• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Nơi tình yêu đáp lại...

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Nơi tình yêu đáp lại...

    Nơi tình yêu đáp lại


    Không một ai biết được đôi cánh của tình yêu sẽ đáp lại nơi đâu. Có lúc nó đáp lại ở những nơi lạ thường nhất. Không có gì ngạc nhiên khi đôi cánh tình yêu đã đáp lại khoa hồi sức tại một bệnh viện vùng ngoại ô Los Angeles – nơi mà hầu hết các bệnh nhân không thể ra ngoài.
    Khi nghe được tin, vài nhân viên y tá bật khóc, Harry Macnarama, nhân viên hành chính trong bệnh viện rất ngạc nhiên, nhưng cũng từ ngày đó Harry luôn ước nguyện ngày hôm đó sẽ là ngày đẹp nhất.
    Vấn đề là làm thế nào để có được áo cưới? Anh chắc rằng bộ phận của anh sẽ tìm ra cách, và khi một nữ y tá xung phong làm điều đó Harry mới thật sự nhẹ nhõm. Anh muốn đó sẽ là ngày đẹp nhất trong đời hai bệnh nhân của anh: Juana va Michael.
    Michael, ngồi trên xe lăn và phải kè kè theo máy trợ thở, xuất hiện trước cửa phòng Harry vào một buổi sáng.
    “Harry, tôi muốn lập gia đình”. Michael thông báo.
    “Lập gia đình?”, miệng Harry há to ra. Có tin được không nhỉ! “Cưới ai?”, Harry hỏi.
    “Juana”, Michael nói: ”Chúng tôi yêu nhau”.
    Tình yêu, tình yêu đã đáp xuống nơi này, đến với hai người không còn khả năng làm việc, xuyên qua trái tim họ không màng đến sự thật rằng hai bệnh nhân này không thể tự mặc quần áo và ăn uống, thậm chí phải nhờ đến máy trợ thở và không thể nào đi lại được nữa. Michael bị teo cơ còn Juana bị xơ cứng tế bào.
    Thật là một ý tưởng khó mà tin được. Nhưng Michael rút ra một chiếc nhẫn vàng, khuôn mặt rạng rỡ biểu hiện long nhiệt huyết của anh. Quả thật, các nhân viên trong bệnh viện chưa bao giờ thấy anh ngọt ngào và tử tế đến như thế, người đã từng là một trong những bệnh nhân khó chịu nhất trong bệnh viện này.
    Ai cũng có thể hiểu được lí do vì sao Michael đã từng rất giận dữ. Hai mươi lăm năm trôi qua, anh đã sống tại một trung tâm y tế nơi mà mẹ anh đưa anh vào từ lúc 9 tuổi và chỉ thăm anh vài lần mỗi tuần cho tới khi bà qua đời. Anh chỉ biết cáu gắt và luôn miệng chửi rủa các nhân viên y tá, nhưng ít nhất anh cũng cảm nhận được bệnh viện chính là nhà và các bệnh nhân ở đây chính là bạn bè của anh.
    Anh cũng rất thân với bà Betty Vogle 70 tuổi, người tình nguyện giặt quần áo và giúp đỡ anh bất cứ khi nào bà có thời gian.
    Thậm chí đã từng có một cô gái cũng ngồi trên xe lăn mà anh thấy vừa mắt nhưng cô ta không ở đó lâu. Sau khi trải qua hơn nửa đời người ở đó, Michael bị chuyển đến khoa hồi sức này vì trung tâm đó đóng cửa. Anh đã xa bạn bè và xa cả bà Betty.
    Cũng từ ngày đó, anh gần như sống tách hẳn với mọi người. Anh thậm chí không bước ra khỏi phòng, suốt ngày đêm sống trong bong tối. Em gái của Michael, một người có mái tóc đỏ, vẫn thường đến thăm anh nhưng tinh thần Michael ngày càng u uất và không ai có thể gần gũi anh được.
    Và đến một ngày, khi anh đang nằm trong phòng bỗng nghe tiếng cót két của chiếc xe lăn quen thuộc. Âm thanh ấy giống như phát ra từ chiếc xe của Juana khi còn sống ở trung tâm trước kia.
    Tiếng cót két ngừng trước cửa phòng anh, và Juana xuất hiện. Kể từ ngày hôm đó, anh gặp Juana thường xuyên. Cô đã mang hơi thở đến cho Michael.
    Anh lại ngắm trời mây như trước kia. Anh bắt đầu tham gia vào những hoạt động của bệnh viện. Anh giành nhiều thời gian nói chuyện với Juana. Phòng của anh bây giờ tràn ngập ánh sáng. Và rồi anh đã hỏi Juana, một cô gái ngồi xe lăn từ độ tuổi hai mươi bốn, rằng cô có đồng ý lấy anh không.
    Cuộc đời của Juana cũng không khác gì Michael. Cô không còn đi học từ năm lớp ba vì cô cứ bị ngã quỵ suốt. Mẹ Juana cho rằng cô lười biếng và đánh đập cô mãi. Juana luôn sống trong sợ hãi với ý nghĩ rằng mẹ cô không cần cô nữa và cứ phải làm việc quần quật như một người ở.
    Đến 24 tuổi, cô phải được phẫu thuật mở khí quản và cũng ngay thời điểm đó bác sĩ chuẩn đoán cô bị xơ cứng hoá tế bào. Ba mươi tuổi, cô được đưa đến bệnh viện, và ở đây các y bác sỹ đã phải chăm sóc cô suốt ngày đêm.
    Khi nghe Michael hỏi thế, cô không tin đó là sự thật và nghĩ rằng anh đang đùa giỡn với cô.
    “Anh ấy nói yêu tôi và tôi cảm thấy sợ”, cô nói. “Tôi nghĩ rằng anh đang đùa giỡn với tôi thôi, nhưng anh ấy nói rằng đó là sự thật. Anh ấy yêu tôi thật sự.”
    Vào ngày lễ tình nhân, Juana mặc một cái áo cưới bằng satin trắng có đính những hạt ngọc trai, phần dưới xoè ra phủ quanh chiếc xe lăn và cái máy trợ thở.
    Juana được Harry đẩy lên phía trước mọi người. Juana khóc trong niềm sung sướng tột cùng.
    Michael mặc áo sơmi trắng, áo vét tong đen, thắt cà vạt gọn gàng. Anh nhoẻn miệng cười tươi.
    Các cô y tá đứng đầy cả lối đi. Bệnh nhân cũng đầy cả phòng. Nhân viên trong bệnh viện cũng túa cả vào phòng. Đâu đó vang lên tiếng khịt khịt mũi. Ở bệnh viện này trước đây chưa từng có một cặp bệnh nhân nào đều ngồi trên xe lăn lại đi đến hôn nhân như thế.
    Janet Yamaguchi, người dẫn đầu những phong trào ở bệnh viện đã chuẩn bị mọi thứ. Các nhân viên gom góp tiền mua thật nhiều bong bong đủ màu, những bông hoa tươi thắm, có cả cửa vòm dành cho ngày cưới nữa. Janet nhờ anh đầu bếp trưởng ở bệnh viện làm một ổ bánh cưới ba tầng khá xinh xắn. Có cả máy chụp hình nữa đấy!
    Janet thừa nhận rằng đó là ngày cô cảm thấy thực sự vui sướng khi nhìn thấy họ được thành vợ thành chồng.
    Janet dùng một miếng vải satin trắng cột hai chiếc xe lăn lại với nhau để tạo nên giây phút lãng mạng nhất trong đời họ.
    Sau buổi lễ, vị mục sư nói, “tôi đã làm lễ cho mấy ngàn lễ kết hôn nhưng đây là buổi lễ tuyệt với nhất tôi đã từng chứng kiến. Họ đã vượt qua mọi rào cản để đến với nhau và đó chính là tình yêu chân thật nhất.”
    Tối hôm đó, Michael và Juana lần đầu tiên ở chung phòng. Nhân viên trong bệnh viện đã chuẩn bị sẵn cho họ bữa ăn tối tuyệt vời với hai ly rượu táo còn sủi bọt. Michael và Juana biết rằng họ đã làm cảm động rất nhiều người bằng tình yêu chân chính, và họ cũng đã nhận được một món quà lớn nhất trong đời họ. Đó là món quà tình yêu. Và không ai biết được rằng tình yêu sẽ đáp lại nơi đâu…
    Similar Threads
  • #2

