• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Nhân Vesak 2008, nhớ Trần Nhân Tông

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Nhân Vesak 2008, nhớ Trần Nhân Tông

    Nếu là một người yêu sử, chắc chắn ta luôn có những day dứt từ lịch sử. Bởi rất nhiều mảng tối hoặc mảng quá sáng từ quá khứ không thể rọi soi nổi, dẫu chỉ chút ít, những sai lầm của hiện tại, tuy ta đã được biết rằng chúng ít nhiều có liên hệ với nhau. Tôi thường thoáng nghĩ đến Trần Nhân Tông mỗi khi lần đầu tiên đến với một thành phố mới. Điều kỳ lạ là ở hầu hết các thành phố ấy, tên Trần Nhân Tông thường được đặt cho những con đường rất nhỏ. Phải chăng chúng ta chưa hiểu hết về Trần Nhân Tông?

    Cách đây 750 năm, Trần Nhân Tông đã chào đời và 700 năm trước ông đã vĩnh viễn rời xa cõi dương trần (1258-1308). Đúng nửa thế kỷ sống tận trung với nước và chiêm nghiệm cuộc đời nhưng giống như một định mệnh, cuộc đời của Trần Nhân Tông luôn luôn là một nửa. Sau 20 năm học hỏi, Trần Nhân Tông có đúng 30 năm nữa để chia đôi cuộc đời thành hai nửa (1278-1308): 15 năm đầu ông làm vua, 15 năm sau ông đi tu ở Trúc Lâm Yên Tử. Ông cũng là người đầu tiên khai phá con đường để có thêm một nửa giang sơn cho đất nước khi quyết định gả con gái yêu của mình là Công chúa Huyền Trân (1306) để đổi lấy châu Ô, châu Rí (nay là tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế). Nói chính xác là ông đã "đứng" được trên đỉnh đèo Hải Vân để nhìn thấy mũi Cà Mau trước chúng ta 700 năm! Chỉ có một người đã hai lần lãnh đạo đánh thắng quân Nguyên (mà trên thế giới không một vị vua nào làm được) mới hiểu hết giá trị của phương Nam khi muốn giữ yên bờ cõi cho non sông đất nước.

    Cái cách phân chia rạch ròi như trên chỉ gần hợp lý về thời gian chứ về con người, nhất là trái tim người, không thể nào thỏa đáng. Bằng chứng rõ nhất là ngay cả khi đã lập nên phái thiền Trúc Lâm rồi, Trần Nhân Tông vẫn còn băn khoăn đến vận nước như đã nói ở trên. Hiểu cho hết con người Trần Nhân Tông là điều không thể. Vào thành Thăng Long sau khi đuổi quân Nguyên, có cả hàng chục thùng đựng thư từ của những kẻ xin đầu hàng giặc để làm quan, ông cho đốt hết. Ông quở trách vua con (Trần Anh Tông) rằng: "Đất nước bé bằng bàn tay, lắm quan đến thế, dân làm sao sống nổi?"…

    Trước Trần Nhân Tông, chưa có một vị vua nào tự nguyện rời bỏ ngai vàng một cách thanh thản năm 35 tuổi. Sau Trần Nhân Tông lại càng không có bao giờ! Một khi đã có quyền lực tối cao mà rũ bỏ nó nhẹ nhàng như gạt một hạt bụi trần, đó là nhân cách của sự phi thường, của trác tuyệt nghĩa tâm nhân. Nếu tạm chưa xét đến các lẽ của đời thường, ta mới chợt nghiệm ra rằng mình đã không hiểu hết cái chân lý cao siêu diệu vợi của Phật pháp nhiệm mầu.

    Trần Nhân Tông đã không hề màng chuyện thịnh suy của chính mình. Ông rời bỏ ngai vàng, đến với Trúc Lâm để tận sạch sân si. Điều vô giá mà cõi Sơn Thiền mang lại là sự thanh khiết, trong lành của gió trời sương núi, là sự thăng hoa của lòng nhân. Có không ít người đã trốn chạy khỏi cuộc đời để đến với cõi thiền. Trần Nhân Tông không phải là người như thế. Trước khi làm vua, ông đã nhiều lần từ chối vương quyền. Đến khi bị vua cha bắt ép làm vua, ông vẫn hoàn thành xuất sắc bổn phận của bậc minh quân. Sau khi Hốt Tất Liệt chết, biết là quân Nguyên khó có thể xâm lược nước ta lần nữa, Trần Nhân Tông rời bỏ ngai vàng để thỏa tâm nguyện mà ông đã chờ, đã đợi suốt 15 năm.

