Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều quyên sinh tại lầu xanh của Tú Bà
Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
915./ Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Rừng thu từng biếc xen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Những là lạ nước lạ non,
920./ Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi.
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
925./ Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
Giữa thì hương án hẳn hoi,
930./ Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư,
Hương hoa hôm sớm phụng thờ.
Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
935./ Cởi xiêm trút áo sỗ sàng,
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm dầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi!
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940./ Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
"Cửa hàng buôn bán cho may,
"Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.
"Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
"Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai.
945./ "Tin nhạn vẩn lá thư bài,
"Đưa người cửa trước rước người cửa sau."
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
Lễ xong hương hỏa gia đường,
950./ Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: "Con lạy mẹ đây,
"Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia."
Nàng rằng: "Phải bước lưu ly,
"Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.
955./ "Điều đâu lấy yến làm anh,
"Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
"Đủ điều nạp thái vu qui,
"Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
"Giờ ra thay bậc đổi ngôi,
960./ "Dám xin gửi lại một lời cho minh."
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên:
"Này này sự đã quả nhiên,
"Thôi đà cướp sống của min đi rồi.
965./ "Bảo rằng đi dạo lấy người,
"Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
"Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
"Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
"Màu hồ đã mất đi rồi,
970./ "Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
"Con kia đã bán cho ta,
"Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
"Lão kia có giở bài bây,
"Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
975./ "Cớ sao chịu trót một bề,
"Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
"Phải làm cho biết phép tao!"
Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng: "Trời thẳm đất dày!
980./ "Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
"Thôi thì thôi có tiếc gì!"
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa!
Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
985./ Thương ôi tài sắc bậc này,
Một dao oan nghiệp đứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở xa gần,
Trong nhà người chật một lần như nêm.
Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
990./ Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào chốn hiên tây,
Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men.
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
995./ Rỉ rằng: "Nhân quả dở dang,
"Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
"Số còn nặng nghiệp má đào,
"Người dù muốn quyết trời nào đã cho.
"Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
1000./ "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau."
Vi lô san sát hơi may,
Một trời thu để riêng ai một người.
915./ Dặm khuya ngất tạnh mù khơi,
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Rừng thu từng biếc xen hồng,
Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.
Những là lạ nước lạ non,
920./ Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi.
Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao!
925./ Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
Bên thì mấy ả mày ngài,
Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
Giữa thì hương án hẳn hoi,
930./ Trên treo một tượng trắng đôi lông mày.
Lầu xanh quen lối xưa nay,
Nghề này thì lấy ông này tiên sư,
Hương hoa hôm sớm phụng thờ.
Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
935./ Cởi xiêm trút áo sỗ sàng,
Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm dầm.
Đổi hoa lót xuống chiếu nằm,
Bướm ong bay lại ầm ầm tứ vi!
Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940./ Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
"Cửa hàng buôn bán cho may,
"Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu.
"Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
"Xôn xao anh yến dập dìu trúc mai.
945./ "Tin nhạn vẩn lá thư bài,
"Đưa người cửa trước rước người cửa sau."
Lạ tai nghe chửa biết đâu,
Xem tình ra cũng những màu dở dang.
Lễ xong hương hỏa gia đường,
950./ Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
Dạy rằng: "Con lạy mẹ đây,
"Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia."
Nàng rằng: "Phải bước lưu ly,
"Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh.
955./ "Điều đâu lấy yến làm anh,
"Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
"Đủ điều nạp thái vu qui,
"Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
"Giờ ra thay bậc đổi ngôi,
960./ "Dám xin gửi lại một lời cho minh."
Mụ nghe nàng nói hay tình,
Bây giờ mới nổi tam bành mụ lên:
"Này này sự đã quả nhiên,
"Thôi đà cướp sống của min đi rồi.
965./ "Bảo rằng đi dạo lấy người,
"Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
"Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
"Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
"Màu hồ đã mất đi rồi,
970./ "Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
"Con kia đã bán cho ta,
"Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
"Lão kia có giở bài bây,
"Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
975./ "Cớ sao chịu trót một bề,
"Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
"Phải làm cho biết phép tao!"
Giật bì tiên rắp sấn vào ra tay.
Nàng rằng: "Trời thẳm đất dày!
980./ "Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
"Thôi thì thôi có tiếc gì!"
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
Sợ gan nát ngọc liều hoa!
Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
985./ Thương ôi tài sắc bậc này,
Một dao oan nghiệp đứt dây phong trần.
Nỗi oan vỡ lở xa gần,
Trong nhà người chật một lần như nêm.
Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
990./ Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Vực nàng vào chốn hiên tây,
Cắt người coi sóc rước thầy thuốc men.
Nào hay chưa hết trần duyên,
Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
995./ Rỉ rằng: "Nhân quả dở dang,
"Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
"Số còn nặng nghiệp má đào,
"Người dù muốn quyết trời nào đã cho.
"Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
1000./ "Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau."
Chú giải:
912. Bạc phau: Trắng phau, trắng xóa.
Cầu giá: Váng sương bám trên mặt cầu buổi sớm mai.
Ngàn mây: Những đám mây ở những nơi rừng núi. Câu này tả cảnh cuối thu, bắt đầu sang đông.
913. Hơi may: Hơi gió heo may.
915. Ngất tạnh: Bầu trời cao ngất mà tạnh ráo.
Mù khơi: Mù mịt xa khơi.
916. Lời non sông: Kiều thấy trăng mà nhớ đến cái "vầng trăng" đêm nào đã chứng kiến cuộc thề nguyện của hai người.
917. Từng biếc xen hồng: Rừng cây mùa thu có những lá úa màu đỏ xen giữa từng lá màu xanh.
918. Thần hôn: Sớm hôm, chỉ sự sớm hôm chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.
920. Lâm Truy: Tên huyện, thuộc tỉnh Sơn Đông.
921. Xe châu: Xe có rèm hạt châu, thứ xe phụ nữ ngồi.
927. Mày ngài: Tức mấy ả gái điếm.
930. Tượng: Bức tranh vẽ. Tượng trắng đôi lông mày tức tranh thần "Bạch mi".
932. Tiên sư: Tổ sư, ông tổ sáng lập ra một nghề. Chữ dùng hàm ý mỉa mai.
937. Đổi hoa: Như nói thải hoa, tức như lấy hoa mới để thờ, thải hoa cũ lót xuống dưới chiếu để nằm.
938. Tứ vi: Bốn phía xung quanh.
942. Hàn thực: Ăn lạnh, ăn đồ nguội.
Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục lại ngôi vua, nhưng lúc ân thưởng triều thần. Văn Công lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi bất bình trốn vào núi ở ẩn. Đến lúc Văn Công nghĩ lại, muốn vời Tử Thôi, nhưng Tử Thôi quyết chí ở ẩn, Văn Công ra lệnh đốt rừng, Tử Thôi quyết tâm chịu chết cháy ở trong núi. Văn Công hối hận vô cùng ra lệnh hàng năm đúng ngày Tử Thôi chết, cấm không được đốt lửa. Do đó mà có tục hàn thực, cứ trước tiết thanh minh hai ngày (có sách chép một ngày) người ta cấm đốt lửa, ăn đồ nguội, và tổ chức nhiều cuộc vui: đá cầu, đánh đu, chọi gà, kết xe hoa đi rong chơi.
Nguyên tiêu: Đêm tiết thượng nguyên, tức đêm ngày rằm tháng riêng đầu năm. Đây Tú bà khấn thần phù hộ cho cửa hàng lầu xanh của mụ, ngày lại đêm, lúc nào khách chơi cũng ra vào đông đúc, tấp nập như những ngày hội hàn thực nguyên tiêu.
945. Tin nhạn: Tô Vũ, người đời Hán, đi sứ sang Hung nô không chịu khuất phục, bị chúa Hưng nô đầy lên Bắc Hải chăn dê, nhà Hán hỏi, thì bảo là chết rồi, sau sứ Hán phải nói thác là vua Hán săn được con chim nhạn ở vườn thượng lâm chân nó có buộc một bức thư lụa của Tồ Vũ gửi về, khi ấy Hưng nô mới chịu trả lại Tô Vũ cho nhà Hán. Do đó, người ta thường nói "tin nhạn" để chỉ tin thư. Ở đây, tác giả dùng như nghĩa "tin tức" đơn thuần.
949. Hương hỏa gia đường: Bốn chữ này nguyên chỉ nhà hay bàn thờ cúng gia tiên, đây tác giả dùng chỉ bàn thờ thần Bạch mi.
952. Cậu mày: Tức cha mày, chỉ Mã Giám sinh, Tú Bà bắt Kiều lạy nhận mụ là mẹ nuôi. Mã Giám sinh là cha nuôi.
954. Tiểu tinh: Sao nhỏ, chỉ vợ lẽ.
962. Tam bành: Theo sách Đạo giáo "Trong người ta có ba thần thi: Thượng Thi, tên Bành Cư, ở đầu; Trung Thi, tên Bành Chất, ở bụng; Hạ Thi, tên Bành Kiểu, ở chân, thường làm hại người". Do đó, người ta cho rằng: những sự hung ác giận dữ của người là do thần "Tam thi" hay"Tam Bành" làm ra, và thường dùng chữ tam bành để chỉ cơn tức giận.
