Giã từ Bill
Trong một văn phòng rộng rãi ở một góc tại tổng hành dinh Microsoft, khu nhà rộng lớn nhưng không có cao ốc ở ngoại ô thành phố Seattle, một người đàn ông đứng tuổi, đeo kính cận, hơi mập, đang thâu gọn tài sản sau 33 năm làm việc. Cuối tuần qua, Bill Gates, sau 33 năm là tinh thần và tâm huyết của công ty software lớn nhất thế giới, đã quyết định về hưu để dành thời giờ cho công việc cũng khó khăn không kém, đó là đem phân phát cho nhân loại gia tài kếch sù nhiều chục tỷ đô la của ông.
Sự việc ông Bill Gates đã quyết định rút khỏi việc điều hành công việc hàng ngày của Microsoft, công ty mà chính ông đã cùng một người bạn, Paul Allen, sáng lập năm 1975, để dành trọn thời gian cho Bill and Melinda Gates Foundation, sẽ chấm dứt một thời đại của ngành computer. Nó có thể là khởi đầu của một thời đại thiện nguyện chưa từng thấy trên địa cầu này. Bill and Melinda Gates Foundation hứa hẹn “giúp giảm bớt bất công tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.”
Một cái computer cho mỗi gia đình
Mới đây, khi trả lời một cuộc phỏng vấn với tờ The Telegraph ở Anh, ông Gates nhớ lại “Khi Paul Allen và tôi thành lập Microsoft cách đây hơn 30 năm, chúng tôi có nhiều mơ ước cho tương lai của software. Chúng tôi mơ đến những ảnh hưởng nếu ước mơ của chúng tôi thành công. Chúng tôi nói đến mỗi bàn làm việc có một cái computer, mỗi nhà một máy vi tính. Thật không thể tưởng tượng được là rất nhiều những ước mơ đó đã thành sự thật và tạo dấu ấn trên bao nhiêu cuộc sống. Tôi chưa bao giờ nghĩ là từ những ước mơ hão huyền đó lại nảy sinh ra một công ty quan trọng và phi thường như vậy.”
Phải nói chính viễn ảnh của ông Gates, cũng như bộ óc kinh doanh của ông đã giúp biến Microsoft từ một công ty với 30 nhân viên ở Albuquerque trở thành một đại công ty quốc tế hiện nay. Microsoft nay có hơn 80,000 nhân viên ở trên 100 quốc gia và mỗi năm tiền lời của công ty lên đến nhiều tỷ đô la.
Bill Gates, hay đúng hơn, William H. Gates III, lần đầu tiên biết đến computer khi vào học trung học ở trường Lakeside, một trường trung học tư nổi tiếng ở Seattle. Năm đang học lớp 8, trường mua một đầu teletype ASR-33, được nối với hệ thống computer của General Electric. Trường mua giờ qua GE để giúp học sinh làm quen với computer. Gates thích thú nghiên cứu chương trình thảo chương BASIC của GE và được cho nghỉ giờ học toán để nghiên cứu ngôn ngữ điện toán. Software đầu tiên ông soạn ra là một chương trình cho phép chơi cờ carô (tic tac toe) với máy điện toán. Trong giai đoạn này, Gates gặp Paul Allen, người mà sau này trở thành đồng sáng lập viên của Microsoft.
Tốt nghiệp trung học, Gates vào học ở Harvard với hy vọng của gia đình là ông sẽ theo học luật vì ông cụ thân sinh vốn là một luật sư nổi tiếng. Nhưng ở Harvard, Gates gặp Steve Ballmer, người mà sau này ông đã đưa vào làm tổng quản trị CEO cho Microsoft. Khi Intel cho ra đời Intel 8080 CPU, Gates nghĩ đây là CPU rẻ tiền nhất khiến cho thời đại máy tính cho cá nhân có thể ra đời. Năm 1975, rủ Paul Allen, Gates bỏ học để ra đời thành lập một công ty software. Lúc đầu công ty được đặt tên là Micro-Soft, và công việc chính của họ lúc đó là hợp tác với Micro Instrumentation and Telemetry Systems (MITS) ở Albuquerque. Một năm sau công ty bỏ dấu gạch nối và Microsoft ra đời.
Nhưng phải mãi đến năm 1980 khi IBM, lúc đó đã là một công ty quan trọng trong thị trường computer, tìm đến Microsoft để yêu cầu giúp thảo ra hệ điều hành dựa trên ngôn ngữ điện toán BASIC cho những máy Personal Computer PC đầu tiên của IBM. Thực sự lúc đầu đại diện của IBM nói với Gates là họ đang muốn tìm một hệ điều hành cho PC. Gates giới thiệu một công ty có thể làm được việc đó. Tuy nhiên điều đình với công ty kia không thành, IBM nhờ Gates giải quyết dùm vấn đề. Gates bắt đầu viết một hệ điều hành dựa trên nền tảng của hệ thống 86-DOS có sẵn với một hợp đồng 80,000 đô la. Nhưng có điều IBM không để ý là trong hợp đồng này, Microsoft giữ tác quyền cho hệ điều hành. Đây là một trong những điều cho thấy Bill Gates khác những chuyên viên computer bình thường. Khả năng bén nhạy về tài chánh đã giúp cho Microsoft thành công.
Sau khi thành công, Microsoft rời Albuquerque dọn về Seatle. Lúc đó Bill Gates vẫn còn trẻ măng. Một thư ký của công ty đã nhớ lại là khi vừa dọn về Seatle, bà ta đã được Paul Allen thuê làm thư ký cho công ty. Một hôm, một anh chàng thanh niên trẻ tuổi, trông chẳng khác gì một cậu sinh viên, ăn mặc lúi xùi, quần jean, áo sơ mi cổ bẻ, không cravate, bước vào văn phòng dành cho đồng chủ tịch công ty và bắt đầu lui cui làm việc như là phòng của mình vậy. Bà ta hỏi ông Allen, “thằng nhỏ đó là ai mà làm như mình là ông chủ vậy.” Bà bật cười nhớ lại ông Allen bảo với bà “Hắn chính là ông chủ đó.”
Ngày nay, không những giấc mộng mỗi nhà và mỗi bàn giấy có một computer đã thành hình mà còn vượt hơn thế nữa. Và trong mỗi computer chúng ta đang sử dụng khoảng 90 phần trăm trên toàn thế giới có hệ điều hành của Microsoft trong khi 90 phần trăm số chương trình ứng dụng cho kinh doanh (Word và Excel) cũng là của Microsoft. Và những chương trình này vẫn là nền tảng của sự thành công về tài chánh của Microsoft.
Phải nói là cuộc đời của ông Gates có ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là khi một anh sinh viên bỏ học từ trường đại học Harvard “đánh lạc hướng” một đại công ty như IBM để họ sơ hở bỏ đi mất tác quyền của hệ điều hành cho PC. Và giai đoạn thứ ba sắp bắt đầu khi Bill Gates, nhà đại tư bản, trở thành Bill Gates, nhà từ thiện.
Cái giai đoạn gây nhiều tranh cãi là giai đoạn giữa. Những người ủng hộ ông Gates thì khen ngợi ông là một người có bộ óc kinh doanh khôn ngoan nhất thế kỷ và đơn thương độc mã thiết lập cho toàn thế giới một tiêu chuẩn điều hành máy vi tính. Microsoft Windows, Microsoft Office và rất nhiều ứng dụng khác sẽ tiếp tục chế ngự máy vi tính trong nhiều năm nữa, mặc dầu gần đây đã có những cố gắng để tạo dựng một hệ điều hành độc lập đối với Microsoft. Nhưng những người chỉ trích thì nói ông đã sử dụng những chiến lược mạnh dạn và có đôi khi cưỡng bức đe dọa để các công ty sản xuất vi tính phải cho Windows vào máy ngay lúc sản xuất.
