• Nếu đây là lần đầu tiên bạn ghé thăm Trang nhà Chút lưu lại, xin bạn vui lòng hãy xem mục Những câu hỏi thường gặp - FAQ để tự tìm hiểu thêm. Nếu bạn muốn tham gia gởi bài viết cho Trang nhà, xin vui lòng Ghi danh làm Thành viên (miễn phí). Trong trường hợp nếu bạn đã là Thành viên và quên mật khẩu, hãy nhấn vào phía trên lấy mật khẩu để thiết lập lại. Để bắt đầu xem, chọn diễn đàn mà bạn muốn ghé thăm ở bên dưới.

Thông báo Quan trọng

Collapse
No announcement yet.

Viết vào Bùi Giáng mong manh...

Collapse
X
 
  • Filter
  • Time
  • Show
Clear All
new posts

  • Viết vào Bùi Giáng mong manh...

    Viết vào Bùi Giáng mong manh...

    "Đêm nay
    Những lứa đôi gặp gỡ
    Để ngày mai
    Ra đời
    Những đứa trẻ mồ côi"...
    (Bertolt Brecht)


    Trong bài Bài Thơ Ấy của Trung niên thi sĩ, có hai câu
    "Viết vào tờ giấy mong manh
    Bao nhiêu tình tự long lanh không lời".

    Click image for larger version

Name:	buigiang.jpg
Views:	83
Size:	17.7 KB
ID:	260616Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa.

    Cái Hay cái Dở ăn ở ở thơ Bùi Giáng

    Hay dở dở hay: Đây là đầu mối của các bình giá về thơ Bùi Giáng!
    Đa số các nhà phê bình đều đánh giá thơ Bùi Giáng đến mức cạn nguồn tiếng Việt ở độ ca ngợi. Tôi theo "phe" này, nhưng ngợi ca bằng lời nôm: thơ Bùi Giáng, một là: hay... ơi là hay; hai là: không phải chỉ có hay! "Phe" chê thì không nhiều, điển hình là Trần Hữu Thục, Thụy Khuê, Phan Nhiên Hạo...

    Giá có ai cầm bút dọa... giết, tôi cũng không đồng ý với Trần Hữu Thục rằng: "Nói cho rõ ràng ra, thơ của Bùi Giáng dở. Trừ một số câu thơ hay – chưa hẳn là rất hay –, còn lại hầu hết thơ ông đều dở", "Ta có thể nói, cái dở trở thành tính cách của thơ ông". Cũng như ít san sẻ được với Thụy Khuê: "Bùi Giáng để lại hàng ngàn bài, có những câu thơ tuyệt hay, nhưng chính sự lập lại những khám phá ngôn ngữ buổi đầu khiến thơ ông trở thành khuôn sáo về mặt từ ngữ cũng như tư tưởng". Vâng, sự nhàm lặp là có. Nhưng với cái "thằng" nhàm lặp chịu trách nhiệm ở nhiều câu dở, cũng khó có thể thể thổi tội hắn lên như vậy. Trong một dịp ngồi chuyện phiếm với Phạm Duy, tôi nhắc đến thơ họ Bùi với ý ca, họ Phạm gật gù vẻ cho qua, rồi không đừng được ông hơi nhăn mặt: "Nhưng lắm câu nhàm! Lặp lại quá, cậu ạ!" Cái nhàm ở cấu tứ, nhịp điệu, ngôn từ trong thơ Bùi Giáng, nhiều người nhận ra như thế. Nguyễn Hưng Quốc đã bình giá thơ Bùi Giáng mà tôi nghĩ có thể như một lý giải khả ái về vụ nhàm lặp: "Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: thơ Bùi Giáng chính là sự xoá nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay". Tôi thật tiếc cho Thụy Khuê khi chị tiếc cho một cái tiếc xây nên tất cả "ngôi nhà Bùi Giáng", tác phẩm cùng con người: "Cho nên biết bao lần người đọc tiếc, giá Bùi Giáng đừng ham chơi, chịu khó dừng lại ở chỗ đáng dừng để những câu thơ sáng giá (...) khỏi bị lọt vào khu rừng hoang, ôm đồm những lời thơ vội vàng, mọc lên như cỏ dại". Ô! Nếu như Bùi quân đừng thế này phải thế kia (đóng complet, leo lên mạng mà chat mà mail thì thơ của ông đã... giáng trần mất rồi!

    Thưởng thức thơ, bất nhất như với ẩm thực. Vì "mùi sầu riêng" ở thơ Bùi Giáng mà sinh tranh cãi – đó là điều dễ hiểu. Như, trong bài Tặng Quán Phở Huyền Trân,
    "Hai cô bán phở dịu dàng
    Đừng nên nói bậy hai nàng buồn ta
    Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
    ( . . . )
    Tuỳ thời thể dựng mà tuy nhiên là"
    khi mà Nguyễn Hưng Quốc ngạc nhiên "Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy", thì cũng thú thật là tôi hiểu tại sao rồi.

    Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay

    Sẽ rất thú vị về những phát hiện vết đen trên mặt trời thi ca mà các chiêm tinh gia, thiên văn gia với đầy đủ kính viễn vọng, vô tình hay cố ý, hoặc bị ràng buộc bởi cách thức phê bình đã không nhận ra ở các bài phê bình mô phạm. Cái dở trong thơ của các nhà thơ hay. Đó không phải dọn vườn thơ ở các thi sĩ đã mang thương hiệu. Càng không là hành vi "lật đít tượng" hay "đốt đền"! Đó cũng không hẳn là "nói đến cái dở thì cũng chỉ cốt làm nổi cái hay" (Hoài Thanh). Tìm hiểu điều dở trong thơ ở các thi nhân, xét cho cùng, là – vươn qua các thi nhân cụ thể – để thấy cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của nghệ thuật thi ca.

    Với các bậc kỳ tài, có những cái dở tệ trong thơ có thể chấp nhận được. Nhưng, thơ rất khó tính: có những cái thơ không thể cho phép một nhà thơ đã đến thế mà lại có thể hạ một chữ thơ, một câu thơ, một bài thơ như thế. Điều đó nằm ở đâu: Đề tài? Nội dung? Chi tiết? Câu chữ? Cấu tứ? Hình tượng? Nhịp điệu? Âm vần? Xúc cảm? Tất cả đều có thể. Và ở từng tác giả, từng câu, bài cụ thể nó hiện ra mỗi cách, khi hiển hiện khi ẩn tàng. Trong thơ, chúng là cái dở vô cớ; nói nôm là lãng xẹt, vớ vẩn. Phân tích từng nhà thơ với văn phong, tính cách, cuộc đời, bối cảnh xã hội… ta có thể tiếp cận nguyên do của các cái dở vô cớ. Nói chung, với những nhà thơ tránh được lỗi này, ta gọi họ là những người biết tự biên tập thơ. Làm thơ là khó, là phiêu lưu; biên tập thơ là chuyện sống chết! Chiến công trong các chuyện sửa thơ thường được lưu truyền như giai thoại.

    Bạn bè chúng tôi hay bày trò lập "Top” cho thơ Việt hiện đại. Đương nhiên kết quả rất khác nhau. Tùy sân chơi. Tôi ghi nhận được rằng Bùi Giáng thường có trong "Top-10"; thi thoảng lọt vào "Top-7"; rất hiếm khi trúng "Top-5". Trong các nhà thơ được xếp hạng đó, hình như Thanh Tâm Tuyền, Huy Cận là các nhà thơ ít có những cái dở vô cớ. Xuân Diệu, Nguyễn Bính rồi Bùi tiên sinh nhà ta là các đấng tài hoa kiêm các đấng "hơi bị nhiều" các cái dở vô cớ, các đoạn, bài vớ vẩn. Thật chí vớ va vớ vẩn! (Ở đây không xét những gì gọi là "phục vụ chính trị" đưa đến cái dở vô cớ của một số vị nói trên. Nhấn mạnh: quan hệ giữa chính trị và chất lượng thơ lại là một đề tài khác. Ta đang hàm ý việc nhiều nhà thơ vốn không hạp gu chính trị thì dễ có cái dở vô cớ ở thơ trong khi phải phục vụ chính trị tức thời.)

    Còn điều nữa, tương tự: Cái dở trong các bài thơ hay. Tìm hiểu điều dở, điểm bất cập trong những thi phẩm đã được xếp hạng kinh điển xét cho cùng, là – vươn qua các thi phẩm cụ thể – để thấy cái thú vô tận trong cõi chung, bất định, bất toàn của thi ca.

    Hàn Mặc Tử có thơ rằng "Người thơ phong vận như thơ ấy". Bùi Giáng có một đời thơ; và trên hết, còn có những bài thơ, có một trường thơ vĩnh cửu trong làng thi ca tiếng Việt.

    Các tiểu phẩm, dịch phẩm, biên khảo, sách giáo khoa của thi sĩ dường như chỉ mang giá trị tinh thần, không nhiều người tìm được giá trị sử dụng. Đọc xong ít nhiều trang văn xuôi của ông, tôi chẳng biết dùng nó vào việc gì, nhưng đinh ninh chúng là thứ của chìm cho hành trang sáng tác, suy tư của mình. Còn với Phan Nhiên Hạo: " (…) biết rõ, ngay từ lần đầu tiên đọc Bùi Giáng, tôi không thích văn chương ông. (...) và tôi không chịu được dịch thuật của ông. Thơ ông làm theo những thể điệu cũ, vừa trong sáng nhưng cũng vừa cầu kỳ, giọng điệu vừa đùa cợt lại vừa trịnh trọng, và phảng phất một không khí cổ. Còn dịch thuật, phải nói ông phóng tác thì đúng hơn. Mà phóng tác như viết kiếm hiệp. (…) kiểu văn chương "phiêu bồng" của Bùi Giáng dường như ở quá xa mặt đất đối với tôi." Trang lứa đàn em Phan Nhiên Hạo bây giờ, chắc sẽ dành hàng giờ để sục xạo các mạng hơn là đọc những trang văn Bùi Giáng nửa đùa nửa thật, nửa thấp nửa cao. Nên tôi giật mình trước chi tiết Nguyễn Hữu Hồng Minh đưa ra: "Bùi Giáng rất hay nổi điên khi có một người nào truy bức ông đến cùng. Cho dù đó là thi ca hay học thuật. Tôi cho rằng ông tránh các cuộc va chạm nảy lửa và tàn khốc ấy với hai lý do: Một, cuộc đời ông quá đủ đầy như một minh chứng; và hai, ông không muốn tái lặp lại bất cứ một đặt đề, một định đề nào cho nghệ thuật". Phải chăng chính tiên sinh nhận ra, hơn ai hết, chất lỏng lẻo, bất nhất, tang bồng trong các áng văn thơ đó và ngài ngại bị chất vấn đến cùng? Hay vì ngài là cái nòi không muốn đặt đích cho công việc, nên không chịu trước tác "thẳng lối ngay hàng" để có các trang bài mà Phan Nhiên Hạo trông chờ? Nền văn nghệ, văn hóa miền Nam 1954-1975 với đặc thù của mình đã sinh ra được vài kỳ nhân. Xã hội Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua, chưa ở đâu có được những Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Phạm Công Thiện như vậy. Những "thiên thần" đó đều có... "ma quỷ" trong mình.

    Nhìn Bùi Giáng "đi vào cõi thơ"

    Đi Vào Cõi Thơ, có thể xem đây là tập phê bình (nửa bình luận nửa nhận định) văn chương đặc trưng phong cách Bùi Giáng. Không khó đọc, như nhiều trang văn xuôi khác của ông. Nhà xuất bản An Tiêm, Paris, 1998, tái bản (từ bản in lần đầu 1969, nhà Ca Dao, Sài Gòn, 1969); hai cuốn, mỗi cuốn trên dưới 160 trang, khổ thường, trình bày sang, trong sáng. Nhìn chung các bài đều ngắn, 2-3 trang, nhiều bài chỉ 5-6 câu, nửa trang. (Gọi là trang cho tiện, chứ các trang của hai cuốn sách này chứa rất ít chữ). Ở cuốn Hai (mang tên Thi Ca Tư Tưởng – Sổ Đoạn Trường) kích cỡ các bài khá đều; cuốn Một thì thất thường: những bài chỉ 3-4 câu (về Dylan Thomas, Walt Whitman); vài bài thiệt dài: về Huy Cận (21 trang), Hoài Khanh (13 trang), Quang Dũng (8 trang), Tuệ Sỹ (8 trang). Nếu Anton Tchekhov làm phê bình gia, chắc ông sẽ không cần phải mơ đến "những bài gọn bằng một bàn tay" nữa. Chúng có trong Đi Vào Cõi Thơ rồi!
    Bùi Giáng đã phê, bình, bàn... về nhiều nhà thơ, nhà tư tưởng cổ kim Đông-Tây. Ở cuốn Hai, vài chủ điểm chung chung cũng được đáo qua (dịch, thi ca, triết lý, Thượng Đế). Chừng 90 tác giả khá tiêu biểu được chọn làm tên bài, và hầu như tên bài cũng chỉ là tên tác giả cần bàn tới. Những tác giả được viết thành bài nhiều nhất là Hồ Dzếnh (7 lần), Nguyễn Du (6), Xuân Diệu (3), Huy Cận (3), Đinh Hùng (3), Phạm Hầu (2), Hoài Thanh (2), Đỗ Long Vân (2), Hoài Khanh (2), Mai Vân Thu (2), Khổng Tử (2), Shakespreare (2), Martin Heidegger (2)... Một lần tác giả tự bình mình, trong bài Bùi Giáng (trang 98, cuốn Một).

    Nhà An Tiêm đã có một thao tác thừa mà rất nhà nghề, khiến tập sách và tác giả thêm điểm: Lưu ý độc giả rằng tác giả, vì các hoàn cảnh éo le, không thể viết tiếp các tập 3, 4, v.v... như dự định "để cố tránh sự ngộ nhận, bởi vì còn nhiều nhà thơ tài ba mà Bùi Giáng chưa đề cập đến." Khỏi cần thanh minh. Mọi cách thức phê bình đều có chỗ mạnh yếu. Bản thân lối phê bình theo thị hiếu cá nhân đã là bất cập về tuyển chọn. Chả thế Hoàng Trung Thông từng viết về Hoài Thanh: "Đừng trách anh tại sao chỉ nói nhiều về người này mà ít nói về người kia." Cũng như các tác phẩm hay dở dở hay của Bùi Giáng, tập sách này nếu biên tập chỉn chu, chắc phải bỏ đến mươi bài.

    Phương cách luận thơ của ông cũng theo lối bình giải văn học, với nội dung và hình thức độc nhất vô nhị. Và, vẫn như Hoài Thanh – Hoài Chân làm Thi Nhân Việt Nam, cách tuyển chọn, bình giải ở đây không qui luật, hoàn toàn "phê bình cảm thụ hồn nhiên theo thị hiếu cá nhân". Phong cách của Hoài Thanh thì sang cả, nhẹ nhõm mà tinh vi. Còn với Bùi Giáng "nhiều khi đọc lên thật bàng hoàng. Với nhận xét tinh tế, độc sáng về một khía cạnh nào đó của một tác giả thơ nào đó." (Tạp chí Thời Văn, Sài Gòn; trang bìa cuối cuốn Hai). Tôi còn nhớ, khi đọc lần đầu, các bài như những đoản kiếm khi đâm thẳng lúc lao xiên vào nỗi ham biết về thơ ca, vào cái tò mò về Bùi Giáng của tôi. Trong bài về Hoài Thanh (trang 70, cuốn Hai), Bùi Giáng đã viết về người thày cũ của ông, rằng phong cách phê bình Hoài Thanh tạo ra "không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi sau". Xin được nói thêm: Bùi Giáng là một. Người sau nên và có thể đi theo Hoài Thanh được; và người sau không nên mà cũng không thể đi theo Bùi Giáng được.

    Bài đầu tiên của cuốn Một, về Tuệ Sỹ, là một áng phê bình không thể nào quên. Làm ta hiểu đúng và hiểu hay về Tuệ Sỹ, nhà sư-nhà thơ mà theo tôi có thơ hay nhất trong giới tu hành (tức tính cả Phạm Thiên Thư.) Các bài hay khác: Hoài Thanh, Hàn Mặc Tử, Nguyên Sa, Đỗ Long Vân, Huy Cận...

    Bài Vui Nhất Và Buồn Nhất (trang 110, cuốn Hai) là tản văn ngắn, dung dị, châm đến một cốt tủy của thơ, ít người viết ra: làm sao nói được nỗi vui nhất bằng thơ! Xứng đáng đứng vào văn tuyển cho học sinh.
    Bài Đỗ Long Vân (trang 66, cuốn Một) chỉ có ngần này câu chữ – "Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào. Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh... mang tâm hồn thi sĩ giấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi" – mà sao lênh láng, ngậm ngùi. Ở sự đúng và sự thơ. Bài Đỗ Long Vân khác ở trang 87 cũng trúng lắm!

