CÁT BỦN ĐƯỜNG GIỒNG
Nam San
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá về giồng ăn dưa.
Có khi hát:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
Tùy theo cảnh huống mà nói, câu nào cũng đúng cả. Nếu ta định nghĩa phân biệt thế nào là rẩy và ruộng, thế nào là đồng và giồng thì càng rõ thêm.
Ruộng có ruộng gò ruộng sâu, nhiều vùng nê địa lại có cả lung cả quằng; nhưng ruộng thì phải cách xa sông. Trong khi rẩy, dù xa hay gần sông, nước rẩy vẫn là nước sông tràn vào. Nước ra vào nên có một loại cỏ bắc lá mướt như mạ non nhưng rất bén. Khi tới mùa gió chướng, nước mặn ngoài biển tràn vào nên sông có nước pha chè, lờ lợ mặn. Đương nhiên thòi lòi và còng gió rất nhiều. Cá bóng trứng, bóng nhảy, bóng sao đầy nhoi các lổ chưn trâu. Hai bên bờ sông là dừa lá dày đặc. Cá bóng dừa là loại đặc biệt ở trong các bẹ bộp dừa. Dưới bãi sông có nghêu có hến, lòng lạch sông là cá tép đủ loại. Rẩy trồng lúa không tốt, chỉ lên bờ trồng khoai dương ngọc, trồng mía trồng thơm. Rẩy rất dễ biến thành vườn dừa vì có huê lợi nhiều hơn, nhưng rẩy vẫn được duy trì là để nuôi vịt, nuôi trâu bò. Ở rẩy buồn, chỉ có còng là nhiều, nói lên sự thiệt thòi nghèo nàn ở miệt rẩy. Khói đốt đồng thì buồn, nhưng có người canh lửa cháy lan, và tro bụi trở thành phân bón cho mùa năm tới. Trái lại, khói đốt rẩy thì chỉ có le te bìm bịp kinh hoàng tung bay, không ai canh chừng, vì cỏ bắc tươi xanh khó bén lửa như rạ khô ở đồng, vã lại cạnh bờ sông nước chảy lờ đờ, còn gì buồn hơn.
Về rẫy ăn còng là cách nói bóng bẩy, chứ ít ai ăn con còng gió, mặc dù còng cũng có gạch có càng. Người ta chỉ ăn con rạm con nga, tương tợ như con ba khía.: justifyVề sông ăn cá thì khỏi phải giải thích. Nhưng về đồng ăn cua thì sao? Đồng ruộng cách sông, nhưng phì nhiêu sung túc hơn ở rẩy. Đồng có nhiều cá tôm cua ốc. Con cua dính liền với đồng ruộng. Nhà nông thường bắt con cua con, ăn sống nhai cả vỏ cả ngoe và hớp vào một ngụm rượu đế, vừa trừ nạn cua cắn lúa non, vừa trị bịnh. Người bị té nội thương, dùng con cua đồng đâm nhỏ hòa với nước tiểu hài nhi mà uống, sẽ thấy công hiệu.
Rẩy với ruộng với đồng khác nhau, còn giồng thì sao? Tại quê tôi, nếu kể thì không bao giờ kể hết tên giồng. Có lẽ phải tham khảo thêm các bài viết của nhà văn Xuân Vũ hay “Cây Cỏ Miền Nam” của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ mới liệt kê đầy đủ. Như là Giồng Tre, Giồng Trôm, Giồng Quít, Giồng Cát, Giồng Duối, Giồng Luông, Giồng Chùa, Giồng Khuê, Giồng Trường, Giồng Keo, Giồng Thủ... Trở về nguồn gốc thảo mộc thì ở giồng chỉ nơi đất cao và đặc biệt tượng trưng cho một loại thảo mộc thích nghi. Do đó giồng khác biệt với “cái”. Cái chỉ nơi có bến nước và cũng có loại thảo mộc thích nghi như Cái Vẹt, Cái Khế, Cái Quao, Cái Bần. Nếu đồng trồng được nhiều loại cây trái khác nhau thì giồng chỉ thích hợp riêng cho loại chịu đất cao và khô, như cây vú sữa, cây cau, cây đào và đặc biệt là dưa. Nếu trồng loại lạ, thì phải tưới thật nhiều nước, như dây bầu dây bí trồng ở giồng cũng rất sai trái, nhưng phải tưới đủ nước. Dưa trồng ở giồng có dưa hấu, dưa gan, dưa leo, dưa chuột, sau này có giống dưa hoàng kim, dưa sugar baby.. Dưa cũng như mướp, cũng có bông đưa bông cái, nhưng bông đực truyền phấn rồi rụng, còn bông cái đậu và lớn dần thành trái. Dưa hấu lúc còn nhỏ gọi là dưa hường hay dưa hồng, kho lạt với cá lóc rất ngon:
Mẹ mong gả thiếp về giồng,
Ăn bông bí luộc, dưa hồng nấu canh.
Về dưa hường dưa hấu còn có câu đố như sau:
Ngoài xanh trong đỏ như vang
Khen ai khéo đặt một chàng hai tên.
Chuyện dưa ở giồng cũng là chuyện dài không kể hết. Từ quả dưa đỏ An Tiêm trong cổ học Việt Nam đến chuyện đá cá lăn dưa, đến trợt vỏ dưa sợ vỏ dừa, đến dưa gan đổ hột... không nhắc hết ở đây..
Thơ văn và ca dao cũng thường hay nhắc đến dưa:
Ví dầu ví dẫu ví dâu
Ăn trộm hái bầu, ăn cướp hái dưa.
Hoặc như:
Chị kia kẹp tóc đuôi gà
Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu.
Nhà tôi ở dưới đám dâu
Bên trên đám đậu, đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông
Hoặc như Bồ Tùng Linh đã viết trong Liêu Trai Chí Dị:
Cô vọng ngôn chi cô thín chi
Giậu bằng qua giá vũ như ti
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ
Ái thín thu phần quỷ xướng thi
Tản Đà dịch:
Nói láu mà chơi nghe láu chơi
Giàn dưa lún phún giọt mưa rơi
Sự đời hẳn chán không buồn nhắc
Thỏ thẻ nghe ma đọc mấy lời
Ở đây tôi muốn nói đến giồng, đến cát bủn quê nhà, nơi mà hơn 50 năm qua tôi còn ghi trong ký ức. Trên bước đường lưu vong hải ngoại, nhìn cảnh sa mạc xứ người, thấy cảnh sóng cát gờn gợn, tôi chợt thấy nhớ tới cát bủn quê nhà. Cũng có gió trốt thổi cát mịt mờ, cũng có cảnh đá chạy cát bay. Cũng có những con rắn liu điu tim đèn chun vùi dưới cát. Cũng có những con dế dủi độn cát như Thổ Hành Tôn trong truyện Tàu. Cũng có những con kiến nhọt, kiến nẻ ghê hồn, những ổ kiến lửa đùn cát bọt lúc tinh sương. Cũng có những con kỳ nhông chạy lẹ giữa trưa hè. Những ai đạp phải ổ kiến cắn sưng làm độc chỉ có cách là tìm thầy Lổ Bang để khoán theo lối “đau Nam chữa Bắc” thì mới biết.
Giồng sẽ trở thành đồi cát hay sa mạc nếu không có giếng. Giồng và giếng phải đi đôi với nhau. Miệt giồng rất khó đào giếng, vì phải đào thật sâu mới có nước. Lớp trên là cát, nếu gặp mưa thì cát sụp thành giếng lạn. Do đó miệng giếng phải rộng và thoải độ để tránh cát chuồi. Nước giếng ngọt và trong veo vì lớp cát lọc tinh khiết. Giếng và gàu cũng là hình ảnh nên thơ của miệt giồng. Gàu đươn bằng lá dừa nước còn non trong cây cần bắp. Một cây cần bắp hay tàu lá dừa có thể dài đến 5 hoặc 6 thước. Chỉ một cần bắp là chầm được một cái nón lá hay đươn được một gàu múc nước. Gàu đươn hình như con ốc, nhỏ lớn có thể múc đầy 5 đến 10 lít nước. Gàu lá nhỏ thì chắc, ít bể, xài lâu hơn. Gàu được nối bằng sợi dây thật chắc thật dài để xách nước giếng. Có thể là loại dây bố đánh lại hoặc là bẹ bộp dừa xé ra. Những loại dây này xuống nước càng dẽo dai. Nhiều khi dùng dây chuối để xài tạm. Gàu bể mà xách giếng sâu, phăng dây dài là cả một nghệ thuật, nhưng đó cũng là hình ảnh đáng
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Nào hay giếng cạn, tôi tiếc hoài sợi dây.
Có những giếng rộng thoai thoải, có bực đi xuống. Có giếng có bèo đặc gừ. Muốn múc nước phải khỏa bèo. Bèo vớt lên để ủ gốc cây, dây bầu dây bí thật là tốt. Khỏa bèo thường xách nước bằng thùng thiếc, bằng thùng dầu lửa cắt ra và đóng cây ngang để xách. Thùng chứa 20 lít nước. Nếu đóng cây xuôi thì người ta xách một lúc 2 thùng, 40 lít nước, hai thùng nối vào dây và một đòn gánh ngắn ngang vai, hay tay kềm hai thùng nước...Ngoài ra còn đặc trưng của miệt giồng, người ta còn trồng cây bông vải. Sau thời kỳ tơ tằm và tang dâu, người ta trồng cây bông vải để may mặc. Dụng cụ xe kéo chỉ hay khung dệt với go, con thoi vẫn giữ như cũ. Bông vải gieo bằng hột nhỏ và đen cở giọt nước rơi. Lá bông vải hình trái tim như lá bồ đề, mặt dưới có nhiều gân và lông nhỏ để hút sương như các loại cây sa mạc. Bông búp nụ như bông bần, đài bông có 4 hoặc 5 cánh. Bông thành trái cũng gọi là trái bông, có hình trái tim. Khi nứt vỏ cũng hình trái tim, 4 múi hình trái tim trắng tinh như là múi trái măng cụt cắt ra. Nếu hái không kịp, giữa trưa nắng để gió thổi qua, bông sẽ túa bay như tuyết, hoặc cát bụi sẽ bám vào. Cho nên phải canh mà hái bông lúc sáng sớm, phơi nắng vài tiếng và tách bông ra. Gở bông khỏi vỉ, đem phơi và dùng xe cán bông mà cán cho hột rời ra. Xe cán bông có hai trục cán, tay có nắm như trái bần để quay. Bông được bọc trong tấm khăn mỏng đem phơi và mang vào phòng kín để bắn, Dùng cung và dây, như một dũng sĩ ngồi bắn. Người bắn bông thường là thiếu nữ dịu hiền. Dây cung dương thẳng nẹt vào bông nghe bình bịch. Xong lại dời đống bông sang bên dùng roi quất tron trót. Mục đích là làm cho hột rời ra hết và làm cho bông nhuyễn ra và trắng mịn. Bông phải trắng trong như suốt thì mới dùng se chỉ mà dệt thành vải được:
Trắng như bông lòng Em không có chuộng
Đen như cục than hầm, mà lòng Em muốn, dạ Em ưng.
Hột bông có thể ép làm dầu hay ủ làm giá, ăn ngon hơn giá đậu, Vỏ trái bông làm củi chụm, tro rất mặn rất tốt. Người ta chỉ gọi là bông vì vừa là hoa vừa là quả. Cũng như lúa, vừa là bông vừa là hột, cũng như bông súng, vừa là hoa vừa là trái. Bông lúa bông vải có hột để truyền giống. Bông súng chỉ có củ nẩy mầm, còn bông sung còn gai là trái sung, không truyền giống bằng hột. Tôi sẽ kể lại nghề nuôi tằm ươm tơ và trồng dâu ở miệt giồng và đặc biệt trồng cây thuốc lá... Những đợt mưa giông, nước tràn trên cát cùng với bọt bèo, lá cây, đổ về nơi trũng thấp. Cát mịn lại và dợn sóng như đồi cát sa mạc dưới cơn gió thổi. Có những con cua con, con ếch con bằng đầu đủa, lẫn lộn trong bọt cát. Đấp bờ cát đón nước trôi mà tìm bắt cua con, ếch con giữa sấm sét ầm ì, là thú vui của tuổi thơ. Mưa xong là mặt giồng khô ngay, vì nước rút theo cát và chảy về chỗ trũng. Đi trên cát sau cơn mưa mới tạnh, vừa êm vừa mát tưởng không thảm nhung nào trên đời mịn hơn.
Nam San
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng,
Về sông ăn cá về giồng ăn dưa.
Có khi hát:
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá về đồng ăn cua.
Tùy theo cảnh huống mà nói, câu nào cũng đúng cả. Nếu ta định nghĩa phân biệt thế nào là rẩy và ruộng, thế nào là đồng và giồng thì càng rõ thêm.
Ruộng có ruộng gò ruộng sâu, nhiều vùng nê địa lại có cả lung cả quằng; nhưng ruộng thì phải cách xa sông. Trong khi rẩy, dù xa hay gần sông, nước rẩy vẫn là nước sông tràn vào. Nước ra vào nên có một loại cỏ bắc lá mướt như mạ non nhưng rất bén. Khi tới mùa gió chướng, nước mặn ngoài biển tràn vào nên sông có nước pha chè, lờ lợ mặn. Đương nhiên thòi lòi và còng gió rất nhiều. Cá bóng trứng, bóng nhảy, bóng sao đầy nhoi các lổ chưn trâu. Hai bên bờ sông là dừa lá dày đặc. Cá bóng dừa là loại đặc biệt ở trong các bẹ bộp dừa. Dưới bãi sông có nghêu có hến, lòng lạch sông là cá tép đủ loại. Rẩy trồng lúa không tốt, chỉ lên bờ trồng khoai dương ngọc, trồng mía trồng thơm. Rẩy rất dễ biến thành vườn dừa vì có huê lợi nhiều hơn, nhưng rẩy vẫn được duy trì là để nuôi vịt, nuôi trâu bò. Ở rẩy buồn, chỉ có còng là nhiều, nói lên sự thiệt thòi nghèo nàn ở miệt rẩy. Khói đốt đồng thì buồn, nhưng có người canh lửa cháy lan, và tro bụi trở thành phân bón cho mùa năm tới. Trái lại, khói đốt rẩy thì chỉ có le te bìm bịp kinh hoàng tung bay, không ai canh chừng, vì cỏ bắc tươi xanh khó bén lửa như rạ khô ở đồng, vã lại cạnh bờ sông nước chảy lờ đờ, còn gì buồn hơn.
Về rẫy ăn còng là cách nói bóng bẩy, chứ ít ai ăn con còng gió, mặc dù còng cũng có gạch có càng. Người ta chỉ ăn con rạm con nga, tương tợ như con ba khía.: justifyVề sông ăn cá thì khỏi phải giải thích. Nhưng về đồng ăn cua thì sao? Đồng ruộng cách sông, nhưng phì nhiêu sung túc hơn ở rẩy. Đồng có nhiều cá tôm cua ốc. Con cua dính liền với đồng ruộng. Nhà nông thường bắt con cua con, ăn sống nhai cả vỏ cả ngoe và hớp vào một ngụm rượu đế, vừa trừ nạn cua cắn lúa non, vừa trị bịnh. Người bị té nội thương, dùng con cua đồng đâm nhỏ hòa với nước tiểu hài nhi mà uống, sẽ thấy công hiệu.
Rẩy với ruộng với đồng khác nhau, còn giồng thì sao? Tại quê tôi, nếu kể thì không bao giờ kể hết tên giồng. Có lẽ phải tham khảo thêm các bài viết của nhà văn Xuân Vũ hay “Cây Cỏ Miền Nam” của Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ mới liệt kê đầy đủ. Như là Giồng Tre, Giồng Trôm, Giồng Quít, Giồng Cát, Giồng Duối, Giồng Luông, Giồng Chùa, Giồng Khuê, Giồng Trường, Giồng Keo, Giồng Thủ... Trở về nguồn gốc thảo mộc thì ở giồng chỉ nơi đất cao và đặc biệt tượng trưng cho một loại thảo mộc thích nghi. Do đó giồng khác biệt với “cái”. Cái chỉ nơi có bến nước và cũng có loại thảo mộc thích nghi như Cái Vẹt, Cái Khế, Cái Quao, Cái Bần. Nếu đồng trồng được nhiều loại cây trái khác nhau thì giồng chỉ thích hợp riêng cho loại chịu đất cao và khô, như cây vú sữa, cây cau, cây đào và đặc biệt là dưa. Nếu trồng loại lạ, thì phải tưới thật nhiều nước, như dây bầu dây bí trồng ở giồng cũng rất sai trái, nhưng phải tưới đủ nước. Dưa trồng ở giồng có dưa hấu, dưa gan, dưa leo, dưa chuột, sau này có giống dưa hoàng kim, dưa sugar baby.. Dưa cũng như mướp, cũng có bông đưa bông cái, nhưng bông đực truyền phấn rồi rụng, còn bông cái đậu và lớn dần thành trái. Dưa hấu lúc còn nhỏ gọi là dưa hường hay dưa hồng, kho lạt với cá lóc rất ngon:
Mẹ mong gả thiếp về giồng,
Ăn bông bí luộc, dưa hồng nấu canh.
Về dưa hường dưa hấu còn có câu đố như sau:
Ngoài xanh trong đỏ như vang
Khen ai khéo đặt một chàng hai tên.
Chuyện dưa ở giồng cũng là chuyện dài không kể hết. Từ quả dưa đỏ An Tiêm trong cổ học Việt Nam đến chuyện đá cá lăn dưa, đến trợt vỏ dưa sợ vỏ dừa, đến dưa gan đổ hột... không nhắc hết ở đây..
Thơ văn và ca dao cũng thường hay nhắc đến dưa:
Ví dầu ví dẫu ví dâu
Ăn trộm hái bầu, ăn cướp hái dưa.
Hoặc như:
Chị kia kẹp tóc đuôi gà
Nắm đuôi chị lại hỏi nhà chị đâu.
Nhà tôi ở dưới đám dâu
Bên trên đám đậu, đầu cầu ngó qua
Ngó qua đám bắp trổ cờ
Đám dưa trổ nụ đám cà trổ bông
Hoặc như Bồ Tùng Linh đã viết trong Liêu Trai Chí Dị:
Cô vọng ngôn chi cô thín chi
Giậu bằng qua giá vũ như ti
Liệu ưng yếm tác nhân gian ngữ
Ái thín thu phần quỷ xướng thi
Tản Đà dịch:
Nói láu mà chơi nghe láu chơi
Giàn dưa lún phún giọt mưa rơi
Sự đời hẳn chán không buồn nhắc
Thỏ thẻ nghe ma đọc mấy lời
Ở đây tôi muốn nói đến giồng, đến cát bủn quê nhà, nơi mà hơn 50 năm qua tôi còn ghi trong ký ức. Trên bước đường lưu vong hải ngoại, nhìn cảnh sa mạc xứ người, thấy cảnh sóng cát gờn gợn, tôi chợt thấy nhớ tới cát bủn quê nhà. Cũng có gió trốt thổi cát mịt mờ, cũng có cảnh đá chạy cát bay. Cũng có những con rắn liu điu tim đèn chun vùi dưới cát. Cũng có những con dế dủi độn cát như Thổ Hành Tôn trong truyện Tàu. Cũng có những con kiến nhọt, kiến nẻ ghê hồn, những ổ kiến lửa đùn cát bọt lúc tinh sương. Cũng có những con kỳ nhông chạy lẹ giữa trưa hè. Những ai đạp phải ổ kiến cắn sưng làm độc chỉ có cách là tìm thầy Lổ Bang để khoán theo lối “đau Nam chữa Bắc” thì mới biết.
Giồng sẽ trở thành đồi cát hay sa mạc nếu không có giếng. Giồng và giếng phải đi đôi với nhau. Miệt giồng rất khó đào giếng, vì phải đào thật sâu mới có nước. Lớp trên là cát, nếu gặp mưa thì cát sụp thành giếng lạn. Do đó miệng giếng phải rộng và thoải độ để tránh cát chuồi. Nước giếng ngọt và trong veo vì lớp cát lọc tinh khiết. Giếng và gàu cũng là hình ảnh nên thơ của miệt giồng. Gàu đươn bằng lá dừa nước còn non trong cây cần bắp. Một cây cần bắp hay tàu lá dừa có thể dài đến 5 hoặc 6 thước. Chỉ một cần bắp là chầm được một cái nón lá hay đươn được một gàu múc nước. Gàu đươn hình như con ốc, nhỏ lớn có thể múc đầy 5 đến 10 lít nước. Gàu lá nhỏ thì chắc, ít bể, xài lâu hơn. Gàu được nối bằng sợi dây thật chắc thật dài để xách nước giếng. Có thể là loại dây bố đánh lại hoặc là bẹ bộp dừa xé ra. Những loại dây này xuống nước càng dẽo dai. Nhiều khi dùng dây chuối để xài tạm. Gàu bể mà xách giếng sâu, phăng dây dài là cả một nghệ thuật, nhưng đó cũng là hình ảnh đáng
Tưởng giếng sâu tôi nối sợi dây dài
Nào hay giếng cạn, tôi tiếc hoài sợi dây.
Có những giếng rộng thoai thoải, có bực đi xuống. Có giếng có bèo đặc gừ. Muốn múc nước phải khỏa bèo. Bèo vớt lên để ủ gốc cây, dây bầu dây bí thật là tốt. Khỏa bèo thường xách nước bằng thùng thiếc, bằng thùng dầu lửa cắt ra và đóng cây ngang để xách. Thùng chứa 20 lít nước. Nếu đóng cây xuôi thì người ta xách một lúc 2 thùng, 40 lít nước, hai thùng nối vào dây và một đòn gánh ngắn ngang vai, hay tay kềm hai thùng nước...Ngoài ra còn đặc trưng của miệt giồng, người ta còn trồng cây bông vải. Sau thời kỳ tơ tằm và tang dâu, người ta trồng cây bông vải để may mặc. Dụng cụ xe kéo chỉ hay khung dệt với go, con thoi vẫn giữ như cũ. Bông vải gieo bằng hột nhỏ và đen cở giọt nước rơi. Lá bông vải hình trái tim như lá bồ đề, mặt dưới có nhiều gân và lông nhỏ để hút sương như các loại cây sa mạc. Bông búp nụ như bông bần, đài bông có 4 hoặc 5 cánh. Bông thành trái cũng gọi là trái bông, có hình trái tim. Khi nứt vỏ cũng hình trái tim, 4 múi hình trái tim trắng tinh như là múi trái măng cụt cắt ra. Nếu hái không kịp, giữa trưa nắng để gió thổi qua, bông sẽ túa bay như tuyết, hoặc cát bụi sẽ bám vào. Cho nên phải canh mà hái bông lúc sáng sớm, phơi nắng vài tiếng và tách bông ra. Gở bông khỏi vỉ, đem phơi và dùng xe cán bông mà cán cho hột rời ra. Xe cán bông có hai trục cán, tay có nắm như trái bần để quay. Bông được bọc trong tấm khăn mỏng đem phơi và mang vào phòng kín để bắn, Dùng cung và dây, như một dũng sĩ ngồi bắn. Người bắn bông thường là thiếu nữ dịu hiền. Dây cung dương thẳng nẹt vào bông nghe bình bịch. Xong lại dời đống bông sang bên dùng roi quất tron trót. Mục đích là làm cho hột rời ra hết và làm cho bông nhuyễn ra và trắng mịn. Bông phải trắng trong như suốt thì mới dùng se chỉ mà dệt thành vải được:
Trắng như bông lòng Em không có chuộng
Đen như cục than hầm, mà lòng Em muốn, dạ Em ưng.
Hột bông có thể ép làm dầu hay ủ làm giá, ăn ngon hơn giá đậu, Vỏ trái bông làm củi chụm, tro rất mặn rất tốt. Người ta chỉ gọi là bông vì vừa là hoa vừa là quả. Cũng như lúa, vừa là bông vừa là hột, cũng như bông súng, vừa là hoa vừa là trái. Bông lúa bông vải có hột để truyền giống. Bông súng chỉ có củ nẩy mầm, còn bông sung còn gai là trái sung, không truyền giống bằng hột. Tôi sẽ kể lại nghề nuôi tằm ươm tơ và trồng dâu ở miệt giồng và đặc biệt trồng cây thuốc lá... Những đợt mưa giông, nước tràn trên cát cùng với bọt bèo, lá cây, đổ về nơi trũng thấp. Cát mịn lại và dợn sóng như đồi cát sa mạc dưới cơn gió thổi. Có những con cua con, con ếch con bằng đầu đủa, lẫn lộn trong bọt cát. Đấp bờ cát đón nước trôi mà tìm bắt cua con, ếch con giữa sấm sét ầm ì, là thú vui của tuổi thơ. Mưa xong là mặt giồng khô ngay, vì nước rút theo cát và chảy về chỗ trũng. Đi trên cát sau cơn mưa mới tạnh, vừa êm vừa mát tưởng không thảm nhung nào trên đời mịn hơn.
Comment