Hành động của ông khi ép các công ty làm máy vi tính phải bỏ Internet Explorer “nằm vùng” trong máy để loại bỏ đối thủ là Netscape quả là một hành động khó chấp nhận. Các tòa án ở Hoa Kỳ và Âu Châu đã kết án Microsoft là đã duy trì một độc quyền. Đây là một bản án mà nếu chính phủ Clinton còn tiếp tục tại chức có thể dẫn đến việc Microsoft bị phá làm nhiều công ty nhỏ. Nhưng may cho ông Gates là đúng lúc đó, chính phủ Bush nhậm chức. Đây là một chính phủ có chính sách thân thiện với kinh doanh hơn nhiều.
Ở một khía cạnh nào đó, ông Gates không nghĩ những điều mình làm là sai trái. Trong một chương trình đặc biệt của đài BBC, ông đã khẳng định là hành động của ông chỉ là một hành động tự nhiên của một CEO muốn phát triển công ty. Ông có vẻ thành thật không hiểu những điều mình làm là không đúng.
Tương lai của Bill Gates và của Microsoft
Nay thì sau hai năm từ từ rút ra khỏi công ty, Bill Gates chỉ còn là một chủ tịch bán thời gian của Microsoft. Vào ngày cuối cùng, ông đã rơi lệ khi đọc bài diễn văn với Steve Ballmer, nhà kinh doanh ông gặp ở Harvard mà ông đã mời về để lo tài chánh cho công ty, đứng cạnh. Gạt nước mắt, ông nói trong tiếng vỗ tay hoan hô của nhân viên “Sẽ không một ngày nào trong đời tôi mà tôi không nghĩ đến Microsoft, đến những điều vĩ đại mà chúng ta đã làm hay đang muốn làm.”
Ông cũng sẽ còn thỉnh thoảng cầm đầu một vài dự án, mà dự án đầu tiên là cải thiện khả năng của Microsoft trên internet. Nhưng giai đoạn mà ông Gates là bộ óc và quả tim của Microsoft đã qua rồi. Ông Ballmer đã nói lên điều đó khi ông tuyên bố “Không có cách gì chúng ta có thể cảm ơn Bill. Bill là kẻ sáng lập, Bill là nhà lãnh đạo. Công ty này là đứa con của Bill!”
Theo ông Rob Helm, một giám đốc của một công ty tư vấn độc lập chuyên theo dõi Microsoft, thì cho đến gần đây ông Gates vẫn còn giữ một vai trò quan trọng trong công ty qua điều được gọi là “Bill G Reviews”. Đây là những khóa họp khi một nhóm đang phụ trách một dự án đến văn phòng của ông cùng với các nhóm khác và ông Gates sẽ khảo hạch họ về dự án họ đang làm, cả trên khía cạnh kinh doanh lẫn kỹ thuật. Chính nhờ những cuộc “xét lại” này là kim chỉ nam cho các nhóm khác nhau trong công ty cùng đi về một hướng. Và chỉ có ông mới có đủ kiến thức, đủ hiểu biết về công ty để làm việc đó.
Nhưng có lẽ điều sẽ làm ông Gates đau lòng nhất là thất bại của ông trong việc đưa Microsoft vào thời đại internet. Ngay từ năm 1995, Gates đã gửi một bức thư đến nhân viên với tựa đề “Ngọn sóng thần internet”, trong đó ông nói là web là phát minh quan trọng nhất của kỹ thuật kể từ khi IBM PC ra đời. Mặc cho lời kêu gọi đó của Gates, Microsoft trong nhiều năm không có search engine riêng của mình mà thuê những công ty như Inktomi làm hộ. Đến khi Microsoft đưa ra search engine của mình thì đã thua cuộc chạy đua dành thị trường quảng cáo với Google. Cố gắng gần đây để mua Yahoo chính là để trám vào sự thiếu thốn đó, nhưng ngay cả trong việc này Gates cũng đã thất bại.