    Cuộc sống không có Michael

    Cuộc sống không có Michael


    Tôi đã học được rất nhiều từ Michael Landon. Tôi có được sức mạnh cũng nhờ vào anh. Vài tuần trước khi anh qua đời, anh viết cho tôi vài lời khuyên và kẹp vào trong quyển sách dành cho Ngày Của Mẹ. Dòng chữ ấy rất đặc biệt đối với tôi: ”Sống khoẻ mạnh, cứng rắn. Hãy tận hưởng cuộc sống, biết yêu thương nhau và hạnh phúc.” Michael đã từng nói với tôi: “Đừng sầu khổ quá lâu!” , tôi đang cố gắng làm điều đó nhưng mất một người như Michael thì không gì có thể khoả lấp được cả.
    Khi bạn đánh mất người bạn yêu thương nhất, bạn sẽ vật vã với chuyện ấy từng ngày. Trước tiên, con trai năm tuổi của chúng tôi, Sean, luôn nói về cha nó. Thằng bé xem lại những cuộn băng có ghi hình cha và thổ lộ rằng nó nhớ cha nhiều lắm. Sáng nay, nó nói với tôi rằng nó nhớ cha nhiều đến nỗi lòng nó đang đau thắt lên. Jenifer thì tám tuổi, và con bé trầm tính hẳn đi. Cả ba mẹ con chúng tôi nương tựa nhau từng ngày mà sống.
    Tôi và bọn trẻ ra nghĩa trang thường xuyên. Chúng tôi đem đến cho Michael những bức thư, kể cho anh nghe chúng tôi đang cảm thấy như thế nào và chuyện gì xảy ra khi không có anh bên cạnh. Nhưng thật sự ở đó tôi không thấy gần gũi anh như ở nhà, nơi tôi có thể thấy hình anh ở bất cứ phòng nào, quần áo của anh vẫn còn trên móc như thể anh vừa mới treo lên và đi đâu đó. Đây là căn nhà nơi tôi và các con đã có quá nhiều kỉ niệm với Michael. Tôi mong được thấy bóng anh ở đâu đó trong nhà. Mỗi khi lên lầu chuẩn bị đi ngủ, tôi mong thấy anh đứng chờ trên đấy và chúng tôi cùng nói chuyện về một ngày đã qua.
    Lần đầu tiên gặp Michael khi tôi 19 tuổi, đứng ẩn người trong một căn nhà nhỏ nhìn anh nói chuyện với mọi người, tôi biết mình đã phải lòng anh ngay từ giây phút đó. Hai năm sau, chúng tôi chính thức yêu nhau.
    Michael và tôi kết hôn vào ngày lễ tình nhân năm 1983. Anh là người chồng tuyệt vời – mạnh mẽ, quan tâm, hóm hỉnh. Anh là người thích ở nhà bên cạnh vợ con. Mỗi ngày trước khi rời phòng chụp hình, anh điện thoại về nhà hỏi xem chúng tôi có cần thứ gì ngoài siêu thị không. Anh thường xuất hiện với một giỏ bánh kẹo đầy. Anh thích nấu ăn và luôn luôn phụ tôi trong chuyện bếp núc. Anh thích ăn món Ý như mì ống với xúc xích, gà hấp…
    Anh là người chồng cũng như người cha tốt. Tôi rất thích đứng nhìn anh đùa giỡn với bọn trẻ, nhất là vào những dịp lễ hội. Ở Hawaii, anh dạy cho bọn trẻ cách nhảy qua những hòn đá trên nước và thích thú khi nhìn thấy bọn chúng tìm được những con sò biển xinh đẹp hay những chú cua con đang lẩn trốn đâu đó. Anh có thể dành hang giờ chơi đùa trên biển với Sean và Jenifer. Mọi thứ trong hôn nhân của chúng tôi dường như không có gì để mà phiền muộn cả. Michael yêu gia đình và công việc. Anh rât khoẻ mạnh và hai chúng tôi mỗi ngày mỗi nhiều tuổi hơn.
    Vào tháng 2 năm 1991, anh bỗng bị đau ở vùng bụng. Tôi phải khuyên rất nhiều lần anh mới chịu đi khám. Bác sĩ không tìm thấy gì cả và cho anh uống thuốc giảm đau.
    Đầu tháng tư, cơn đau dường như lan toả ra. Bốn ngày sau, anh có kết quả sinh thiết: ung thư vùng tuyến tuỵ và hiện đã di căn qua phổi.
    Tôi ngước nhìn anh, tin chắc rằng Michael đac biết trước khi đi sinh thiết. Ung thư tuyến tuỵ phát triển rất nhanh và theo dự đoán của bác sĩ, anh chỉ có thể sống thêm cao nhất là 5 năm nữa (nhưng tỉ lệ chắc chắn chỉ là 3% mà thôi). Tôi choáng váng và điên tiết lên. Tại sao lại có chuyện này xảy ra? Michael bình tĩnh nhìn vào sự thật như anh đã từng giải quyết tất cả mọi chuyện trong cuộc sống hàng ngày của anh. Kể từ ngày biết được căn bệnh đến ngày chết, anh chưa bao giờ giận dữ. Có lần anh đã nói với tôi: “Chúa không làm điều đó đâu em, chỉ vì căn bệnh thôi. Chúa không mang bệnh ung thư đến cho con người đâu.” Đối với Michael, cái chết không có gì phải sợ hãi nhưng anh không muốn chết. Anh không muốn rời xa những người anh yêu thương nhất.
    Chúng tôi lựa lời nói cho 2 đứa con biết căn bệnh của cha chúng, rằng cha đang cố làm mọi cách để được sống lâu hơn với các con nhưng không biết sẽ đến bao giờ. Sean rất trầm tĩnh, tôi không biết thằng bé có hiểu hay không, Jennifer cũng thế, nó cố gắng chịu đựng nhưng chính vì sự đè nén bên trong đó làm cho con bé bị đau đầu, đau bao tử và luôn có cảm giác lo lắng, sợ sệt.
    Những giây phút đầu tiên đó giống như một cơn bão lớn, quây quanh lấy chúng tôi thì không lâu sau bác sĩ thông báo căn bệnh của anh đang ở vào giai đoạn cuối. Những tay săn ảnh vây lấy nhà tôi và bệnh viện. Họ leo lên tường và nhìn lén vào nhà chúng tôi. Những tờ báo lá cải đăng nhiều bài viết quái lạ. Mỗi tuần, họ lại cho ra một tin bịa đặt mới. Có khi họ nói rằng Michael chỉ còn sống thêm được bốn tuần nữa. Có lúc họ lại nói căn bệnh đã di căn ra khắp người anh. Không có tin nào đúng cả. Cùng lúc đó, công chúng lại bày tỏ sự chia sẻ của lòng yêu thương. Chúng tôi nhận được rất nhiều thư từ. Michael rất cảm động nói với tôi rằng: “Đây là lần đầu tiên anh cảm thấy mình làm xúc động quá nhiều người như thế.”
    Không đầy một tháng sau, căn bệnh quái ác đó phát tác lên dữ dội. Lần đầu tiên, hai chúng tôi phải chấp nhận sự thực rằng Michael sắp rời xa gia đình vĩnh viễn. Buổi chiếu hôm đó, tôi và anh ôm chầm lấy nhau. Tôi dựa đầu vào lòng anh và khóc tức tưởi. Michael vuốt tóc tôi thì thầm: “Anh biết mà, anh biết mà.”
    Mặc dù lúc đầu Michael do dự, nhưng sau anh đồng ý đi trị liệu hoá học. Anh không muốn nhưng anh làm điều đó chỉ vì vợ và con. Anh đang cố gắng những giây phút cuối cùng này để cố kéo dài thêm cuộc sống.
    Sức khoẻ của Michael ngày càng xấu đi. Ngày của Cha 16 tháng 6 đã đến. Những năm trước đây, mẹ con tôi thường mua cho anh những cây vợt tennis. Năm nay, quà cho anh ấy là một bộ pajama và những tấm thiệp tự tay mẹ con tôi làm lấy. Cả gia đình quây quần lấy anh thật đầm ấm.
    Vài ngày sau, Michael nói với tôi rằng anh chỉ còn sống được một tuần nữa thôi. Tuần lễ cuối cùng đó, sức khoẻ của anh càng lúc càng tệ. Sáng Chủ nhật ngày 30 tháng 6, cô y tá nói cho chúng tôi biết rằng giây phút cuối cùng sắp đến, rằng chúng tôi hãy chuẩn bị tinh thần. Tôi gọi các con và những người bạn thân của Michael đến gặp mặt anh lần cuối. Từ khi bác sĩ tăng liều lượng morfin lên, anh bắt đầu lúc tỉnh lúc mê. Suốt ngày hôm đó, mỗi người nói lời tạm biệt với anh dù anh lúc biết lúc không. Ai cũng muốn anh thoát khỏi cơn đau đớn.
