Tôi rất thích bài thơ “Định phong ba” của đại văn hào Tô Thức (hiệu là Đông Pha cư sĩ) thời Bắc Tống. Ngưỡng mộ thái độ nhân sinh khoát đạt, cởi mở tự nhiên khi đối diện với nghịch cảnh và trắc trở thể hiện trong từng câu chữ của bài thơ. Tuy nhiên, trong cuộc sống đời thực, khi đối mặt với mưa gió, vinh nhục, được mất của cuộc đời, tôi tự thấy lòng mình hổ thẹn, cảm thấy không thể bình thản đối xử với mọi chuyện giống như Tô Đông Pha.
Định phong ba
Mạc thính xuyên lâm đả diệp thanh,
Hà phương ngâm khiếu thả từ hành.
Trúc trượng mang hài khinh thắng mã,
Thùy phạ?
Nhất thoa yên vũ nhậm bình sinh.
Liêu tiễu xuân phong xuy tửu tỉnh,
Vi lãnh,
Sơn đầu tà chiếu khước tương nghênh.
Hồi thủ hướng lai tiêu sắt xử,
Quy khứ,
Dã vô phong vũ dã vô tình.
Dịch thơ:
Rừng động đừng nghe chuyển lá cành,
Ngâm nga chậm bước chẳng đi nhanh.
Gậy trúc giầy rơm say chếnh choáng,
Nào ngán?
Áo tơi mưa khói mặc bình sinh
Vi vút gió xuân xay chợt tỉnh
Hơi lạnh
Đầu non bóng ngả cũng tương nghinh
Ngoảnh lại những nơi tiêu sắt trước
Rời bước
Cũng không mưa gió cũng không hanh”
(Bản dịch của Nguyễn Chí Viễn, Tuyển tập từ Trung Hoa – Nhật Bản, NXB Văn hoá – Thông tin, 1996)
Câu chuyện “Ô đài thi án” (Vụ án thơ Ô Đài) xảy ra vào năm Nguyên Phong thứ 2 thời Hoàng đế Tống Thần Tông (năm 1079). Tô Thức bị mưu hại và bị giam vào ngục Ngự sử đài. Sau 130 ngày chịu đày đọa trong tù ngục, ông bị giáng chức và phái đến Hoàng Châu, vùng đất được mệnh danh là chim không thể đẻ trứng. Vụ án văn thơ lần này liên lụy hơn 70 người, có 29 người hay qua lại giao tiếp với ông cũng bị liên đới xử phạt. Đối diện với hoàn cảnh khốn cùng của kiếp nhân sinh, khi bị áp giải đến Thái Hồ, ông đã từng nghĩ tới việc nhảy cầu tự sát. Tuy nhiên nhiều lần vật lộn suy nghĩ, may mắn thay ý định của ông cuối cùng đã không thể thực hiện. Nếu không, thế nhân ngày nay sẽ không được thưởng thức lời hay ý đẹp cũng như hàng ngàn bài thơ sâu sắc ý nghĩa của ông.
Sau khi trải qua những tháng ngày tang thương bể dâu, sống nhờ vào việc canh nông làm ruộng, cuộc sống bần nông dần dần đánh thức được cảm giác hạnh phúc tiềm tàng trong ông. Mùa xuân hai năm sau khi bị giáng chức và phái đến thành Hoàng Châu (năm 1082), Tô Thức lần nữa lấy lại niềm tin yêu vào cuộc sống, thoát thai hoán cốt bước qua mưa gió cuộc đời, vì vậy đã viết nên bài thơ “Định phong ba” này. Từ trong lời thơ, người đời sau có thể thấy được cảnh giới của ông đã có một bước chuyển ngoặt, vượt qua khổ nạn, tiến về cảnh giới nhân sinh càng rộng mở và khoáng đạt hơn.
Học tập cổ nhân thích ứng trong mọi tình cảnh, rộng lượng đối đãi
Trăm ngàn năm qua, người xưa luôn biểu hiện thái độ của bản thân khi đối mặt với khó khăn nghịch cảnh, mở ra con đường để hậu thế có thể noi gương, tiếp bước. Tuy nhiên, muốn đạt đến được cảnh giới khoáng đạt “Nhất thoa yên vũ nhậm bình sinh” (Áo tơi mưa khói mặc bình sinh) và “Hồi thủ hướng lai tiêu sắt xử, Dã vô phong vũ dã vô tình” (Ngoảnh lại những nơi tiêu sắt trước, Cũng không mưa gió cũng không hanh), thì khoảng cách có lẽ là khác biệt một trời một vực. “Gặp sao yên vậy”, thái độ thích ứng trong mọi tình cảnh và rộng rãi xử thế của cổ nhân, chính là tấm gương sáng cho chúng ta học tập.
Mỗi bước đi trên đường đời, hoàn cảnh và tình huống của từng người gặp phải là không giống nhau. Cuộc sống này, con người có quá nhiều, quá nhiều việc cần phải nỗ lực và gánh vác. Sự tàn khốc vô tình của hiện thực có thể khiến chúng ta cảm thấy ngột ngạt, cả đời không thể tránh khỏi những khó khăn gian nan vất vả, chỉ là nhiều hay ít. Và những điều này chính là những quan ải mà ông Trời an bài để chúng ta vượt qua, cũng chính là để chúng ta tôi luyện bản thân, một cơ hội để trưởng thành. Bởi vậy, vượt qua càng nhiều khó khăn, thì năng lực sinh tồn cũng sẽ càng mạnh mẽ.
Có người nói, cảnh giới cao nhất của kiếp nhân sinh là biết mỉm cười trong nghịch cảnh. Tôi cảm thấy, nếu quả thật trong nghịch cảnh mà vẫn có thể giữ được phong thái tâm bình khí hòa, không kiêu ngạo không tự ti, thì tâm thái ấy sẽ khẳng định cao độ nhân sinh của bạn.
Ngược lại, nếu gặp phải khó khăn gian nan trở ngại chỉ biết giận trời trách người, hoặc là nản lòng thoái chí, thế thì, cả một đờichỉ có thể bị khốn cảnh chi phối, khó mà vượt qua được bóng tối của nghịch cảnh.
Kỳ thực, nếu suy nghĩ một cách thấu đáo, tỉ mỉ có thể thấy rằng mọi hoàn cảnh bên ngoài đều là thể hiện từ thế giới nội tâm của chính chúng ta, và nguồn sức mạnh vượt qua nghịch cảnh này là đến từ thiện tâm nghĩ cho người khác. Bởi vậy, nếu có thể luôn luôn bảo trì được tâm thái lạc quan, tường hòa, gặp phải sóng to gió lớn cũng không để ý thiệt hơn, thong dung đối đãi, thì nghịch cảnh cũng tự nhiên như làn gió mát thổi qua. Có thể nói rằng, cảnh tùy tâm chuyển, vạn sự chỉ là do cái tâm này mà thôi.
Đạo lý hiểu được rồi, nhưng muốn “buông xuống” cố chấp trong lòng, cũng không phải là điều dễ dàng làm được!
Còn có một loại cảnh giới, gọi là “xả đắc”, có xả, có buông đi thì mới có thành quả thu về. Người biết “buông bỏ” sẽ càng dễ cảm thấy vui vẻ và hài lòng hơn so với người khác.
Qua đây có thể thấy rằng, thì ra “bí quyết nhân sinh” đã sớm có an bài, chỉ là tâm mình không tĩnh lại được mà thôi. Hy vọng rằng mỗi chúng ta có thể mở rộng lòng mình, dũng cảm đối diện với mọi khó khăn, buông xuống những muộn phiền khó quên trong quá khứ, học tập phong thái ung dung tự tại “áo tơi mưa khói mặc bình sinh” của Tô Đông Pha vậy.
Bình Nhi biên dịch