Miền Đồng Nai thơ mộng và quyến rủ
Tạ Xuân Thạc
Vị trí, lịch sử và địa lý:
Sau cuộc di cư vĩ đại 1954, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà (Tổng Thống Ngô Đình Diệm), miền Nam Việt Nam được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc ấm no nên nhạc sĩ Phạm Duy vào năm 1956 có ngẫu hứng viết bài "Tiếng hò Miền Nam".
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Ai hi hò lờ !Ai li hò lờ !
Đường về xứ bạn không xa
Qua vùng Đất Đỏ rồi ra Biên Hoà
Ai li hò lờ !Aili hò lớ !
Ai nghe chăng tiếng hò bao la
Những tiếng lòng di cư vẫy vùng theo gió
Ai nghe chăng tiếng người công phu
Biết tìm tự do tránh xa ngục tù
Đường chiều gió thổi vi vu
Tình nghèo vẫn nở như hoa
Ai nghe chăng tiếng hò bao la
Những tiếng cười đôi ta, Nam Bắc một nhà.
Điều này cũng đã nói lên được hoạt cảnh của Đồng Nai, cũng làm cho ta nghĩ ngay đến một miền đất trù phú đã có hơn 300 năm hình thành và phát triển do con sông Đồng Nai đem đất bùn sa mầu mỡ vun bồi. Nhiều biến cố lịch sử đã ghi lại biết bao thăng trầm với không ít sự biến động trên nhiều lãnh vực của vùng đất Đồng Nai này. Tất cả đã tạo ra diện mạo, cho Đồng Nai một nét độc đáo về Văn hoá vào cuối thế kỷ thứ XVI, khi đó vùng đất Đồng Nai vẫn còn hoang dã, chưa được người ta khai phá, chỉ có người dân bản xứ gồm các sắc dân như dân tộc Siêng, dân tộc Mạ, dân tộc Kơ-ho, dân tộc M'nông, dân tộc Chơ-ro và một vài buôn sóc người Khơ-me sinh sống. Dân cư thưa thớt, sống rải rắc chứ không sống thành cộng đồng, kỹ thuật sản xuất rất thô sơ, trình độ xã hội còn thấp kém. Cuộc chiến tranh giữa hai họ Trịnh - Nguyễn ở miền Trung và Bắc Việt Nam làm cho dân chúng lầm than khổ sở, điêu đứng nên đã tạo ra một làn sóng di cư của người dân miền Thuận an, Quảng Nam, Quảng Ngãi vào Đồng Nai tìm đất để sinh sống.
Dân tộc ta vốn bản tính cần cù, chịu thương chịu khó, dân di cư người Việt đã cùng chung sống với người bản xứ chung sức chung lòng quyết tâm khai phá đất hoang để sản xuất nông nghiệp. Lâu dần, những khu rừng rậm hoang vu đã trở thành những cánh đồng lúa và các loại hoa màu tươi tốt.
Trong cuộc Nam tiến có sự góp công của người Hoa mà ta thường gọi là người Minh Hương. Dưới thời chúa Hiền Vương (1649 - 1687), người Mãn Châu xâm lăng nước Trung hoa lật đổ nhà Minh lập ra nhà Thanh, khi nhà Minh ở Trung Quốc bị sụp đổ, những người trung thành với nhà Minh trong đó có Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm, cùng với một số tướng lãnh khác như Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần An Bình, họ không khuất phục nhà Thanh nên đã đem khoảng 50 chiến thuyền, hơn ba ngàn binh lính thân tín và gia quyến đến xin thần phục chúa Nguyễn ở Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Chu thời đó đã thâu nhận và cho vào khai khẩn đất vùng Mỹ Tho Bến Tre, và Chợ Lớn. Một số thì đến khai khẩn ở vùng đất Đông Phố (Cù lao Phố ngày nay).
Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (là cả miền Nam bây giờ), đặt vùng đất mới thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) đựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Cảnh còn cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào lập nghiệp và phát triển kinh tế.
Người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư ở Bến Gỗ, nhưng thấy Cù lao Phố có vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán, họ đã quyết định di chuyển đến đây kinh sống. Từ đây, Cù lao Phố phát triển ngày càng phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định (miền Nam ngày nay).
Cũng nơi đất Đồng Nai này mà người ta đã chứng kiến biết bao nhiêu mối tình cao đẹp trung thành và nên thơ là khi đôi trai gái đã hứa hẹn với nhau:
"Ngày nào cạn nước Đồng Nai,
ngày nào cạn nước ngoài khơi,
non sông ta xoá mờ,
không ai nghe tiếng hò, thì lời nguyền mới thôi".
Chính những câu ca mộc mạc đó mà ta thấy ngay cảnh thanh bình hiển hiện đầy tình tự của người miền Đồng Nai nói ở trên.
Đồng Nai phồn thịnh và phát triển thêm nữa là vào thời kỳ của dân di cư 1954 trốn chạy chế độ Cộng sản từ miền Bắc vào đây lập nghiệp dưới chế độ Đệ I Cộng Hoà.
Chỉ cần nghe bài " Tiếng Hò Miền Nam của nhạc sĩ Phạm Duy ông đã sáng tác bài này tại Saigon năm 1956 để ca ngợi cả miền Nam Việt Nam". Vẽ ra một miền đất Đồng Nai nên thơ và mầu mỡ, vì có con sông Đồng Nai tươi mát hữu tình là ta đã cảm nhận ngay cảnh thanh bình của miền Đồng Nai tuyệt diệu đó:
Mẹ hiền nựng bé ngủ mơ
Yêu con thơ mỹ miều
Yêu non sông rất nhiều
Vẳng lời hò mến yêu.
Nhà Bè nước chảy chia đôi
Ai về dưới ruộng cùng tôi thì về
Aili hò lờ !Aili hò lờ !
Đường về nước chảy trôi mau
Đưa thuyền tới mũi Cà Mau ta chuyện trò
(Tiếng Hò Miền Nam - Nhạc Phạm Duy)
Tản mạn vài nét về Văn hóa của miền Đồng Nai
Tạ Xuân Thạc
Vị trí, lịch sử và địa lý:
Sau cuộc di cư vĩ đại 1954, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà (Tổng Thống Ngô Đình Diệm), miền Nam Việt Nam được sống trong cảnh thanh bình, hạnh phúc ấm no nên nhạc sĩ Phạm Duy vào năm 1956 có ngẫu hứng viết bài "Tiếng hò Miền Nam".
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Ai hi hò lờ !Ai li hò lờ !
Đường về xứ bạn không xa
Qua vùng Đất Đỏ rồi ra Biên Hoà
Ai li hò lờ !Aili hò lớ !
Ai nghe chăng tiếng hò bao la
Những tiếng lòng di cư vẫy vùng theo gió
Ai nghe chăng tiếng người công phu
Biết tìm tự do tránh xa ngục tù
Đường chiều gió thổi vi vu
Tình nghèo vẫn nở như hoa
Ai nghe chăng tiếng hò bao la
Những tiếng cười đôi ta, Nam Bắc một nhà.
Điều này cũng đã nói lên được hoạt cảnh của Đồng Nai, cũng làm cho ta nghĩ ngay đến một miền đất trù phú đã có hơn 300 năm hình thành và phát triển do con sông Đồng Nai đem đất bùn sa mầu mỡ vun bồi. Nhiều biến cố lịch sử đã ghi lại biết bao thăng trầm với không ít sự biến động trên nhiều lãnh vực của vùng đất Đồng Nai này. Tất cả đã tạo ra diện mạo, cho Đồng Nai một nét độc đáo về Văn hoá vào cuối thế kỷ thứ XVI, khi đó vùng đất Đồng Nai vẫn còn hoang dã, chưa được người ta khai phá, chỉ có người dân bản xứ gồm các sắc dân như dân tộc Siêng, dân tộc Mạ, dân tộc Kơ-ho, dân tộc M'nông, dân tộc Chơ-ro và một vài buôn sóc người Khơ-me sinh sống. Dân cư thưa thớt, sống rải rắc chứ không sống thành cộng đồng, kỹ thuật sản xuất rất thô sơ, trình độ xã hội còn thấp kém. Cuộc chiến tranh giữa hai họ Trịnh - Nguyễn ở miền Trung và Bắc Việt Nam làm cho dân chúng lầm than khổ sở, điêu đứng nên đã tạo ra một làn sóng di cư của người dân miền Thuận an, Quảng Nam, Quảng Ngãi vào Đồng Nai tìm đất để sinh sống.
Dân tộc ta vốn bản tính cần cù, chịu thương chịu khó, dân di cư người Việt đã cùng chung sống với người bản xứ chung sức chung lòng quyết tâm khai phá đất hoang để sản xuất nông nghiệp. Lâu dần, những khu rừng rậm hoang vu đã trở thành những cánh đồng lúa và các loại hoa màu tươi tốt.
Trong cuộc Nam tiến có sự góp công của người Hoa mà ta thường gọi là người Minh Hương. Dưới thời chúa Hiền Vương (1649 - 1687), người Mãn Châu xâm lăng nước Trung hoa lật đổ nhà Minh lập ra nhà Thanh, khi nhà Minh ở Trung Quốc bị sụp đổ, những người trung thành với nhà Minh trong đó có Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm, cùng với một số tướng lãnh khác như Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần An Bình, họ không khuất phục nhà Thanh nên đã đem khoảng 50 chiến thuyền, hơn ba ngàn binh lính thân tín và gia quyến đến xin thần phục chúa Nguyễn ở Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Chu thời đó đã thâu nhận và cho vào khai khẩn đất vùng Mỹ Tho Bến Tre, và Chợ Lớn. Một số thì đến khai khẩn ở vùng đất Đông Phố (Cù lao Phố ngày nay).
Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (là cả miền Nam bây giờ), đặt vùng đất mới thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) đựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Cảnh còn cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào lập nghiệp và phát triển kinh tế.
Người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư ở Bến Gỗ, nhưng thấy Cù lao Phố có vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán, họ đã quyết định di chuyển đến đây kinh sống. Từ đây, Cù lao Phố phát triển ngày càng phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả vùng Gia Định (miền Nam ngày nay).
Cũng nơi đất Đồng Nai này mà người ta đã chứng kiến biết bao nhiêu mối tình cao đẹp trung thành và nên thơ là khi đôi trai gái đã hứa hẹn với nhau:
"Ngày nào cạn nước Đồng Nai,
ngày nào cạn nước ngoài khơi,
non sông ta xoá mờ,
không ai nghe tiếng hò, thì lời nguyền mới thôi".
Chính những câu ca mộc mạc đó mà ta thấy ngay cảnh thanh bình hiển hiện đầy tình tự của người miền Đồng Nai nói ở trên.
Đồng Nai phồn thịnh và phát triển thêm nữa là vào thời kỳ của dân di cư 1954 trốn chạy chế độ Cộng sản từ miền Bắc vào đây lập nghiệp dưới chế độ Đệ I Cộng Hoà.
Chỉ cần nghe bài " Tiếng Hò Miền Nam của nhạc sĩ Phạm Duy ông đã sáng tác bài này tại Saigon năm 1956 để ca ngợi cả miền Nam Việt Nam". Vẽ ra một miền đất Đồng Nai nên thơ và mầu mỡ, vì có con sông Đồng Nai tươi mát hữu tình là ta đã cảm nhận ngay cảnh thanh bình của miền Đồng Nai tuyệt diệu đó:
Mẹ hiền nựng bé ngủ mơ
Yêu con thơ mỹ miều
Yêu non sông rất nhiều
Vẳng lời hò mến yêu.
Nhà Bè nước chảy chia đôi
Ai về dưới ruộng cùng tôi thì về
Aili hò lờ !Aili hò lờ !
Đường về nước chảy trôi mau
Đưa thuyền tới mũi Cà Mau ta chuyện trò
(Tiếng Hò Miền Nam - Nhạc Phạm Duy)
Tản mạn vài nét về Văn hóa của miền Đồng Nai
Comment