    Sáng hôm sau, Michael trong trạng thái mơ màng. Tôi và hai con ngồi bên cạnh anh suốt. Bỗng anh tỉnh dậy, ngồi lên và nói: “cha yêu các con lắm.” Anh ôm từng đứa một dặn dò đủ thứ. Rồi anh muốn được nói chuyện với riêng mình tôi. Tôi biết anh không muốn các con nhìn thấy anh chết.
    Tôi ở lại với Michael, anh yếu dần đi. Có lúc anh hôn mê không còn biết gì nữa. Lúc anh tỉnh lại đối chút, tôi hỏi: “Anh có biết em là ai không?” Anh nhìn tôi trả lời: “Biết.” Tôi vội nói: “Em yêu anh”, anh trả lời: “Anh cũng yêu em nhiều lắm.” Đó là câu nói cuối cùng của anh. Anh ra đi, xa mẹ con tôi vĩnh viễn kể từ giây phút đó.
    Tôi muốn thét lên, muốn níu kéo anh trở lại, nhưng cố chịu đựng điều đó trong lòng vì tôi biết anh ra đi rất thanh thản. Tôi ra ngoài báo cho mọi người biết anh đã qua đời. Họ đã tiên lượng được điều đó. Bỗng tôi nghe tiếng thét lớn bên ngoài, Jennifer đã leo lên đỉnh đu quay đang hét tướng lên: “Không phải là cha tôi, tôi không muốn cha tôi chết.” Tôi bảo mọi người cứ để mặc cho con bé tự vượt qua nỗi đau này. Một lúc sau, Jenifer leo xuống và khóc thổn thức trong vòng tay tôi.
    Người lo dịch vụ lễ tang đến. Khi họ mang thi thể Michael đi, tôi biết anh sẽ không bao giờ trở lại với chúng tôi nữa.
    Tối hôm đó, bọn trẻ ngủ chung với tôi, Jenifer và tôi mặc hai cái áo thun của Michael. Tôi thấy mình cô đơn lạc lõng. Một cảm giác mất mát không gì có thể bù đắp nổi.
    Điều tốt nhất nên làm lúc bấy giờ là tôi dẫn hai đứa nhỏ đi xa một thời gian. Chúng tôi đên Haiwaii bốn tuần lễ - nơi mà Michael và chúng tôi vẫn thường đến. Để trốn chạy cảm giác trống trải không phải là chuyện dễ dàng vì nơi ấy chúng tôi cũng không có Michael. Và thậm chí còn tệ hơn khi nghĩ đến cảnh quay về nhà mà không có anh chờ đợi.
    Thời gian cũng dần qua và tinh thần chúng tôi cũng tốt hơn trước. Lũ trẻ thỉnh thoảng vẫn ngủ chung với tôi. Chúng muốn được ôm ấp như cha chúng thường làm trước đây. Vài hôm trước, đang trên đường cao tốc, không hiểu vì lí do gì tôi lại quẹo xe đến phòng chụp hình, nơi mà trước đây mẹ con tôi thường đến thăm anh. Michael đã ra đi và bây giờ cuộc sống của chúng tôi có khá nhiều đổi thay.
    Trước khi Michael mất, tôi rất sợ cái chết. Tôi luôn lo lắng mỗi khi bệnh hoạn hay mỗi lần ngồi trên máy bay. Bây giờ thì tôi không còn lo sợ nữa. Cuộc đời mình ngắn ngủi lắm. Bạn không biết được khi nào mình chết đâu. Thế thì hãy trân trọng những giây phút mình còn được sống trên cõi đời này.
    Khi nghĩ về Michael, điều tôi nhớ nhất về anh là sự trân trọng cuộc sống cũng như tình yêu thương gia đình vô bờ bến. Tất cả những gì còn lại giữa chúng tôi chính là một gia đình hạnh phúc: anh luôn bên cạnh mỗi khi tôi cần và tôi cũng thế. Một lần, sau khi bác sĩ định bệnh cho anh, anh nói rằng mỗi chúng ta đều có thể quyết định được thành công hay thất bại. Anh nói: “Anh đã chọn một cuộc sống như ý muốn, một gia đình hạnh phúc không phải ai muốn cũng có được.” Tôi nhớ Michael từng giây từng phút nhưng tôi biết dù anh đang ở bất cứ nơi nào, anh cũng đang rất hạnh phúc và mãn nguyện. và chắc chắn một ngày không lâu nữa tôi cũng sẽ được gặp lại anh – Michael yêu quý của tôi và các con.
    Cindi Landon
    with Kathryn Casey

    Comment

    • #3

      Tấm hình của con

      Tấm hình của con


      Tôi sẽ nhớ mãi ngày thứ bảy đặc biệt với con trai tôi vào tháng Tư năm 1997. Torey lên năm tuổi và phải tập thích nghi với môi trương mới khi vợ chồng tôi quyết định li dị. Không gì có thể níu kéo cuộc đời tôi lại với nhau. Chỉ biết rằng bây giờ tôi phải quan tâm tới Torey nhiều hơn. Khi Torey ở với mẹ thì tôi gọi điện nói chuyện với cháu. Mỗi cuối tuần nó về ở với tôi. Cuộc sống bây giờ không được như trước kia nữa. Điều tôi lo lắng đó chính là cuộc hôn nhân đổ vỡ giữa hai người lớn và sẽ ảnh hưởng khá nhiều đến suy nghĩ của thằng bé, rằng cháu không còn tin vào những cuộc hôn nhân hạnh phúc nữa. Tôi thật sự không muốn cháu có suy nghĩ như thế.
      Tôi đón Torey tại trường như thường lệ vào mỗi chiều thứ sáu, bảo với cháu rằng tôi có một điều rất bất ngờ cho cháu vào ngày mai. Thằng bé phấn khích lắm và cứ theo hỏi mãi. Cuối cùng tôi cũng bật mí chút ít, rằng tôi sẽ đưa cháu đi chơi. Thằng bé bắt đầu đoán già đoán non như những đứa trẻ vẫn thích làm: đi công viên, sân thể thao, đi biển… Cháu còn đoán là tôi đưa cháu đi thăm ông bà nội đang sống ở Miami hay đi thăm thằng bạn thân của nó đã chuyển đến California năm rồi.
      Khi hàng loạt những câu hỏi không được đáp lại, thằng bé bắt đầu vòng vo tam quốc. Tôi cho thằng bé một ý tưởng cuối cùng: “con sẽ mang cái máy chụp hình Polaroid đi bởi vì con sẽ phải chụp hình nhiếu đấy.” Câu nói cuối cùng này làm thằng bé lắng dịu đôi chút.
      Cháu bé không hỏi thêm gì nữa cho đến sáng mai. Đúng 8h nó đã chuẩn bị xong đâu đấy. Thậm chí thằng bé không thèm hỏi mình sắp đi đâu nữa. Cháu đeo cái máy chụp hình trên người, tỏ vẻ sốt ruột mong đến nơi lắm.
      Mặc dù bận lái xe, lâu lâu tôi vẫn nhìn qua cháu để xem cháu phản ứng như thế nào khi thấy “Công viên sở thú Lowry” phía trước. Torey chưa bao giờ đến sở thú trước đây và cháu bé đã nhiều lần thổ lộ với tôi rất muốn được đến nơi đó. Sự hào hứng của nó làm tôi phấn khích hẳn lên. Còn thích hơn cả lần nhìn cháu trong đêm Giáng sinh hay lần mang con chó Snoop về nhà.
      Torey tỏ vẻ rất sốt ruột khi nó cố ngóng cổ qua thanh chắn trước cổng công viên nhìn vào bên trong. Tôi nhìn lên phía trước và một cảnh tượng làm tôi phải chú ý. Một cặp vợ chồng già đang sánh bước chầm chậm bên nhau, tay trong tay vui vẻ hạnh phúc.
