Truyện Kiều
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều nương nhờ cửa chùa
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều nương nhờ cửa chùa
Download
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035./ Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040./ Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
"Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
"Qui sư qui Phật, tu hành bấy lâu.
2045./ "Bản sư rồi cũng đến sau,
"Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh."
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
Xem qua sư mới dạy qua:
2050./ "Phải ni Hằng Thủy là ta hậu tình.
"Chỉn e đường sá một mình,
"Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày."
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055./ Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc trước, trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
2060./ Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Cửa thiền vừa cử cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lân chơi cửa già.
2065./ Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: "Khéo giống của nhà Hoạn nương!"
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070./ Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
"Bây giờ sự đã dường này,
"Phận hèn dù rủi, dù may, tại người."
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075./ Rỉ tai mới kể sự lòng:
"Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
"E chăng những sự bất kỳ,
"Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
"Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080./ "Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê!"
Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035./ Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài.
Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong.
Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040./ Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
"Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh,
"Qui sư qui Phật, tu hành bấy lâu.
2045./ "Bản sư rồi cũng đến sau,
"Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh."
Rày vâng diện hiến rành rành,
Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
Xem qua sư mới dạy qua:
2050./ "Phải ni Hằng Thủy là ta hậu tình.
"Chỉn e đường sá một mình,
"Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày."
Gửi thân được chốn am mây,
Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055./ Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
Hương đèn việc trước, trai phòng quen tay.
Sớm khuya lá bối phiến mây,
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
Thấy nàng thông tuệ khác thường,
2060./ Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
Cửa thiền vừa cử cuối xuân,
Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời.
Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
Có người đàn việt lân chơi cửa già.
2065./ Giở đồ chuông khánh xem qua,
Khen rằng: "Khéo giống của nhà Hoạn nương!"
Giác Duyên thực ý lo lường,
Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070./ Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
"Bây giờ sự đã dường này,
"Phận hèn dù rủi, dù may, tại người."
Giác Duyên nghe nói rụng rời,
Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075./ Rỉ tai mới kể sự lòng:
"Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
"E chăng những sự bất kỳ,
"Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
"Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080./ "Ngồi chờ nước đến, nên dường còn quê!"
Chú giải:
2036. Chiêu ẩn: Tên ngôi chùa, nghĩa là chiêu nạp những người ẩn dật.
2038. Trụ trì: Cư trú và chủ trì mọi công việc trong một ngôi chùa.
2043. Tiểu thiền: Cũng như tiểu tăng, là người đi tu nhỏ mọn (Lời Kiều tự khiêm).
2044. Qui sư qui Phật: Theo thầy, theo Phật, cũng như nói "qui tăng, qui phật".
2045. Bản sư: Vị sư thầy mình theo học.
2046. Pháp bảo: Chỉ các đồ thờ cúng quý giá.
Sư huynh: Vị sư đàn anh, lời xưng hô giữa các vị sư với nhau.
2047. Diện hiến: Đem dâng ngay trước mặt.
2050. Hằng Thuỷ: Tên hiệu một vị sư nữ khác mà Kiều mạo xưng là thầy học mình.
Hậu tình: Tình nghĩa đối xử hậu hĩ, thân mật.
2053. Am mây: Do chữ Vân phòng, chỗ nhà sư ở.
2059. Thông tuệ: Thông minh, sáng suốt;
2062. Vẻ ngân: ánh bạc, ánh trăng sáng như bạc.
2064. Đàn việt: Người đứng ra bố thí, thường thường để chỉ người có công với nhà chùa, hay người đi vãn cảnh chùa.
Cửa già: Tiếng Phạn gọi chùa là già lam.
2080. Ở đây ý nói ngồi chờ nước đến chân rồi mới nhảy là khờ dại.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều báo ân
Trong quân có lúc vui vầy,
2290./ Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
"Khi Vô Tích, khi Lâm Truy,
"Nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương.
"Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
"Chút còn ân oán đôi đường chưa xong."
2295./ Từ Công nghe nói thủy chung,
Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng,
Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao.
Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
2300./ Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Truy,
Mấy người phụ bạc xưa kia,
Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
Lại sai lệnh tiễn truyền qua,
Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
2305./ Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
Thệ sư kể hết mọi lời,
Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy!
Đạo trời báo phục chỉn ghê,
2310./ Khéo thay ! Một mẻ tóm về đầy nơi,
Quân trung gươm lớn giáo dài,
Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi.
Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
Vác đòng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
2315./ Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
Từ rằng: "Ân, oán hai bên,
2320./ "Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh"
Nàng rằng: "Muôn cậy uy linh,
"Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
"Báo ân rồi sẽ trả thù."
Từ rằng: "Việc ấy để cho mặc nàng."
2325./ Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường giẻ run.
Nàng rằng: "Nghĩa nặng nghìn non,
"Lâm Truy người cũ, chàng còn nhớ không?
"Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
2330./ "Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
"Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
"Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
"Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau!
2335./ "Kiến bò miệng chén chưa lâu,
"Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa"
Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt dầm.
Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
2340./ Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
Mụ già, sư trưởng thứ hai,
Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên,
Dắt tay mở mặt cho nhìn:
"Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
2345./ "Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
"Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
"Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
"Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân?"
Chú giải:
2297. Nghiêm quân: Chỉnh đốn hàng ngũ quân lính.
Tuyển tướng: Lựa chọn tướng tá.
2298. Ruổi sao: Do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.
2299. Ba quân: Danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12.500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân; hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.