    Bùi Giáng tài đúc những câu bảng hiệu cho nhiều tác giả: "Nguồn thơ Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam." (trang 38, cuốn Hai); "Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh." (trang 70, cuốn Hai); "Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương." (trang 98, cuốn Hai).

    Người thơ được thành bài nhiều lần nhất là Hồ Dzếnh: 7 lần! (Nguyễn Du chính thức là 6 lần, nhưng thơ và con người của "cha nàng Kiều" thì đi tới đi lui trong hai cuốn sách.) Tôi hơi khó hiểu vì sự hợp "gu" giữa hai nhà thơ này. Có thể giải thích thế nào: Cùng là thần lục bát? Cùng tâm trạng tha hương bỏ xứ, cô đơn? Đây cũng xin là một câu hỏi tới các nhà Bùi Giáng học. Đọc 7 bài bình ấy, tôi thấy nó không sai, không trúng; thú vị thôi, chớ không thần phục. Tôi cũng mê thích thi sĩ Minh Hương này lắm, coi ông như một trong các đại tướng của quân chủng lục bát Việt Nam, nhưng cái mê thích của tôi khác với Bùi tiên sinh nhiều quá. Chắc tôi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh rồi! Sẽ phải đọc lại các bài Giang Tây, Phút Linh Cầu từng khiến Bùi Giáng "bải hoải chân tay".

    Và cũng chính từ hai bàn tay ấy có biết bao lời bình rất... chán:
    – Sáo tai, nhàm mắt: "Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời gì cả" (trang 64, cuốn Một);

    – Đại ngôn, tếu táo: "Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. (...) Thơ Nguyễn Công Trứ là một con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi (...) Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau. Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sĩ và Vân Đài nữ sĩ là có linh hồn" (trang 30, cuốn Hai); "Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể nào không đọc bài thơ kia (bài Rằm Tháng Giêng – ĐQ) của Hồ Dzếnh" (trang 36, cuốn Hai);

    – Không thuyết phục: "Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà Huyện Thanh Quan, mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ bà Đoàn Thị Điểm" (trang 124, cuốn Một).
    Họ Bùi bình chọn không ít các nhà thơ chưa, đang thành danh, nhưng tôi thấy hiếm có bài nào thành công. Không phải vì tên tuổi các vị đó không rạng rỡ như các vị thành danh, mà chính là ở chất lượng bài viết. Chúng làm dở một tác phẩm quí hiếm như Đi Vào Cõi Thơ! Dễ có cảm giác ông có các bài ấy vì thù tạc, hoặc vì ẩu! Có những bài tệ tới độ không phải bình thơ mà là bàn tán loạn! Như các bài Mai Vân Thu, Phạm Quang Bình...
    Võ Phiến cũng nhận xét: "Nói về một thi sĩ khác, ông bảo khỏi cần trích thơ, chỉ cần nên ra các tên bài cũng đủ. Và ông liệt kê một loạt tên bài tùm lum; chỉ có tên bài thôi. Có nhiều thi sĩ, ông "đi vào cõi thơ" của người ta một hồi mà không thấy ông chọn được bài nào, thậm chí một ý hay một câu hay, một chữ đẹp cũng không! Như thể bận tâm chứng minh là một bận tâm nhỏ mọn quá, ti tiểu quá, không đáng lí đến."

    Võ Phiến đã tinh tường nhìn ra vài bất cập ở cách bình luận trong hai cuốn sách, khi tác giả động đến các thi sĩ cùng thời, các bạn thơ của ông: "Khi khác, Đi vào cõi thơ (1969) của các thi sĩ cùng thời với mình, Bùi Giáng càng tỏ ra tinh quái quá lắm. Chẳng hạn về trường hợp một thi sĩ nọ – đồng hương với ông – ông nói qua nói lại một hồi, rồi ông bảo trót đánh mất tập thơ của bạn nên không trích được bài nào. Sau này, có dịp cầm chính tập thơ nọ trong tay, tôi loanh quanh tìm mãi không thấy có bài nào trích được! Vậy Bùi Giáng có mất sách thực chăng? Và không tìm ra cuốn sách nào khác của bạn thực chãng? Lẽ nào ba muơi nãm trước ở Việt Nam thơ ấy khó tìm hơn ba muơi nãm sau ở Mĩ? Vả lại, không chỉ có trường hợp người bạn vừa kể. Chuyện như thế xảy ra đều đều". Hai tác giả được Võ Phiến nhắc đến mà Bùi Giáng "chạy làng" là: Tạ Ký (trang 109, cuốn Một) và Đặng Tấn Tới (trang 168, cuốn Hai).

    Tôi không khẳng định có thật là Bùi Giáng không có sách của hai-ba người đó hay không. Cũng không cho việc cả Bùi Giáng lẫn Võ Phiến không chọn được bài thơ nào thì tập thơ đó phải dở. (Chúng ta đang nói về phương pháp bình chọn theo "gu" mà!) Nhưng nếu Võ Phiến có lý thì, xin thưa rằng bảo "tinh quái" là ông nói yêu đấy thôi. Hay vì ông đã trọng tuổi nên dư lòng tha thứ! Kẻ viết bài này thua ông 2-3 thế hệ nên cũng ráng bảo Bùi quân là "quái". Còn đám trẻ hơn, thế hệ "gọi con mèo là con mèo", sẽ la lên: "Cụ Bùi xạo quá tụi bây nè!" Nếu như Bùi quân có thủ sách trong tay nhưng không khoái trích dẫn thì quả đấy là một giọng... trí trá (xin lỗi tôi chưa tìm được từ khác nhẹ hơn!) Ai cũng biết trong nghề phê bình, tội trí trá được xem là tệ nhất! Nhưng mà thôi, tha lỗi cho tôi chót nặng lời. Là Bùi "siêu quậy" của thi ca Việt Nam, lời nhận định của ông cũng quậy, "cũng đi rồi đến". Chúng ta nên đọc ông với một tâm thế riêng trong tương quan của mình với ông.

    Một điểm này thì vui vui. Điều chính của bài Quang Dũng (trang 88, cuốn Một) là bình bài thơ Kẻ Ở để chứng minh nhận định (cũng nên coi như một ''đại ngôn" của tác giả): "Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi ca thế giới – vâng – cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi". Đoạn bình Kẻ Ở và toàn bài Quang Dũng có thể xem là thành công. Nó chỉ "thất bại" ở chỗ, tác giả lời bình cũng bị số phận như đa số dư luận yêu thơ khác – đó là biết bao nhiêu năm đã bé cái lầm về tác giả bài thơ quen thuộc. Quang Dũng "người Sơn Tây" không phải là tác giả của nó đâu ạ! Từ những năm 1989-1992, báo chí trong nước, rồi ngoài nước, đã "trả cát bụi về cho cát bụi": bài thơ Kẻ Ở trước được biết của Quang Dũng chính là bài Dặm Về (hay Mai Chị Về) của Nguyễn Đình Tiên. Báo Cánh Én (Đức, số 15, 1992) đã có bài của V.X.L. tổng kết vụ này. Các nghi án văn học đều kèm theo tai nạn. Trời giáng ai nấy chịu. Đến "người trời" như Bùi Giáng cũng không thoát được. (Phụ lục 1)

    Thục quốc danh tướng, Việt Nam lục bát thi sĩ và Bùi Giáng

    Nếu Bùi Giáng (chỉ) là thơ, thì thơ Bùi Giáng (chỉ) là lục bát.
    Tôi sẽ ví các danh tướng nhà Thục thời Tam Quốc với các thi sĩ lục bát tài danh Việt Nam! Một cách tương đối: Về ngôi thứ uy quyền, nếu coi Lưu Bị là Nguyễn Du, thì tiếp theo ai là ai? Quan Vũ, ấy là Nguyễn Bính; Trương Phi là Bùi Giáng. Vậy là xong nhà Lưu-Quan-Trương. Tiếp: Triệu Tử Long: Hồ Dzếnh. Rồi những Hoàng Trung, Ngụy Diên, v.v... là những Bàng Bá Lân, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Duy, Luân Hoán, Đồng Đức Bốn, v.v... Còn hạng xoàng xoàng Tôn Càn, My Chúc, Giản Ung... thì kể không kể xiết. "Lục bát là nơi thử thách bút lực của các thi sĩ" (Trần Đăng Khoa). Tôi đoán chắc không sai là ai đã làm thơ tiếng Việt thế nào cũng kinh qua một tá bài lục bát? Với rất nhiều người thơ, lục bát là mối tình đầu.

    Bùi Giáng quí cưng Hồ Dzếnh lắm, quí hơn Nguyễn Bính bội phần. Trong hai cuốn Đi Vào Cõi Thơ nói trên, Dzếnh được bình những 7 lần (lại còn được yêu đến mức cải tên thành Hồ Xuân Dzếnh!); Bính được nhõn có 1 lần! Bất chấp, trong khi chưa hiểu hết Hồ Dzếnh, tôi vẫn coi Nguyễn Bính và Bùi Giáng là hai vị tả hữu quanh ông vua lục bát Việt – Nguyễn Du, Hồ Dzếnh ở sau, cách xa hai vị này. Và còn khoảng cách rất xa nữa mới tới các vị sau đó.

    Rất nhiều câu thần ở lục bát hai ông thơ này. Thần thơ Nguyễn Bính là thần dân, thần đất. Ta ngẩn ngơ và ngẫm một hồi, không lâu. Ta hiểu, cảm được. Phần nào.

    "Quê nhà xa lắc xa lơ đó
    Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay".
    (Hành Phương Nam)

    Hay chính câu mà Bùi Giáng chọn khi bình Nguyễn Bính ở Đi Vào Cõi Thơ:

    "Mẹ cha thì nhớ thương mình
    Mình đi thương nhớ người tình xa xôi".
    (Thư Gửi Thầy Mẹ)

    Đọc Bùi Giáng ta gặp Nguyễn Du đều đều, ở những câu trang trọng, phức tạp:

    "Biển dâu sực tỉnh giang hà
    Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh"
    (Áo Xanh)

    Và cũng gặp Nguyễn Bính thường xuyên, ở những câu chân chất như lời lách lẹ ra từ tim; như thế này:

    "Hôm nay mưa gió đầy trời
    Về sau sẽ có vài người quên nhau"
    (Mê Cung)

    Hay như thế này này, khi nhà thơ tự tả mình trong cái nhìn của cô hàng xóm:

    "Vừa điên dại vừa thê lương
    Vừa vui trời đất vừa buồn nắng mưa".
    (Lẩm Cẩm)

    Lục bát Bùi Giáng là thơ của trời, lục bát Nguyễn Bính từ đất. Tư tưởng là nền cho thơ Bùi Giáng. Ở Nguyễn Bình là tình cảm. Có thể vì học vấn của họ Bùi thâm hậu, còn của họ Nguyễn thì chân quê! Nhiều câu thần của Nguyễn Bính, đọc xong bạn có thể vỗ đùi: "Giá Bính không viết, ắt mình hay thằng X. sẽ viết!" Cái thần Bùi Giáng là thần trời. "Ông trời xanh ắt cũng phải bối rối lắc đầu…" huống hồ. Bạn chỉ có thể vò đầu:

    "Quét xong sân lá chợt buồn
    Bỗng dưng chợt thấy nghìn muôn lỗi lầm" .
    (Ca Dao)

    Thần! Thần đến thế là cùng!

    Hỏi ngay giới phê bình hay các fan Bùi Giáng rằng bài thơ nào, 2-3 bài thơ nào là hay nhất. Chắc họ tắc tị! Bù vào họ sẽ đọc vanh vách một vài câu, thậm chí cả chục câu xuất thần. Không! Bùi Giáng đâu phải là nhà-thơ-của-những-câu-thơ-bạc-cắc. Trong tập Đi Vào Cõi Thơ, khi tự bình thơ mình, ông chọn ra hai bài đượm chất chuồn chấu nhất – tức Bùi Giáng nhất – đó là Giữa Phố và Bóng Dương Buồn Ngủ. Đã nhâm nhi đến cả tá lần hai bài này, tôi khó mà có ý gì khác với tác giả. Song, nếu là người tuyển chọn, tôi sẽ chọn hai-ba bài khác, của riêng mình. Với những độc giả đã chịu rồi, thơ Bùi Giáng tỏ ra rất hào phóng, "dân chủ". Không như với đại đa số nhà thơ tên tuổi khác, các bài hay của họ dễ thành của chung trong lòng người yêu thơ. Ai cũng có thể có một Bùi Giáng, một thơ Bùi Giáng của riêng mình. Trong khi chúng ta thường có chung một Nguyễn Du, một Nguyễn Bính, một Xuân Diệu, một Hàn Mặc Tử, một Thanh Tâm Tuyền, một Hoàng Cầm, một Tô Thùy Yên... Và ngay cả một Đinh Hùng, một Trần Dần...

    Thơ Bùi Giáng có trong sách giáo khoa cho học sinh chưa? Tôi cũng không biết! Nếu chưa thì nên có. Chọn vài bài thơ hay nhất của Bùi Giáng vào hợp tuyển văn học thì khó. Nhưng không khó lắm khi chọn thơ của ông vào văn tuyển, sách giáo khoa. Không xa tay tôi đang là tập Mưa Nguồn (NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1993.) Thi phẩm đầu tay của ông. "Có lẽ Mưa Nguồn là tập thơ đều tay và giá trị nhất của Bùi Giáng" (Đặng Tiến). Tôi giở không chủ ý, nơi trang 108, được bài lục bát Xuân Bình Dương. Nó có thể làm bài thuộc lòng cho học trò trung học thời a còng. (Phụ lục 2)

    Công việc biên tập, in sách của Bùi Giáng được làm ra sao?

    Tại sao thơ Bùi Giáng lại hay dở dở hay? Đây không chỉ là câu hỏi quan trọng cho giới phê bình nghiên cứu văn học, mà còn cho các nhà Bùi Giáng học. Vấn đề biên tập dự phần ra sao? Tôi muốn hỏi to một câu: Những khi thể trạng ông không điên-tỉnh, là người bình thường liệu Bùi Giáng có tham gia chịu trách nhiệm trong việc in ấn, phổ biến tác phẩm của mình không? Thực ra, các bản thảo "nguyên đai nguyên kiện" của một tác giả nào đó chỉ có giá trị nhất định đối với những ai làm công tác nghiên cứu văn bản. Một tác giả chỉ được đánh giá công bình qua các tác phẩm ra mắt độc giả trong sự kiểm soát nào đó của anh ta về sự công bố.

    Ngợp và ngạt giữa cái phi phàm lại thú vị, cái khó hiểu đến kinh dị mà dễ thương, cái lộn xộn mà vẫn đâu ra đấy trong trước tác của Bùi Giáng, công tác biên tập sách, bài vở của ông ở miền Nam trước 1975, ở Việt Nam và hải ngoại sau đó, dường như đã không qua cách thức bình thường. Con người ta vốn sợ bỏ rơm rác ra khỏi một kho vàng. Cứ y như là khi phải ra đi rác rơm mang theo vàng vậy! Là người không có đời sống tinh thần và vật chất ổn định, là người viết tự do tuyệt đối (về phong cách, nhu cầu in ấn, tính chuyên nghiệp), tác phẩm của Bùi Giáng dựa trên ý thức của một người phi học, vô nghề. Cho dù có đúng là Bùi Giáng "không che dấu cái dở của mình. (...) Chẳng những thế, ông lại còn cố ý phô bày nó ra, phô bày một cách chân tình, hồn nhiên, toàn diện", nhưng những người biên tập đã làm gì cho tròn trách nhiệm? Chính các điều dang dở và các điều dở trong bản thảo đã góp phần tạo phong cách hay dở dở hay ở văn chương Bùi Giáng. Và thách đố cho những ai bạo gan biên tập sách, bài vở của ông là ở đấy. In sách thì phải cho ra sách. Ô cửa này của văn minh nhân loại thiên tài nào cũng phải qua, nếu đã vào vòng định giá. Nhất là ở thời này, khi văn hóa truyền thông coi việc truyền khẩu, giai thoại và các sản phẩm của nó như một cái gì man rợ!

    Tôi ngưng đoạn này trong sự đồng tình cùng ý với Phạm Thị Hoài: "Không sửa sang cho ông, như thường miệt mài gọt rũa hay tưởng đang gọt rũa mình công phu lắm, với cái cớ rằng chữ nghĩa của ông từ ngàn khơi đổ về, chẳng ai biên tập một đại dương. Không thẩm định, không đòi hỏi, không đặt niềm tin, không thất vọng, ta nhẹ ban cho ông hai chữ "thiên tài".”

    Bùi Giáng và Những đứa trẻ mồ côi

    Lời đề từ ở trên cho bài này là nguyên một bài thơ của Bertolt Brecht. Lời, ý và tứ rõ ràng, lại mang nhiều nghĩa, nghĩa nào cũng rõ ràng. Rất Đức tính. Thực tế, hiển hiện. Trữ tình, sâu ngút. Ta hãy đọc nó (bốn câu đầu) bằng nụ cười, rồi (một câu cuối, hai chữ sau cùng) bằng nước mắt. Sau, đọc lại cả bài bằng nước mắt hay nụ cười cũng được. Các lần đọc sau, nước mắt khác nước mắt lần đọc trước, nụ cười cũng khác. Để chiêm nghiệm luật nhân quả như một lẽ thường tình, một điều bất an. Từ khi đọc nó lần đầu, chừng 30 năm nay, tôi giữ bài thơ nhỏ nhắn trong mình như ôm trọn bông hồng đơn rực sắc với những cánh gai dài nhọn. Mỗi nghĩa của bài thơ ám ảnh tôi trong từng vụ việc cụ thể.

    Độc giả người Việt Nam và người ngoại quốc của văn học, rồi lịch sử, văn hóa Việt Nam cận-hiện đại là những đứa trẻ mồ côi. Nhiều "đêm-ngày" đã qua, trong số họ, kẻ chỉ có Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Hãn, Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi; đứa là của Nhất Linh, Hồ Hữu Tường, Mai Thảo; dăm tên mau mắt hơn thì có thêm Đào Duy Anh, Trịnh Công Sơn, Trần Dần, Bùi Giáng...

    Mong cho bài tạp văn này về Bùi Giáng không phải theo phận đứa trẻ mồ côi. *)
    Canada, 2003 - 2009
    Đỗ Quyên


    ---------------------------------------------------------
    *) Được sửa đổi, rút gọn nhiều từ bài “Bùi Giáng và Những đứa trẻ mồ côi” đã đăng ở báo mạng talawas.org 21-10-2003

    Các tài liệu trích dẫn khác:

    Bùi Giáng: Đêm Ngắm Trăng, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh 1997
    Phạm Thị Hoài: Một giải thưởng văn chương mang tên Bùi Giáng (talawas.org 10/10/2003
    Trần Hữu Thục: Bùi Giáng giữa chúng ta; trích “Viết và Đọc”, Văn Học, California 1999
    Thanh Tâm Tuyền: Bùi Giáng, hồn thơ bị vây khốn, Văn, Sài Gòn 1973
    Nguyễn Hưng Quốc: Cuộc hòa giải vô tận: Trường hợp Bùi Giáng; Trích “Thơ, v.v... và v.v...”, Văn Nghệ, California 1996
    Phan Nhiên Hạo: Bùi Giáng như tôi thấy (talawas.org 8-10-2003)
    Nguyễn Hữu Hồng Minh: Bùi Giáng – Người thơ cuối cùng của thế kỷ 20 (vnexpress.net 7-10-2003)
    Võ Phiến: Bùi Giáng, Văn học miền Nam - Thơ, Văn Nghệ, California 1999

    Phụ lục:

    1) Bài thơ Dặm Về (Kẻ Ở) khá nổi tiếng và có thể nhiều độc giả chưa tường xuất xứ, xin tóm tắt:
    Nguyễn Đình Tiên (tên thật Nguyễn Đình Tiến), sinh năm 1924; viết Dặm Về (hay Mai Chị Về) sau ngày 19-8-1945, đây là sáng tác thơ duy nhất của ông. Trên báo Văn Nghệ (Hà Nội, số 37, 1989) Vân Long nêu ra việc tìm xuất xứ của bài thơ. Ngay sau đó Nguyễn Đình Tiên (Văn Nghệ, số 41, 1989) đã xác nhận là tác giả của bài thơ. Báo Đoàn Kết (Hà Nội, số 4-1991) Hoài Vân đã công bố có lẽ là bản cuối cùng của bài thơ, với nhiều câu chữ khác so với các dị bản khác. Bản mà Bùi Giáng bình trong Đi Vào Cõi Thơ (hiện chúng tôi không có toàn văn) có một số câu chữ sau đây khác so với bản in trên Văn Nghệ (theo bài của V.X.L.):

    – "Sương buông khắp lối đường muôn ngả" (bản Văn Nghệ);
    "Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả" (bản Bùi Giáng).
    – "Hươu chạy theo đàn, theo ngó theo" (VN);
    "Hươu chạy quay đầu, theo ngó theo" (BG).
    – "Ngựa chị vừa qua thác sao vàng" (VN);
    "Ngựa chị dừng bên thác sao vàng" (BG).
    – "Sao trôi đáy nước, rơi chân ngựa" (VN);
    "Sao rơi đáy nước, vương chân ngựa" (BG).
    – "Buồn dựng đôi mi, ngàn lại ngàn" (VN);
    "Buồn dâng đôi mi, hàng lại hàng" (BG).

    So với bản trong băng thơ Hồng Vân (giọng ngâm Hoàng Hương Trang), làm trước 1975, thì bản Bùi Giáng cũng khác không ít. An Tiêm tái bản cuốn Đi Vào Cõi Thơ sau gần 10 năm khi tác giả và văn bản của bài Dặm Về (Kẻ Ở) được xác định lại. Còn ấn bản điện tử của Đi Vào Cõi Thơ trên talawas.org 11-5-2006 làm theo sách nói trên cũng không có chú thích gì về bài Quang Dũng. Nếu như An Tiêm và talawas.org có một chú thích nhỏ thì thiệt quí cho các tác giả Quang Dũng, Nguyễn Đình Tiên, cho bạn đọc, và cho cả nhà phê bình Bùi Giáng!

    2) Bài Xuân Bình Dương của Bùi Giáng:
    "Xin lời mở rộng con mương
    Xin chiều bến đỗ Bình Dương bây giờ
    Những bàn chân bước hoang sơ
    Những bàn tay những mùa thu trong mình
    Xin lời nói hãy nín thinh
    Xin hàng phượng đỏ bên đình ngơ cho
    Bến sông ghe đỗ bây giờ
    Ngàn năm thôn nữ lên bờ ướt chân
    Xin người em hãy lại gần
    Nhắm hai mắt mở muôn phần hai con
    Ngó sương mây lục trời tròn
    Ngó sương muối nhuộm tóc còn xanh vai
    Bàn chân đen ngón không dài
    Bàn tay đen ngón nắm hoài không nguôi
    Bây giờ xin hãy nhìn tôi
    Người em ấy nhận ra người anh chưa".
    Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 28-08-2019, 05:46 PM.
    Sống trên đời

    Similar Threads
  • #2



    Chào Nguyên Xuân


    Xin chào nhau giữa con đường
    Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
    Tóc xanh dù có phai màu
    Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
    Xin chào nhau giữa lúc này
    Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
    Có trời mây xuống lân la
    Bên bờ nước có bóng ta bên người
    Xin chào nhau giữa bàn tay
    Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
    Thưa rằng: những ngón thon thon
    Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
    Xin chào nhau giữa làn môi
    Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
    Thưa rằng bạc mệnh xin kham
    Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
    Xin chào nhau giữa bụi đầy
    Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
    Hỏi rằng: người ở quê đâu
    Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
    Hỏi rằng: từ bước chân ra
    Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
    Thưa rằng: nói nữa là sai
    Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
    Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
    Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
    Thưa rằng: ly biệt mai sau
    Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân


    Bùi Giáng
    (trích trong thi phẩm Mưa Nguồn, xuất bản lần đầu tiên 1962)
    Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 19-07-2020, 10:04 PM.
    ----------------------------

    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

    Comment

    • #3


      Mắt Buồn

      "Dặm khuya ngắt tạnh mù khơi"
      Nguyễn Du


      Bóng mây trời cũ hao mòn
      Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
      Tấm thân với mảnh hình hài
      Tấm thân thể với canh dài bão giông
      Cá khe nước cõng lên đồng
      Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
      Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
      Ầm trang sử lịch thu triền miên trôi

      Bỏ trăng gió lại cho đời
      Bỏ ngang ngửa sóng với lời hẹn hoa
      Bỏ người yêu bỏ bóng ma
      Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
      Bây giờ riêng đối diện tôi
      Còn hai con mắt khóc người một con



      Bùi Giáng

      (trong thi tập Mưa Nguồn, xuất bản lần đầu tiên năm 1962)
      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 22-01-2011, 01:08 AM.
      ----------------------------

      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

      Comment

      • #4



        Thơ Điên

        Lộn đường gõ cửa nhà ma
        Gọi thằng bùi giáng bước ra tao chào
        Mày điên dại mấy chiêm bao
        Bây giờ điên nữa lúc nào sẽ thôi
        Thưa cô phùng khánh một lời
        Rằng điên suốt kiếp một đời dại ngây
        Tuy nhiên xuất bản một thầy
        Tu hành thanh tuệ còn ngây thơ cười
        Con về giũ áo đười ươi
        Nực cười trí hải ngậm ngùi mẫu thân
        Đẻ con một trận vô ngần
        Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi
        Mẫu thân phùng khánh tuyệt vời
        Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi





        Bức Bò khát bia


        Thơ Điên Tái Điệp

        Thơ điên tái điệp ra đời
        Mẫu thân phùng khánh tuyệt vời ni cô
        Ấy marilyn monroe
        Ấy brigitte ấy bardot ấy là
        Một lần mẹ đẻ con ra
        Ba lần mẹ đẻ con ra một lần
        Thằng con rất mực thánh thần
        Điên như đờ đẫn dại gần như điên
        Mẹ về giấc ngủ bình yên
        Con đi suốt xứ còn điên như thường
        Nay mai con chết giữa đường
        Mẹ xin kế tục bồi thường cho con






        Chân dung do Bùi Giáng tự họa


        Tuy Nhiên


        Tuy nhiên em có mặc quần
        Mà không ắt hẳn là quần thật xinh
        Nếu như em chẳng mặc quần
        Thì ông trời ắt càng mừng rỡ hơn
        Kể ra lúc em còn bé
        Mới lọt lòng ra
        Trăm năm trong cõi người ta
        Thì khi đó quả thật là em chưa mặc quần


        (Sa Mạc Phát Tiết, An Tiêm xuất bản 1969)


        ******************************

        Hello ,......

        Thơ của Bùi Giáng trong thi phẩm Mưa Nguồn (1961) tương đối còn "tỉnh" hơn những bài thơ sau này. Hình của Bùi Giáng phía trên chụp khi ông còn rất trẻ, còn những bài thơ "điên" được trích trong Sa Mạc Phát Tiết, phát hành năm 1969, khi đó ông đã 43 rồi.
        Cái điên của Bùi Giáng trong thi ca là một hiện tượng mà nhiều nhà nghiên cứu văn học đã dày công tìm hiểu. Sở dĩ tôi trích đăng vài bài thơ "điên" của ông, vì nói đến Bùi Giáng mà bỏ quên cái điên của ông thì thật là một thiếu sót lớn.

        Trong bài thơ Thơ Điên, một số nhân vật đã "được" ông kéo vào thơ, là tu sĩ Thanh Tuệ và ni sư Trí Hải. Thầy Thanh Tuệ là người chủ trương nhà xuất bản An Tiêm, người đã coi trọng tài năng và tạo điều kiện cho Bùi Giáng sáng tác. Ni sư Trí Hải, tức là Phùng Khánh, đã cùng với em là Phùng Thăng dịch một số tác phẩm nổi tiếng thế giới ra Việt ngữ, như Câu Chuyện Dòng Sông, Bắt Trẻ Đồng Xanh, Sói Đồng Hoang... những tác phẩm đó cũng do An Tiêm phát hành.
        Gọi ni sư là mẫu thân, mà còn bắt mẫu thân đẻ thêm một lần nữa, chỉ có một Bùi Giáng mới dám làm vậy. Và ni sư chỉ còn biết cười trừ vì hiểu cái điên của ông.

        Đọc hai câu thơ Hán sau đây và lời dịch của Bùi Giáng, mới thấy được sự bay bướm trong ngòi bút của ông.

        "Thiên nham vạn hác vô nhân tích
        Độc tự phi hành minh nguyệt trung."

        Càn khôn không dấu tích người
        Ngàn tầm vạn cốc một trời mênh mông
        Phiêu nhiên dưới nguyệt dậy lừng
        Một thân vi vút ngàn trùng hoang liêu


        Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 22-01-2011, 01:11 AM.
        ----------------------------

        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

        Comment

        • #5


          Lời sơn nữ

          Gánh than lên bán chợ Trời
          Thiên Thần xúm hỏi: Em người ở đâu?
          Thưa rằng: Em ở rất lâu
          Trần gian dưới đó dãi dầu liên miên
          Bảo rằng: chưa rõ tuổi tên?
          Thưa rằng: tên tuổi là Em đây rồi
          Nghĩa là Sơn Nữ đó thôi
          Hỏi rằng: sao chẳng thấy môi em cười?
          Thưa rằng: cười gượng không vui
          Nên đành mím miệng một đời cho qua
          Hỏi rằng: dưới đó bông hoa
          Nở vào mùa Hạ hay là mùa Xuân?
          Thưa rằng: cái đó em quên
          Vì chưng lo đốt than nên không nhìn
          Hỏi rằng: một chút của tin
          Muốn trao em giữ, em xin thứ gì?
          Thưa rằng: Em chẳng biết chi
          Hỏi rằng: Em thích xiêm y không nào?
          Thưa rằng: Dày mỏng ra sao?
          Bảo rằng: toàn gấm lụa đào nhung hoa
          Thưa rằng: chẳng hợp màu da
          Toàn thân như hột chà là em đen
          Bảo rằng: hãy tắm suối tiên
          Một giờ sau Em sẽ đổi đen ra hồng
          Thưa rằng: Em có tấm chồng
          Yêu màu da cũ kiếu ông em về.


          Bùi Giáng . (1926-1998)
          Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

          Comment

          • #6

            Tình sử Bùi Giáng - Kim Cương: Duyên nợ (kì 1)


            Kỳ nữ Kim Cương chiếm một vị trí đặc biệt trong cuộc đời, trong tâm hồn và trong sáng tác của Bùi Giáng. Trong tâm hồn ông, Kim Cương là "đệ nhất mỹ nhân" trong thiên hạ. Ông yêu Kim Cương bằng một tình yêu lạ lùng nhất thế gian. Chỉ có thể nói đó là một tình yêu bất tử. Đã có rất nhiều giai thoại xung quanh mối tình kỳ bí này.

            Đối với Kim Cương, tuy là mối tình đơn phương từ phía Bùi Giáng, nhưng nữ nghệ sĩ đã rất trân trọng tình yêu của ông, một sự trân trọng vô cùng cảm động và hiếm thấy. Nhiều năm qua, nghệ sĩ Kim Cương có những lý do riêng nên đã không lên tiếng một cách chính thức. Lần đầu tiên, bà tiết lộ với Báo Thanh Niên một số sự thật về thiên tình sử này, vì đã đến lúc bà không còn lý do để tiếp tục im lặng... Chúng tôi tạm gác những phần cuối của loạt bài Bùi Giáng - thi sĩ kỳ dị để giới thiệu riêng cùng bạn đọc những tiết lộ của Kim Cương. Chúng tôi xin tỏ lòng biết ơn nghệ sĩ Kim Cương. Những tiết lộ này sẽ giúp cho công chúng hiểu rõ hơn con người và sự nghiệp của một thi sĩ độc đáo vào bậc nhất của đất nước.


            Có lẽ trong cuộc đời của thi sĩ Bùi Giáng, ngoài chuyện văn chương ra thì chuyện tình đơn phương của ông với NSƯT Kim Cương là nổi bật nhất, kỳ lạ nhất, và cũng cảm động nhất. Kim Cương còn giữ rất nhiều bài thơ của ông viết tặng riêng bà, cả hình ảnh nữa, nhưng từ lâu bà từ chối mọi lời yêu cầu của các tờ báo, nhà xuất bản xin được phát hành, đặc biệt sau khi Bùi Giáng vừa qua đời nhiều đơn vị còn đặt vấn đề "mua" những tấm ảnh, tập thơ đó. Bà nói: "Tôi không muốn đem tình cảm của Bùi Giáng ra đánh bóng tên tuổi của mình hoặc làm gì đó có dấu ấn kinh doanh. Dù tôi không yêu ông, nhưng tôi trân trọng tình yêu của ông. Tuy nhiên, bây giờ sau loạt bài của Báo Thanh Niên, tôi thấy đây không còn là chuyện riêng tư nữa, mà Bùi Giáng là một sự kiện văn học chung của đất nước, cần có thêm nhiều thông tin về ông. Và vì không lên tiếng nên có những thêu dệt không đẹp cho Bùi Giáng, vì vậy tôi chỉ muốn nói rõ một vài sự thật để người ta hiểu đúng ông hơn".

            Kim Cương biết Bùi Giáng lúc bà khoảng 19 tuổi, còn theo đoàn cải lương của má Bảy Nam nhưng đã được mệnh danh là "kỳ nữ". Thật ra, ông chú ý đến bà trong một đám cưới của đôi bạn Hạnh - Thùy. Sau đám cưới, một hôm Thùy bảo Kim Cương: "Có một ông giáo sư Đại học Văn khoa, đi học ở Đức về, ái mộ chị lắm, muốn đến nhà thăm chị". Kim Cương trả lời: "Ừ, thì mời ổng tới". Hóa ra là Bùi Giáng, lúc ấy đang dạy học, cũng áo quần tươm tất chứ chưa có "điên điên" như sau này. Bùi Giáng lui tới, mời Kim Cương lên xe đạp ông chở đi chơi, rồi cả cầu hôn, nhưng bà đều né tránh. Bởi sau vài lần tiếp xúc, bà thấy ở ông toát lên cái gì đó "kỳ kỳ", bất bình thường, nên bà sợ. Đeo đuổi mãi không được, Bùi Giáng thở dài nói: "Thôi, chắc cô không ưng tôi vì tôi lớn tuổi hơn cô (Bùi Giáng lớn hơn Kim Cương mười mấy tuổi), vậy cô hứa với tôi là sẽ ưng thằng cháu của tôi nhé. Nó trẻ, lại đẹp trai, học giỏi". Kim Cương ngần ngừ: "Thưa anh, chuyện tình cảm đâu có nói trước được. Tôi không dám hứa hẹn gì đâu, để chừng nào gặp nhau hẵng tính...". Ý bà muốn hoãn binh. Nhưng Bùi Giáng đã đùng đùng dắt cháu tới. Trời ơi, hóa ra đó là thằng nhỏ mới... 8 tuổi. Kim Cương hết hồn, thôi rồi ổng đúng là không bình thường!

            Từ đó, mỗi năm Bùi Giáng mỗi bệnh nặng hơn. Ông không có vợ con, suốt ngày đi lang thang ngoài đường, hò hét, rồi cứ địa chỉ nhà Kim Cương mà tới. Thằng bé Toro con của Kim Cương lúc ấy khoảng 5 tuổi, thường trố mắt ra nhìn ông, và hỏi: "Mẹ ơi, sao bác này giống cái xe hoa quá?". Tư duy trẻ con thật ngộ nghĩnh, nhưng lại rất chính xác. Thì trên người Bùi Giáng có đủ thứ: nào hộp lon treo lủng lẳng, nào lá cờ giắt sau lưng, nào nhánh cây, vòng hoa trên đầu... cả một nải chuối đeo thường xuyên trên cổ. Không mở cửa cho ông vào là ông la hét, đập cửa, chửi um sùm, ném đá nữa, khiến hàng xóm náo động. Nhưng riết rồi quen, mỗi lần ông tới nhà Kim Cương ai nấy đều cười. Má Bảy Nam ở trên lầu chỉ cần nghe la rùm beng, đập cửa ầm ầm, là hỏi: "Bùi Giáng phải không?". Nhiều lần ông say khướt, nằm ịch xuống gốc cây trước nhà Kim Cương, mọi người phải khiêng vào. Bà lắc đầu: "Sợ ổng chết. Tướng tá vầy có thể chết bất cứ lúc nào. Nhưng khiêng vô rồi cũng sợ rủi ổng chết trong nhà mình. Mà điều, không nỡ bỏ ổng lăn lóc ngoài đường, thấy tội quá".

            Nhưng điều hay nhất là mỗi khi vô nhà Kim Cương ông lại sáng tác thơ để tặng bà. Tiện tay xé bất cứ tờ giấy, tờ lịch nào là ông viết ào vô đó. Nguồn thơ yêu cứ tuôn trào như suối, không vơi cạn theo năm tháng. Về sau, khi ông "quậy" quá thì Kim Cương nghĩ ra cách, không mở cửa, mà lòn một cuốn sổ ra khe cửa cho ông viết thơ. Ông hí hoáy một hồi, rồi vui vẻ bước đi. Suốt 40 năm, cả chục cuốn sổ tay đã đầy ắp chữ của ông, chỉ riêng tặng "nương tử Kim Cương". Bà trân trọng gìn giữ trong ngăn tủ. Những vần thơ yêu với nét chữ ngả nghiêng chệnh choạng nhưng hồn nhiên say đắm lạ kỳ.


            - Kính thưa nương tử Kim Cương
            Tấm lòng rộng mở phi thường bấy nay
            Ngàn năm điêu đứng đọa đày
            Thiên thu sử lịch cau mày về sau
            Thưa em đời mộng dạt dào
            Tình yêu vô tận yêu đào vô biên
            - Kể từ tao ngộ đầu tiên
            Kim Cương vô tận, thuyền quyên vô cùng
            Bốn mươi năm đã lẫy lừng
            Âm thầm tưởng niệm lạ lùng giai nhân
            Trái tim thiết thạch vô ngần
            Từ tam thu tới tử phần hôm nay
            Kể từ sử lịch xa xuôi
            Bất ngờ một bận bùi ngùi yêu em




            Hoàng Kim (báo Thanh Niên)
            Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 19-07-2020, 10:05 PM.
            ----------------------------

            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

            Comment

            • #7

              ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi CONHAKO View Post
              Tình sử Bùi Giáng - Kim Cương: Duyên nợ (kì 1)



              - Kể từ tao ngộ đầu tiên
              Kim Cương vô tận, thuyền quyên vô cùng
              Bốn mươi năm đã lẫy lừng
              Âm thầm tưởng niệm lạ lùng giai nhân
              Trái tim thiết thạch vô ngần
              Từ tam thu tới tử phần hôm nay
              Kể từ sử lịch xa xuôi
              Bất ngờ một bận bùi ngùi yêu em



              Bây giờ riêng đối diện tôi
              Còn hai con mắt khóc người một con
              Tôi khám phá ra bí mật của đại dương khi suy niệm về một giọt sương mai.

              Comment

              • #8

                ..::~Trích dẫn nguyên văn bởi M Mít Đặc View Post
                Bây giờ riêng đối diện tôi
                Còn hai con mắt khóc người một con


                [ame="http://www.youtube.com/watch?v=QJZe14hGHww&feature=related"]YouTube- ConMatConLai[/ame]




                Website của Hội Văn Hoá Trịnh Công Sơn có ghi lời bản nhạc Con Mắt Còn Lại và lời chú thích:

                Bản Con mắt còn lại có lẽ hiện diện lần đầu tiên trong K7 TCS/Hồng Nhung Bống Bồng ơi (1993).

                Bài viết theo ý thơ Bùi Giáng: "Còn hai con mắt, khóc người một con…".


                Trong "Sổ tang" cho Bùi Giáng tại chùa Vĩnh Nghiêm (SGN, 1998), TCS ghi:

                "Bùi Giáng Bàng Dúi Búi Giàng
                Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ không
                Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
                Hoá ra thì thể là ngàn hư vô
                Nhớ thương vô cùng là từ
                Là từ vô tận ứ ừ viễn vông".

                (Trích theo Hợp Lưu, số Tưởng niệm Bùi Giáng, 44 (12/98-01/99), tr.119 và Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thiên tài,tr.38. )

                Và TCS còn đã từng nói : "Bùi Giáng là hư không là vô thường, là thiên niên kỷ trước, là lầu không, là vô biên mầu nhiệm, là bát quái trận đồ vô ra bế tắc mà rốt cuộc cũng vẫn luân lưu một sự đời miên viễn nói cười hả hê vu vơ mầu nhiệm.", (theo Từ điển tác giả văn học Việt Nam thế kỷ XX của Trần Mạnh Thường, nxb Hội Nhà Văn, 1365 tr (2003), trích theo TuoiTreOnline, 18/04/2004.)
                ----------------------------

                Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                Comment

                • #9

                  Tình sử Bùi Giáng - Kim Cương: "Quyền lực" của Kim Cương (kì 2)


                  Phải nói là Kim Cương có "quyền lực" rất lớn đối với Bùi Giáng. Cứ nghe tên bà là ông trở lại ngoan ngoãn như một đứa trẻ con. Một lần, ông làm "chim bay cò bay" giữa phố, gây ách tắc giao thông, công an tới lôi ông vào cũng không được.

                  Tình cờ có ông bạn Đoàn Thạch Hãn trông thấy, thế là anh ta rỉ tai ông: "Kim Cương nhắn ông tới nhà kìa!". Lập tức ông riu ríu đi theo Đoàn Thạch Hãn. Ông còn "ái mộ" bà theo kiểu "kinh khủng" của ông. Người ta ái mộ thì xin chữ ký, xin hình, còn ông thì xin... quần. Ông tới nhà nằng nặc đòi bà cho ông cái quần. Bà lấy quần của cậu Toro nay đã lớn cỡ ông mặc vừa. Ông giãy nảy không chịu, đòi cái quần của Kim Cương mới được. Bà bực quá, đưa thiệt. Lập tức ông mặc vô và rồi không chịu thay ra. Tắm xong, mặc lại. Tỉnh bơ.
                  Và sau này khi ông ở nhờ nhà anh Hoài - cháu gọi ông bằng bác họ - tại Gò Vấp, thì cũng chỉ Kim Cương là người phụ nữ duy nhất được ông cho phép bước vào nhà. Nhiều lần, các bạn thơ nữ có ghé thăm ông, nhưng vừa mới nghe cháu vô báo tin là ông đã la hét om sòm, đuổi họ như đuổi tà: "Chỉ có tiên nữ Kim Cương mới được bước tới đây. Đi ra! Đi ra hết!".
                  Nghệ sĩ Kim Cương nói: "Tôi rất trân trọng tài năng của ông, nhưng phải nói thật là ông điên nặng, nhưng là cái điên trí tuệ, nói ra nhiều câu cực kỳ sâu sắc". Thỉnh thoảng, khi ông hơi tỉnh thì Kim Cương cũng ngồi bàn chuyện thơ văn với ông cho ông vui. Những lúc ấy, ông gọi bà bằng "cô" đàng hoàng chứ không "nương tử", không "Hằng Nga" gì hết. Nhưng có một lần, ông làm bà hết hồn. Hai người bàn luận đến Kiều, bà đọc mấy câu lỡ có sai một chút, ông liền đập bàn, la hét, nhảy dựng lên: "Tại sao Kiều mà cô nói sai như vậy? Câu vậy mà cô nói là của Kiều hả?". Thấy ông trợn mắt giận dữ, bà cứ ngỡ ông sắp bóp cổ mình tới nơi. Bà quên mất rằng ông cũng yêu Kiều say đắm như yêu bà.
                  Có một chuyện nhỏ, nhưng cảm động. Kim Cương nói rằng Bùi Giáng có đóng phim gì nữa đó, chắc đóng vai phụ nho nhỏ thôi. Kim Cương nhớ khi ông lãnh tiền thù lao, liền mua hai trái xoài đem tới cho bà. Rất dễ thương.

                  Kim Cương bùi ngùi nhớ lại: "Suốt 40 năm, ông đối với tôi như một người yêu đơn phương, thì ngược lại, tôi đối với ông như chỗ dựa tinh thần, bất cứ lúc nào nghe ông đau ốm hay bị công an bắt, bị người ta đánh là tôi có mặt". Bởi đơn giản, trong đầu Bùi Giáng chỉ có một số điện thoại duy nhất, một địa chỉ duy nhất, đó là địa chỉ và số điện thoại của Kim Cương. Nhiều lần ông đứng giữa đường dang tay la hét, làm kẹt xe, công an tới bắt, hỏi cách gì ông cũng chỉ nói một câu: "Thân mẫu tôi là Kim Cương, ở số... Hoàng Diệu, điện thoại 844...". Thế là công an réo gọi Kim Cương. Bà đi lãnh ông ra. Chuyện đó xảy ra không biết bao nhiêu lần. Có khi ông bị té, bị thương, người ta chở vô bệnh viện, ông cũng chỉ "khai báo" y như vậy. Bệnh viện lại réo bà. Bà lại đến. Hoặc những lúc ông lên cơn, có khi vô quậy cả đám cưới nhà người ta, bị người ta đánh, bà lại đến đưa ông về. Có lần, ông xuất hiện trước nhà bà với tóc tai mặt mũi đầy máu vì mới bị ai đó đánh, bà hoảng hốt gọi xích lô cho ông đi cấp cứu. Ông không chịu: "Chừng nào cô đi với tôi thì tôi mới đi". Ừ, thì đi. Kim Cương gọi chiếc xích lô chở ông, vừa ngồi xe ông vừa nói vung vít, mặc cho Kim Cương chịu trận.

                  Và như thường lệ, trong cơn điên điên tỉnh tỉnh, ông lại tiếp tục làm thơ yêu qua cuốn sổ nhỏ nhét vào khe cửa nhà bà:

                  - Yêu nhau từ bấy tới nay
                  Xiết bao tâm sự từ ngày qua đêm
                  Thưa em nương tử dịu mềm
                  Bốn mươi năm lẻ êm đềm vô biên
                  - Đầu tiên tiên nữ Kim Cương
                  Cuối cùng muôn một phi thường Cương Kim
                  Cúi đầu bái tạ tình em
                  Về sau vĩnh viễn êm đềm thương nhau
                  - Làm thơ tiếp tục yêu em
                  Ồ Kim Cương ạ êm đềm vô song
                  Kể từ lịch kiếp long đong
                  Anh điêu tàn tới thong dong bây giờ
                  ...


                  Hư vô và vĩnh viễn

                  Cũng vô lý như lần kia dưới lá
                  Con chim bay bỏ lại nhánh khô cành
                  Đời đã mất tự bao giờ giữa dạ
                  Khi lỡ nhìn viễn tượng lúc đầu xanh
                  Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ
                  Tiếng kêu kia còn một chút mong manh
                  Dòng nức nở như tia hồng đốm đỏ
                  Lạc trời cao kết tụ bóng không thành
                  Lá cũng mất như một lần đã lỡ
                  Trời đã xanh như tuổi ngọc đã xanh
                  Trời còn đó giữa tháng ngày lỡ dở
                  Hồn nguyên tiêu ai kiếm lại cho mình
                  Đường vất vả vó ngựa chồn lảo đảo
                  Cồn sương đi vào sương lạnh miên man
                  Bờ bến cũ ngậm ngùi sông nước dạo
                  Đêm tàn canh khắc ngợi nguyệt gương ngàn
                  Một lần đứng lên mấy lần ngồi xuống
                  Ngón trên tay và tóc xõa trên đầu
                  Tình đếm lại muôn vàn thôi đã uổng
                  Để bây giờ em có biết nơi đâu
                  Bờ trùng ngộ một phen này phen nữa
                  Tờ cảo thơm như lệ ứa pha hồng
                  Hồn hoa cỏ Phượng Thành Hy Lạp úa
                  Nghe một lần vĩnh viễn gặp hư không
                  Thơ Bùi Giáng

                  Hoàng Kim (báo Thanh Niên)
                  Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 19-07-2020, 10:06 PM.
                  ----------------------------

                  Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                  Comment

                  • #10





                    Thi sĩ BÙI GIÁNG

                    Sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926
                    Tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam
                    Mất năm 1998 tại Sài Gòn
                    Tác phẩm chính : Mưa nguồn, Rong rêu



                    Bùi Giáng (1926-1998) là một nhà thơ, dịch giả và nghiên cứu văn học của Việt Nam, ông nổi tiếng từ thập niên 1960 như một hiện tượng dị thường riêng biệt.

                    Ông sinh ngày 17 tháng 12 năm 1926 tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

                    Bố của Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con thứ hai của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.

                    Cuộc đời của Bùi Giáng được bao phủ bởi nhiều giai thoại ly kỳ, những thông tin hư hư, thực thực. Ông còn nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác rất nhanh: tập thơ Mười hai con mắt được ông sáng tác chỉ trong một đêm Noel năm 1992.

                    Từ năm 1962, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Sách của ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị nghìn bài.

                    Sau năm 1975, ông không bị đi học tập cải tạo như nhiều văn sĩ miền Nam khác vì ông bị mắc bệnh tâm thần.



                    **************************


                    Vĩnh Biệt Bùi Giáng






                    Thi sĩ Bùi Giáng tạ thế vào 14 giờ ngày 7/10/1998 (nhằm ngày 17/8 Mậu Dần) tại Sài Gòn, hưởng thọ 73 tuổi.

                    Trong những năm gần đây, dù sức khỏe héo cạn, sau một thời gian dài tinh thần phân tán, điên đảo điêu linh, ông đã lấy lại phong độ phiêu bồng và hùng hậu, dành nhiều thời gian cho việc sáng tác, giảm thiểu tối đa việc “hí lộng ta bà” cùng “giảm tửu” đến mức thấp nhất, làm việc miệt mài với nhiều hứng khởi.

                    Từ giữa tháng 9/1998, sức khỏe ông đột ngột suy giảm nhanh chóng. Trong đêm 23/9, ông thức khuya, có uống lại chút rượu để gây hưng phấn, trong lúc đang làm việc thì bị ngã quỵ tại nhà riêng (số 482/29 Lê Quang Ðịnh, Bình Thạnh).

                    Thân nhân đưa ông vào bệnh viện Chợ Rẫy, chụp Scanner và phát hiện ông bị đứt mạch máo não, tụ huyết hôn mê sâu. Sau cùng ban giám đốc bệnh viện quyết định giải phẫu vào lúc 21 giờ ngày 25/ 9 và hoàn thành vào lúc 23 giờ 30 cùng ngày. Từ ngày 26/9 đến 6/10, ông vẫn hôn mê, tuy đôi lúc có những dấu hiệu khả quan (mở mắt, co duỗi và phản xạ...) nhưng đến ngày 7/10 ông đột nhiên suy yếu nhanh chóng, và đến 14 giờ thì tắt thở trong trạng thái thanh thản nhẹ nhàng.

                    Thi hài ông được quàng tại phòng tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn, sau đó được an táng tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Ðức, vào ngày 11/10/1998 (nhằm ngày 21/8 Mậu Dần).

                    Trong thời gian thi sĩ Bùi Giáng lâm trọng bệnh cũng như lúc nằm xuống, ông đã được nhiều thân hữu, nhân sĩ và người hâm mộ quan tâm, chăm sóc với hết lòng trọng vọng và thân ái đối với đấng tài ba.



                    **********************

                    Buồn Đã Nhiều


                    Buồn đã nhiều giờ xin vui nhiều nữa
                    Nhiều không xong thì ít cũng được rồi
                    Miễn tí chút long lanh là đủ lắm
                    Cạn ly này ? nâng nhẹ nhẹ lên môi

                    Thử gắng gượng làm bài thơ chưa biết
                    Đã biết rồi ? chưa biết , nói cho vui
                    Từ vạn thuở , trăm năm là bất diệt
                    Từ thiên thu , chỉ đón một đời người

                    Em chịu đón hay là không chịu đón'
                    Chịu đón thì đón rước cho tươi vui
                    Đừng mặc cả éo le là lẫn lộn
                    Lẫn lộn là hỗn độn lấp chôn vùi

                    Những từ đó về sau sẽ có lúc
                    Bất thình lình tuế nguệt tới sau lưng
                    Không báo trước là giây hay là phút
                    Là giờ nào tất mệnh đóng kín bưng

                    Hai cánh cửa khóa chặt đời chưng hửng
                    Mặc tồn sinh gắng sức rúc chui ra
                    Và lúc đó còn đâu giờ để tưởng
                    Tới máu tim tiều tụy với ruột rà

                    Nằm im dưới đất thiết tha
                    Thương yêu đứt ruột lá hoa trên đời
                    Còn đâu nữa dịp phanh phơi
                    Tan hoang hào lũy dưới trời dửng dưng

                    Giận hờn đã lắm vô duyên
                    Còn đâu kỳ ngộ ngẫu nhiên ban đầu

                    Bài thơ có nói gì đâu
                    Bài thơ bắt buộc chậm mau hương mùa
                    Lúc khắng khít , lúc lưa thưa
                    Vì không một lúc nào ngừa mai sau

                    Nào ngờ có nghĩa gì đâu
                    Trăng thanh gió mát lần thâu đã nhiều
                    Đăm chiêu rất mực đến điều
                    Tử sinh liều giữa hoang liêu cuối cùng


                    Bùi Giáng


                    Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 03-03-2010, 12:46 AM.
                    ----------------------------

                    Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                    Comment

                    • #11

                      Một Vài Kỷ Niệm Với Bùi Giáng

                      Mai Thảo


                      Thuở sinh tiền, khi nói đến thơ, nhà văn Mai Thảo thường nhắc nhiều đến Vũ Hoàng Chương và Bùi Giáng. Mỗi người một phong cách, nhưng theo Mai Thảo, đó là những “ngôi sao Bắc Ðẩu trên vòm trời thơ ca của ta”.

                      Chúng tôi cho đăng lại bài viết này (Văn, số 26 tháng 8/1984, USA) như một hình thức tưởng nhớ đến một người yêu thơ rất mực: nhà văn Mai Thảo, và một người làm thơ tài hoa cũng rất mực: thi sĩ Bùi Giáng.

                      Cả hai đã ra đi.

                      Bên kia thế giới, có lẽ nhà văn Mai Thảo lại có dịp mời thi sĩ Bùi Giáng một chai bia lớn, và lại sẽ được nghe ông nói, bằng chất giọng Quảng Nam đặc sệt: “vui thôi mà”, như độc giả sẽ thấy, trong bài viết dưới đây.

                      HỢP LƯU




                      Nhiều buổi chiều Sài Gòn, tôi chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu như năm 1965 (nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho), tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ. Mỗi họp mặt với Thanh Tuệ, hồi ấy là giám đốc của nhà xuất bản An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và trước khi gởi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc rượu lạc thành cho sách.

                      Những họp mặt vì sách và do sách đó thường có tôi, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, đôi khi Nguyễn Ðình Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, và đương nhiên nhân vật chủ chốt là tác giả sách là Bùi Giáng. Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể nói, thầy Thanh Tuệ vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi Giáng, chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản trưóc mọi tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ, Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bền không bờ, vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy.

                      Bùi Giáng chất ngất một trời chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất rong chơi. Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi trước đó, tươi cười, ung dung, trong cái phong thái của một người nhàn nhã nhất thế giới, chẳng có một dấu vết nào của một người viết đang gió táp mưa rơi trên ngàn ngàn trang sách. Có như Bùi Giáng trước sau vẫn đang chập chờn với đời như một cánh bướm, lững thững với đời như một áng mây. Có như Bùi Giáng, cái áo vải cũ, râu tóc để mặc, điếu thuốc trên tay, chén trà trước mặt, vẫn chỉ ngồi chơi thảnh thơi ngày ngày với An Tiêm như thế. Sau này, sống với Bùi Giáng nhiều hơn, tôi cũng chỉ thấy Bùi Giáng như hồi đầu thấy ở An Tiêm. Trong một phiêu hốt, một ung dung chưa từng thấy. Có như, trọn một đời cái đầu của thi sĩ không một chút nào dành cho suy nghĩ, bàn tay thi sĩ không một phút nào dành cho cây bút. Có như trang giấy trắng, mặt bàn viết là những vật thể xa lạ chẳng bao giờ ông biết tới. Vắn tắt là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bồng, hoàn toàn rong chơi.

                      Vậy mà cái sức viết hồi đó đến như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến như Bùi Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch rồi.

                      Một lần, tôi đem cái điều khó hiểu này ra hỏi một người cũng làm thơ thật nhiều, cũng làm thơ rất đều tay là Thanh Tâm Tuyền. Tác giả Liên Ðêm Mặt Trời Tìm Thấy lắc đầu cười: “Chịu không giải thích được. Chỉ biết Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thẩy. Là cái chỉ có một. Với tôi là từng bài thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài thơ này bài thơ kia của Bùi Giáng lại là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là cái hiện tượng dị thường của một suối thơ ăm ắp không ngừng. Ðọc thơ Bùi Giáng cũng phải đọc như thế. Ðứng trên đơn vị từng bài. Bùi Giáng đặt tựa cho từng bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi ra vậy thôi. Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận vô cùng là đúng hơn. Ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ ra thơ, làm thơ. Ta cứ tạm hiểu cái trạng thái thơ kỳ lạ khác thường ở Bùi Giáng là như vậy.”

                      Sự ngược nghịch giữa cái rong chơi một đời của Bùi Giáng với cái lực thơ, cái số thơ, cái lượng thơ khủng khiếp làm ra, tôi đem hỏi thêm nhà xuất bản hằng ngày sống cùng Bùi Giáng, rồi đến chính thi sĩ, cũng không được sáng tỏ gì hơn ngoài suy diễn có tính chất phỏng đoán của Thanh Tâm Tuyền. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười. “Tôi cũng lấy làm kỳ”, Thanh Tuệ nói. “Anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ thôi, đâu có thì giờ đọc. Ðiều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại trước tác nào anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả. Từ thơ đến văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.”

                      Nhà An Tiêm suốt mấy mùa sách, hầu như không thở được nữa trước cái viết tràn bờ của Bùi Giáng, điều này ai cũng biết.

                      Rồi tôi rủ Bùi Giáng tới quán. Ðãi ông uống rượu. Vặn hỏi chính thi sĩ. Ðể cũng chỉ được Bùi Giáng cười cười thích thú trước tìm hiểu có vẻ ngớ ngẩn của tôi. Ông không chịu giải thích, chừng như ông không có gì giải thích, sự thành hình tác phẩm nơi Bùi Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Cười cười, ông đốt điếu thuốc, cầm lấy ly rượu: “Vui thôi mà”.Ừ vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông, cõi thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn ngã mênh mông và chính ông là hiện tượng thân của mênh mông nghìn ngã trăm phưong ấy.

                      Bùi Giáng nói vui thôi mà. Quả vậy, thơ ông vui cực kỳ. Con châu chấu, con chuồn chuồn. Cơn chuồn chuồn, con châu chấu. Rừng Marylyn. Biển Brigitte Bardot. Ngành Novak. Ðóa John Keats. Ngành Mật niệm. Ðóa U Linh. Hồng Lĩnh Hạc Lâm. Quỳnh Lai Thị Xứ. Thơ đốt pháo bông, ngôn ngữ triệu triệu, như chữ thần diệu:


                      Người nằm ngủ thấy gì

                      Thấy rất nhiều nắng lạ


                      Giấc ngủ đầy nắng, đầy nắng lạ. Bùi Giáng nói vui thôi mà. Thơ ông vui thật. Từ cánh tay áo rộng, thơ bay. Từ trí tuệ gió lộng, thơ phất. Nghìn thu cổ lục. Ngày Hy Nga. Ðêm bé chị. Mọi trên ngàn. Sóng Hồng Hoang. Thềm dục vọng. Thơ ghé thăm đá, thăm bàn ghế, thăm bún bò, thăm lá.


                      Ghé thăm trái mận ban đầu

                      Bình minh bắt gặp nguyên màu ban mai


                      Tiếng thơ sáng rỡ, chói lọi, kỳ ảo, cánh rừng ngôn ngữ ấy suối reo, chim hót, hoa nở, cây ào ào sóng vỗ, sóng từng từng xanh cây, beo gấu rởn nghịch, con chuồn chuồn hóa thân, con châu chấu suy tưởng, những môi nhỏ hằng ngày, gì cũng là thơ, thảy đều biến dạng. Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui. Hãy đọc thơ ấy, như cùng ông đi vào một trận vui lồng lộng. Ðừng cần tìm hiểu. Ðừng cần giải thích. Hãy đọc lại Mưa Nguồn, Bài Ca Quần Ðảo:


                      Xin chào nhau giữa con đường

                      Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau


                      Sẽ thấy cái vẫy tay chào lấp lánh của thi sĩ. Cái sự “vui thôi mà” trước sau ông chỉ nói vậy, ba chữ này tôi ao ước được thấy khắc vào mộ chí ông khi ông mất đi, ông và giữa con đường vui, không dưới không trên, không đầu không cuối gì hết. Giữa và mùa xuân phía trước, miên trường phía sau.




                      Thơ là người. Ngoài đời Bùi Giáng cũng thật vui. Thời kỳ Thanh Tuệ chấm dứt, nhà xuất bản An Tiêm tạm ngừng hoạt động, Bùi Giáng gặp lại Thanh Nam, viên Linh, Vũ Khắc Khoan và tôi ở toà soạn tuần báo Nghệ Thuật và những kỷ niệm chúng tôi có với thi sĩ thời gian này vẫn là những kỷ niệm vui. Lúc này, thần thái ông ấy không còn được rạng rỡ như mấy năm về trước. Cuộc phiêu bồng qua đời sống của ông kỳ dị và tận cùng hơn. Mái tóc ông đổi màu. Mấy chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười trẻ thơ vừa móm mém. Cặp mắt sâu hóm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế. Những con đường trên đó ông đi, cái túi vải thơ nào, những ngã tư ông ngừng lại, tách thoát với nhân thế, tất cả ở Bùi Giáng phơi hiện dần dần một hủy hoại khô khốc, ấy là tôi chỉ biết nhìn thấy ông một cách “hình hài” như vậy, nhưng “vui thôi mà” thì vẫn là rất vui. Ông vào tòa soạ, ngồi xuống ghế, nhìn mọi người, cười trẻ thơ, thường nói khát quá và xin một chai bia uống. Ông uống từng ngụm nhỏ, nói thích chai bia lớn vì uống được nhiều hơn, châm thuốc hút, những ngón tay vụng về lóng ngóng. Uống cạn chai bia, cái túi vải đeo lên và bỏ đi. Ðó là cái đến cái đi êm ả của Bùi Giáng. Nhiều lần không thế. Ông ra tắm ở cái máy nước trước tòa soạn, thản nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một đám con nít tròn mắt đi theo. Một lần khác, chúng tôi đi ra ngoài một lát trở về, thấy ông nằm ngủ ngon lành trên hai cái bàn viết kê liền lại. Giấc ngủ dài, quên đời, quên hết, mặc hết, phải đánh thức dậy. Những lần đó, ông ngồi im lặng, bất động, thầm thì “vui thôi mà” rồi lặng lẽ bỏ đi, cái bóng dáng gãy đổ, gầy guộc trong chiều xuống.

                      Chính là trong cái tình trạng suy nhược đã trầm trọng quá chừng và tiều tụy quá thể này của Bùi Giáng mà chúng tôi bắt đầu cảm thấy quan tâm thực sự đến thi sĩ. Ðến sức khỏe ông, ngày mỗi cạn kiệt. Ðến cách sống ông ngày mỗi tiều tụy. Ðến tâm thức ông, ngày càng bất định. Cuộc vui của ông Bùi Giáng tuyệt vời nhưng chẳng thể phiêu bồng mãi mãi. Phải làm một cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại. Về thế nào là cái tiếng thơ trác tuyệt của Bùi Giáng, cõi ngôn ngữ đạt tới hoang đường kỳ ảo của Bùi Giáng. Trong khi còn gần ông. Trước khi ông chẳng gần, chẳng chịu sống cùng ai nữa.

                      Số đặc biệt về thiên tài thi ca Bùi Giáng phải chờ đến hơn một năm sau, tờ Nghệ Thuật đình bản, tôi sang trông coi tờ Văn chung với Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được. Cũng nhờ số Văn này mà tôi mới nhìn thấy và hiểu được sự không hiểu của tôi nói ở trên là sự ngược nghịch giữa Bùi Giáng tháng ngày rong chơi với Bùi Giáng mộ tuần lễ cả ngàn câu thơ, cả ngàn trang sách. Số Văn ấy, phần nhận định nhờ Thanh Tâm Tuyền, Ninh Chữ, Tuệ Sỹ, Trần Tuấn Kiệt... viết. Bài phỏng phấn Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện. Phần giới thiệu những bài thơ mới nhất là tôi. Chưa biết kiếm tìm Bùi Giáng ở đâu, thi sĩ bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra trước báo quán chụp chung tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất. Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa, đoạn ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại chỗ làm thơ. Ông không chép lại thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút từ đầu ngón thôi. Làm thơ ứng khẩu, làm thơ tại chỗ, nhiều người cũng làm được. Nhưng là thơ thù tạc, và chỉ năm bảy câu một bài thôi. Bùi Giáng khác. Chai bia còn sủi bọt, ông ngồi viết không ngừng, tự dạng nắm nót chỉnh đốn, chỉ một thôi đã xong hơn hai mươi bài thơ, chúng tôi cầm lên coi, thấy bài thơ nào cũng khác lạ, cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi Giáng. Lần đó, tô đã hiểu tại sao Bùi Giáng cừ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Ðúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống la-de, hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp. Ông uống cạn chai la-de, lập lại ba tiếng bất hủ “vui thôi mà” rồi đứng lên từ biệt.

                      Mấy tháng cuối cùng trước biến cố 1975, tôi không thấy Bùi Giáng trong đời sống tôi nữa. Chỉ tỉnh thoảng nghe thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở đâu, dưới trời sao, ở một gầm cầu, dưới một mái hiên. Có lúc thấy nói ông đeo một xâu chuỗi toàn dày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám con nít reo hò chỉ trỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở ngôi chùa vùng ngoại vi thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói.

                      Ở trình trạng này, anh em chúng tôi, những bạn bè một thời thân thiết với Bùi Giáng, từng đã chén thù chén tạc với Bùi Giáng bao lần trên căn gác đường Lý Thái Tổ của nhà xuất bản An Tiêm, nhận sách tặng của Bùi Giáng, ở với ông và trời thơ trác tuyệt của ông, chúng tôi biết chúng tôi chẳng làm gì cho Bùi Giáng được nữa. Chẳng phải bỏ ông. Ông cũng không bỏ. Chỉ là ông đã đi khỏi, đi xa, vào một trời đất khác.

                      Hai câu thơ hay tuyệt hay vào tập cho tập Mưa Nguồn:


                      Xin chào nhau giữa con đường

                      Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau


                      Ðã mang một ý nghĩa khác. Lời chào như một xa cách vĩnh viễn. Một bỏ đi. Một vĩnh viễn. Cái kho tàng chữ nghĩa phong phú vô tận ở đó Bùi Giáng vừa tạo dựng nên cái thế giới ảo huyền của mình vừa phá hủy tan tành cái thế giới ấy, kho tàng ấy thi sĩ không thèm sử dụng nữa, và chúng tôi chẳng còn con đường nào tới được với ông.

                      (.....)

                      Bùi Giáng đã đem lại cho cuộc đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo diệu, không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi ca mới không cùng không tận. Ðọc lại Mưa Nguồn, đọc lại Ngàn Thu Rớt Hột, Bài Ca Quần Ðảo, tôi còn muốn bật cười với thơ Bùi Giáng. Vui thôi mà. Ðúng vậy, vui thôi, có khác gì đâu. Mất Bùi Giáng , thơ ta lại trở về với cái hữu hạn đời đời của thơ. Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm cho tôi là nếu có thêm được ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta văn học ta còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu.

                      MAI THẢO
                      Đã chỉnh sửa bởi CONHAKO; 03-03-2010, 12:28 AM.
                      ----------------------------

                      Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                      Comment

                      • #12

                        10 năm ngày mất thi sĩ Bùi Giáng (17.8 Mậu Dần - 17.8 Mậu Tý)

                        Bùi Giáng có điên thật không ?




                        Câu hỏi trên một lần nữa xin phép được nêu lên với anh Nguyễn Thanh Hoài - người cháu từng sống gần gũi nhất với thi sĩ Bùi Giáng trong những năm tháng cuối đời ông tại căn nhà nằm trong một đường hẻm thuộc Q.Bình Thạnh, TP.HCM.

                        * Là người sống cạnh thi sĩ Bùi Giáng suốt 13 năm cho đến khi thi sĩ qua đời, hẳn anh biết rõ và nhớ rõ sinh hoạt thường ngày của tác giả Mưa nguồn ?

                        - Vâng, tôi nhớ rất rõ về sinh hoạt thường ngày mà người trong nhà xem là có phần "bất thường" của ông cụ. Cứ mỗi sáng ông thức dậy rất sớm, khoảng 3 - 4 giờ, yên lặng ngồi thiền khoảng một tiếng đồng hồ. Sau đó ông bắt đầu lên tiếng, khi thì kể chuyện xưa, chuyện nay một mình, khi thì đọc dăm bài thơ với giọng sang sảng. Đôi lúc ông lại mắng này mắng nọ, to tiếng như để đánh thức cả nhà dậy cùng. Sau này có lần ông nói với tôi rằng ông không muốn mọi người "ngủ nướng", vì ông cho rằng bầu thanh khí dồn tụ ngẫu nhiên, đậm đặc vào buổi sáng sớm, không dậy mà hưởng thì rất uổng. Ông la hét một thôi một hồi rồi leo rào để đi ra đường. Thường thường nơi đặt chân đầu tiên trong ngày của ông là một quán cà phê "cóc" nào đó. Ông gọi cà phê đen để uống và để nhìn thiên hạ qua lại lúc đèn đường còn sáng cho tới khi mặt trời lên. Đó là thú vui không thay đổi của ông suốt mấy chục năm cuối đời.

                        Những sáng sớm ấy, ông thường rủ rê con cháu đi theo, nhưng giờ đó còn quá sớm không ai đi được. Vì thế ông đơn độc ra đường, hễ uống xong ly cà phê là ông chuyển qua uống rượu và rong chơi khắp Sài Gòn bất kể mưa nắng. Ông đi bộ là chính, nhiều khi đi suốt ngày - nếu có về nhà cũng chỉ nghỉ chân một lát, sau đó lại tiếp tục ra khỏi nhà, là đà lãng đãng trên đường trong cơn nửa say nửa tỉnh. Khi nào về nhà, ông thường mang quà phân phát cho mấy cháu nhỏ trong nhà, cất những bài thơ đã làm, ăn qua loa vài miếng cơm, rồi... đi nữa! Nếp sinh hoạt đó cứ đều đặn lặp đi lặp lại cho đến khuya ông mới chịu dừng bước. Thông thường trước khi đi nghỉ, dầu nhâm nhi rượu trắng suốt ngày ông vẫn ngồi thiền khoảng một tiếng mới ngả lưng xuống giường. Còn như những lúc quá say thì "bạ đâu ông nằm đó", những lúc ấy gia đình phải ẵm ông vào phòng mới được.

                        * Trong thời biểu rong chơi đó, có khi nào thi sĩ Bùi Giáng phá lệ để ở nhà khóa cửa phòng văn không ?

                        - Dĩ nhiên, những ngày đau ốm ông không đi đâu được nên phải ở nhà. Song ông không ở "phòng văn" mà treo võng giữa hai gốc cây ngoài sân để đu đưa "thưởng thức cơn sốt mùa hè" đang nhập vào cơ thể. Một điều khá đặc biệt nữa là sinh hoạt rong chơi của ông như được diễn ra theo một chu kỳ riêng. Nếu đi rong chơi 2 tháng, 2 tháng tiếp theo ông chỉ ở nhà, không bước chân ra đường và không nói một lời nào với bất kỳ ai, dù là người trong nhà. Ông chỉ gật đầu khi đồng ý và lắc đầu khi từ chối điều gì. Ông im lặng, lủi thủi chăm sóc cây cối trong vườn. Một bữa, ông lấy đá khoanh một khoảng đất nhỏ để trồng rau muống, rau lang. Trong vườn có nhiều cây ăn trái như mít, xoài, mãng cầu, vú sữa, đều được ông nâng niu, chăm sóc kỹ lưỡng. Những giờ "rảnh rỗi" ở nhà, không phiêu bồng phố thị, ông lại lục lọi quần áo rách ra để khâu vá, hoặc giặt giũ áo quần, sắp xếp lại căn phòng bừa bộn.

                        Ông rất thương những người bán ve chai, nên đi tới nơi nào ông cũng ngó quanh ngó quất xem có món nào người ta vứt đi để góp nhặt. Những thứ nào còn xài được, bán được, từ chai xì dầu đến miếng nhựa bên đường, ông đều lượm bỏ vào bao mang về nhà chất đó, đợi đến khi mấy cô mua ve chai đi qua nhà, ông gọi vào trân trọng đem ra tặng mấy cô ấy. Ông nói mấy cô ấy tuy số phận và công việc có cực nhọc, nhưng so với các nữ hoàng, các nàng công chúa, các tài tử xinê nổi tiếng như Marilyn Monroe, hoặc Brigitte Bardot, thì thân xác dung nhan có khác gì nhau?

                        Cái tâm bình đẳng nơi ông không chỉ đối với tài tử giai nhân và những người đẹp ve chai trẻ già bé lớn, mà dường như hết thảy ai ai ông cũng xem như nhau, không phân biệt thành phần, tuổi tác. Đối với ai, ông cũng xem là "ngẫu nhĩ tồn sinh" nhất là khi uống rượu như ông từng hét trước sân nhà: Rồi đây tôi sẽ nhớ nhung. Cái ly rượu đế vô cùng trần gian. Có người vô tình hỏi ông uống suốt ngày làm chi vậy, ông khoa tay đọc mấy câu: Bấy nay gặp gỡ cười chào. Con đâu có biết cái đầu tiên ông. Nghĩa là ông rất phiêu bồng. Đầu tiên rất mực cuối cùng ông điên...

                        * Như thế thì thi sĩ của chúng ta "điên rất là sáng suốt" chứ anh ?

                        - Theo tôi, ông chỉ "điên" có lúc, có ngày... Mà thật ra, tôi nghĩ, trong thẳm sâu của đời sống thi ca và thực tế sinh hoạt thiền mỗi sáng mỗi tối của ông thì không thể nói là ông "điên" được. Là người sống gần gũi với ông từ năm 1985 cho đến khi ông qua đời, nên tôi biết nhiều chuyện riêng mà ông kể vào những lúc ngồi bên nhau và tôi rất quý trọng, rất thương ông.

                        Có một lần tôi hỏi ông: "Cháu thấy bác còn tỉnh táo và khôn hơn người ta cả trăm lần nhưng ai cũng nghĩ bác "điên", cháu thấy bác "giả bộ" hay thật"! Nghe vậy ông đáp: "Tao là con trai cả ở trong nhà, nhưng vì mẹ tao làm vợ thứ, nên tao trở thành con thứ sáu, gọi là Sáu Giáng. Tuy thế, vì tao là anh cả nên trong nhà từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, tụi nó đều bắt tao phải đứng ra giải quyết, nên chi thôi tao điên cho nhẹ người. Vì vô lẽ ăn rồi cứ đứng ra giải quyết ba chuyện trời ơi, đã điên thì làm sao mà đứng ra giải hòa cho được".

                        Nói thì nói thế, chứ ông "điên" vì mọi người chung quanh và vì thế giới này còn có hằng hà sa số người "quá tỉnh" trong giấc mộng kim tiền, danh vọng. Tôi đã nghiệm ra điều đó sau khi đọc trong những bài thơ để lại chưa in của ông có bài nhan đề là Tôi. Bài này ông nói về cái điên của mình: Tôi nay bảy mấy tuổi trời. Mà điên chín chục tuổi đời tôi điên. Lúc đầu dạo dưới mái hiên. Lúc nằm ngửa lúc nằm nghiêng ngủ vùi.

                        Cứ như bài ấy, ông bước ra đường phố, hoặc khi về nhà, ngâm nga ra vẻ điên, cười khóc ra vẻ mất hồn, nhưng có một con người mang "tâm thể" khác, một con người "không làm bạn với muôn pháp", vẫn từng phút từng giây ở trong ông và quan sát ông, nên ông đã tự viết về cái điên của mình như sau: Ngồi nhổm dậy, khóc sụt sùi. Trẻ con càng rũ rượi cười càng tăng. Rằng ông giả bộ đáng khen. Thật là giỏi lắm phải chăng già khùng? Qua những gì ông đã sống và tôi chứng kiến hằng ngày, cũng như qua những gì ông viết chưa in, còn để lại trong một valy đầy bản thảo, tôi có thể khẳng định rằng Bùi Giáng không quá điên như người đời vẫn nghĩ.

                        * Trong valy bản thảo chưa in đó, gia đình định tiếp tục giới thiệu xuất bản ra sao trong thời gian tới ?

                        - Thời gian đến, nếu điều kiện cho phép, chúng tôi sẽ giới thiệu những di cảo còn lại, bao gồm nhiều thể loại, trong đó có thơ với các tập do ông đặt sẵn nhan đề, như: Xin quên quá khứ; Trúc Mai; Thơ điên Bùi Giáng; Uống rượu gió mây; Tâm sự tuổi già; Thơ minh họa, Thơ Bùi Giáng. Số thơ chưa đặt tựa của ông để lại còn rất nhiều... Mong rằng sau những tác phẩm mới được công bố, bạn đọc sẽ hiểu sâu thêm về ông - một thi sĩ tự nhận mình vĩnh viễn trung niên và rong chơi mãi mãi...

                        * Rất cám ơn anh.

                        Tưởng niệm Bùi Giáng

                        H.Đ.N
                        ----------------------------

                        Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                        Comment

                        • #13

                          Công bố hai tác phẩm chưa in của Bùi Giáng

                          Kỷ niệm 10 năm ngày thi sĩ Bùi Giáng đi vào cõi "ngàn thu rớt hột" (17.8 Mậu Dần - 17.8 Mậu Tý), gia đình thi sĩ đã cho xuất bản tập di cảo thứ 6 của ông. Đó là tập thơ Rớt hột phiêu bồng được in lần đầu bởi NXB Văn Nghệ.

                          Tập thơ gồm 100 bài Bùi Giáng viết vào những năm cuối đời, báo trước ngày đi khỏi "mộng trường" dằng dặc, đúng kiểu của ông:

                          "Anh sẽ chết như chưa bao giờ chết
                          Anh sẽ về thăm viếng các em ôi
                          Em khốn khổ như ngàn thu mỏi mệt
                          Anh chào em, anh chết suốt thiên thâu
                          Là chết giỡn cho vui chơi tuế nguyệt...".

                          Quả thật, thi sĩ coi chuyện chết là "chết giỡn" chứ không phải "chết thật". Nên trong các bài thơ cuối cùng, viết về tuổi đời chồng chất như "non cao" và suối vàng thì đang trút nước, ông vẫn thản nhiên "mừng rỡ với lá cây" mà bước tới bên rừng. Rồi ông lại ngó qua phần số của người khác, lại thấy những người "em gái nhỏ" mai kia cũng sẽ phai tàn như hoa, nên ông viết bài Các em ôi, nói rằng các em "sẽ chết như anh" nhưng đừng lo, khi chết các em nằm cũng đẹp:

                          "Một mai em sẽ lìa đời...
                          Em đi em đứng em nằm
                          Toàn nhiên em đẹp nguyệt rằm thiên thu...".

                          Đọc mấy bài trong di cảo Rớt hột phiêu bồng, có thể thấy Bùi Giáng đã "chết giỡn", rất hợp với tinh thần "thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm" của Bát Nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh.

                          Theo tinh thần đó, các chư pháp ở quanh ta như gió thổi, mây bay, núi cao, sông rộng đều là "không tướng" và con người thật ra cũng "không sanh không chết" như Bùi Giáng viết về sinh mệnh, về phong thái lộng lẫy của một "giọt sương đời":

                          "Ông chúc phúc ngàn thu con rất đẹp
                          Rất vui buồn với tình mộng chia xa ...
                          Con sẽ đứng sẽ đi sẽ vùng vẫy
                          Sẽ huy hoàng như một giọt sương sa...".

                          Một giọt sương cũng huy hoàng nếu hiểu lẽ vô sanh. Nhưng một bầu trời xuân cũng sẽ âm u nếu con người cứ "trụ" vào cái ngã của mình mà đòi bất tử! Theo Bùi Giáng, con người như vậy thật đáng tiếc:

                          "Anh tiếc lắm, tiếc cho em, em hỡi
                          Tiếc tận cùng từ sa mạc thiên thu
                          Anh gục đầu nhắm mắt khóc hu hu
                          Rồi can lệ ngẩng đầu mắt ráo hoảnh...".





                          Rớt hột phiêu bồng và Trường học đờn bà

                          Vì sao vừa khóc "hu hu" xong, Bùi Giáng lại ngẩng lên "mắt ráo hoảnh"? Có lẽ với ông, khóc là khóc theo phàm tình, thương cảm, còn "ráo hoảnh" vì thấy sanh tử, mất còn, được thua, vinh nhục... chẳng có gì đáng cười đáng khóc. Phải chăng vì thế, Bùi Giáng đã im lặng, một mình sống trong đất địa của chơn tâm vào một ngày xuân của tỉnh giác:

                          "Mùa xuân tao ngộ bất ngờ
                          Ngồi im lặng viết bài thơ một mình".

                          Cái tứ "vô sanh" ấy bàng bạc suốt trong Rớt hột phiêu bồng.

                          Cũng trong dịp này, lần đầu tiên tác phẩm nổi tiếng L'école des femmes của André Gide do Bùi Giáng dịch dưới nhan đề Trường học đờn bà sẽ ra mắt độc giả cả nước. Dịch phẩm gần 350 trang này nằm trong di cảo Bùi Giáng, do NXB Văn hóa Sài Gòn ấn hành lần thứ nhất, với phong cách dịch "ngẫu nhĩ trùng lai" tuyệt chiêu của Bùi Giáng.

                          Giao Hưởng
                          ----------------------------

                          Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                          Comment

                          • #14

                            TƯNG TỬNG QUẢNG GẶP TƯNG TỬNG HUẾ



                            Trần Kiêm Đoàn


                            Huế là kinh đô của vương triều nhà Nguyễn, nên Huế phải khác thường. Tâm lý "Đế đô" là tâm lý sang cả, đài các. Ăn thì phải ăn nhiều món, chuẩn bị cầu kỳ -- Dẫu là muối bảy món -- Mặc thì phải áo dài lượt là lượt khi ra đường; dẫu là gánh chè bán dạo, áo vá bạc màu. Nói thì phải nói cho sang, chữ nghĩa thưa bẩm đúng trật tự, không cong đuôi cụt đầu, dẫu có mắng nhiếc ai nặng lời thì cũng phải có vần có điệu phù hợp với bài bản.

                            Cách biểu hiện tình cảm cũng phải đượm mầu quý phái. Có nghịch ngợm thì cũng phải chòng ghẹo "rím rím". Nghĩa là phải kín đáo, dẫu "có hoang chẳng giống người thường". Không nói toạc móng heo những ý tưởng riêng tư thầm kín mà nói ra nửa kín nửa hở. Khi cái trạng thái hư hư, thự thực, nói năng bóng bẩy, lời lẽ bốn phương, hiểu phương nào cũng đúng nầy mà đạt đến trạng thái thăng hoa nghệ thuật thì sẽ trở thành cái "tửng tửng" điển hình của Huế. Đây là cách kiểu nói ra hay biểu hiện thái độ một cách tự nhiên và tỉnh táo như đùa như thật; như nghiêm như trêu; như theo như chống...

                            Trong thơ ca, nhất là thi văn xướng họa thì sự trêu ghẹo nhau bằng chữ nghĩa thường trở thành những màn chơi chữ đầy nghệ thuật thú vị. Kiểu nói tửng tửng nầy thật không ngờ lại chưa hẳn là sở trường của Huế. Một người bạn Huế, phóng một câu tuyệt tác tửng tửng đến nước nầy thì con dân văn bút nhà Huế chỉ còn nước sắp hàng một vỗ tay hoan hô:

                            Dạ thưa xứ Huế bây giờ
                            Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương

                            Dạ thưa, đó là Bùi Giáng, anh học trò trong Quảng ra thi của một thời Quốc Học...
                            Mới nghe qua hai câu thơ đệ nhất tửng tửng nầy đã có người lên tiếng:
                            - Nói chi lạ rứa hè! Sông Hương núi Ngự thì muôn năm vẫn là sông núi cũ chứ có bò đi mô mà phải tìm kiếm! Nói theo kiểu ni thì có khác chi nói lại rằng:

                            Dạ thưa cái cổ đã lâu
                            Vẫn còn dính với cái đầu, hai vai

                            Có những chân lý thị hiện hằng ngày đâu cần tìm kiếm. Nhưng sự nghịch lý của đời nầy là càng hiện rõ chừng nào, càng khó thấy chừng đó. Như lý thuyết nhà Phật thường nhấn mạnh chân tâm Phật tánh ở ngay trong mỗi con người, nhưng có được bao nhiêu người tìm ra được. Sông Hương Núi Ngự đi qua ngày hai buổi nhưng mấy người chịu lắng lòng để nghe câu chuyện dâu bể của dòng sông; mấy người nghiêng mình vào cõi vô trú để nhìn ra dáng vẻ đầy uy vũ muôn trùng của ngọn núi.


                            ]"]Trang chủ - NetCoDo
                            Đập đá Huế




                            Cái nhìn của Hàn Mặc Tử là cái nhìn quá tĩnh lặng và xuyên suốt bản chất mới thấy được "Nắng hàng cau" nơi thôn Vỹ Dạ. Cái nhìn của Bùi Giáng là cái nhìn bão nổi trong cảm xúc và uyên thông trong trí tuệ mới thấy được trái tim của Huế. Bao nhiêu thế hệ đã đi qua. bao nhiêu nguy biến đã dập vùi mà "Vẫn Còn". Căn tính chưa lụi tàn, thể tính chưa phôi pha nên vẫn còn, vẫn còn và vẫn còn... Vẫn còn Núi Ngự bên dòng sông Hương. Huế vẫn còn là Huế.

                            Một thời, có ai nói đến thơ xưa, thơ mới, thơ siêu thực, thơ tượng trưng, thơ nguyên tử... tôi lại lan man nghĩ đến Bùi Giáng với Mưa Nguồn và những bài thơ đăng rải tác đâu đó trên các sách báo miền Nam thời đi học. Có lẽ tại tôi mê chuyện kiếm hiệp nên thích những mẫu người kỳ lạ hơn là nghiêm túc nghĩ đến văn chương.

                            Điều tôi thích nhất ở Bùi Giáng không phải là những vòng hào quang cũng như gai góc mà người đời đã không ngớt mang tặng cho ông. Tôi thích nhất ở Bùi Giáng là thái độ rong chơi của ông trong thi ca tư tưởng. Ông nói chuyện triết học cao siêu dễ dàng và cà rỡn như nói chuyện Tấm Cám và nói chuyện Tấm Cám xa vời như tư tưởng của Kant, Nietzsche, Heidegger. Đọc sách của ông rất khó phân biệt được biên giới giữa thi ca và triết học. Ông bàn về chuyện triết học như làm thơ và làm thơ như chuyện đùa giỡn. Bùi Giáng là người làm xiếc trong ngôn ngữ với một “bút-pháp-không-bút pháp”. Thơ ông đầy những từ đẹp như hoa gấm, những câu tuyệt bút, nhưng cũng không thiếu những chữ đệm “tầm ruồng” (chữ của chính Bùi Giáng), những câu khó hiểu, những ý mờ mờ nhân ảnh, nên rất dễ làm hoa mắt những đầu óc quá thông thái mà thiếu cái Tâm thoáng đạt, hồn nhiên, chất phác; thậm chí... quê mùa!

                            Khái niệm cổ điển lập ngôn, lập thuyết hay “văn dĩ tải đạo” trong sáng tạo văn chương có vẻ không hợp như những chiếc áo thụng xanh đỏ rộng thùng thình trên tấm thân gầy guộc của Bùi Giáng. Ông đã bứt phá những vòng trói buộc nghìn năm của những thước đo, những “râu mép” (Road Map) làm khuôn vàng thước ngọc cho đường bay sáng tác thi ca: “Thơ tôi làm... là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thóat ra phá vòng vây...”

                            Bởi vậy, trong Thi Ca Tư Tưởng ông đã “báo động” cho các bậc học giả và giả học rằng:
                            “Thơ tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn châu chấu, xin các ngài học giả hãy xa lánh thơ tôi.”

                            Trong suốt nửa chiều dài của thế kỷ nầy, cả trong nước lẫn ngoài nước, đã có quá nhiều bài viết về Bùi Giáng. Hay ho cũng lắm mà tào-lao-luận ba hoa chích chòe cũng nhiều. Dường như ai cũng cố vẽ ra một Bùi Giáng, muốn biết một Bùi Giáng thật sự, nhưng hầu như tất cả các cây bút đều ngại ngùng, lúng túng trước một khối lượng tác phẩm “khó tiêu hóa” quá lớn và một bút pháp lắt léo, quanh co, bay lượn của một “tay phù thủy ngôn ngữ” như ông. Thế nhưng, sau những trận mưa tắm gội ngôn ngữ của người đời dành cho Bùi Giáng, người ta đành chào thua trong cố gắng nhằm phân tích “phức liệu Bùi Giáng” để trả Bùi Giáng về lại Mưa Nguồn của chính ông. Khổ nổi là chưa bao giờ thấy Bùi Giáng lên tiếng phân bua hay cãi chính về những khen chê của người khác dành cho mình. Và càng im lặng, ông càng nổi tiếng. Xung quanh Bùi Giáng nổi lên quá nhiều giai thoại. Những giai thoại cứ xoắn riết ông từ lớp nầy đến lớp nọ; trong khi Bùi Giáng vẫn tiếp tục sống lang thang lây lất, ăn bụi, ngủ hè, bị gậy, áo rách quần xài, khi ẳm chó, khi ôm mèo, đánh bạn với thú vật, muông cầm, cây cỏ, loanh quanh các nẽo đường gió bụi Sài gòn.

                            Có thể nói Bùi Giáng là một hiện tuợng thi ca, văn học lạ lùng nhất của Việt Nam thời cận đại. Lạ lùng như một dấu hỏi - vẫn còn mãi là một dấu hỏi nơi ông:

                            Hỏi tên rằng biển xanh dâu
                            Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa
                            Gọi tên rằng một hai ba
                            Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm


                            Bùi Giáng đã trải qua một cuộc rong chơi tận tình, chất ngất trong tư tưởng và giữa cuộc đời. Ông sinh năm 1925 tại Quế Sơn, Quảng Nam, đã từng đặt cho mình nhiều bút hiêu khác nhau: Báng Giùi, Bùi Báng Giúi, Búi Bàng Giùi, Vân Mồng, Trung Niên Bùi Thi Sĩ, Thi Sĩ Đười Ươi, Bùi Brigitte...

                            Bùi Giáng học trường Quốc Học Huế và đột nhiên bỏ học vì lý do, theo lời ông trong tác phẩm Đi Vào Cõi Thơ, là bị “chấn động dị thường” bởi vì tập thơ Lửa Thiêng của Huy Cận. Ông bỏ học về quê chăn dê và đọc sách. Từ đó, ông trở thành một học giả uyên bác hầu như “vô sư tự ngộ”, tự đọc sách , tự học hỏi mà khai phá trí tuệ giống như thiền sư Huyền Giác ngày xưa đọc kinh Duy Ma Cật mà “phát sinh tâm địa”. Đây cũng là khởi điểm cho Bùi Giáng suốt đời âm thầm đi trên con đường tư tưởng đôc đáo và riêng biệt của mình.



                            ]"]Trang chủ - NetCoDo
                            Trường Quốc học.





                            Tập thơ đầu tay của Bùi Giáng là tập Mưa Nguồn xuất bản tại Sài gòn năm 1962 và tập thơ cuối cùng là tập Đêm Ngắm Trăng xuất bản năm 1997. Trong cuộc hành trình 35 năm đó, Bùi Giáng đã càng ngày càng chứng tỏ ông là một người nghệ sĩ với dáng dấp tàng tàng, lọt tọt (chữ của Nguyễn Hàn Thư) đi rong chơi khắp muôn vạn nẽo trong cõi thơ.

                            Thơ của Bùi Giáng thường không dễ hiểu, nhưng rất dễ ngấm mà những đầu óc "ngầu" chữ nghĩa thích gọi là “trực cảm nguyên ngôn” hay gì gì đó... Thử đọc và “ngấm” một khúc “Ly Tao” của ông:

                            Giờ ngẫu nhĩ như hồng bay em ạ
                            Và yêu thương như lá ở bên hoa
                            Và luyến ái như tơ vàng bốn ngã
                            Bủa vi vu như thoáng mộng la đà

                            Lần đi từ điểm khởi phát của Mưa Nguồn và của Ly Tao là một gã trai quê chăn bò trên vùng quê hẻo lánh xứ Quảng. Thuở đó, tâm hồn Bùi Giáng đầy cây lá và những cảm xúc nhân ái, chân thành. Tâm thức ông tan loãng, hòa nhập với thiên nhiên cỏ nội hoa đồng:

                            Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
                            Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
                            Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín
                            Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh
                            Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa
                            Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
                            Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lã
                            Anh lim dim cho chết lịm hồn mình
                            (Anh lùa bò... Mưa Nguồn, tr153)

                            Và có chăng tình yêu ngày đó với cô gái quê bên bờ cỏ mượt thì cũng chỉ là những xao xuyến buổi đầu đời. Rồi tình yêu đó cũng chỉ là những cảm xúc rất vi vu và hư ảo, không đậu lại trên một thân xác nào có thật màrong chơi theo ông, rồi “tan đi trong hố thẳm chôn vùi”:

                            Nhìn em nhé bên kia bờ gió thổi
                            Lá xanh vườn theo cỏ mượt ngân nga
                            Tơ vi vút một đời thương nhớ tuổi
                            Của trăng rằm xuống dọ dẫm bên hoa

                            Khung cảnh ấy nằm sâu trong đáy mắt
                            Có lệ buồn khóc với lệ hòa vui
                            Để tràn ngập hương mùa lên ngan ngát
                            Rồi tan đi trong hố thẳm chôn vùi
                            (Bờ nước cũ. MN, tr 49)

                            Hình như giữa cuộc rong chơi, Bùi tiên sinh có lúc dừng lại để ngắm cái đẹp, chiêm nghiệm cái đẹp, cảm thụ cái đẹp một cách rất chi là não nùng trang trọng:

                            Anh quỳ xuống giơ hai tay bệ vệ
                            Chỉ xin nâng một giọt lệ êm đềm
                            (Tự hỏi vì sao)

                            Em đi đắm đuối tấm lòng
                            Có bao giờ biết người trăm năm buồn
                            (Tỉnh mê)

                            Anh sẽ khóc suốt thiên thu tình lụy
                            Của vấn vương tình nghĩa nặng muôn nghìn
                            (Vì có lẽ)

                            Tuổi thơ em có buồn nhiều
                            Hãy xin cứ để bóng chiều bay qua
                            Mưa có lạnh nhưng chân trời còn mãi
                            Những giọt suơng là lệ ở trong mây
                            Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
                            Bằng biển rộng không bến bờ em ạ


                            ]"]Trang chủ - NetCoDo

                            Cố thi sĩ Bùi Giáng



                            Rồi Bùi Giáng tiếp nối cuộc rong chơi. Trái tim ông cũng rất “lăng loàn” khởi phát từ bản chất đa tình nghệ sĩ. Đa tình nhưng lại không đa lụy vì ông vẫn mãi sống một cuộc đời độc thân rong ruổi. Nhưng ông vẫn sống miên man trong cái đẹp thác ngàn của Thúy Kiều, của Kim Cương, của Marilyn Monroe, của Brigitte Bardot, của cô Mọi Nhỏ bên rừng Phi Châu... Nàng thơ, nàng Ly Tao trong thơ Bùi Giáng thường có một vẻ rờn rợn liêu trai, toàn là cõi mộng, cõi tưởng, cõi vi vu đầy mê hoặc:

                            Em đã lại với đời về nắng ấm
                            Thắm không gian thương nhớ bóng hình em
                            Anh đã đợi chờ em từ lâu lắm
                            Ngày đi không để lại lạnh trăng rằm
                            Em có nụ cười buồn buồn môi mọng
                            Em có làn mi khép lá cây rung
                            Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
                            Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng
                            Em ở lại với đời ta em nhé
                            Em đừng đi. Cho ta nắm tay em
                            Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ
                            Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm

                            Từ tập thơ đầu, Mưa Nguồn, đến những tập thơ sau như Lá Hoa Cồn, Mùa Thu Thi Ca, Ngày Tháng Ngao Du, Sương Bình Nguyên, Trăng Châu Thổ... là cả một đoạn đường dài rong chơi, đùa cợt, cù cưa bất tận của Bùi Giáng với ngôn ngữ thi ca. Đến Đêm Ngắm Trăng với 227 bài thơ, phần lớn là lục bát, sau cùng trong cuộc rong chơi của Bùi Giáng thì rõ ràng Lão Thi Sĩ đang “nói lục bát” một cách tự nhiên, dễ dàng, khề khà, “tồn hoạt chịu chơi” như những ông già đang ngồi vuốt râu nhâm nhi vài xị đế. Ông nói về “dzách” (thùng cù lũ?):

                            Nỗi buồn nỗi khổ đời xưa
                            Nỗi sung sướng đến móc mưa bất ngờ
                            Đời xưa đất đá cằn khô
                            Đời này đất đá đều đờ đẫn điên
                            Điên duỗi dọc, điên ngửa nghiêng
                            Điên là hạnh phúc thần tiên ở đời
                            Điên rồi rốt cuộc hỡi ôi
                            Cũng đành chấm dứt lìa đời hết điên
                            (Dzách. Đêm Ngắm Trăng, tr139)

                            Càng điên điên ông càng “chịu chơi” tới cái mức “thần thông du hí”. Đã có hơn một đầu óc uyên bác đem cái lý thuyết biểu tượng, tinh thể và phá chấp ra để xào nấu những vần thơ sau đây. Nhưng riêng tôi thì lý thuyết nào cũng không thể áp dụng vừa vặn vào đây bằng lý thuyết “chịu chơi!”:

                            Ông gieo vần điệu dã man
                            Tờ điên hoa giậy lang thang lên mùa
                            Ông buồn- quýt ngọt chanh chua?
                            Còn cam còn bưởi còn xoài riêng đâu?
                            Ông tìm kiếm suốt hương màu
                            Thời gian tinh thể đi đâu mất rồi
                            Ông ngồi suốt những canh thâu
                            Nêu từng nghi vấn trình tâu với người
                            Nguời từ vô tận chịu chơi
                            Thần thông du hý chốn nơi nào là
                            (Con vui vô tận. ĐNT, tr 145)

                            Thật ra thì ngay giữa cuộc hồng trần nầy, Bùi Giáng sống cùng tận trong cái mơ mơ, màng màng thuần lý mang tính “đồng nam hiển thánh” (chữ của ĐS); nhưng chưa đến mức dám bức phá những hàng rào trói buộc hay những quy ước rất thường tình của con người trong cái hệ lụy nhân sinh:

                            Anh uống rượu tới mê man khôn dọ
                            Duỗi tay chân tại tâm điểm bụi đời
                            Chiêm bao về ứng mộng giữa tuyệt vời
                            Quần phong nhụy bất thình lình giũ trút

                            Ôi mật ngọt ôi thiên đường bất chợt
                            Hiện huy hoàng hiện thể suốt tâm linh
                            Anh c hào em từ ảo mộng một mình
                            Và dám chắc nhận nhìn rằng: anh hổng dám

                            ...Anh bình tĩnh thưa rằng: anh hổng dám!
                            Hổng dám đâu! Đâu hổng dám là đâu...
                            (Hổng dám đâu. ĐNT, tr 149)

                            Càng đọc thơ Bùi Giáng, tôi càng cảm thấy muốn khóc khi ông cười; và muốn ôm bụng cười khi ông khóc... có lẽ vì tôi chưa có một tí ti “chất nghệ sĩ Bùi Giáng” nào trong mình. Đọc bài thơ tự trào hết sức độc đáo và lạ lẫm của ông, tôi cứ ước chi mình có được một phần trăm cái “điên”và một phần mười cái “ngu sy” của Bùi Giáng để có thể có chút nào đồng cảm với ông chăng:

                            Cuộc đời tẻ nhạt hôm qua
                            Tới hôm nay nữa gọi là hôm mai
                            Ba hôm cả thảy than dài
                            Thấy thằng bùi giáng đêm ngày ngu sy
                            Tháng tròn năm méo tý ty
                            Tồn sinh lả tả từ ly cuộc đời
                            Nó về tồn hoạt chịu chơi
                            Nó đi suốt cõi chơi vơi hồng trần
                            Nó từ vô tận mông lung
                            Nó đi suốt kiếp trùng phùng thiên thai
                            Giữa đêm thở vắn than dài
                            Khóc hu hu nó khóc hoài trăm năm
                            (Hôm Hôm. ĐNT, tr 150)

                            Đến đây tưởng cũng nên làm sáng tỏ tại sao sẽ có rất nhiều người mơ ước có được một phần cái “ngu sy” của Bùi Giáng. Tôi xin được liệt kê lại một phần cuộc rong chơi của Bùi Giáng qua những tác phẩm đã được xuất bản của ông. Ngoài ra, tôi cũng như nhiều người có thể tin; mà cũng có thể không tin, những điều do người khác đã viết trên giấy trắng mực đen rằng, Bùi Giáng đã từng viết ra cả ngàn câu thơ trong một đêm...

                            Sự rong chơi của Bùi Giáng trong ngôn ngữ và giữa cuộc đời vừa thâm trầm, vừa vui nhộn, vừa “bi... khoái” là vì ông không dè dặt, giữ gìn mà cố tình buông thả đi về lẫn lộn giữa những câu thơ khóc cười đầy uyên bác, trang đài, cổ kính xen với những từ, những câu đầy ngôn từ dân giã, bụi đời có khi đến mức giang hồ ngỗ ngáo, trần trụi. Vừa nói đến tâm sự mình một cách quý phái:

                            Hồn du mục cỏ hoa mòn mõi
                            Rừng đêm xanh trăng tạ không lời
                            Vì hơi thở cũng sầu như lá úa
                            Rớt lưng đèo bối rối lách theo lau

                            ... ông “chuyển hệ” mượn lời người khác nói về cái điên của mình một cách thống khoái đầy “sáu Giáng”:

                            Vợ chồng tôi lúc nào cũng nhớ anh
                            Anh điên mà dzui – dzẻ thập thành
                            Chúng tôi tỉnh táo mà đành buồn hiu

                            Sự đùa bỡn với ngôn ngữ thi ca bằng cách sử dụng kiểu nói lái tinh quái của quê hương ông nhiều khi thô thiển một cách cụ thể chứ không bóng bẩy kiểu Hồ Xuân Hương. Người đọc rất thường gặp trong sách ông những cụm từ như: tồn lưu, tồn liên, liên tồn, lưu tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp... để đùa nghịch với triết học, nghịch với thi ca, nghịch với cuộc đời và nghịch ngay với chính bản thân ông:

                            Lọt cồn trận gió đi hoang
                            Tồn liên ở lại xin làn dồn ra...
                            (Mưa Nguồn)

                            Thời kỳ ông được coi là điên nặng nhất với lối sống kỳ dị thì cũng là lúc ông bơi trong “đại dương thi ca” để cho ra đời tập thơ Bài Ca Quần Đảo. Bùi Giáng làm thơ dễ dàng đến độ nhà văn Huỳnh Ngọc Chiến phải kêu lên rằng, “Đôi lúc chúng tôi có cảm tưởng rằng ông có thể đọc ngẫu hứng thơ lục bát từ sáng đến chiều mà không vấp... Ông làm thơ bằng tiếng Việt, tiếng Hán, thỉnh thoảng bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngôn ngữ đã nhập điệu trong ông như cây đàn trong tay người nghệ sĩ kiệt xuất. Chỉ ấn tay là thành giai điệu. Tự nhiên như nước chảy, mây bay mà chẳng có chút dụng công nào. (Thời Văn 19, tr 66)

                            Cuối cùng của cuộc rong chơi, Bùi Giáng đã lặng lẽ bỏ mùa xuân của trần gian đi về cõi miên trường phía sau:
                            Xin chào nhau giữa con đường
                            Mùa xuân phía trước miên trường phía sau

                            ...và bỏ tất cả lại cho đời:
                            Bỏ trăng gió lại cho đời
                            Bỏ ngang ngữa sóng giữa lời hẹn hoa
                            Bỏ người yêu bỏ bóng ma
                            Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
                            Bây giờ riêng đối diện tôi
                            Còn hai con mắt khóc người một con

                            Một buổi tối thứ Tư trên xứ Mỹ, tôi đang ngon trớn rong chơi với vườn thơ “tập cười” qua câu chuyện sinh điếu của cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vy thì nhận được I-meo của Tà Thư báo tin Bùi Giáng vừa qua đời chiều hôm qua (7-10-98) tại Việt Nam. Tôi bỗng chững lại, quên hết chuyện cười, nhìn xuống thật buồn và cảm thấy một thoáng trống vắng. Những mệ, những ôn, những hoàng thân, tôn nữ một thời của Huế lần lượt vắng bóng, mang theo cái "tửng tửng" truyền đời như tiếng chèo đập nước trên sông lụi tàn sau tiếng máy dầu xình xịch.

                            Và, con mắt trần gian cuối cùng đó giờ cũng đã vĩnh viễn khép lại.

                            Sáng hôm sau, tôi bâng khuâng kêu một người bạn thân báo tin Bùi Giàng đã ra đi và tự nhiên đọc cho người bạn đó nghe hai câu thơ của Bùi Giáng đã làm tôi xúc động miên man trong những tháng ngày viết lách đùa nghịch với bạn bè:







                            Ta cứ ngỡ đùa vui trong chốc lát
                            Nào ngờ đâu đùa mãi đến điêu linh

                            Tự nhiên tôi rơm rớm nước mắt...

                            Phía bên kia đầu dây, người bạn cũng lặng im đến nỗi tôi nghe cả tiếng sôi mơ hồ trong đường dây điện thoại. Trong một thoáng phù du đó, tôi biết là người bạn cũng đang rơm rớm nước mắt như tôi. Trên quê hương yêu dấu cái tửng tửng của Quảng đã gặp cái tửng tửng của Huế. Nơi quê người, nếu không không có cái tửng tửng mang theo, tiếng nói yêu thương của ngày xưa quê mẹ cũng sẽ chìm dần trong cổ tích.

                            Trần kiêm Đoàn
                            Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 20-10-2020, 04:39 PM.
                            ----------------------------

                            Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                            Comment

                            • #15

                              "BÙI GIÁNG ĐIÊN VÌ ÔNG QUÁ TỈNH"



                              Thanh Hải

                              Chàng "trung niên thi sĩ" ra đi đã lâu nhưng đây đó vẫn còn những giai thoại. Hình ảnh một "thi sĩ lập dị" vẫn không phai mờ trong lòng nhiều độc giả. Nhiếp ảnh gia Lâm Ngọc Duy kể về "niềm hạnh phúc nhất của cuộc đời" khi gặp Bùi Giáng.


                              Giấc mơ thành hiện thực

                              Vì hoàn cảnh nhưng cũng là một cơ duyên, năm 1980 ông Duy rời Đà Lạt xuống Sài Gòn, đem theo đứa con gái nhỏ sống vất vưởng dọc vỉa hè. Hai cha con tứ cố vô thân, không nhà cửa, hằng ngày ông Duy phải đi chụp ảnh dạo dọc đường phố Sài Gòn tìm miếng cơm, bát cháo lay lắt sống qua ngày.
                              Một thời gian sau, ông Duy may mắn gặp được nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh. Hai người trở thành bạn thân, từ đó ông Duy thuê phòng trọ và được nhận vào làm trong Ảnh Viện Đống Đa trên đường Trương Minh Giảng.





                              Thi sĩ Bùi Giáng (Ảnh: Lâm Ngọc Duy)



                              Một hôm ông đi qua bùng binh Trương Minh Giảng, thấy một ông già đang nhảy múa, xung quanh con nít vây xúm rất đông. Cũng hiếu kì nên ông chạy lại xem, ngó chừng dung mạo thấy giống Bùi Giáng được nghe qua lời kể của bạn bè, ông Duy liền hỏi: "Xin lỗi! Có phải ngài là Bùi Giáng không?". Ông già nhướng mắt nhìn và hỏi lại: "Sao anh biết ta?". "Dạ, con là độc giả của ngài đây, hâm mộ ngài đã từ lâu nay mới được gặp, thật là một cơ duyên!".
                              Bùi Giáng rẽ đám trẻ con ra, cầm tay ông Duy kéo vào một con hẻm nhỏ trên đường Trương Minh Giảng. Tại đó hai người chuyện trò và Bùi Giáng đã chép thơ lên vỏ bao thuốc lá tặng ông Duy. Bài thơ chỉ có một câu: "Chép lời bờ cỏ ra hoa".
                              Nhìn câu thơ mà ông Duy vui mừng khôn tả, thấy thơ lạ nên ông Duy hỏi: "Thơ ngài quả là siêu phàm, con không hiểu được ý thơ?", nghe Bùi Giáng giải thích ông Duy lại càng kính nể và vui mừng hơn (nhưng vì lí do cá nhân nên ông Duy không kể lại lời giải thích của Bùi Giáng).

                              Theo dòng ký ức


                              ]"]WordPress.com

                              Lâm Ngọc Duy (Ảnh: NLĐ)

                              Nghe Bùi Giáng giải nghĩa câu thơ xong, ông Duy chở "ngài" trên xe đạp dạo quanh Sài Gòn". Lúc nào bên mình ngài cũng có bầu rượu và túi thơ như thế. Và cứ khoảng 200 mét, Bùi Giáng lại bắt ông Duy dừng lại, tạt vào lề đường làm mấy hớp rượu rồi mới chịu đi tiếp. Đến ngã ba, ngã tư có khi ngài lại xuống đường làm cảnh sát giao thông, chỉ đường cho xe cộ đi lại! - ông Duy kể".
                              Sau cả ngày "du ngoạn" Bùi Giáng cho ông Duy địa chỉ nhà và dặn: "Anh muốn tìm ta thì đến đường Lê Quang Định, cứ hỏi nhà của ông già điên thì ai cũng biết, đến mà thấy ta bệnh thì ghé chơi, còn ta khỏe thì im lặng mà về, ta không tiếp" (những lúc bệnh là lúc ông ca hát, nhảy múa, làm cảnh sát...). Chiều tối ấy, hai người từ giã nhau ra về, ông Duy còn vui mừng lắm khi kể với chúng tôi ngày kỷ niệm đó.
                              Cách ít lâu sau, ông Duy có đến tìm nhà Bùi Giáng mấy lần, nhưng không lần nào gặp được. Người ta bảo: "Hôm nào ông cũng đi từ lúc 3 giờ sáng, có khi cả nửa tháng mới về nhà". Rồi một bận ông Duy đi sớm. Lần đó ông mang theo bộ tách trà nhỏ với hai cái bánh pía và gặp được ngài trong một quán cà phê ở cuối con hẻm. Thấy ông Duy, Bùi Giáng lên tiếng hỏi: "Sao anh biết ta ở đây?", "Dạ, con đi tìm ngài mấy bữa nay mà không gặp, hôm nay đi không ngờ lại tìm được ngài".
                              Tại quán cà phê đó, ông Duy pha trà mời, Bùi Giáng cúi xuống rồi đưa tay cao quá đầu nhận trà một cách lễ phép, còn húp cả những giọt trà rơi xuống bàn. Cử chỉ của thi sĩ Bùi Giáng làm ông Duy nhớ mãi không quên. Bộ tách trà uống cùng Bùi Giáng hôm đó, đến bây giờ ông Duy vẫn giữ và trân trọng.
                              Rời quán cà phê, hai người dắt nhau qua chùa Liên Ứng, tại đây ông Duy đã chụp những bức ảnh đầu tiên về Bùi Giáng.
                              Ngài lại làm thơ tặng ông Duy. Bài thơ không đề có đoạn viết:

                              "Tăng thanh đầu ngọn yêu đào
                              Hắc phong hải ngoại tự trào hoàng hôn
                              Chẻ hai mảnh giấy vô hồn
                              Lầm sương lạc tuyết là cồn điếu tang
                              Còn nguyên phố thị hội đàm
                              Với trăng châu thổ muôn vàn dưới kia".

                              Phía dưới có ghi "Thân tặng Lâm Ngọc Duy, người bạn Quảng Ngãi (tôi bạn Quảng Nam), kí tên Bùi Giáng".

                              Vào cuối câu chuyện, Bùi Giáng đề nghị: "Anh đưa ta về thăm nhà anh, ta ở lại một đêm mai đi chơi tiếp". Ông Duy ở trọ trong căn nhà lá nhỏ, chỉ có một chiếc giường, đêm hôm ấy ông Duy mời thi sĩ lên giường ngủ. Bùi Giáng không chịu: "Ta nằm dưới đất quen rồi, anh để ta ở đây thoải mái hơn".
                              Bùi Giáng tiếp: "Anh có làm thơ không? Cho ta coi?". Đọc xong, Bùi Giáng khen hay và nói: "Hay anh in chung với ta một tập đi?", ông Duy khiêm nhường trả lời: "Tôi chỉ đáng xách dép cho ngài sao lại ngồi chung chiếu với ngài được".

                              Hai lần gặp "một đời" nhớ

                              Sau đêm đó, Lâm Ngọc Duy không được gặp lại cho đến khi Bùi Giáng qua đời. Thế nhưng những kí ức về thi sĩ Bùi Giáng đến nay và suốt đời sẽ còn in đậm trong tâm trí ông. Những bài thơ ghi trên giấy vụn, những tách trà xưa uống chung nhau, những bức hình Bùi Giáng, những tập thơ, truyện dịch của Bùi Giáng đến nay ông Duy vẫn còn lưu giữ, tất cả được ép, được đóng khung và trưng trong tư gia một cách trang trọng.

                              Ai đó có dịp qua Đức Trọng (Lâm Đồng) nhớ ghé nhà Lâm Ngọc Duy. Một căn nhà gỗ nhỏ nép giữa vườn cây cảnh và hoa, hằng tháng ở đây vẫn có những đêm thơ, hằng năm vẫn có những lần giỗ Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn và đặc biệt là được nghe ông kể về những kỉ niệm của ông với "Trung niên thi sĩ", "Trịnh nhạc sĩ".
                              Cuối cuộc trò chuyện, chúng tôi hỏi ông Duy về những nhận xét riêng của ông đối với Bùi Giáng (về cuộc đời, con người cũng như thơ của ông), ông Duy trả lời: "Ngài là một Bồ Tát nghệ Sĩ, người ta cứ nói là Bùi Giáng điên, nhưng tối thấy ngài không điên, họ nói vậy vì họ không biết, Bùi Giáng điên vì ông quá tỉnh!".

                              T.H.
                              Đã chỉnh sửa bởi hoangvu; 20-10-2020, 04:40 PM.
                              ----------------------------

                              Cái đẹp của sa mạc là một cái giếng nó ẩn dấu nơi đó.

                              Comment

                              Working...
                              Scroll To Top Scroll To Center Scroll To Bottom