CHIẾC GHẾ
Badd Teddy
Chiếc ghế, đó là người bạn đồng hành trung thành của cô. Một lời nhắc nhở dai dẳng rằng cô sẽ không bao giờ đi được. Cô đã sợ phải ngồi suốt đời trong cái ghế-nhà-tù bằng thép này biết bao. Sẽ là cuộc đời khác, hoàn toàn khác, một người
Link" align="right" border="0" alt="" style="padding:7px;" />đứng ngoài không bao giờ được tham gia, một cuộc đời đơn độc.
Các bác sĩ đã cho cô hy vọng, thậm chí còn lạc quan vào lúc đầu. Họ nói: "Chúng ta sẽ thử điều này" hoặc "Chúng ta sẽ làm cách này". Họ kích thích chân cô, ngâm chân cô vào thuốc, thực hiện những kiểm tra, chụp X-quang, nội soi, đo đạc đủ kiểu... Những chuyên gia , rồi đến những bác sĩ phẫu thuật gặp cô để tư vấn. Vào lúc bắt đầu cơn ác mộng này, tất cả họ đều cho cô hy vọng là cô có thể đi bộ trở lại. Họ nói nếu cô có ý chí, họ có kỹ thuật giúp cô.
Lúc đầu cô tin họ. Điều tồi tệ này không thể xảy ra với một người như cô. Cô là loại người không bao giờ có ý nghĩ làm hại một người hay một vật nào trong đời. Cô không có tội gì để phải lãnh một bản án chịu cô độc suốt đời. Cô không đáng bị trẻ em nhìn soi mói, người lớn quay nhìn nơi khác, những cái gật đầu hiểu biết, những ánh nhìn một ai đó khác lạ so với người bình thường. Nhưng dần dần cô mất hy vọng và các bác sĩ cũng thế. Họ đã làm hết những kiểm tra, dùng hết những thứ thuốc thần diệu. Các bác sĩ phẫu thuật đã thất bại, chỉ để lại những vết sẹo, cho đến khi tất cả hy vọng biến mất. Cô sẽ không bao giờ đi được.
Nước mắt cô tuôn như suối, những dòng nước mặn ấy tuôn ra thành một cơn đại hồng thủy có thể làm mực nước đại dương dâng lên. Đầu tiên là một giọt lệ, rồi một giọt nữa, và cứ thế cho đến lúc không thể đếm được. Nhưng dù cô khóc bao nhiêu nước mắt, thì nỗi đau khi biết rằng cuộc đời cô đã thay đổi mãi mãi vẫn ám ảnh cô. Cô sẽ không bao giờ có thể khiêu vũ, đi xe đạp, hay đi bộ ngang qua một cánh đồng hoa cúc dại. Thay vào đó cô và người bạn mới -chiếc ghế- chỉ có thể ngồi nhìn người khác. Bạn bè và gia đình cố gắng an ủi cô. Những vòng tay ôm và hôn, thư từ và điện thoại, nhưng tất cả không thể thay đổi được cảm giác cuộc sống cô đã đổi khác. Trong khi họ cố hiểu và giúp cô, họ không hiểu rằng chính họ đã đối xử với cô một cách rất khác lạ. Họ cũng đã quên rằng cô là một con người. Bây giờ thay vì thấy cô, họ nhìn thấy chiếc ghế. Mặc dù chung quanh là những người lo lắng cho cô, cô vẫn cảm thấy đơn độc, một mình trong một thế giới trong đó không ai nhận ra cô vẫn là một phụ nữ.
Một thời gian sau, bạn bè trở nên xa cách hơn, những cuộc thăm viếng của gia đình bắt đầu thưa dần, còn những người theo đuổi cô không đến nữa. Cô là một phụ nữ đơn độc trong một nhà tù dựng nên bằng bốn bức tường với người bạn duy nhất là chiếc ghế. Cuộc sống không tốt lành gì. Có một lần có người đã mang cho cô một trong những thiết bị điện cơ phổ biến khắp thế giới là máy vi tính. Mọi người nói với cô rằng nó có câu trả lời cho mọi câu hỏi và cách giải quyết cho mọi vấn đề. Ngay lúc đó cô thấy nó không khác gì một cỗ máy quái vật, một cái máy nữa chỉ để chia xẻ sự tù túng của cô. Trong hơn một năm, cô không bao giờ mở nó và nó nằm đó, màn hình nhìn cô như một cửa sổ trong bóng đêm.
Cô cảm thấy mình cô độc và sống không có mục đích. Khi cô còn khỏe mạnh, cô nhìn mọi thứ đều dễ dàng. Trong đó có khả năng đi bộ, khả năng đi đến nơi nào cô muốn, làm việc, chơi đùa và khả năng lập gia đình nếu cô chọn một người. Bây giờ cô ít khi liên lạc với gia đình, có rất ít bạn và không còn hy vọng cuộc sống sẽ tốt hơn. Điều khủng khiếp nhất là sự buồn chán. Làm sao một người có thể chỉ ngồi không? Ồ, quả thật cô đã thử xem tivi, đọc sách và nghe rađio, nhưng chỉ một thời gian sau chúng cũng trở thành vô nghĩa. Chúng có thể cho cô được gì ngoài một sự quên lãng tạm thời sự kiện cô đang cô độc và không có mục đích sống? Thậm chí cô đã thử đi ra ngoài và tham gia vào chính cái xã hội đã làm cô xa lánh bằng những cái nhìn hiểu biết của họ, nhưng cô thấy cô không thể chịu được những cái nhìn hay những cặp mắt lảng tránh. Cô trở thành một người đơn độc, một con ốc mượn hồn trong cái nhà tù cô gọi là nhà. Cuối cùng chính sự cô độc và thiếu mục đích đã khiến cô quyết định làm quen với cái cỗ máy quái vật, cái máy vi tính.
Cô đánh vật với tập sách hướng dẫn kỹ thuật đồ họa, có lẽ một đứa trẻ bảy tuổi có thể hiểu, nhưng với người lớn lại là mở đầu cho một cơn nhức đầu khủng khiếp. Bất kể những kỹ thuật có rắc rối đến đâu, bất kể cô từng sợ sẽ không bao giờ học được,dần dần cô đủ tự tin để đụng vào cái nút lớn màu đỏ có ghi "on". Chuyện ấy xảy ra rất chậm vì cô phải học đi trước khi học chạy, cô thầm so sánh như vậy.
Khi bạn mất một vật gì đó, bạn nhận ra rằng mình đã từng không để ý đến nó và chỉ nghĩ đến nó sau khi bị mất. Cô tự học cách dùng máy vi tính dù rằng cô không chắc cô có muốn học không. Cô không biết nó có thể giúp gì được cho cô. Cô cần gì lúc này? Ba bữa ăn một ngày và chút dầu để bôi trơn cho người bạn của cô -chiếc ghế- khi cô quan tâm. Rồi đến lúc cô biết lý do duy nhất cô tự học sử dụng máy vi tính là vì buồn chán. Cô không có gì khác để làm.
Vài tuần sau, cô đã học lướt web, đã tạo ra đủ thứ hình ảnh và âm thanh buồn cười, đã đến thăm những nơi ngoài quê hương cô. Cô là một người của thế kỷ hai mươi mốt đến thăm những nơi và người trên khắp thế giới bằng mắt. Cuối cùng cô đã tìm được một điều trên máy vi tính, một điều trước đây cô tưởng sẽ không bao giờ tìm được. Có rất nhiều người trên Internet, không chỉ là người nhưng là bạn bè. Những người bạn không đối xử với cô khác thường như thể cô là một người hủi. Những người cô gặp trên Internet tốt, ân cần và thân thiện. Một vài người biết cô ngồi trên ghế và quan tâm. Họ đối với cô giống như đối với những người khác. Nói cho cùng, mọi người sử dụng máy vi tính đều phải ngồi trên ghế, cho nên mọi người đều bình đẳng.
Mặc dù đã tìm được bạn bè, đã học được một số kỹ năng thú vị, cuộc sống cô vẫn còn thiếu một điều gì đó. Cô không chắc đó là gì, nhưng điều gần nhất cô có thể nghĩ đến là "mục đích". Cuộc sống của cô không có mục đích, không ý nghĩa và không có lý do tồn tại. Cô cần một điều gì đó, nhưng "một điều gì đó" là điều cô phải tìm ra. Phải làm một điều để quan tâm thật sự và sống vì nó và một khi chưa tìm được, cuộc sống của cô vẫn trống rỗng. Cô sẽ sống từng ngày và tự hỏi mình có nên kết thúc cuộc sống hay không. Cô có nên lấy ngày hôm nay làm ngày cuối cùng còn sống không? Có phải đây là lúc hợp lý để kết thúc mọi chịu đựng, để ngừng làm gánh nặng của những người khác. Cô có nên đơn giản nằm xuống và chết không?
Rồi một ngày kia, cô tìm được điều cô cần, cô tìm được một người để giúp đỡ, một người cần cô. Đột nhiên cô tìm được một điều giúp cuộc sống của cô có mục đích và ý nghĩa. Dĩ nhiên điều đó không xảy ra ngay tức thì. Có thể phải mất một thời gian cô mới hiểu rằng cuộc sống của cô đã thay đổi trong nháy mắt, và bây giờ cô đã có một mục đích để sống vì có người cần cô.
Điều gì đã xảy ra làm thay đổi cuộc sống của cô? Điều gì đã làm trái tim cô xúc động? Điều gì đã làm cô quyết định phải sống và sống có mục đích?
Đó là tấm hình của một cô bé nhìn cô từ màn hình vi tính, cặp mắt sáng ngời và nụ cười rất tươi. Kế bên miệng cô bé là ba chữ "Tôi yêu bạn". Bên dưới tấm hình ghi đơn giản "Bạn có thể giúp tôi không?". Trên bức hình ghi "Mất tích". Cô nhìn vào cặp mắt sáng và thấy sự trong sáng và tình yêu ngây thơ. Cô nhìn nụ cười của cô bé và thấy mình cũng đang mỉm cười. Chữ "Mất tích" làm lòng cô se lại, nhưng ngay khi cô đọc hàng chữ "Bạn có thể giúp tôi không?" cô đã quyết định cô sẽ giúp tìm cô bé. Cô sẽ tìm ra và đưa cô bé về nhà.
Cô đọc mọi thứ có thể tìm được về nàng công chúa nhỏ này trên Internet, rồi cô đọc báo. Cô gọi cho cảnh sát và hỏi họ cô có thể giúp được gì. Họ tử tế, nhưng có vẻ nghi ngờ về việc một người có thể làm thay đổi sự việc. Tiếp theo cô gọi cho những cơ quan tìm trẻ em mất tích và hỏi chi tiết về cô bé, cùng với những thông tin khác trước khi gọi điện cho cha cô bé. Cô muốn nói chuyện trước với ông trước khi đề nghị giúp đỡ. Lúc ấy đã khuya và cô biết lẽ ra mình nên đợi đến ngày hôm sau nhưng cô không kiềm chế được mình, cô muốn đề nghị giúp, và cô muốn làm ngay! Điện thoại reo, reo mãi.
Trong thâm tâm, cô sợ vì đang gọi cho một người đàn ông mình chưa bao giờ gặp, nhưng cô không thể nào gác máy, cô không thể ngừng áp ống nghe vào tai được. Có nhiều việc cần phải làm nếu cô muốn cứu đứa bé và cô cần phải nói chuyện với cha cô bé để biết cô có thể làm gì. Trong khi điện thoại reo, từng hồi, từng hồi. Không ai bốc máy, cô lại gọi, rồi lại chờ đợi... Sau mười hai lần gọi, cô nghe có người cầm máy lên và buông rơi xuống. Vài giây sau một giọng nói yếu ớt trả lời và hỏi ai gọi. Cô xin lỗi vì đã đánh thức ông ta, nhưng cô gọi đến để giúp đỡ tìm cô bé. Ông ta hỏi cô chỉ có một người làm sao có thể thay đổi được gì. Cô nói: "Tôi phải ngồi xe lăn cho đến chết, nhưng không có nghĩa là tôi không giúp được. Thay vì vậy, điều đó có nghĩa là tôi sẽ phải giúp bằng những cách tôi có thể. Có hai mươi bốn giờ trong một ngày và vì tôi chỉ ngủ có tám giờ, như vậy là tôi có mười sáu giờ một ngày để giúp đỡ ông. Tôi không có việc gì khác trong cuộc sống và tôi sẽ sử dụng hết thời gian mười sáu giờ đó để giúp đưa con gái ông về nhà với ông. Và tôi hứa với ông, tôi sẽ không bao giờ ngừng tìm kiếm cho đến khi cháu về nhà".
Có một điều gì đó về người phụ nữ đã thuyết phục được người đàn ông rằng cô nói thật. Họ nói chuyện suốt đêm về cô bé, về việc em sẽ không bao giờ biết về mẹ, người đã chết khi sinh em. Ông kể cô nghe cô bé với cặp mắt sáng và nụ cười tươi đã bị một người lạ mặt bắt cóc ở sân sau nhà họ và ông không biết cô bé có còn sống không. Trong khi họ nói chuyện, ông trở nên tin tưởng hơn rằng nếu có ai có thể giúp ông tìm được con gái, đó sẽ là người phụ nữ đang gọi điện thoại, người phụ nữ sống trên xe lăn, vị thiên thần đã đánh thức niềm tin đã suy giảm của ông về lòng nhân hậu của con người.
Trong khi mọi người khác đã chịu thua, cô bắt đầu dùng máy vi tính để gởi hình của cô bé lên mạng. Khi các phương tiện truyền thông ngưng phát những câu chuyện của họ, cô viết truyện của chính mình và gởi cho khắp thế giới bằng email. Khi người ta bắt đầu quên gương mặt của cô bé, cô in hình em trên máy vi tính của mình và gởi cho những người có thể giúp. Mỗi tuần, cô gọi điện cho cảnh sát để biết chắc họ vẫn đang tìm cô bé. Cô nói chuyện với các thám tử, chuyên gia và những người có trách nhiệm và mỗi ngày cô tự hứa với mình sẽ không bao giờ từ bỏ hy vọng.
Không bao lâu người phụ nữ bị gắn chặt vào chiếc ghế bắt đầu tham gia vào việc giúp cha mẹ của những trẻ em bị mất tích khác tìm kiếm tung tích con mình. Chuyện người phụ nữ tốt bụng sẵn sàng làm mọi thứ để giúp một đứa trẻ bắt đầu lan rộng. Cha mẹ những trẻ em bị mất tích trên khắp thế giới bắt đầu liên lạc với cô để nhờ giúp, xin lời khuyên và nghe một lời an ủi. Cô sống như vậy, hạnh phúc khi người ta tìm được một đứa bé và buồn rầu khi bị mất một đứa bé khác. Cô trở thành bạn của tất cả các bậc cha mẹ ấy, nghe họ nói và cùng khóc khi họ khóc. Cô có mặt cho tất cả những người cần cô và thật sự có rất nhiều người cần cô.
Qua một thời gian cô gần như quên mất chiếc ghế. Nó chỉ là một công cụ. Sau đó cô thậm chí còn nghĩ nó là một sự may mắn. Cô nhận ra rằng trước khi cô bị cột vào chiếc xe, cô có thể đi bộ, nhưng không có mục đích trong cuộc sống. Cô đi được nhưng không biết đi đâu. Trước khi cô cần chiếc ghế, cô có đôi chân khỏe nhưng chưa có lý do để sống. Chiếc ghế đã mang cho cô rất nhiều đau đớn cũng đã cho cô một điều mới trong cuộc sống, một mục đích, một cảm giác được người khác cần và một lý do mới để sống. Có thể chiếc ghế là một chuyện rủi biến thành may.
Năm tháng trôi qua, cô không bao giờ từ bỏ hy vọng tìm được cô bé đầu tiên đó. Cô nói chuyện với cha cô bé qua điện thoại mỗi tuần một lần và qua thư từ hay email mỗi ngày. Ông nói với cô, ngày nào cô còn tìm kiếm, ông sẽ còn hy vọng, người ta sẽ tìm thấy con gái ông.
Rồi cách đó ba tuần, những email và thư từ không đến nữa. Không ai trả lời điện thoại. Cô lo lắng. Có phải ông đã từ bỏ hy vọng? Có phải điều tệ nhất đã xảy ra? Có phải người đàn ông đã trở thành một phần trong cuộc sống của cô đã ra đi mãi mãi? Chuyện gì đã xảy ra? Cuối cùng, cô bắt đầu từ bỏ hy vọng. Tối hôm đó cô khóc. Cô khóc cho trẻ em. Cô khóc cho cô bé đó và cho người đàn ông đã trở thành bạn cô. Nước mắt cô rơi và mưa cũng rơi. Buổi tối ấy trở thành một đêm đơn độc, buồn rầu với nước tuôn xối xả cả bên trong và bên ngoài. Cô cảm thấy cô đã mất lý do để sống, mất sự chữa trị nỗi đau của cô cũng như cô bé và người cha. Trong một khoảnh khắc cô nguyền rủa chiếc ghế và muốn chấm dứt nỗi đau.
Khi nước mắt lên đến đỉnh điểm, khi cô cảm thấy tất cả hy vọng và lý do để sống đã trôi đi, thì có tiếng gõ cửa. Cô quay ghế lại và nhìn qua mắt thần để xem đó là ai. Một người đàn ông ướt sũng đang đứng trước cửa. Cô cẩn thận mở cửa và ngạc nhiên khi nhận ra ông ta. Cô đã xem hình ông ta rất nhiều lần, cặp mắt buồn rầu tìm kiếm, cái vẻ một con chó con bị lạc, vẻ mất mát và tuyệt vọng hằn rõ trên gương mặt lẽ ra có thể đầy niềm vui. Ông là cha của cô bé mất tích đã làm cô đổ bao nhiêu nước mắt. Ông là người cô đã giúp đỡ và trong khi giúp ông cô đã tìm được ý nghĩa cuộc sống cho chính mình.
Ông làm gì ở đây? Tại sao ông lại đứng ngoài mưa? Điều gì đã khiến ông đi hàng ngàn dặm đến gặp một người phụ nữ chưa bao giờ gặp? Ông mỉm cười thật tươi với cô và nói ông mang tin vui đến cho cô. Ông nói người ta đã tìm được con gái ông và khi ông nói câu đó, một cô bé bước tới. Nước mắt bắt đầu chảy trong phòng khi cả ba người cùng chung niềm vui khó tin được. Người phụ nữ ngồi xe lăn khóc những giọt nước mắt hạnh phúc khi mời họ vào nhà. Cô rất vui mừng khi hỏi người ta tìm được cô bé như thế nào và thầm hỏi việc tìm kiếm của cô có giúp được gì không. Ông nói con gái ông đã trốn thoát tên bắt cóc và tự tìm đường về nhà.
Về điểm này, người cha cám ơn người phụ nữ ngồi xe lăn không ngớt nhưng cô không hiểu. Cô hỏi: "Nhưng nếu con gái ông tự trốn thoát và về nhà, tại sao ông phải cảm ơn tôi?". Người cha nói: "Đêm cô gọi, tôi không ngủ. Tôi đã từ bỏ hy vọng và quyết định chấm dứt cuộc sống. Đêm hôm đó cô đã quan tâm và cho tôi hy vọng, ý chí để sống. Nếu không có cô con gái tôi đã trở về với căn nhà trống rỗng".
Người phụ nữ ngồi trên ghế khóc rất nhiều, nước mắt rơi như cơn mưa mùa hè không dứt. Rồi người cha lại nói: "Tôi và con gái đã nói về rất nhiều việc, đặc biệt về cô. Tôi kể cháu nghe về những điều cô đã làm, cô đã quan tâm, khóc và giữ tôi không đầu hàng như thế nào. Cô đã chiến đấu để tìm cháu và đưa cháu về nhà, cho nên cháu xin tôi đưa cháu đến đây. Cháu có một điều muốn nói với cô".
Cô bé bước tới, rụt rè nhưng mỉm cười khi nói: "Không có cô, cháu đã không còn cha khi về nhà. Điều cô đã làm là hành động yêu thương lớn nhất cháu nhận được trong cuộc sống. Với cha cháu và mọi người khác, cô là một anh hùng, nhưng với cháu cô còn hơn thế nữa". Cô bé ôm người phụ nữ ngồi trên ghế và nói: "Cô là một phụ nữ đặc biệt và cháu muốn cô làm mẹ cháu". Trong một lúc người phụ nữ trên ghế không biết nói gì. Cô không chắc cô có nghe đúng không và cô cố lên tiếng. Nhưng cô bé đặt ngón tay lên miệng người phụ nữ và đưa cho cha cô một chiếc nhẫn. Người cha cầm nhẫn đeo vào ngón tay người phụ nữ và nói: "Tôi và con gái đã nói chuyện và chúng tôi cần một điều kỳ diệu để chúng ta trở thành một gia đình. Em sẽ làm vợ anh chứ?".
Trước khi cô biết ông đã ôm cô và cô cũng ôm lại ông. Cô là người hạnh phúc nhất trên đời. Cô chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc như vậy và phải vài phút sau họ mới nhận ra rằng cô đã đứng lên để nhận vòng tay ôm của ông.
Badd Teddy
Chiếc ghế, đó là người bạn đồng hành trung thành của cô. Một lời nhắc nhở dai dẳng rằng cô sẽ không bao giờ đi được. Cô đã sợ phải ngồi suốt đời trong cái ghế-nhà-tù bằng thép này biết bao. Sẽ là cuộc đời khác, hoàn toàn khác, một người
Các bác sĩ đã cho cô hy vọng, thậm chí còn lạc quan vào lúc đầu. Họ nói: "Chúng ta sẽ thử điều này" hoặc "Chúng ta sẽ làm cách này". Họ kích thích chân cô, ngâm chân cô vào thuốc, thực hiện những kiểm tra, chụp X-quang, nội soi, đo đạc đủ kiểu... Những chuyên gia , rồi đến những bác sĩ phẫu thuật gặp cô để tư vấn. Vào lúc bắt đầu cơn ác mộng này, tất cả họ đều cho cô hy vọng là cô có thể đi bộ trở lại. Họ nói nếu cô có ý chí, họ có kỹ thuật giúp cô.
Lúc đầu cô tin họ. Điều tồi tệ này không thể xảy ra với một người như cô. Cô là loại người không bao giờ có ý nghĩ làm hại một người hay một vật nào trong đời. Cô không có tội gì để phải lãnh một bản án chịu cô độc suốt đời. Cô không đáng bị trẻ em nhìn soi mói, người lớn quay nhìn nơi khác, những cái gật đầu hiểu biết, những ánh nhìn một ai đó khác lạ so với người bình thường. Nhưng dần dần cô mất hy vọng và các bác sĩ cũng thế. Họ đã làm hết những kiểm tra, dùng hết những thứ thuốc thần diệu. Các bác sĩ phẫu thuật đã thất bại, chỉ để lại những vết sẹo, cho đến khi tất cả hy vọng biến mất. Cô sẽ không bao giờ đi được.
Nước mắt cô tuôn như suối, những dòng nước mặn ấy tuôn ra thành một cơn đại hồng thủy có thể làm mực nước đại dương dâng lên. Đầu tiên là một giọt lệ, rồi một giọt nữa, và cứ thế cho đến lúc không thể đếm được. Nhưng dù cô khóc bao nhiêu nước mắt, thì nỗi đau khi biết rằng cuộc đời cô đã thay đổi mãi mãi vẫn ám ảnh cô. Cô sẽ không bao giờ có thể khiêu vũ, đi xe đạp, hay đi bộ ngang qua một cánh đồng hoa cúc dại. Thay vào đó cô và người bạn mới -chiếc ghế- chỉ có thể ngồi nhìn người khác. Bạn bè và gia đình cố gắng an ủi cô. Những vòng tay ôm và hôn, thư từ và điện thoại, nhưng tất cả không thể thay đổi được cảm giác cuộc sống cô đã đổi khác. Trong khi họ cố hiểu và giúp cô, họ không hiểu rằng chính họ đã đối xử với cô một cách rất khác lạ. Họ cũng đã quên rằng cô là một con người. Bây giờ thay vì thấy cô, họ nhìn thấy chiếc ghế. Mặc dù chung quanh là những người lo lắng cho cô, cô vẫn cảm thấy đơn độc, một mình trong một thế giới trong đó không ai nhận ra cô vẫn là một phụ nữ.
Một thời gian sau, bạn bè trở nên xa cách hơn, những cuộc thăm viếng của gia đình bắt đầu thưa dần, còn những người theo đuổi cô không đến nữa. Cô là một phụ nữ đơn độc trong một nhà tù dựng nên bằng bốn bức tường với người bạn duy nhất là chiếc ghế. Cuộc sống không tốt lành gì. Có một lần có người đã mang cho cô một trong những thiết bị điện cơ phổ biến khắp thế giới là máy vi tính. Mọi người nói với cô rằng nó có câu trả lời cho mọi câu hỏi và cách giải quyết cho mọi vấn đề. Ngay lúc đó cô thấy nó không khác gì một cỗ máy quái vật, một cái máy nữa chỉ để chia xẻ sự tù túng của cô. Trong hơn một năm, cô không bao giờ mở nó và nó nằm đó, màn hình nhìn cô như một cửa sổ trong bóng đêm.
Cô cảm thấy mình cô độc và sống không có mục đích. Khi cô còn khỏe mạnh, cô nhìn mọi thứ đều dễ dàng. Trong đó có khả năng đi bộ, khả năng đi đến nơi nào cô muốn, làm việc, chơi đùa và khả năng lập gia đình nếu cô chọn một người. Bây giờ cô ít khi liên lạc với gia đình, có rất ít bạn và không còn hy vọng cuộc sống sẽ tốt hơn. Điều khủng khiếp nhất là sự buồn chán. Làm sao một người có thể chỉ ngồi không? Ồ, quả thật cô đã thử xem tivi, đọc sách và nghe rađio, nhưng chỉ một thời gian sau chúng cũng trở thành vô nghĩa. Chúng có thể cho cô được gì ngoài một sự quên lãng tạm thời sự kiện cô đang cô độc và không có mục đích sống? Thậm chí cô đã thử đi ra ngoài và tham gia vào chính cái xã hội đã làm cô xa lánh bằng những cái nhìn hiểu biết của họ, nhưng cô thấy cô không thể chịu được những cái nhìn hay những cặp mắt lảng tránh. Cô trở thành một người đơn độc, một con ốc mượn hồn trong cái nhà tù cô gọi là nhà. Cuối cùng chính sự cô độc và thiếu mục đích đã khiến cô quyết định làm quen với cái cỗ máy quái vật, cái máy vi tính.
Cô đánh vật với tập sách hướng dẫn kỹ thuật đồ họa, có lẽ một đứa trẻ bảy tuổi có thể hiểu, nhưng với người lớn lại là mở đầu cho một cơn nhức đầu khủng khiếp. Bất kể những kỹ thuật có rắc rối đến đâu, bất kể cô từng sợ sẽ không bao giờ học được,dần dần cô đủ tự tin để đụng vào cái nút lớn màu đỏ có ghi "on". Chuyện ấy xảy ra rất chậm vì cô phải học đi trước khi học chạy, cô thầm so sánh như vậy.
Khi bạn mất một vật gì đó, bạn nhận ra rằng mình đã từng không để ý đến nó và chỉ nghĩ đến nó sau khi bị mất. Cô tự học cách dùng máy vi tính dù rằng cô không chắc cô có muốn học không. Cô không biết nó có thể giúp gì được cho cô. Cô cần gì lúc này? Ba bữa ăn một ngày và chút dầu để bôi trơn cho người bạn của cô -chiếc ghế- khi cô quan tâm. Rồi đến lúc cô biết lý do duy nhất cô tự học sử dụng máy vi tính là vì buồn chán. Cô không có gì khác để làm.
Vài tuần sau, cô đã học lướt web, đã tạo ra đủ thứ hình ảnh và âm thanh buồn cười, đã đến thăm những nơi ngoài quê hương cô. Cô là một người của thế kỷ hai mươi mốt đến thăm những nơi và người trên khắp thế giới bằng mắt. Cuối cùng cô đã tìm được một điều trên máy vi tính, một điều trước đây cô tưởng sẽ không bao giờ tìm được. Có rất nhiều người trên Internet, không chỉ là người nhưng là bạn bè. Những người bạn không đối xử với cô khác thường như thể cô là một người hủi. Những người cô gặp trên Internet tốt, ân cần và thân thiện. Một vài người biết cô ngồi trên ghế và quan tâm. Họ đối với cô giống như đối với những người khác. Nói cho cùng, mọi người sử dụng máy vi tính đều phải ngồi trên ghế, cho nên mọi người đều bình đẳng.
Mặc dù đã tìm được bạn bè, đã học được một số kỹ năng thú vị, cuộc sống cô vẫn còn thiếu một điều gì đó. Cô không chắc đó là gì, nhưng điều gần nhất cô có thể nghĩ đến là "mục đích". Cuộc sống của cô không có mục đích, không ý nghĩa và không có lý do tồn tại. Cô cần một điều gì đó, nhưng "một điều gì đó" là điều cô phải tìm ra. Phải làm một điều để quan tâm thật sự và sống vì nó và một khi chưa tìm được, cuộc sống của cô vẫn trống rỗng. Cô sẽ sống từng ngày và tự hỏi mình có nên kết thúc cuộc sống hay không. Cô có nên lấy ngày hôm nay làm ngày cuối cùng còn sống không? Có phải đây là lúc hợp lý để kết thúc mọi chịu đựng, để ngừng làm gánh nặng của những người khác. Cô có nên đơn giản nằm xuống và chết không?
Rồi một ngày kia, cô tìm được điều cô cần, cô tìm được một người để giúp đỡ, một người cần cô. Đột nhiên cô tìm được một điều giúp cuộc sống của cô có mục đích và ý nghĩa. Dĩ nhiên điều đó không xảy ra ngay tức thì. Có thể phải mất một thời gian cô mới hiểu rằng cuộc sống của cô đã thay đổi trong nháy mắt, và bây giờ cô đã có một mục đích để sống vì có người cần cô.
Điều gì đã xảy ra làm thay đổi cuộc sống của cô? Điều gì đã làm trái tim cô xúc động? Điều gì đã làm cô quyết định phải sống và sống có mục đích?
Đó là tấm hình của một cô bé nhìn cô từ màn hình vi tính, cặp mắt sáng ngời và nụ cười rất tươi. Kế bên miệng cô bé là ba chữ "Tôi yêu bạn". Bên dưới tấm hình ghi đơn giản "Bạn có thể giúp tôi không?". Trên bức hình ghi "Mất tích". Cô nhìn vào cặp mắt sáng và thấy sự trong sáng và tình yêu ngây thơ. Cô nhìn nụ cười của cô bé và thấy mình cũng đang mỉm cười. Chữ "Mất tích" làm lòng cô se lại, nhưng ngay khi cô đọc hàng chữ "Bạn có thể giúp tôi không?" cô đã quyết định cô sẽ giúp tìm cô bé. Cô sẽ tìm ra và đưa cô bé về nhà.
Cô đọc mọi thứ có thể tìm được về nàng công chúa nhỏ này trên Internet, rồi cô đọc báo. Cô gọi cho cảnh sát và hỏi họ cô có thể giúp được gì. Họ tử tế, nhưng có vẻ nghi ngờ về việc một người có thể làm thay đổi sự việc. Tiếp theo cô gọi cho những cơ quan tìm trẻ em mất tích và hỏi chi tiết về cô bé, cùng với những thông tin khác trước khi gọi điện cho cha cô bé. Cô muốn nói chuyện trước với ông trước khi đề nghị giúp đỡ. Lúc ấy đã khuya và cô biết lẽ ra mình nên đợi đến ngày hôm sau nhưng cô không kiềm chế được mình, cô muốn đề nghị giúp, và cô muốn làm ngay! Điện thoại reo, reo mãi.
Trong thâm tâm, cô sợ vì đang gọi cho một người đàn ông mình chưa bao giờ gặp, nhưng cô không thể nào gác máy, cô không thể ngừng áp ống nghe vào tai được. Có nhiều việc cần phải làm nếu cô muốn cứu đứa bé và cô cần phải nói chuyện với cha cô bé để biết cô có thể làm gì. Trong khi điện thoại reo, từng hồi, từng hồi. Không ai bốc máy, cô lại gọi, rồi lại chờ đợi... Sau mười hai lần gọi, cô nghe có người cầm máy lên và buông rơi xuống. Vài giây sau một giọng nói yếu ớt trả lời và hỏi ai gọi. Cô xin lỗi vì đã đánh thức ông ta, nhưng cô gọi đến để giúp đỡ tìm cô bé. Ông ta hỏi cô chỉ có một người làm sao có thể thay đổi được gì. Cô nói: "Tôi phải ngồi xe lăn cho đến chết, nhưng không có nghĩa là tôi không giúp được. Thay vì vậy, điều đó có nghĩa là tôi sẽ phải giúp bằng những cách tôi có thể. Có hai mươi bốn giờ trong một ngày và vì tôi chỉ ngủ có tám giờ, như vậy là tôi có mười sáu giờ một ngày để giúp đỡ ông. Tôi không có việc gì khác trong cuộc sống và tôi sẽ sử dụng hết thời gian mười sáu giờ đó để giúp đưa con gái ông về nhà với ông. Và tôi hứa với ông, tôi sẽ không bao giờ ngừng tìm kiếm cho đến khi cháu về nhà".
Có một điều gì đó về người phụ nữ đã thuyết phục được người đàn ông rằng cô nói thật. Họ nói chuyện suốt đêm về cô bé, về việc em sẽ không bao giờ biết về mẹ, người đã chết khi sinh em. Ông kể cô nghe cô bé với cặp mắt sáng và nụ cười tươi đã bị một người lạ mặt bắt cóc ở sân sau nhà họ và ông không biết cô bé có còn sống không. Trong khi họ nói chuyện, ông trở nên tin tưởng hơn rằng nếu có ai có thể giúp ông tìm được con gái, đó sẽ là người phụ nữ đang gọi điện thoại, người phụ nữ sống trên xe lăn, vị thiên thần đã đánh thức niềm tin đã suy giảm của ông về lòng nhân hậu của con người.
Trong khi mọi người khác đã chịu thua, cô bắt đầu dùng máy vi tính để gởi hình của cô bé lên mạng. Khi các phương tiện truyền thông ngưng phát những câu chuyện của họ, cô viết truyện của chính mình và gởi cho khắp thế giới bằng email. Khi người ta bắt đầu quên gương mặt của cô bé, cô in hình em trên máy vi tính của mình và gởi cho những người có thể giúp. Mỗi tuần, cô gọi điện cho cảnh sát để biết chắc họ vẫn đang tìm cô bé. Cô nói chuyện với các thám tử, chuyên gia và những người có trách nhiệm và mỗi ngày cô tự hứa với mình sẽ không bao giờ từ bỏ hy vọng.
Không bao lâu người phụ nữ bị gắn chặt vào chiếc ghế bắt đầu tham gia vào việc giúp cha mẹ của những trẻ em bị mất tích khác tìm kiếm tung tích con mình. Chuyện người phụ nữ tốt bụng sẵn sàng làm mọi thứ để giúp một đứa trẻ bắt đầu lan rộng. Cha mẹ những trẻ em bị mất tích trên khắp thế giới bắt đầu liên lạc với cô để nhờ giúp, xin lời khuyên và nghe một lời an ủi. Cô sống như vậy, hạnh phúc khi người ta tìm được một đứa bé và buồn rầu khi bị mất một đứa bé khác. Cô trở thành bạn của tất cả các bậc cha mẹ ấy, nghe họ nói và cùng khóc khi họ khóc. Cô có mặt cho tất cả những người cần cô và thật sự có rất nhiều người cần cô.
Qua một thời gian cô gần như quên mất chiếc ghế. Nó chỉ là một công cụ. Sau đó cô thậm chí còn nghĩ nó là một sự may mắn. Cô nhận ra rằng trước khi cô bị cột vào chiếc xe, cô có thể đi bộ, nhưng không có mục đích trong cuộc sống. Cô đi được nhưng không biết đi đâu. Trước khi cô cần chiếc ghế, cô có đôi chân khỏe nhưng chưa có lý do để sống. Chiếc ghế đã mang cho cô rất nhiều đau đớn cũng đã cho cô một điều mới trong cuộc sống, một mục đích, một cảm giác được người khác cần và một lý do mới để sống. Có thể chiếc ghế là một chuyện rủi biến thành may.
Năm tháng trôi qua, cô không bao giờ từ bỏ hy vọng tìm được cô bé đầu tiên đó. Cô nói chuyện với cha cô bé qua điện thoại mỗi tuần một lần và qua thư từ hay email mỗi ngày. Ông nói với cô, ngày nào cô còn tìm kiếm, ông sẽ còn hy vọng, người ta sẽ tìm thấy con gái ông.
Rồi cách đó ba tuần, những email và thư từ không đến nữa. Không ai trả lời điện thoại. Cô lo lắng. Có phải ông đã từ bỏ hy vọng? Có phải điều tệ nhất đã xảy ra? Có phải người đàn ông đã trở thành một phần trong cuộc sống của cô đã ra đi mãi mãi? Chuyện gì đã xảy ra? Cuối cùng, cô bắt đầu từ bỏ hy vọng. Tối hôm đó cô khóc. Cô khóc cho trẻ em. Cô khóc cho cô bé đó và cho người đàn ông đã trở thành bạn cô. Nước mắt cô rơi và mưa cũng rơi. Buổi tối ấy trở thành một đêm đơn độc, buồn rầu với nước tuôn xối xả cả bên trong và bên ngoài. Cô cảm thấy cô đã mất lý do để sống, mất sự chữa trị nỗi đau của cô cũng như cô bé và người cha. Trong một khoảnh khắc cô nguyền rủa chiếc ghế và muốn chấm dứt nỗi đau.
Khi nước mắt lên đến đỉnh điểm, khi cô cảm thấy tất cả hy vọng và lý do để sống đã trôi đi, thì có tiếng gõ cửa. Cô quay ghế lại và nhìn qua mắt thần để xem đó là ai. Một người đàn ông ướt sũng đang đứng trước cửa. Cô cẩn thận mở cửa và ngạc nhiên khi nhận ra ông ta. Cô đã xem hình ông ta rất nhiều lần, cặp mắt buồn rầu tìm kiếm, cái vẻ một con chó con bị lạc, vẻ mất mát và tuyệt vọng hằn rõ trên gương mặt lẽ ra có thể đầy niềm vui. Ông là cha của cô bé mất tích đã làm cô đổ bao nhiêu nước mắt. Ông là người cô đã giúp đỡ và trong khi giúp ông cô đã tìm được ý nghĩa cuộc sống cho chính mình.
Ông làm gì ở đây? Tại sao ông lại đứng ngoài mưa? Điều gì đã khiến ông đi hàng ngàn dặm đến gặp một người phụ nữ chưa bao giờ gặp? Ông mỉm cười thật tươi với cô và nói ông mang tin vui đến cho cô. Ông nói người ta đã tìm được con gái ông và khi ông nói câu đó, một cô bé bước tới. Nước mắt bắt đầu chảy trong phòng khi cả ba người cùng chung niềm vui khó tin được. Người phụ nữ ngồi xe lăn khóc những giọt nước mắt hạnh phúc khi mời họ vào nhà. Cô rất vui mừng khi hỏi người ta tìm được cô bé như thế nào và thầm hỏi việc tìm kiếm của cô có giúp được gì không. Ông nói con gái ông đã trốn thoát tên bắt cóc và tự tìm đường về nhà.
Về điểm này, người cha cám ơn người phụ nữ ngồi xe lăn không ngớt nhưng cô không hiểu. Cô hỏi: "Nhưng nếu con gái ông tự trốn thoát và về nhà, tại sao ông phải cảm ơn tôi?". Người cha nói: "Đêm cô gọi, tôi không ngủ. Tôi đã từ bỏ hy vọng và quyết định chấm dứt cuộc sống. Đêm hôm đó cô đã quan tâm và cho tôi hy vọng, ý chí để sống. Nếu không có cô con gái tôi đã trở về với căn nhà trống rỗng".
Người phụ nữ ngồi trên ghế khóc rất nhiều, nước mắt rơi như cơn mưa mùa hè không dứt. Rồi người cha lại nói: "Tôi và con gái đã nói về rất nhiều việc, đặc biệt về cô. Tôi kể cháu nghe về những điều cô đã làm, cô đã quan tâm, khóc và giữ tôi không đầu hàng như thế nào. Cô đã chiến đấu để tìm cháu và đưa cháu về nhà, cho nên cháu xin tôi đưa cháu đến đây. Cháu có một điều muốn nói với cô".
Cô bé bước tới, rụt rè nhưng mỉm cười khi nói: "Không có cô, cháu đã không còn cha khi về nhà. Điều cô đã làm là hành động yêu thương lớn nhất cháu nhận được trong cuộc sống. Với cha cháu và mọi người khác, cô là một anh hùng, nhưng với cháu cô còn hơn thế nữa". Cô bé ôm người phụ nữ ngồi trên ghế và nói: "Cô là một phụ nữ đặc biệt và cháu muốn cô làm mẹ cháu". Trong một lúc người phụ nữ trên ghế không biết nói gì. Cô không chắc cô có nghe đúng không và cô cố lên tiếng. Nhưng cô bé đặt ngón tay lên miệng người phụ nữ và đưa cho cha cô một chiếc nhẫn. Người cha cầm nhẫn đeo vào ngón tay người phụ nữ và nói: "Tôi và con gái đã nói chuyện và chúng tôi cần một điều kỳ diệu để chúng ta trở thành một gia đình. Em sẽ làm vợ anh chứ?".
Trước khi cô biết ông đã ôm cô và cô cũng ôm lại ông. Cô là người hạnh phúc nhất trên đời. Cô chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc như vậy và phải vài phút sau họ mới nhận ra rằng cô đã đứng lên để nhận vòng tay ôm của ông.