2303. Lệnh tiễn: Cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.
2307. Thệ sư: Lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.
2308. Chấp uy: Chấp hành uy lệnh.
2309. Báo phục: Bảo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.
2312. Cơ, vệ: Tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa.
Thị lập: Đứng chầu.
Song phi: Dàn làm hai hàng.
2315. Trướng hùm: Dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ "hổ trướng" để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái.
Trung quân: Đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.
2318. Cửa viên: Viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường dùng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là "viên môn".
2326. Chàm đổ: Mặt xanh như màu chàm đổ vào.
Giẻ run: Mình run như chim giẻ.
2329. Sâm và Thương: Theo nhận thức của người xưa, thì sao Sâm ở phương tây sao Thương ở phương đông, sao này lặn sao kia mới mọc. Hai sao này không bao giờ gặp nhau, nên người ta dùng để chỉ cảnh xa cách mỗi người một nơi. Đối chiếu thiên văn học hiện nay đó là hai sao Orion và Scorpion.
2334. Tục ngữ: Kẻ cắp gặp bà già, ý nói hai kẻ ranh ma quỷ quái lại gặp phải nhau.
2341. Mụ già: Chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn.
Sư trưởng: Chỉ Giác Duyên.
2348. Phiếu mẫu: Bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Kiều báo oán
Hai người, trông mặt tần ngần,
2350./ Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui.
Nàng rằng: "Xin hãy rốn ngồi,
"Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!"
Kíp truyền chư tướng hiến phù,
Lại đem các tích phạm tù hậu tra.
2355./ Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Thoát trông nàng đã chào thưa:
"Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
"Đàn bà dễ có mấy tay,
2360./ "Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
"Dễ dàng là thói hồng nhan,
"Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!"
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, lựa điều kêu ca.
2365./ Rằng: "Tôi chút dạ đàn bà,
"Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
"Nghĩ cho khi các viết kinh,
"Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
"Lòng riêng riêng những kính yêu;
2370./ "Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.
"Trót lòng gây việc chông gai,
"Còn nhờ lượng bể thương bài cho chăng?"
Khen cho: "Thật đã nên rằng,
"Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
2375./ "Tha ra thì cũng may đời,
"Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
"Đã lòng tri quá thì nên,
"Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay."
Tạ lòng lạy trước sân mây,
2380./ Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
Nàng rằng: "Lồng lộng trời cao,
"Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta?
"Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
"Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
2385./ "Tú Bà với Mã Giám Sinh,
"Các tên tội ấy đáng tình còn sao?"
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
Máu rơi thịt nát tan tành,
2390./ Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta !
Mấy người bạc ác tinh ma,
Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
2395./ Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi.
Chú giải:
2353. Hiến phù: Dâng nộp những người bắt được.
2354. Hậu tra: Chờ để tra xét.
2377. Tri quá: Biết lỗi, tự mình biết nhận rằng mình có lỗi.
2382. Hại nhân, nhân hại: Làm hại người thì sẽ bị người hại.
2387. Nội đao: Quân đao phủ, chuyên việc chém người.
2395. Pháp trường: Chỗ để hành hình người có tội.
2396. Thanh thiên bạch nhật: Trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được
Tác giả: Nguyễn Du
Diễn đọc: Thu Hiền
Đoạn Giác Duyên hẹn tái ngộ
Việc nàng báo phục vừa rồi,
Giác Duyên vội đã gởi lời từ qui.
Nàng rằng: "Thiên tải nhất thì,
2400./ "Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
"Rồi đây bèo hợp mây tan,
"Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!"
Sư rằng: "Cũng chẳng mấy lâu,
"Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
2405./ "Nhớ ngày hành cước phương xa,
"Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri.
"Bảo cho hội ngộ chi kỳ,
"Năm nay là một nữa thì năm năm.
Mới hay tiền định chẳng lầm,
2410./ Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
Còn nhiều ân ái với nhau,
Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
Nàng rằng: "Tiền định tiên tri,
"Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
2415./ "Họa bao giờ có gặp người,
"Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân."
Giác Duyên vâng dặn ân cần,
Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.
Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420./ Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy trước Từ công:
"Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
"Trộm nhờ sấm sét ra tay,
"Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
2425./ "Chạm xương chép dạ xiết chi,
"Dễ đem gan óc đền nghì trời mây !"
Từ rằng: "Quốc sĩ xưa nay,
"Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
"Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
2430./ "Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha !
"Huống chi việc cũng việc nhà,
"Lọ là thâm tạ mới là tri ân.
"Xót nàng còn chút song thân,
"Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
2435./ "Sao cho muôn dặm một nhà,
"Cho người thấy mặt là ta cam lòng."
Vội truyền sửa tiệc quân trung,
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Chú giải:
2398. Từ qui: Từ giã ra về.
2399. Thiên tải nhất thì: Ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có.
Bàn hoàn: Đây có nghĩa là gặp gỡ trò chuyện.
2402. Hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. Ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.
2405. Hành cước: Đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.
2406. Tiên tri: Biết trước mọi việc chưa xảy ra.
2407. Hội ngộ chi kỳ: Cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.
2409. Tiền định: Đã định sẵn từ trước.
2416. Chung thân: Trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao.
2425. Chạm xương chép dạ: Do chữ minh tâm khắc cốt: Ý nói ơn sâu của Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.
2426. Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
2427. Quốc sĩ: Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.
2430. Cổ ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.
2432. Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc.
Tri ân: Biết ơn của người khác đối với mình.
2434. Việt: Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;
Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.
2438. Tẩy oan: Rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.