964. Min: Ta, tao (tiếng cổ).
978. Bì tiên: Cái roi bằng da.
986. Phong trần: Cõi đời gió bụi. Ý nói: Một nhát dao oan nghiệt cắt đứt quan hệ với cuộc đời phong trần, tức là chết.
993. Trần duyên: Nhân duyên cõi trần, cõi đời.
1000. Tiền Đường: Tên một con sông chảy qua gần Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều khuyên Thúc Sinh về gặp Hoạn Thư
Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh.
1475./ Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
E tình nàng mới bày tình riêng chung:
"Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
"Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên.
"Tin nhà ngày một vắng tin,
1480./ "Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang.
"Nghĩ ra thật cũng nên đường,
"Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
"Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
"Ở vào khuôn phép nói ra mối giường.
1485./ "E thay những dạ phi thường,
"Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
"Mà ta suốt một năm ròng,
"Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào
"Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
1490./ "Hoặc là trong có làm sao chăng là?
"Xin chàng kíp liệu lại nhà,
"Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
"Đêm ngày như mực giấu quanh,
"Rày lần mai lữa giữ hình chưa thông."
1495./ Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang.
Rạng ra gửi đến xuân đường,
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
Tiễn đưa một chén quan hà,
1500./ Xuân đình thoắt đã đổi ra cao đình.
Sông Tần một dải xanh xanh,
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.
Cầm tay dài ngắn thở than,
Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
1505./ Nàng rằng: "Non nước xa khơi,
"Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
"Dễ lòa yếm thắm trôn kim,
"Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng!
"Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
1510./ "Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh.
"Dù khi sóng gió bất tình,
"Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
"Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
"Lại mang những việc tày trời đến sau.
1515./ "Thương nhau xin nhớ lời nhau,
"Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
"Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
"Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!"
Người lên ngựa kẻ chia bào,
1520./ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525./ Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
Chú giải:
1473. Mảng: Tiếng cổ có ý nói mải mê về một việc gì mà quên đi. Ở đây là nghĩa này.
1474. Ý nói hết mùa xuân và bắt đầu sang mùa hạ
1478. Chim én (mùa xuân) chim nhạn (mùa thu), đổi thay nhau, ý nói từ mùa nọ sang mùa kia. Ở đây ý nói thời gian trôi thấm thoắt gần được một năm.
1480. Tào khang: bã rượu cám. Người vợ cùng ăn bã, ăn cám với nhau, tức là - người vợ cả lấy từ lúc còn hàn vi. Vua Quang Vũ nhà Hán muốn đem người chị gái mới góa là công chúa Hồ Dương gả cho Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ. Vua hỏi ý Hoằng, Hoằng thưa: Tào khang chi thê, bất hạ đường, nghĩa là người vợ lấy trong lúc ăn tấm, ăn cám, không thể để xuống dưới nhà, ý nói không thể khinh rẻ, phụ bạc. Vua biết ý vậy, liền thôi.
1485. Phi thường: khác với người thường, ý nói người sâu sắc, hiểm độc.
1496. Hồi trang: Về quê.
1498. Ninh gia: Về thăm nhà.
1499. Quan hà: Quan cửa ải, hà là sông. Chén quan hà: Chén rượu tiễn biệt.
1500. Xuân đình: Có thể hiểu là nơi xum họp, vui vẻ.
Cao đình: Cổ thi: Cao đình tương biệt xứ, chỗ biệt nhau ở Cao đình.
1501. Sông Tần: Sông ở đất Tần Xuyên, mạn tỉnh Cam Túc. Theo Tản Đà thì sông Tần là sông Tần Hoài, thuộc tỉnh Giang Tô, quê Thúc Sinh (Vô Tích).
1502. Dương quan: Tên một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây, mạn tây bắc Trung Quốc.
1507. Yến thắm trôn kim: Chưa thực rõ nghĩa. Đại ý câu này nói: Kiều cho rằng việc hai người lấy nhau là việc không thể dấu kín được.
1508. Bưng mắt bắt chim: Bưng mắt lại thì không thể nào bắt được chim. Ý nói không thể nào che giấu nổi việc có vợ lẽ.
1509. Đèo bòng: Có nghĩa là vương vít tình duyên.
1510. Nói sòng: Tức nói thẳng, nói trắng ra, không quanh co giấu giếm.
1519. Bào: áo. Thường thường trong khi ly biệt người ta hay nắm lấy áo nhau, tỏ tình quyến luyến. Chia bào tức là buông áo.
1520. Phong: Một loại cây ở Trung Quốc, lá chia ra nhiều cành, gần giống lá cây thầu dầu ở bên ta, đến mùa thu thì sắc lá hoá đỏ.
Quan san: Quan ải, núi non, thường được dùng để chỉ sự xa xôi cách trở.
1521. Dặm hồng: Dặm đường đi giữa bụi hồng. Chinh là đi đường xa, an là yên ngựa. Người ta thường dùng hai chữ chinh an để chỉ việc đi đường xa.