    Trần Nhân Tông đã làm hơn bảy chục bài thơ. Đó là con số không nhiều. Nhưng hàng chục lần ông đã nhắc đến chữ "xuân" trong thơ ông. Điều ấy minh giải rằng ông luôn thanh thản với hai chữ làm người. Có hai câu thơ của Trần Nhân Tông mà dẫu là ai, dẫu chỉ đọc một lần cũng không thể nào quên: Số đời một màn kéo. Tình người đôi mắt ngân. Vế trước như là một định ngữ, một lời can ngăn mọi cái ác, cái xấu vô hình, gợi mở sự hướng thiện bởi nếu không sẽ chẳng còn kịp nữa. Vế sau là "tuyên ngôn" của Phật pháp, là tiếng tri âm tâm huyết của Trần Nhân Tông.

    Tô Vĩnh Hà
    Hãy hướng về phía mặt trời mọc bóng tối sẽ khuất sau lưng anh.
    Similar Threads
  • #2

    Vị hoàng đế được tôn làm Phật

    700 năm ngày mất vua Trần Nhân Tông (1.11 Mậu Thân - 1.11 Mậu Tý)


    Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.



    Giấc mộng sen vàng

    Vua Trần Nhân Tông (Trần Khâm) sinh ngày 11.11.1258. Khi sinh ra “màu da sáng như màu vàng ròng, vì thế vua cha là Trần Thánh Tông mới gọi ngài là: Kim Phật. Bên vai phải của ngài có một nốt ruồi đen to như hạt đậu, những thức giả thời ấy tiên đoán về sau thế nào ngài cũng gánh vác việc lớn” (theo Thánh đăng ngữ lục). Năm lên 16 tuổi (1274), Trần Nhân Tông được sắc phong làm hoàng thái tử, nghĩa là sau này sẽ nối ngôi, nhưng Trần Nhân Tông đã từ chối, hai lần thưa với Thánh Tông xin được nhường lại cho em mình là Đức Việp.

    Bài kệ kết thúc Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông

    Cư trần lạc đạo thả
    tùy duyên,
    Cơ tắc xan hề khốn
    tắc miên,
    Gia trung hữu bảo hưu tầm mích,
    Đối cảnh vô tâm mạc
    vấn thiền.

    Dịch nghĩa:

    Ở trần vui đạo hãy
    tùy duyên,
    Đói đến thì ăn nhọc
    ngủ liền,
    Trong nhà có báu thôi
    tìm kiếm,
    Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

    ĐĂNG BẢO ĐÀI SƠN

    Địa tịch đài du cổ
    Thời lai xuân vị thâm
    Vân sơn tương viễn cận
    Hoa kính bán tình âm,
    Vạn sự thủy lưu thủy
    Bách niên tâm ngữ tâm
    Ỷ lan hoành ngọc địch
    Minh nguyệt mãn hung khâm.
    (Thơ Trần Nhân Tông)

    Dịch nghĩa:

    LÊN NÚI BẢO ĐÀI

    Đất vắng đài thêm cổ
    Ngày qua xuân chửa nồng.
    Gần xa mây núi ngất
    Nắng rợp ngõ hoa thông.
    Muôn việc nước trôi nước
    Trăm năm lòng nhủ lòng.
    Tựa lan, nâng ống sáo
    Đầy ngực ánh trăng lồng.
    (Ngô Tất Tố)

    Song vua cha không đồng ý, lại “cưới trưởng nữ của Nguyên Từ quốc mẫu cho ngài làm vợ”. Vào một đêm nọ, ngài trốn ra khỏi cung điện, định lên núi Yên Tử để đi tu như cuốn Thiền Tông bản hạnh lược kể: Thái tử lòng muốn tu hành. Nhìn xem phú quý trong lòng nhưng nhưng. Tuy ở điện bệ Đông cung. Lòng hằng giữ nhớ tôn phong nhà thiền. Hay tin ngài rời hoàng cung vào nửa khuya, vua Thánh Tông và quần thần sai người đi khắp nơi tìm kiếm. Bất đắc dĩ ngài phải trở về lên ngôi hoàng đế năm 21 tuổi (1279). Tuy ở ngôi vị cao nhất nhưng ngài vẫn tự mình giữ thanh tịnh. Cứ mỗi ngày, sau giờ nhóm triều, ngài đều đến chùa Tư Phước được xây trong đại nội để tĩnh tâm, tu học.

    Một buổi trưa, ngài đang nằm mơ màng, thấy một bông sen vàng to như bánh xe mọc lên từ rốn của mình, trên hoa sen ấy có đức Phật đang phóng hào quang và một người đứng bên cạnh hỏi ngài có biết đức Phật này chăng. Đó là đức Phật Biến Chiếu. Thức dậy ngài kể lại cho vua cha nghe, Thánh Tông rất hoan hỉ xem đó là giấc mộng cát tường hiếm thấy. Từ đó, ngài càng để tâm tham học về thiền với người thầy của mình là Thượng Sỹ Tuệ Trung.

    Gặp khi giặc Nguyên sang xâm lăng, ngài lãnh đạo tướng sĩ và toàn dân đánh đuổi, giữ vững cõi bờ, như câu đối ở chùa Hoa Yên trên Yên Tử nhắc đến: Dẹp giặc độ chúng sinh làm vua, làm Phật. Dạy dân tu thiền giáo yêu đạo, yêu đời. Đến năm 35 tuổi (1293), ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, nhưng vẫn ở lại cung điện trong sáu năm để giúp Anh Tông cùng lo việc nước và chuẩn bị xuất gia. Khi thấy nền trị quốc của triều đình đã vững vàng, ngài mới quyết định rời khỏi hoàng cung, dứt áo ra đi vào tháng 10 năm Kỷ Hợi (1299) để lên núi Yên Tử tu khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân đại đầu-đà.

    Truyền bá thiền tông Trúc Lâm

    Đến 5 năm sau (Giáp Thìn 1304), ngài xuống núi lúc 46 tuổi, đi khắp nơi để khuyên dân chúng hãy dẹp bỏ những miếu thờ thần quá sức mê tín, huyền hoặc (dâm từ), chỉ cho mọi người thực hành mười điều lành (thập thiện) và vào hoàng cung để truyền giới (Bồ Tát tại gia) cho các vương công bá quan theo lời thỉnh cầu của hoàng đế Anh Tông.


    Chùa Hoa Yên - nơi vua Trần Nhân Tông và chư tổ phái Thiền Trúc Lâm tu hành hoằng dương chánh pháp

    Trước và trong cùng thời gian đó, ngài xây chùa, mở tịnh xá, giảng giải đường lối tu tập để tiếp độ tăng chúng bốn phương, lập giảng đường ở chùa Phổ Minh (phủ Thiên Trường), lập am Tri Kiến (trại Bố Chính)... Nhưng quan trọng hơn cả là sự kiện xiển dương đạo pháp, gióng trống hội để bắt đầu truyền bá thiền tông Trúc Lâm ở chùa Sùng Nghiêm.

    Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã được ghi lại qua tài liệu Thánh đăng ngữ lục mà hòa thượng Thích Thanh Từ - người đang phục hồi mạng mạch của thiền phái Trúc Lâm tại Việt Nam hiện nay - trích dịch như sau: “Ngài (Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông) chống gậy đến chùa Sùng Nghiêm ở núi Linh Sơn để truyền bá thiền tông. Mở đầu pháp hội, ngài niêm hương báo ân xong, bước lên tòa. Vị thượng thủ bạch chùy (đánh bảng mời ngài khai hội), ngài nói: Thích Ca Văn Phật vì một đại sự mà xuất hiện giữa cõi đời này, suốt 49 năm chuyển động đôi môi (thuyết pháp) mà chưa từng nói một lời. Nay ta vì các ngươi lên ngồi trên tòa này, biết nói chuyện gì đây? (Nói rồi) ngài ngồi giây lâu, ngâm (mấy câu sau): Thân như hơi thở ra vào mũi. Đời giống mây trôi đỉnh núi xa. Tiếng quyên từng chập vầng trăng sáng. Đâu phải tầm thường qua một xuân. (Ngâm xong) ngài vỗ bàn một cái, nói: Không có gì sao? Ra đây! Ra đây! Có vị tăng bước ra hỏi: Thế nào là Phật? Ngài đáp: Nhận đến (thấy biết) như xưa đều chẳng phải! (Lại hỏi): Thế nào là pháp? Ngài đáp: Nhận đến như xưa đều chẳng phải! (Lại hỏi): Thế nào là tăng? (ngài cũng đáp): Nhận đến như xưa đều chẳng phải!”.

    Tiếp đó, buổi giảng tiếp tục với cuộc đối thoại thiền giữa ngài với các thiền sinh mà học giả Lê Mạnh Thát nhận định: “Có thể nói đây là buổi giảng đầu tiên trong lịch sử (thiền Việt Nam) được ghi chép lại đầy đủ, cung cấp cho ta một điển hình về sinh hoạt diễn giảng của Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ 13 (...). Một buổi giảng khác tại viện Kì Lân vào ngày mồng 9 tháng giêng năm Bính Ngọ (1306) đã được ghi lại trong Tam tổ thực lục (với những lời khai thị của ngài Trần Nhân Tông) như sau: “Này xem, đạo lớn trống rỗng, đâu buộc đâu ràng, bản tính sáng trong, chẳng lành chẳng dữ. Bởi do chọn lựa, lắm ngả sinh ngang, một nháy thoáng mờ dễ thành trời vực. Thánh phàm cùng chung một lối, phải trái há được phân ranh. (...) lỗ mũi thẳng xuống cửa mặt, lông mày vắt ngang hố mắt, há dễ tìm thấy được đâu? Nên hãy đi tìm cái đạo không thấy...”. Những buổi pháp thoại ấy diễn ra đúng theo tinh thần của truyền thống thiền tông.

    Những ngày cuối đời

    Những ngày cuối đời của ngài Trần Nhân Tông đã được hòa thượng Thích Thanh Từ trích lược dưới đây:

    Đến đêm 1 tháng 11 năm Mậu Thân (1308) trời trong sao sáng, ngài hỏi Bảo Sát:
    - Hiện giờ là giờ gì?
    Bảo Sát bạch:
    - Giờ Tý.
    Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói:
    - Đến giờ ta đi.
    Bảo Sát hỏi:
    - Tôn đức đi đến chỗ nào?
    Ngài nói kệ đáp:
    - Tất cả pháp chẳng sanh
    Tất cả pháp chẳng diệt
    Nếu hay hiểu như thế
    Chư Phật thường hiện tiền.
    (Nhất thiết pháp bất sanh
    Nhất thiết pháp bất diệt
    Nhược năng như bị giải
    Chư Phật thường hiện tiền).
    Nào có đến đi ấy vậy.

    Bảo Sát hỏi:
    - Chỉ khi chẳng sanh chẳng diệt là thế nào?
    Ngài liền nhằm miệng Bảo Sát tát cho một cái, nói:
    - Chớ có mớ.

    Nói xong ngài bèn nằm như sư tử lặng lẽ mà tịch, nhằm niên hiệu Hưng Long thứ mười sáu (1308), thọ 51 tuổi. Theo lời di chúc của ngài, tổ kế vị là Pháp Loa đã làm lễ hỏa táng, thu lượm ngọc xá lợi năm màu và xây tháp ở chùa Vân Yên (vua Lê Thánh Tôn về sau đổi tên chùa là Hoa Yên) trên núi Yên Tử để thờ. Vua Trần Anh Tông dâng tôn hiệu là: Đại thánh Trần triều Trúc Lâm đầu đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật. Ngài để lại một số tác phẩm, nhiều ngữ lục, chỉ thẳng tâm người, tự tu tự chứng, như ngài dạy: không thể nhờ ai cởi dây phiền não cho mình, mà phải tự mình nhận ra thanh tịnh và hạnh phúc nơi mình: Thùy phược cánh tương cầu giải thoát. Bất phàm hà tất mích thần tiên (nghĩa là: Ai trói lại mong cầu giải thoát. Chẳng phàm nào phải kiếm thần tiên).

    Giao Hưởng
    Hãy hướng về phía mặt trời mọc bóng tối sẽ khuất sau lưng anh.

    Comment

    • #3

      Có một ngôi trường ở Cần Thơ năm nay vừa được mang tên trường trung học Trần Nhân Tông các trường khác là Trần Hưng Đạo , Mạc Đĩnh Chi , Ngô Quyền ,
      Bạn Gần Không Tới........Bạn XA Chưa Về.......

      Comment

      Working...
      X
      Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom