp và dài.
806. Phong tình: ăn chơi phóng đãng bất chính.
809. Lầu xanh: Do chữ thanh lâu: Cái lầu sơn mầu xanh. Chữ thanh lâu nguyên chỉ lầu ở của phái quyền quí hay vua chúa, hoặc chỉ lầu ở của mỹ nhân. Về sau thanh lâu mới có nghĩa là nhà hát, nhà điếm.
810. Làng chơi: thuộc loại gái điếm gái làng chơi.
812. Mạt cưa mướp đắng: Chuyện cổ tích: "Một người lấy mạt cưa làm cám, đợi lúc nhá nhem tối, đem ra chợ bán, lại gặp một người đem mướp đắng giả làm dưa chuột ra bán. Hai người bán lẫn cho nhau, thế là bợm lại mắc bợm". Đây nói Mã Giám sinh và Tú bà cùng là phường bịp.
814. Buôn phấn bán hương: Mua những con gái ở các nơi về làm gái điếm. Phấn và hương là hai thứ nữ giới dùng để trang điểm, nên mượn để chỉ chung nữ giới.
Đã lề: ý nói đã thành nề nếp, đã quen nghề.
815. Chợ: Kẻ chợ, tức nơi thành thị, đô hội. Khắp chợ thì quê: Lối nói cổ, có nghĩa là: khắp chợ cùng quê, khắp vùng kẻ chợ đến miền thôn quê.
816. Giả danh hầu hạ: Mượn tiếng là tìm nàng hầu, vợ lẽ để về hầu hạ.
Dạy nghề ăn chơi: Dạy nghề làm gái điếm kiếm tiền.
819. Thuyền quyên: Nguyên nghĩa là óng ả xinh tươi để chỉ người phụ nữ đẹp.
821. Mẹo lừa: mưu mẹo lừa dối.
Khuôn: Như nói vành, đã mắc vào vành không ra được nữa.
822. Nghinh hôn: Đón dâu.
823. Cờ đến tay: Đây mượn câu tục ngữ: Cờ đến tay ai, người nấy phất, để nói ý nghĩ của gã họ Mã: Kiều đã vào tay mình rồi muốn làm gì thì làm.
824. Vẻ ngọc: Vẻ mặt đẹp như ngọc.
Khúc vàng: Khúc lòng.
826. Câu này do chữ nhất tiểu thiên kim: Một nụ cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng.
827. Bẻ hoa: Tức phá trinh tiết của Kiều.
828. Vương tôn: Chỉ con gái các nhà quí phái.
834. Câu này ý nói: Đào tiên đã tới tay, thì vin cành bẻ phắt đi cho thoả sự đời (tức là làm ngay cái việc "nước trước bẻ hoa" ở trên).
835. Dưới trần: Như nói trong cõi đời, ở đời. Mấy mặt: Mấy người.
836. Biết hoa: Biết giá trị của hoa. Ý nói: Bọn làng chơi đã dễ mấy người phân biệt được gái tân với gái mất tân.
837. Nước vỏ lựu, máu mào gà: Theo sách Bắc lý chi: Gái thanh lâu tiếp khách xong, lại lấy nước vỏ lựu máu mào gà sống để rửa, giả làm gái còn tân để đánh lừa khách chơi.
838. Chiêu tập: Dùng cách sửa chữa làm như còn nguyên vẹn.
839. Con đen: Những người còn trẻ tuổi mà khờ dại, đây chỉ những khách chơi không sành sỏi.
845. Trà mi: Một thứ hoa nở về mùa xuân đầu hạ, hoa mầu vàng nhạt rất đẹp.
848. Ngọc, hương: Ngọc đẹp, hương thơm, ví với người đẹp.
850. Đuốc hoa: Do chữ hoa chúc: đuốc hoa, nến hoa.
858. Quyên sinh: Bỏ đời sống, tức tự tử.
860. Hai tình: Chỉ cha mẹ. Ý nói: Một mình thì tự tử chẳng sao, nhưng còn cha mẹ thì làm thế nào?
862. Truy nguyên: Tìm đến căn nguyên, gốc rễ của sự việc.
863. Giãn: Nới ra. Nỗi lòng của Kiều lúc trước như bị bóp nghẹt, nay nghĩ đi nghĩ lại, thấy nới dần ra.
864. Một lần: Một lần chết. Kiều nghĩ: chóng hay chậm, cũng một lần chết, nếu bây giờ nàng chết đi tất liên lụy đến cha mẹ.
866. Gáy sôi: Gáy ầm ỹ, dồn dập. Chữ "sôi" có hàm ý giục giã.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Truy
Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi.
Đoạn trường thay lúc phân kỳ !
870./ Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh.
Bề ngoài mười dặm trường đình,
Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.
Ngoài thì chủ khách dập dìu,
Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
875./ Nhìn càng lã chã giọt hồng,
Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao:
"Hổ sinh ra phận thơ đào,
"Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
"Lỡ làng nước đục bụi trong,
880./ "Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
"Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
"Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
"Khi về bỏ vắng trong nhà,
"Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng.
885./ "Khi ăn khi nói lỡ làng,
"Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh.
"Khác màu kẻ quý người thanh,
"Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.
"Thôi con còn nói chi con?
890./ "Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!"
Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
Vài tuần chưa cạn chén khuyên.
Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe.
895./ Xót con lòng nặng chề chề,
Trước yên ông đã nằn nì thấp cao:
"Chút thân yếu liễu thơ đào,
"Dớp nhà đến nỗi dấn vào tôi ngươi.
"Từ đây góc bể bên trời,
900./ "Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
"Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân,
"Tuyết sương che chở cho thân cát đằng."
Cạn lời khách mới thưa rằng:
"Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao.
905./ "Mai sau dầu đến thế nào,
"Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỉ thần!"
Đùng đùng gió giục mây vần,
Một xe trong cõi hồng trần như bay.
Trông vời gạt lệ chia tay,
910./ Góc trời thăm thẳm ngày ngày đăm đăm.
Chú giải:
867. Lầu mai: Chòi canh về sáng.
Còi sương: Tiếng tù và thổi lúc sớm tinh sương.
869. Đoạn trường: Đứt ruột, có nghĩa đau đớn quá (như dứt từng khúc ruột). Phân kỳ: Chia đường, chia lìa mỗi người mỗi ngả như nói "chia tay".
870. Vó câu: Vó ngựa (Câu: ngựa non đang sức lớn). Những chữ "khấp khểnh", "ghập ghềnh" vừa tả con đường đi gồ ghề khó khăn, vừa ngụ ý thân thế Kiều đã long đong vất vả ngay từ lúc bước chân ra đi...
871. Trường đình: Đời Tần, Hán, người ta chia đường ra từng cung, cứ năm dặm là một cung ngắn, có một cái quán, gọi là "đoản đinh" (quán ngắn) mười dặm là một cung dài, lại có một cái quán nữa gọi là "trường đình" (quán dài). Tục cổ, chủ thường tiễn khách ra khỏi mười dặm đường làm tiệc tiến hành ở trường đình rồi mới trở về.
873. Chủ khách: Chỉ Vương ông và Mã Giám sinh.
877. Thơ đào: Đây có nghĩa là con gái ít tuổi, ngây thơ.
884. Dùng dắng: Dùng dằng, do dự, khi Mã vào trong phòng Kiều thì do dự mà khi ở phòng ra thì vội vàng.
886. Thầy tớ: Chỉ Mã và bọn tôi tớ Mã.
893. Tuần: Tuần rượu, mỗi chén rượu đôi bên cùng uống cạn là một tuần.
Chén khuyên: Chén khuyên mời, đây là chén rượu tiễn.
894. Nghỉ: Nó, hắn, y, thổ âm Nghệ Tĩnh đây chỉ Mã.
896.Trước yên: Trước yên ngựa của Mã.
897. Yếu liễu thơ đào: ý nói Kiều còn yếu ớt thơ dại, ví như cây liễu yếu cây đào non.
899. Góc bể chân trời: Do chữ hải giác thiên nhai: Góc biển cả, chỗ cùng tận bầu trời ý nói xa xôi hết sức.
901. Tầm: Một đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, dài tám thước.
Nghìn tầm: 8000 thước, nghĩa bóng: cao lắm!
Tùng quân: Tùng là cây thông, một thứ cây cao lớn, lthân thẳng và cứng cáp, mùa đông lá cây vẫn xanh tươi, trong văn cổ, thường dùng để tượng trưng cho người trượng phu. Quân là cây trúc, dóng thẳng đốt ngang, thân rỗng mà không cong queo, thường dùng để tượng trưng cho người quân tử.
902. Tuyết sương che chở: Tức che chở cho khỏi tuyết sương.
Cát đằng: Dây sắn, một loại dây phải leo bám vào những cây to, người ta thường nói "cát đằng" "cát luỹ" hay "sắn bìm" để chỉ người vợ thiếp.
904. Nhiệm trao: ý nói số trời mầu nhiệm đã buộc sợi "xích thằng".
906. Gương nhật nguyệt: Gương mặt trời, mặt trăng. Chữ "gương" hàm ý soi tỏ tội lỗi. Dao quỷ thần: Gươm dao của quỷ thần, hàm ý trừng phạt, ý Mã nói: nếu sau này ăn ở không thuỷ chung, sẽ có trời soi tỏ tội lỗi và bị quỷ thần trừng phạt.
907. Gió giục mây vần: Tả xe Kiều đi mau lẹ, vội vã.
909. Trông vời: Tức trông với theo một cái gì đó đã đi xa.