Nhiều người nói là Bill Gates về hưu đúng lúc vì ông không hiểu thời đại internet. Microsoft dĩ nhiên vẫn là một đại công ty rất lời với dự trù là năm nay tiền lời của công ty lên đến 17 tỷ đô la và thương vụ lên đến 60 tỷ đô la. Nhưng hai sản phẩm chính của công ty, mà hiện hầu như là một độc quyền, Word và Office, đang gặp thách thức qua những chương trình không mất tiền mà Google đang giúp phát triển. Những người chỉ trích nói Gates đã không hiểu thời đại của Web 2.0 khi các nhóm social network quan trọng hơn là software. Để bắt cho kịp, Microsoft đã phải mua cổ phần của Facebook.
Nhưng một số các nhà bình luận nói là đừng quá vội vứt Microsoft vào “sọt rác của lịch sử”. Đây là một đại công ty còn rất nhiều sinh lực với khả năng tài chánh khổng lồ.
Riêng ông Gates đã quyết định đưa hầu hết tài sản kếch xù của mình để cống hiến cho nhân loại. Trả lời báo chí ông giải thích là ông không muốn ích kỷ chỉ để số tiền đó cho con cái mình.
Và có lẽ lịch sử sẽ xét ông Gates, nhà từ thiện, đáng giá hơn là ông Gates, nhà kinh doanh. Ông nói thần tượng của ông là nhà triệu phú Andrew Carnegie. So với việc chỉ lập trường học và viện bảo tàng của ông Carnegie, tham vọng của ông Gates quả là vĩ đại hơn nhiều. Nhưng ông Gates không thể có được cái gia tài kinh hồn đó nếu ông không phải là một nhà kinh doanh khôn ngoan. Một nhà kinh doanh thủ đoạn chẳng hay ho gì, nhưng nếu ông ta sẵn sàng đưa tiền kiếm được để giúp nhân loại thì hẳn phải hơn người làm giàu để rồi cất như một anh biển lận, chết cũng chẳng mang theo được.
Lê Phan
Trong một văn phòng rộng rãi ở một góc tại tổng hành dinh Microsoft, khu nhà rộng lớn nhưng không có cao ốc ở ngoại ô thành phố Seattle, một người đàn ông đứng tuổi, đeo kính cận, hơi mập, đang thâu gọn tài sản sau 33 năm làm việc. Cuối tuần qua, Bill Gates, sau 33 năm là tinh thần và tâm huyết của công ty software lớn nhất thế giới, đã quyết định về hưu để dành thời giờ cho công việc cũng khó khăn không kém, đó là đem phân phát cho nhân loại gia tài kếch sù nhiều chục tỷ đô la của ông.

Sự việc ông Bill Gates đã quyết định rút khỏi việc điều hành công việc hàng ngày của Microsoft, công ty mà chính ông đã cùng một người bạn, Paul Allen, sáng lập năm 1975, để dành trọn thời gian cho Bill and Melinda Gates Foundation, sẽ chấm dứt một thời đại của ngành computer. Nó có thể là khởi đầu của một thời đại thiện nguyện chưa từng thấy trên địa cầu này. Bill and Melinda Gates Foundation hứa hẹn “giúp giảm bớt bất công tại Hoa Kỳ và trên toàn thế giới.”
Một cái computer cho mỗi gia đình
Mới đây, khi trả lời một cuộc phỏng vấn với tờ The Telegraph ở Anh, ông Gates nhớ lại “Khi Paul Allen và tôi thành lập Microsoft cách đây hơn 30 năm, chúng tôi có nhiều mơ ước cho tương lai của software. Chúng tôi mơ đến những ảnh hưởng nếu ước mơ của chúng tôi thành công. Chúng tôi nói đến mỗi bàn làm việc có một cái computer, mỗi nhà một máy vi tính. Thật không thể tưởng tượng được là rất nhiều những ước mơ đó đã thành sự thật và tạo dấu ấn trên bao nhiêu cuộc sống. Tôi chưa bao giờ nghĩ là từ những ước mơ hão huyền đó lại nảy sinh ra một công ty quan trọng và phi thường như vậy.”
Phải nói chính viễn ảnh của ông Gates, cũng như bộ óc kinh doanh của ông đã giúp biến Microsoft từ một công ty với 30 nhân viên ở Albuquerque trở thành một đại công ty quốc tế hiện nay. Microsoft nay có hơn 80,000 nhân viên ở trên 100 quốc gia và mỗi năm tiền lời của công ty lên đến nhiều tỷ đô la.
Bill Gates, hay đúng hơn, William H. Gates III, lần đầu tiên biết đến computer khi vào học trung học ở trường Lakeside, một trường trung học tư nổi tiếng ở Seattle. Năm đang học lớp 8, trường mua một đầu teletype ASR-33, được nối với hệ thống computer của General Electric. Trường mua giờ qua GE để giúp học sinh làm quen với computer. Gates thích thú nghiên cứu chương trình thảo chương BASIC của GE và được cho nghỉ giờ học toán để nghiên cứu ngôn ngữ điện toán. Software đầu tiên ông soạn ra là một chương trình cho phép chơi cờ carô (tic tac toe) với máy điện toán. Trong giai đoạn này, Gates gặp Paul Allen, người mà sau này trở thành đồng sáng lập viên của Microsoft.
Tốt nghiệp trung học, Gates vào học ở Harvard với hy vọng của gia đình là ông sẽ theo học luật vì ông cụ thân sinh vốn là một luật sư nổi tiếng. Nhưng ở Harvard, Gates gặp Steve Ballmer, người mà sau này ông đã đưa vào làm tổng quản trị CEO cho Microsoft. Khi Intel cho ra đời Intel 8080 CPU, Gates nghĩ đây là CPU rẻ tiền nhất khiến cho thời đại máy tính cho cá nhân có thể ra đời. Năm 1975, rủ Paul Allen, Gates bỏ học để ra đời thành lập một công ty software. Lúc đầu công ty được đặt tên là Micro-Soft, và công việc chính của họ lúc đó là hợp tác với Micro Instrumentation and Telemetry Systems (MITS) ở Albuquerque. Một năm sau công ty bỏ dấu gạch nối và Microsoft ra đời.
Nhưng phải mãi đến năm 1980 khi IBM, lúc đó đã là một công ty quan trọng trong thị trường computer, tìm đến Microsoft để yêu cầu giúp thảo ra hệ điều hành dựa trên ngôn ngữ điện toán BASIC cho những máy Personal Computer PC đầu tiên của IBM. Thực sự lúc đầu đại diện của IBM nói với Gates là họ đang muốn tìm một hệ điều hành cho PC. Gates giới thiệu một công ty có thể làm được việc đó. Tuy nhiên điều đình với công ty kia không thành, IBM nhờ Gates giải quyết dùm vấn đề. Gates bắt đầu viết một hệ điều hành dựa trên nền tảng của hệ thống 86-DOS có sẵn với một hợp đồng 80,000 đô la. Nhưng có điều IBM không để ý là trong hợp đồng này, Microsoft giữ tác quyền cho hệ điều hành. Đây là một trong những điều cho thấy Bill Gates khác những chuyên viên computer bình thường. Khả năng bén nhạy về tài chánh đã giúp cho Microsoft thành công.
Sau khi thành công, Microsoft rời Albuquerque dọn về Seatle. Lúc đó Bill Gates vẫn còn trẻ măng. Một thư ký của công ty đã nhớ lại là khi vừa dọn về Seatle, bà ta đã được Paul Allen thuê làm thư ký cho công ty. Một hôm, một anh chàng thanh niên trẻ tuổi, trông chẳng khác gì một cậu sinh viên, ăn mặc lúi xùi, quần jean, áo sơ mi cổ bẻ, không cravate, bước vào văn phòng dành cho đồng chủ tịch công ty và bắt đầu lui cui làm việc như là phòng của mình vậy. Bà ta hỏi ông Allen, “thằng nhỏ đó là ai mà làm như mình là ông chủ vậy.” Bà bật cười nhớ lại ông Allen bảo với bà “Hắn chính là ông chủ đó.”
Ngày nay, không những giấc mộng mỗi nhà và mỗi bàn giấy có một computer đã thành hình mà còn vượt hơn thế nữa. Và trong mỗi computer chúng ta đang sử dụng khoảng 90 phần trăm trên toàn thế giới có hệ điều hành của Microsoft trong khi 90 phần trăm số chương trình ứng dụng cho kinh doanh (Word và Excel) cũng là của Microsoft. Và những chương trình này vẫn là nền tảng của sự thành công về tài chánh của Microsoft.
Phải nói là cuộc đời của ông Gates có ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là khi một anh sinh viên bỏ học từ trường đại học Harvard “đánh lạc hướng” một đại công ty như IBM để họ sơ hở bỏ đi mất tác quyền của hệ điều hành cho PC. Và giai đoạn thứ ba sắp bắt đầu khi Bill Gates, nhà đại tư bản, trở thành Bill Gates, nhà từ thiện.
Cái giai đoạn gây nhiều tranh cãi là giai đoạn giữa. Những người ủng hộ ông Gates thì khen ngợi ông là một người có bộ óc kinh doanh khôn ngoan nhất thế kỷ và đơn thương độc mã thiết lập cho toàn thế giới một tiêu chuẩn điều hành máy vi tính. Microsoft Windows, Microsoft Office và rất nhiều ứng dụng khác sẽ tiếp tục chế ngự máy vi tính trong nhiều năm nữa, mặc dầu gần đây đã có những cố gắng để tạo dựng một hệ điều hành độc lập đối với Microsoft. Nhưng những người chỉ trích thì nói ông đã sử dụng những chiến lược mạnh dạn và có đôi khi cưỡng bức đe dọa để các công ty sản xuất vi tính phải cho Windows vào máy ngay lúc sản xuất.
Hành động của ông khi ép các công ty làm máy vi tính phải bỏ Internet Explorer “nằm vùng” trong máy để loại bỏ đối thủ là Netscape quả là một hành động khó chấp nhận. Các tòa án ở Hoa Kỳ và Âu Châu đã kết án Microsoft là đã duy trì một độc quyền. Đây là một bản án mà nếu chính phủ Clinton còn tiếp tục tại chức có thể dẫn đến việc Microsoft bị phá làm nhiều công ty nhỏ. Nhưng may cho ông Gates là đúng lúc đó, chính phủ Bush nhậm chức. Đây là một chính phủ có chính sách thân thiện với kinh doanh hơn nhiều.
Ở một khía cạnh nào đó, ông Gates không nghĩ những điều mình làm là sai trái. Trong một chương trình đặc biệt của đài BBC, ông đã khẳng định là hành động của ông chỉ là một hành động tự nhiên của một CEO muốn phát triển công ty. Ông có vẻ thành thật không hiểu những điều mình làm là không đúng.
Tương lai của Bill Gates và của Microsoft
Nay thì sau hai năm từ từ rút ra khỏi công ty, Bill Gates chỉ còn là một chủ tịch bán thời gian của Microsoft. Vào ngày cuối cùng, ông đã rơi lệ khi đọc bài diễn văn với Steve Ballmer, nhà kinh doanh ông gặp ở Harvard mà ông đã mời về để lo tài chánh cho công ty, đứng cạnh. Gạt nước mắt, ông nói trong tiếng vỗ tay hoan hô của nhân viên “Sẽ không một ngày nào trong đời tôi mà tôi không nghĩ đến Microsoft, đến những điều vĩ đại mà chúng ta đã làm hay đang muốn làm.”
Ông cũng sẽ còn thỉnh thoảng cầm đầu một vài dự án, mà dự án đầu tiên là cải thiện khả năng của Microsoft trên internet. Nhưng giai đoạn mà ông Gates là bộ óc và quả tim của Microsoft đã qua rồi. Ông Ballmer đã nói lên điều đó khi ông tuyên bố “Không có cách gì chúng ta có thể cảm ơn Bill. Bill là kẻ sáng lập, Bill là nhà lãnh đạo. Công ty này là đứa con của Bill!”
Theo ông Rob Helm, một giám đốc của một công ty tư vấn độc lập chuyên theo dõi Microsoft, thì cho đến gần đây ông Gates vẫn còn giữ một vai trò quan trọng trong công ty qua điều được gọi là “Bill G Reviews”. Đây là những khóa họp khi một nhóm đang phụ trách một dự án đến văn phòng của ông cùng với các nhóm khác và ông Gates sẽ khảo hạch họ về dự án họ đang làm, cả trên khía cạnh kinh doanh lẫn kỹ thuật. Chính nhờ những cuộc “xét lại” này là kim chỉ nam cho các nhóm khác nhau trong công ty cùng đi về một hướng. Và chỉ có ông mới có đủ kiến thức, đủ hiểu biết về công ty để làm việc đó.
Nhưng có lẽ điều sẽ làm ông Gates đau lòng nhất là thất bại của ông trong việc đưa Microsoft vào thời đại internet. Ngay từ năm 1995, Gates đã gửi một bức thư đến nhân viên với tựa đề “Ngọn sóng thần internet”, trong đó ông nói là web là phát minh quan trọng nhất của kỹ thuật kể từ khi IBM PC ra đời. Mặc cho lời kêu gọi đó của Gates, Microsoft trong nhiều năm không có search engine riêng của mình mà thuê những công ty như Inktomi làm hộ. Đến khi Microsoft đưa ra search engine của mình thì đã thua cuộc chạy đua dành thị trường quảng cáo với Google. Cố gắng gần đây để mua Yahoo chính là để trám vào sự thiếu thốn đó, nhưng ngay cả trong việc này Gates cũng đã thất bại.
Nhiều người nói là Bill Gates về hưu đúng lúc vì ông không hiểu thời đại internet. Microsoft dĩ nhiên vẫn là một đại công ty rất lời với dự trù là năm nay tiền lời của công ty lên đến 17 tỷ đô la và thương vụ lên đến 60 tỷ đô la. Nhưng hai sản phẩm chính của công ty, mà hiện hầu như là một độc quyền, Word và Office, đang gặp thách thức qua những chương trình không mất tiền mà Google đang giúp phát triển. Những người chỉ trích nói Gates đã không hiểu thời đại của Web 2.0 khi các nhóm social network quan trọng hơn là software. Để bắt cho kịp, Microsoft đã phải mua cổ phần của Facebook.
Nhưng một số các nhà bình luận nói là đừng quá vội vứt Microsoft vào “sọt rác của lịch sử”. Đây là một đại công ty còn rất nhiều sinh lực với khả năng tài chánh khổng lồ.
Riêng ông Gates đã quyết định đưa hầu hết tài sản kếch xù của mình để cống hiến cho nhân loại. Trả lời báo chí ông giải thích là ông không muốn ích kỷ chỉ để số tiền đó cho con cái mình.
Và có lẽ lịch sử sẽ xét ông Gates, nhà từ thiện, đáng giá hơn là ông Gates, nhà kinh doanh. Ông nói thần tượng của ông là nhà triệu phú Andrew Carnegie. So với việc chỉ lập trường học và viện bảo tàng của ông Carnegie, tham vọng của ông Gates quả là vĩ đại hơn nhiều. Nhưng ông Gates không thể có được cái gia tài kinh hồn đó nếu ông không phải là một nhà kinh doanh khôn ngoan. Một nhà kinh doanh thủ đoạn chẳng hay ho gì, nhưng nếu ông ta sẵn sàng đưa tiền kiếm được để giúp nhân loại thì hẳn phải hơn người làm giàu để rồi cất như một anh biển lận, chết cũng chẳng mang theo được.
Lê Phan
Comment