      Tôi sợ Torey sẽ nói về cặp vợ chồng già đó mà như thế thì không tốt lắm trong hoàn cảnh như thế này. Thế nên tôi cố nói với thằng bé về những con thú để nó quên đi chuyện kia. Torey lập tức quan tâm đến những con thú và bắt đầu chạy vòng quan sát. Khi đến gần một con đười ươi, thằng bé chợt nhớ đến cái máy chụp hình.
      “Cha ơi! Con muốn chụp hình. Cha giúp con nhé!” Tôi lấy cái máy chụp hình ra khỏi người thằng bé và hỡi ôi trong máy chỉ có thể chụp được một pô duy nhất mà lại không còn cuộn phim dư nào. Tôi xin lỗi Torey và bảo nó quan sát hết tất cả các con vật rồi chọn lựa thật kĩ vì chỉ còn một pô duy nhất thôi.
      Khi nghe thế, thằng bé tỏ vẻ rất buồn những rồi cũng nguôi và bắt đầu quan sát xung quanh. Sau khi đi hết các nơi trong sở thú, chúng tôi nghỉ chân giải khát ở một băng ghế.
      Khi đang uống sô đa, tôi hỏi Torey đã tìm ra nơi nào chụp hình chưa. Thằng bé gật đầu và nói: “Vâng, bây giờ con đi chụp hình nhé!”
      Tôi hỏi thằng bé định chụp nơi nào, nó chỉ cười bí mật và không nói gì cả. Tôi bảo thằng bé cứ đi vòng vòng tìm chỗ chụp hình nhưng đừng đi quá xa hỏi tầm mắt tôi. Nó chỉ tay đến chỗ khu tinh tinh và nói: “Con đến chỗ đó, được không cha?”
      Tôi gật đầu và nhìn thằng bé một cách nghi ngờ vì hình như thằng bé đang có một dự định nào đó. Tinh tinh không phải sở thích hàng đầu của nó.
      Torey chạy đến nơi đó và quay lại nhìn tôi nhằm muốn thấy sự tán thành của tôi. Tôi gật đầu đồng ý.
      Tôi thấy thằng bé giơ máy chụp hình lên và bấm máy nhưng không biết nó nhắm đến cái gì trong nhóm người ở đằng kia. Thằng bé quay lại, tỏ vẻ không muốn cho tôi nhìn thấy nhưng làm sao nó có thể giấu tôi lâu được.
      Mệng tôi há to kinh ngạc khi thấy trong tấm hình là cặp vợ chồng khi nãy chúng tôi tình cờ gặp. Họ choàng tay qua vai nhau và cùng nhìn về phía Torey cười thật tươi.
      “Cha thấy có đẹp không?” Thằng bé đỏ mặt hỏi: “Hôm nay là ngày kỉ niệm lần thứ 51 ngày cười của hai ông bà ấy và họ vẫn yêu thương nhau. Con nghe họ nói thế.”
      Trong một thoáng giây, có lẽ lần đầu tiên từ khi hôn nhân tan vỡ, tôi mới hiểu được rằng mọi thứ rồi cũng sẽ qua. Tôi biết Torey hiểu được rằng tôi và mẹ nó không bao giờ có kỉ niệm lần thứ 51 như cặp vợ chồng già kia, nhưng trong tâm trí nó cả hai chúng tôi đều rất quan trọng.
      Torey mới chỉ năm tuổi mà đã nhận thức được rằng đôi vợ chồng già ấy xứng đáng được cậu bé dùng tấm phim cuối cùng để khắc ghi lại hình ảnh đó. Và tôi biết điều mà Torey muốn khắc ghi trong đầu trong ngày đầu tiên được đưa đến sở thú chơi chính là một tình yêu chân thật, vĩnh cửu.

      Comment

      • #4

        Khắc sâu trong tim anh

        Khắc sâu trong tim anh


        Ngay trước Giáng Sinh, chồng tôi – Dan và người bạn thân Mike đến hẻm núi gần nhà phía Nam California để kiểm tra xem cây cối ở đó đã phục hồi được bao nhiêu sau trận cháy rừng vài tháng trước đó. Dan và Mike đều là thành viên của Hội Cây xanh thiên nhiên California. Họ thật sự là “những tay săn cây” chuyên nghiệp, luôn khám phá những vùng đồi núi lân cận để tìm ra những loại cây mới.
        Ngày hôm ấy, Dan không về cùng một lượt với Mike mà anh quyết định một mình leo lên núi Laguna khám phá vùng đất mà trước đây anh và Mike hiếm khi tìm đến. Anh vào hẻm núi được vài dặm, và định quay trở lại xe tải thì bị trượt chân rơi xuống một dốc đứng gồ ghề dài khoảng mười mét. Người anh va vào cây cối trước khi dừng lại nơi cuối dốc. Anh cảm nhận ngay rằng chân trái anh có vấn đề. Nó nằm vắt qua chân kia với một tư thế kì quặc.
        Quá bất ngờ bởi cú ngã, đến một hồi sau Dan mới nhận ra rằng mình hầu như không thể đi được nữa Và anh biết rằng anh đang gặp nguy hiểm. Đêm tối đang xuống dần và không một ai biết anh đang ở đâu. Anh phải cố gắng tìm ra con đường mòn, nếu không anh sẽ chết ở đó trước khi mọi người có thể tìm thấy. Anh tựa cái chân bị gãy vào chân còn lại, dồn sức vào cả hai tay lê cả thân người từ từ xuống hẻm núi.
        Cắn răng chịu đựng nỗi đau đớn, anh cố lê như thế và khi không chịu nổi thì ngừng lại nghỉ lấy sức, cố hét to lên với hy vọng sẽ có người nghe thấy. Âm thanh duy nhất có thể nghe được chính là tiếng kêu của anh vọng lại từ bốn bề xung quanh. Khi mặt trời lặn, nhiệt độ bắt đầu giảm xuống. Ở vùng đồi núi vào buổi tối, trời lạnh như dao cắt, không sao chịu nổi. Dan biết nếu ngừng lại lâu, anh sẽ bất tỉnh. Càng cố di chuyển, Dan càng thấy sức anh như đã cạn nhưng vẫn cố lê người về phía trước. Anh lê như thế khoảng 12 tiếng đồng hồ.
        Cuối cùng, sức lực và sự quyết tâm của anh đã cạn kiệt. Anh hoàn toàn không thể gắng sức được nữa. Dù biết rằng đã bất lực nhưng anh vẫn cố hết sức mình la lên tiếng kêu cuối cùng.
        Anh sững sờ khi nghe tiếng ai đó đáp lại. Một giọng nói rõ ràng, không phải là tiếng băt chước cũng không phải là tiếng vọng lại từ bốn bề xung quanh. Hình như là tiếng của con trai anh – Jeb. Tôi và Jeb cùng với cảnh sát và cứu thương đi tìm Dan.
        Khi không thấy Dan về, tôi rất lo lắng và đã gọi cho Mike. Mike một mình quay lại núi tìm Dan nhưng không thấy. Mike liên hệ với cảnh sát báo rằng Dan mất tích.
        Tôi cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh trong suốt thời gian tìm anh. Và Jeb nói nó nghe được tiếng gọi của anh. Lúc đó tôi chịu đựng hết nổi và đã oà khóc. Đội cứu hộ đã phải mất 2 tiếng đồng hồ để được Dan xuống núi. Nhóm cứu thương lập tức đưa anh vào bệnh viện. Tôi lại khóc lần nữa khi nhìn thấy anh trong bệnh viện, nghĩ đến cảnh tôi phải mất đi người chồng yêu thương này. Chỉ khi cảm nhận được vòng tay ấm áp của Dan quanh người, tôi mới thôi khóc.
        Khi ngồi bên giường bệnh cạnh anh, tôi cứ dán chặt mắt vào khuôn mặt thân quen của anh, luôn lo sợ rằng sẽ không được nhìn thấy khuôn mặt ấy nữa. Anh kể lại cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện. Ngay sau khi ngã xuống núi và nhận ra rằng anh đang gặp nguy hiểm, Dan nói giây phút ấy anh nghĩ đến tôi và nhớ đến tôi nhiều lắm nếu anh không còn cơ hội gặp lại tôi. Khi nằm dưới chân đồi, anh mò mẫm xung quanh và tìm được một hòn đá. Anh đã dùng miếng đá nhọn đó khắc lên trên tảng đá to vài chữ cho tôi vì nghĩ đến tình huống xấu nhất là không gặp lại được tôi nữa. Nếu như tôi không còn gặp được anh thì tôi có thể nhìn thấy những dòng chữ đó và có thể hiểu được rằng hình bóng tôi luôn được khắc ghi trong trái tim anh.
        Tôi khóc them lần nữa. Tôi biết tình yêu của tôi dành cho anh nhiều lắm nhưng tôi thật sự không ngờ tình yêu của anh dành cho tôi còn nhiều hơn gấp trăm lần.
        Ở một nơi nào đó trên vùng núi Laguna, có một tảng đá to với hình trái tim được khắc một bên mặt đá. Và trong trái tim này có khắc dòng chữ :”Elizabeth, anh yêu em”.
        Elizabeth Songster

        Comment

        Working...
        X
        Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom