• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Một quê hương vừa quen vừa lạ

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Một quê hương vừa quen vừa lạ

    Một quê hương vừa quen vừa lạ
    Nguyễn thị Hàm Anh.

    Một quê hương vừa xa vừa gần
    Tôi sinh ra và lớn lên ở Saigon. Tết và hè, trong khi các bạn bè của mình về quê thì tôi đi Nha Trang, Đà Lạt, Huế...hay tôi về An Giang, Tây Ninh, Châu Đốc... Đôi khi tôi vẫn thấy mình thiếu điều gì khi đám bạn ríu rít kể về quê câu cá, soi ếch mùa nước lũ, leo lên đồi thưa hái sim chín, lún chân những trảng cát bỏng cháy chỉ có xương rồng trụ nổi... Bạn tôi về quê, còn tôi mọi chốn chỉ là khách đi du lịch.


    Rồi tôi cũng đi, không biết đến hay về một chốn quê hương. Chiếc xe khởi hành từ sáng sớm chạy vun vút tới làng, một địa danh quen thuộc. Đường đê trải nhựa không rộng lắm, thỉnh thoảng xuất hiện chiếc điếm canh chơ vơ không cửa thốc gió lồng lộng. Bên này là bãi cỏ, ruộng rau và khoai chạy tít cả cây số, sông bàng bạc một dải thật xa lẫn vào sương sáng; phía kia là nhà cửa mái ngói đỏ au xen lẫn vườn tược. Thỉnh thoảng xuất hiện một cảnh đền chùa đang sặc sỡ cờ phướn chuẩn bị vào hội. Xe chạy nhanh, gió ào ào quất mạnh khiến tôi nghiến răng vì lạnh. Từng đám cỏ xác xơ bên đường vẫn điểm lốm đốm vàng những bông cúc dại li ti. Vạt điền thanh xanh rờn đong đưa thân cây mảnh mai trong gió sớm. Thứ này trong Nam gọi là điên điển, mùa nước nổi, hoa điên điển mọc đầy hái về xào trứng ăn rất ngon.
    Chiếc xe đột ngột dừng lại. Đến làng rồi. Làng đây rồi sao? Mưa nhỏ hạt khiến mặt đường thoải từ đê xuống lối chính dẫn vào làng bết đầy bùn. Tôi tưởng mình đang đứng trước khu phố thị nào đó. Những ngôi nhà mới xây nhiều tầng bề thế với đủ màu sắc, đủ kiểu kiến trúc tân kỳ đứng chen chúc hai bên với bảng chỉ đường được gắn tại các ngả rẽ. Panneau lớn dựng khắp nơi với khẩu hiệu và quảng cáo cho một ngôi làng đã được xếp hạng di tích. Ngôi chợ mới xây choáng lộn giống như khu triển lãm ở bất cứ mọi nơi chưng bày các sản phẩm đơn giản, rẻ tiền thường bán ở chợ. Không có cổng làng cong ngói rêu phong, cũng chẳng thấy cây đa rợp bóng chõng nước. Cây đa hàng nước đã lui vào nằm nghỉ ngơi dấu mình đâu đó trong ca dao, bài hát, trong câu chuyện mẹ kể ngày nào.
    Tôi bỡ ngỡ nhìn con đường lép nhép bùn đen không biết sẽ dẫn tới đâu. Đây là ngôi làng thủ công nghiệp nhỏ bé không có đất ruộng nên không thấy bóng người nông dân vác cuốc, dẫn trâu ra đồng, không có đụn rơm vàng óng trong sân, cũng chẳng có đàn gà thơ thẩn cất tiếng gáy... Dọc theo con đường đến tận khúc quành khuất mắt tôi vẫn là bậc thềm đá hoa dẫn lên nền những tòa nhà cao ngất mới tinh như vừa được di chuyển từ thành phố về đây. Lác đác dăm người phụ nữ làm thuê đội nón lá, đi ủng cao lầm lũi đẩy xe cút kít đất qua lại. Tôi ngóng quanh quất mãi chẳng thấy một hình ảnh, bóng dáng nào quen thuộc. Có phải Từ Thức khi trở về quê xưa cũng ngỡ ngàng thế này.
    Tạnh mưa nhưng bầu trời lúc nào cũng âm âm. Tôi tần ngần trước các cửa hàng lộng lẫy đầy ắp hàng hóa chung quanh, chẳng biết chọn lối nào giữa các ngả rẽ từa tựa nhau. Người lái xe ái ngại hỏi tôi muốn mua hàng, tìm người quen hay đi du lịch vì khách ngoại quốc thường kéo về đây chơi nhiều lắm, cô muốn sao để tôi đi hỏi hộ. Tôi lắc đầu lặng thinh. Tôi không mua gì cả, nhà tôi chưng rất nhiều món đồ xuất xứ từ đây. Tôi cũng chẳng tìm người quen, ông trưởng họ cũ là người duy nhất biết mẹ tôi đã qua đời cách đây mấy năm. Nay tôi gặp ai để có thể tự giới thiệu ông ngoại tôi là người con thứ hai trong số bốn người con của cụ tổ. Làng là nơi định cư của tổ tiên bên ngoại, là nơi mẹ tôi sinh ra, tôi đâu có về đây du lịch như các chốn danh lam từng ghé chân qua để du ngoạn, ngắm cảnh. Tôi về đây để tìm một quê hương.
    Tôi men từng bước chầm chậm trên lối đi nhìn rất giống con hẻm rộng vì không có chút bóng xanh của cây cối, hàng rào. Rẽ qua mấy khúc quặt vẫn chỉ hai dãy nhà đồ sộ với lối kiến trúc mới góp nhặt từ nhiều nơi. Một hoàng thành vừa được khai quật trong lòng thành phố để bày ra lịch sử, còn những tòa nhà trong ngôi làng này mới được xây lên to lớn quá, chắc chắn, kiên cố quá nên đã đè lấp, xóa tan quá khứ mất rồi. Tôi bới đào đâu để tìm thấy quê hương. Chị em tôi từ lúc còn nhỏ xíu đến khi lớn khôn, luôn nghe cha mẹ kể chuyện về một quê hương xa xôi. Những mẩu chuyện cứ được lập đi lập lại vào buổi tối để dỗ bé con ngủ, gửi vào ngọn gió Đông Bắc heo may buổi sáng đầu mùa khô thổi đến một mùa Thu không có ở phương Nam, đặt trong nồi bánh chưng cuối năm khắc khoải mối sầu hoài hương không nguôi theo thời gian. Tôi lớn lên trong một quê hương như vậy, vừa có thực vừa mơ hồ. Tôi đắm chìm trong đó suốt từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành, tôi nhìn nó hiển hiện trong óc rõ ràng đến từng chi tiết và có thể kể lại đúng từng chữ như mẹ tôi đã kể lại không sai một chữ trong suốt nhiều năm dài.
    Đôi giầy của tôi đã bết đầy bùn từng bước chân nhấc lên nặng chịch. Tôi dừng trước một gian hàng nhìn vào tủ kính. Cô bán hàng từ nhà trong nhanh nhảu bước ra chào mời bằng một câu tiếng Anh. Tôi đánh tiếng trả lời để nhắc cô biết khách là người Việt nhưng cô vẫn tiếp tục chỉ tay vào các kệ hàng hóa, tuôn trào những lời giới thiệu hàng tràng tiếng Anh líu lo. Chắc vì tôi hơi cao, chắc tôi có khuôn mặt và giọng nói rất khác với dân địa phương, nhưng sao cô không nhận ra là tôi đến từ miền Nam, là một người Việt từng ngày chứng kiến những thay đổi trên đất nước Việt Nam, mang nặng trong lòng những nỗi vui buồn của người Việt. Tại các thành phố miền Bắc đi qua, tôi thường bị mọi người hỏi là người Nhật hay Đại Hàn. Những vùng này hiếm người lạ đến sinh sống nên một vóc dáng từ nơi xa đều dễ dàng bị nhận ra. Có lần để trả lời vẫn lại câu hỏi từ đâu tới của một ông già trong quán nước thuộc khu phố cổ, tôi đã đọc hai câu thơ. Hỏi rằng người ở nơi đâu. Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà. Lôi Bùi Giáng ra làm chi để lại càng xa lạ hơn chốn này nên tôi đành đứng lên bỏ đi không giải thích, trước đôi mắt ngơ ngác của ông già.
    Hồn của quê hương mẹ ký thác vào tôi giờ đứng trên mảnh đất này, tôi trao gửi vào đâu? Tôi đứng ngoài bậc cửa nhìn mãi dãy kệ dài xếp đầy lũ bình và bát chiết yêu to nhỏ đủ cỡ. Lớp men ngọc rạn chân chim với hoa văn cách điệu của thời Lê, Lý, Trần... Các món đồ vẫn bày biện và xử dụng thường xuyên tại nhà tôi, sao tự nhiên ngay chính nơi ra đời, chúng nằm yên đó nhìn tôi một cách thờ ơ.
    Cô bán hàng chỉ tôi phía ra bờ sông. Ngôi làng thay đổi nhiều lắm, hầu hết đã trở thành phố thị nhưng vẫn còn sót lại một mảnh làng cổ. Đi hết khu cửa hàng biệt thự là bắt đầu vào ranh giới làng cũ. Tôi loanh quanh một lúc lâu vì đường làng chỉ là những ngõ nhỏ quanh co rộng khoảng hơn một thước giữa hai bờ tường cao. Những bức tuờng bệch bạc từ nhiều chục năm qua không hề sơn phết lại. Nỗi buồn năm tháng theo những hạt mưa cuối đông dai dẳng không dừng thấm sâu vào kẽ vữa, khiến lớp vôi ẩm ướt như muốn bở ra và từng lớp gạch đỏ mang nỗi gì âu sầu rời rã. Tôi bắt đầu tìm thấy dấu vết quen thuộc nơi các mảng xỉ đen tròn đắp đều đặn trên từng đoạn tường, trông xa như những chiếc mặt nạ im lìm chất chứa trong đó bí mật của ngàn năm lịch sử. Đằng sau những dãy tường dài này là các ngôi nhà kiểu cổ, lò nung thủ công, nhà ngang làm nơi nặn gốm, gian bếp, giếng và sân phơi rộng rãi. Tường khá cao không thể nhìn thấy bên trong, cổng vòm thấp với hai cánh cửa gỗ nặng nề của mỗi căn nhà đều đóng chặt, dấu kín trong đó mọi sinh hoạt của mình. Cửa mở cho những người công nhân rỡ hàng ra hay chuyển nguyên liệu vào. Cửa mở đón khách xem hàng, ký hợp đồng. Có cánh cửa nào mở ra cho người tìm về một chốn quê hương.
    Đường làng như bàn cờ với những lối đi rất hẹp, ngắn, không bóng người chạy ngang dọc khá vui mắt đối với khách du lịch nhưng chưa khiến tôi tìm ra, bắt gặp điều gì đó vẫn chập chờn, lẩn khuất. Những bức tường mở ngoặt ra trước mặt giống y hệt nhau. Những cánh cổng vòm thấp cũng giống nhau. Tôi không thấy đường ra, cũng chẳng biết mình phải đi đâu, ngừng chỗ nào. Không biết đâu là căn nhà nơi mẹ tôi được sinh ra. Một bà cụ tình cờ gặp khi tôi lạc vào ngõ cụt hỏi tôi sao không đi du lịch theo đoàn mà chỉ một mình. Bà dẫn tôi ra chùa làng. Chùa khá khang trang đã được sửa chữa nhiều, thầy trụ trì đi vắng nên chính điện, nhà thờ tổ, nhà ngang đều cài then kín. Văn chỉ làng là một căn nhà bụi bặm, bàn ghế lỏng chỏng chất đống chắc để làm chỗ hội họp. Lâu ngày không tế lễ cũng chẳng họp hành nên ngôi nhà có vẻ ẩm mốc, hoang phế. Đình làng to rộng hơn nhìn thẳng ra sông cái. Chỉ mấy chục năm mà sông đã ăn lẹm vào đất liền, chỉ còn mảnh sân đình hẹp đang quây vải điều cho một đám cưới đang ăn uống ồn ào. Bậc thang dẫn xuống sông là bến để thuyền lên xuống hàng. Bà cụ dẫn đường không cùng họ Lê với mẹ tôi, mấy người từ bến đi lên nhẩn nha chuyện trò với bà về giá men, về mẻ hàng mới xuất lò. Ai trong số đó tôi gọi là bác, là anh. Ai gọi lại tôi là chị, là cháu? Có một mối liên hệ giữa họ và tôi. Có một sợi dây liên hệ bị kéo mỏng manh, bị vùi lấp bởi không gian quá xa và thời gian quá lâu. Sợi dây thật mỏng mảnh nhưng không đứt.
    Tôi rời sân đình đi dọc theo bờ sông. Vài bụi cây dại mọc thưa thớt đây đó. Khúc sông trước đền làng vắng vẻ. Rất nhiều mảnh gốm vỡ được cắm vào triền đất như để chống đỡ phần nào ngọn nước dào dạt xô vào. Sông cứ miệt mài lở bên này để bồi đắp cho bên kia. Tôi bám bờ dốc lần xuống mép sông. Gần trưa mà bầu trời và mặt nước vẫn nhạt nhòa sương mờ. Chiếc thuyền chài lẻ loi từ đâu lặng lẽ lướt qua trước mắt rồi trôi vào hơi nước trắng xoá, tiếng hát Trương Chi không hào phóng ban tặng nhân gian mà chỉ gửi đến một nàng Mỵ Nương trong cổ tích. Tôi khỏa tay xuống mặt sóng từng đợt vỗ nhè nhẹ vào bờ, vốc ngụm nước mát lạnh rửa trôi đi những mệt mỏi đường dài.
    Mẹ kể xưa kia nơi đây có bậc thang đá rộng và cao dẫn xuống sông chứ không kè đá như bây giờ. Bờ sông có thay đổi nhưng dòng sông đang mùa nước lũ đỏ phù sa vẫn cuồn cuộn còn đây không đổi thay. Mặt sông soi bóng, ghi dấu bao thay đổi, thăng trầm của ngôi làng cổ xưa. Tôi lắng nghe tiếng kể chuyện từ hồn sông sâu thẳm vọng lên. Tôi nhìn thấy ông ngoại che chiếc quạt thước tránh nắng ra văn chỉ, thấy mùa xuân dịu dàng, bà ngoại thủa còn con gái thắt lưng điều, chân hài cong ra sân đình làm tướng bà ở hội cờ, tôi thấy trên đường làng phất phới những tà áo the, những nón quai thao e ấp đi trẩy hội thôn Đông, đi hát hội thôn Đoài. Trong phút chốc tôi nghe lòng dịu lại. Mảnh đất này lần đầu tiên tôi đặt chân tới nhưng cảm giác quen thuộc dần dần mở ra, tràn ngập trong tôi. Đây là chốn mẹ kể cho tôi nghe suốt từ thời thơ ấu đến giờ, là thế giới của sách vở mà tôi đọc hoài đến thuộc. Một nơi tôi không có mặt nhưng lại sống, tồn tại và gắn bó trong đó như một phần đời của mình. Tôi tìm về một quê hương trong tâm tưởng.
    Vùng đất ấy hiện diện trước mắt mà tôi đang dọ dẫm, kiếm tìm.
    Bà từ của đền làng đi qua nhìn chăm chú, nhắc tôi khéo trượt ngã xuống sông vì nước chảy rất xiết. Như mọi người, bà ngắm nghía tôi, một người lạ cứ lang thang cả buổi trong làng, hỏi chuyện để lắng nghe giọng nói mang âm sắc đặc biệt phương Nam của tôi. Tôi tự hỏi mình đang đi đến hay trở về quê hương này. Một quê hương riêng tư chỉ mình tôi hay biết. Tôi ngẩng đầu nhìn sông. Sông cái rộng quá, sông chảy từ thủa hồng hoang khai thiên lập địa đến nay đã chứng kiến, chuyên chở bao tâm tình, số phận của đất trời, của con người. Nước vẫn miên man trôi qua những ngón tay tôi, qua kẽ chân và tiếp tục trôi đi... Nghe như nước chảy qua châu thân, cuốn đi, rửa sạch những ám ảnh để tôi thấy quê hương trong lòng và bên ngoài đang từ từ tìm cách hòa quyện vào nhau.
    Tôi không sinh ra và lớn lên tại đây, thế mà ngôi làng vẫn in hằn trong trong tâm trí huống hồ những người tóc để chỏm từng chơi đùa bên bụi ruối hàng rào, từng ném đóa ngọc lan gửi mùi hương hẹn hò bên giếng nước thì hai chữ cố hương đã trở thành nỗi ray rứt không yên. Nỗi ray rứt ấy cha mẹ tôi đặt vào con cái nên chị em tôi đều mang trong lòng niềm hoài vọng về quê hương, về cội nguồn mà rồi sẽ tiếp tục truyền lại mãi mãi cho đời sau.
    Nước sông vỗ trên má tôi, nhỏ xuống lòng bàn tay gột hết cát bụi đưa tôi về ban sơ, nguyên thủy, đưa tôi ngược thời gian trở về đứa bé nào xa xưa trong tiền kiếp đang ngồi nghịch nước bên dòng sông. Tôi thở thật dài, tôi trút hết lo âu, nghi ngại xuống dòng sông. Một quê hương dần dần hiển hiện.
    Chút nữa thôi tôi sắp rời đây, trở về một quê hương khác nơi tôi sinh ra và lớn lên với dòng sông hiền hòa trước nhà. Thành phố có sáu tháng mùa khô, sáu tháng mùa mưa trời chợt mưa chợt nắng, nơi chỉ đi chơi xa thôi đã nhớ về da diết, nhưng tôi biết từ đây tôi thực sự có một góc quê hương trong lòng một quê hương to lớn. Một chốn cội nguồn sâu thẳm cho tâm hồn tìm về trú ngụ, nghỉ ngơi.
    Sống trên đời

    Similar Threads
Working...
X
Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom